Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hệ thống chính trị ở thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất đất nước (1954-1975) | Tiểu luận chính trị học

Chương I: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1954- 1964. Chương II: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1965-1975. Chương III: Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học  kinh nghiệm. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra
đời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc giải phóng giai cấp. Ngay từ
đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm đứng ra nhận sứ mệnh lịch sử to lớn mà giai
cấp dân tộc giao phó: Lãnh đạo các tầng lớp nhân dân Việt Nam đấu tranh
chống thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân. Trước
sự bế tắc về luận cũng như đường lối của các lực lượng cách mạng Việt Nam
trong những năm 20 của thế kỷ XX, sự thất bại không tránh khỏi của các phong
trào chống Pháp do các sĩ phu yêu nước và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản
lúc đó, dân tộc ta đã hướng đến con đường cứu nước mới, khác về chất, con đường
các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã đi. Chính lúc dân tộc Việt Nam cần
một đường lối chính trị đúng đắn, một đội tiên phong dẫn đường, một bộ tham
mưu lãnh đạo thì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đáp ứng kịp thời và đầy đủ những đòi hỏi bức thiết của lịch sử.
Đảng ta ra đời sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên đài chính trị,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân chính nhất, có sức
hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, sớm trở thành đội tiên
phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến.
thể nói, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam do thời đại, do giai
cấp dân tộc quy định. Đảng Cộng sản Việt Nam vai trò lãnh đạo nhân dân
Việt Nam cùng một lúc vừa làm sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng
làm giai cấp cách mạng. Đây đặc điểm lớn nhất của cách mạng sản Việt
Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh
lịch sử của Đảng đối với giai cấp và dân tộc Việt Nam. Với thắng lợi vĩ đại của các
cuộc cách mạng: Tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1946 - 1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) do
Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu lãnh tụ Hồ Chí Minh đại lãnh đạo, dân
tộc Việt Nam trở thành một trong những dân tộc đầu tiên làm cách mạng giải
phóng dân tộc thành công ở một nước thuộc địa và lệ thuộc; một trong những dân
tộc đầu tiên đánh bại chủ nghĩa thực dân chủ nghĩa thực dân mới, mở đầu
phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ-La tinh. Thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thể hiện sâu sắc sức mạnh của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó
cũng là một sự kiện có tầm vóc quốc tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc. Chính
vậy, em chọn đề tài “Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hệ
thống chính trị thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất đất nước
(1954-1975)” làm đề tài tiểu luận.
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Tiểu luận tập trung phân tích đánh giá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với hệ thống chính trị thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
thống nhất đất nước (1954-1975). Để từ đó có nhận thức khách quan, toàn diện về
diễn biến lịch sử trong quá trình kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Làm cơ sở khoa
học tưởng để chống lại những quan điểm sai trái về sự lãnh đạo của Đảng
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bên cạnh đó việc nghiên cứu giúp sinh viên
nắm tri thức lịch sử về quá trình Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Từ đó đánh giá về tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong đề ra
đường lối lãnh đạo thành công chống lại kẻ thù hùng mạnh bậc nhất thế giới
thực hiện chủ nghĩa thực dân mới miền Nam Việt Nam. Xem xét những kinh
nghiệm lịch sử của Đảng trong lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có
ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước hiện nay. Từ đó nêu ra
những bài học, ý nghĩa đối với chính sách, đường lối lãnh đạo của Đảng hiện nay.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu:
Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với hệ thống chính trị
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất đất nước(1954-1975)
b. Phạm vi nghiên cứu:
Đường lối lãnh đạo của Đảng năm 1954- 1975
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận sử dụng các phương pháp như: phương pháp thống kê, phương
pháp tài liệu, phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so
sánh, phương pháp quan sát thực tiễn, phương pháp tổng kết.
V. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nôi dung
chính của đề tài được thể hiện ở 3 chương như sau:
Chương I: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn
1954-1964.
Chương II: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn
1965-1975.
Chương III: Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh
nghiệm.
NỘI DUNG
Chương I: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai
đoạn 1954-1964:
Bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng 7-1954:
Sau hiệp định Giơnevơ, cách mạng Việt Namnhiều thuận lợi mới nhưng
cũng phải đối phó với nhiều thử thách phức tạp:
Thuận lợi:
Hệ thống XHCN tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ
thuật, nhất là của Liên Xô; phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở châu
Á, chấu Phi Mỹ La Tinh; phong trào hòa bình dân chủ lên cao các nước
bản; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả nước; thế
và lực của cách mạng Việt Nam đã lớn mạnh hơn sau 9 năm kháng chiến; ý chí độc
lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí Nam.
Khó khăn:
Đế quốc Mỹtiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh âm mưa chủ thế
giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng; thế giới bước vào thời kỳ chiến
tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe XHCN và TBCN; sự xuất hiện bất đồng
trong hệ thống hội chủ nghĩa nhất giữa Liên và Trung Quốc; đất nước ta
bị chia làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo nàn và lạc hậu, miền Nam trở thành
thuộc đia kiểu mới của Mỹ đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân
ta.
Một Đảng lãnh đạo hai cuộc cách mạng khác nhau hai miền đất nước
chế độ chính trị khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam sau tháng
7/ 1954. Đặc điểm trên và những thuận lợi, khó khăn chính là cở sở để Đảng phân
tích hoạch định đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước trong giai
đoạn mới.
Quá trình hình thành, nội dung ý nghĩa của đường lối lãnh đạo của
Đảng:
Quá trình hình thành của đường lối cách mạng của Đảng
Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta sau tháng 7-1954 phải vạch ra được
đường lối đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình mỗi miền, tình hình cả nước, vừa
phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới
chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của
tình hình trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến
tranh chuyển sang hoà bình; nước nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển
vào thành thị; từ phân tán chuyển sang tập trung.
Tại Hội nghị lần thứ bảy (tháng 3-1955) lần thứ tám (tháng 8-1955)
Trung ương Đảng nhận định: Muốn chống đế quốc Mỹ tay sai, củng cố hoà
bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ, điều cốt lõi phải ra
sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân
dân miền Nam.
Tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, đường lối tiến hành
đồng thời hai chiến lược cách mạng được xác định: “Mục tiêu nhiệm vụ cách
mạng của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là: Củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc
tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà
trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình”.
Tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền
Nam. Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết
về cách mạng miền Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn,
chẳng những đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, còn thể hiện rõ
bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của
cách mạng.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-
1960, đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn 1954-1964.
Nội dung đường lối lãnh đạo của Đảng:
Nhiệm vụ chung: “tăng cường đoàn kết dân tộc, kiên quyết đấu tranh giữ
vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc, đồng thời đẩy
mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe hội
chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
Nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc.
Trong niềm vui miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng Trung ương Đảng chuẩn bị trở về Thủ đô. Ngày 19-9-1954, Người về thăm
Đền Hùng, gặp gỡ nói chuyện với cán bộ, chiến Đại đoàn quân Tiên phong
chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô. Người căn dặn: “Các Vua Hùng đã công dựng
nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Người nêu những nhiệm vụ trước mắt của nhân dân ta là kiên quyết thi hành
hiệp định đình chiến, khôi phục kinh tế, củng cố quốc phòng, tiếp tục cải cách
ruộng đất, thực hiện người cày ruộng…“nhằm củng cố hoà bình, thực hiện
thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong cả nước”. Về đối ngoại, Người
nêu lên chính sách của Đảng và Nhà nước ta là tán thành 5 nguyên tắc chung sống
hoà bình, lấy đó làm sở để xây dựng phát triển mối quan hệ với các nước
láng giềng Lào, Miên và các nước Đông Nam Á khác. Với nước Pháp, cố gắng lập
lại mối quan hệ kinh tế văn hoá trên nguyên tắc bình đẳng, hai bên đều lợi,
đoàn kết với nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng tập trung lãnh
đạo củng cố miền Bắc về mọi mặt, “Miền Bắc nền tảng, gốc rễ lực lượng
đấu tranh của toàn dân ta”. Trong việc khôi phục kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh trước hết phải khôi phục nâng cao sản xuất nông nghiệp. Người đã
phát động phong trào thi đua sản xuất và tiết kiệm mùa xuân, kêu gọi cấy lúa xuân,
trồng các loại hoa màu ngắn ngày để cứu đói. Để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp,
thì phải tiếp tục thực hiện “người cày ruộng”, vậy Đảng Chính phủ đã
quyết định tiến hành cải cách ruộng đất đợt 5, đợt cuối cùng của cuộc đấu tranh
xoá bỏ giai cấp phong kiến ở miền Bắc. Sau gần nửa năm tiến hành khẩn trương
gian khổ, cải cách ruộng đất đợt 5 đã căn bản hoàn thành ở đồng bằng, trung du và
280 xã miền núi. Thắng lợi đó đã “mở đường cho đồng bào nông thôn ta xây dựng
cuộc đời ấm no, góp phần xứng đáng vào công cuộc khôi phục phát triển kinh
tế, củng cố miền Bắc thành sở vững mạnh để đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà”. Tuy nhiên trong quá trình này đã xảy ra những sai lầm bản về nhận
thức, đường lối, nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Những sai lầm này
đã ảnh hưởng lớn đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc nói riêng
và cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước nói chung.
Song song với việc phát triển nông nghiệp đẩy mạnh phát triển công
nghiệp. Theo Người: Đời sống của nhân dân chỉ có thể được cải thiện khi chúng ta
dùng máy móc trong sản xuất công nghiệp nông nghiệp, để đưa năng suất lao
động lên cao. Người đã đi thăm tìm hiểu tình hình sản xuất cũng như đời sống
của cán bộ, công nhân các cơ sở sản xuất, nhà máy, xí nghiệp, khu mỏ của các tỉnh
Hải Phòng, Hồng Quảng, Nam Định, Lào Cai, Phú Thọ, Nghệ An, Hà Nội…
Đi đôi với việc lãnh đạo khôi phục kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú
trọng tới việc chỉ đạo phát triển nền văn hoá nước nhà. Người nói: Giáo dục phải
cung cấp cán bộ cho kinh tế. Kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ được… Giáo
dục không phát triển thì không đủ cán bộ giúp cho kinh tế phát triển. Người còn
nhắc nhở việc chăm sóc sức khỏe cho toàn dân. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn quan tâm tới việc củng cố, xây dựng và phát triển quân đội và công
an nhân dân, những lực lượng có vai trò quan trọng trong công tác bảo vệ nền độc
lập của dân tộc, giữ gìn hoà bình, chống thù trong giặc ngoài, chống bọn phá hoại
và làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến
hành công cuộc cải tạo hội chủ nghĩamiền Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng
Trung ương Đảng đã làm hơn những nội dung cụ thể về đường lối, nhiệm vụ
chiến lược mối quan hệ chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược đồng thời tiến
hành hai miền trong cuộc đấu tranh đòi thực hiện đúng những điều khoản của
Hiệp định Giơnevơ. Người nhấn mạnh: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì
đấu tranh thống nhất nước nhà nhất định thắng lợi”.
Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ bọn tay
sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Nhân dân ta miền Nam, dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương 15 (1-
1959), Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III (9-1960) của Đảng, đã đẩy mạnh
cuộc đấu tranh chính trị đồng thời với đẩy mạnh cuộc đấu tranh vũ trang, tiến công
địch trên cả hai mặt trận chính trị và quân sự và đã giành được thắng lợi ngày càng
to lớn. Tháng 3-1961, các lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam đã được hợp
nhất lại, thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Mục tiêu chiến lược: “nhiệm vụ cách mạng miền Bắc nhiệm vụ cách
mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết
yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà bị chia cắt. Hai nhiệm vụ
đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc
Mỹ bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt hòa bình
thống nhất tổ quốc”.
Mối quan hệ của cách mạng hai miền: “Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan
hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau”.
Vai trò, nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền đối với cách mạng cả nước:
Cách mạng XHCN ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn
cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi
lên CNXH về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ
cách mạng Việt Nam đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự
nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ tay sai,
thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước.
Con đường thống nhất đất nước: trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng, Đảng kiên trì con đường hòa bình thống nhất theo tinh thần hiệp nghị
Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hòa bình thống nhất Việt
Nam, vì đó con đường tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta phù
hợp với xu hướng chung của thế giới: “Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao
cảnh giác, sẵn sang đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ bọn tay sai của
chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước
ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập thống nhất tổ
quốc”.
Triển vọng của Cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống
nhất nước nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và
lâu dài chống đế quốc Mỹ lũ tay sai của chúng miền Nam. Thắng lợi cuối
cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà, cả
nước sẽ đi lên XHCN.
Ý nghĩa vai trò lãnh đạo của Đảng
Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng
do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc chủ nghĩa hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền
Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam và phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã
huy động kết hợp được sức mạnh của hậu phương tiền tuyến, sức mạnh cả
nước sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự
đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc. Do đó đã tạo ra được sức mạnh
tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.
Đặt trong bối cảnh Việt Nam quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của cách
mạng Việt Nam đã thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong
việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt
Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.
Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi miền là cơ
sở để Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to lớn trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược
chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.
Đảng ta đặc biệt coi trọng phát huy hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị
trong quân đội; trong các chiến dịch. Kế thừa kinh nghiệm công tác đảng, công tác
chính trị được tiến hành từ khi Quân đội ta mới thành lập trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, công tác đảng, công tác chính trị trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước đã được phát triển lên một bước mới, phong phú về
nhiều mặt, thực sự là "linh hồn, mạch sống" của Quân đội ta. Căn cứ vào tình hình
thực tế trên chiến trường, công tác đảng, công tác chính trị đã tập trung xây dựng
quyết tâm chiến đấu, làm cho toàn quân nhất trí cao với đường lối, chủ trương của
Đảng, cả về mục tiêu chiến lược, thời chiến lược, phương châm chỉ đạo chiến
lược, phương thức tác chiến để giành thắng lợi. Chủ động chỉ đạo làm tốt chức
năng "đội quân công tác" ở vùng mới giải phóng, phát huy vai trò của lực lượng
trang địa phương, nhân dân trên địa bàn tác chiến chiến dịch. Công tác đảng, công
tác chính trị đã trực tiếp định hướng tưởng bộ đội, khơi dậy và phát huy truyền
thống yêu nước, sức mạnh của chế độ hội chủ nghĩa ưu việt miền bắc, tinh
thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của đồng bào miền nam "thành đồng Tổ
quốc". Qua đó, tạo động lực chính trị - tinh thần to lớn cho đồng bào và chiến sĩ cả
nước trong cuộc đọ sức quyết liệt với kẻ thù xâm lược. Hoạt động công tác đảng,
công tác chính trị còn góp phần xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ phương pháp tư duy
quân sự cách mạng, khoa học; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người
vũ khí; giữa chính trị và quân sự; giữa dân chủ, kỷ luật và đoàn kết.
Về công tác tổ chức, xây dựng Đảng, đã tập trung xây dựng "chi bộ 4 tốt" kết hợp
với xây dựng các trung đoàn, sư đoàn vững mạnh; tăng cường rèn luyện đảng viên
gắn với rèn luyện cán bộ; duy trì nghiêm các nền nếp sinh hoạt, hoạt động của các
tổ chức đảng trong điều kiện chiến tranh; thường xuyên chăm lo bảo đảm chính
sách đối với bộ đội và hậu phương quân đội. Đội ngũ cán bộ chính trị các cấp được
kiện toàn, bồi dưỡng về phẩm chất, năng lực nên sự phát triển nhanh chóng
khẳng định vai trò quan trọng trong thực tiễn chiến đấu. Đặc biệt, Đảng ta hết sức
chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược đủ "tâm", đủ
"tầm" kinh nghiệm chỉ đạo tác chiến. Hình ảnh những vị lệnh, chính ủy các
binh đoàn chủ lực mẫu mực, xông xáo, quyết đoán, toàn tâm toàn ý với sự nghiệp
giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc, mãi mãi để chúng ta tôn vinh học
tập.
Hoạt động hiệu quả của công tác đảng, công tác chính trcùng với các mặt công
tác khác đã thực sự làm cho đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng đi vào thực
tiễn chiến đấu của quân dân ta, tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần to lớn,
nhất là trong những thời điểm bước ngoặt, có tính quyết định.
Chương II: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1965-
1975:
I. Bối cảnh lịch sử:
Từ đầu năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân Mỹ và các nước chư hầu vào miền Nam nhằm
cứu vãn sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn sự phá sản của chiến lược “chiến tranh
đặc biệt”. Mỹ bắt đầu tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ” với quy lớn, đồng
thời dùng không quân, hải quân phá hoại miền bắc. Trước tình hình đó, Đảng tiến
hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên phạm vi cả nước.
Thuận lợi:
Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cách mạng thế giới đang thế tấn
công. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc đã đạt và vượt các mục tiêu về kinh
tế, văn hóa. Ở miền Nam, từ năm 1963 cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có bước
phát triển mới. Ba công cụ của “Chiến tranh đặc biệt” (ngụy quân, ngụy quyền
ấp chiến lược và đô thị) đều bị quân ta tấn công liên tục. Đến năm 1965, chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đã bị phá sản.
Khó khăn:
Sự bất đồng giữa Liên Trung Quốc càng ngày càng gay gắt, không lợi
cho cách mạng Việt Nam. Mỹ mở cuộc “chiến tranh cục bộ” ạt đưa quân viễn
chinh Mỹ các nước chư hầu vào trực tiếp xâm lược miền Nam làm cho tương
quan lực lượng bất lợi cho ta.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu cho Đảng ta trong việc xác định quyết tâm đề ra
đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
II. Quá trình hình thành, nội dung, ý nghĩa của đường lối lãnh đạo của Đảng
1. Quá trình hình thành của đường lối:
Quá trình hình thành đường lối cách mạng kháng chiến chống Mỹ trong giai đoạn
1964-1975 tiếp tục kế thừa đường lối chỉ đạo của giai đoạn trước (1961 1962),
đồng thời đưa ra đường lối mới trong ba hội nghị trung ương Đảng lần thứ 9, 10,
11 để phù hợp với tình hình cách mạng lúc đó.
Hội nghị của Bộ Chính trị đầu 1961 và 1962 nêu chủ trương giữ vững và phát triển
thế tiến công giành được sau “đồng khởi” 1960, đưa cách mạng miền Nam từ khởi
nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền. Bộ
Chính trị chủ trương kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng,
giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị, phát triển đấu tranh vũ trang nhanh lên
một bước mới ngang tầm với đấu tranh chính trị. Thực hành kết hợp đấu tranh
quân sự đấu tranh chính trị song đẩy mạnh đánh địch bằng ba mũi giáp công:
quân sự, chính trị, binh vận. Vận dụng phương châm đấu tranh phù hợp với đặc
điểm từng vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng, thành thị.
Hội nghị TW Đảng lần IX (11-1963): xác định đúng đắn quan điểm quốc tế, hướng
hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
đánh thắng Mỹ. Hội nghị khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh trang đi
đôi, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của
đấu tranh vũ trang. Xác định nhiệm vụ của miền Bắc là căn cứ địa, hậu phương đối
với cách mạng miền Nam, nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt, sẵn sàng đối
phó với âm mưu đánh phá của địch.
Hội nghị Trung ương lần thứ XI (tháng 3/1965) và lần thứ XII (tháng 12/1965): tập
trung đánh giá tình hình đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên
cả nước.
2. Nội dung của đường lối:
Trong giai đoạn trước đó, Mỹ tiến hành “Chiến tranh cục bộ” miền Nam nhưng
thất bại và chuyển sang chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trước tình hình đó, Trung
ương Đảng đã tổ chức Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (tháng 3-1965) lần thứ
12 (tháng 12-1965) tập trung đánh giá tình hình vạch ra đường lối kháng chiến
chống mỹ cứu nước trên cả nước. Nội dung đường lối gồm các vấn đề chính sau:
Về nhận định tình hình chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng nhận định
cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu
mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại bị động nên chứa đựng
đầy mâu thuẫn về chiến lược. Mỹ đưa quân vào miền Nam trong thế thua, thất bại
thảm hại của chiến tranh đặc biệt (1961-1965), và lâm vào cuộc khủng hoảng quân
sự chính trị trầm trọng. Hơn nữa phong trào cách mạng ở hai miền đang phát triển
mạnh: miền Bắc được xây dựng phát triển về mọi mặt hậu phương vững
chắc chi viện cho miền Nam. Từ sự phân tích đó, Trung ương Đảng quyết định
phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cứu nước trong toàn quốc, coi
chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của dân tộc cả nước từ Bắc chí Nam.
Như vậy so với nhiệm vụ chung trong đại hội lần 3 mà Đảng đã xác định thì nhiệm
vụ giai đoạn này nhấn mạnh đến nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ trên hết,
kháng chiến trong toàn quốc và với quyết tâm cao độ, dốc hết sức lực nhằm giành
lại độc lập cho nước nhà, cả miền Nam, miền Bắc đều đặt nhiệm vụ kháng chiến
chống Mỹ là nhiệm vụ trọng tâm và quan trọng nhất.
Về quyết tâm mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu quyết tâm đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược”, “ kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ trong bất kì tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới hòa binh thống
nhất nước nhà”. Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Đảng Cộng sản Việt
Nam trên sở khoa học. Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói đế quốc Mỹ sử dụng
phương tiện khoa học để tiến hành chiến tranh. Còn ta lãnh đạo, chỉ đạo chiến
tranh chống Mỹ cứu nước một cách khoa học”. Sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh
chống Mỹ cứu nước một cách khoa học của ĐCSVN được thể hiện ở chỗ Đảng đã
vận dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin. Đảng ta quán
triệt quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử.
Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục và đẩy mạng cuộc chiến tranh nhân dân
chống “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động chiến tranh
nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ miền Bắc, Mỹ tiến hành bằng
không quân và hải quân, nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế-quốc phòng, ngăn chặn sự
chi viện của miền Bắc cho miền Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân
dân Việt Nam, hỗ trợ cho chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ miền Nam Việt
Nam; thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình chính, càng đánh càng
mạnh cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những
cuộc tiến công lớn tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian khá
ngắn trên chiến trường miền Nam. Trong chiến tranh cục bộ, Mỹ đưa quân viễn
chinh Mỹcác nước chư hầu ồ ạt vào miền Nam trực tiếp tham chiến; đồng thời
tăng cường không quân hải quân đánh phá miền Bắc. Đây bước leo thang
chiến tranh cao nhất của đế quốc Mỹ Việt Nam, cũng lần đầu nước Mỹ xuất
quân đi xâm lược với số lượng lớn nhất kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Giới cầm quyền Mỹ đã huy động lực lượng và tiền của đến mức cao nhất vào cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam.
tưởng chỉ đạo phương châm đấu tranh miền Nam: giữ vững phát triển
thế tiến công kiên quyết tiến công tiếp tục tiến công. “Tiếp tục kiên trì phương
châm đấu tranh quân sự kết hợp đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng cả ba mũi
giáp công”, đánh địch bằng ba mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh-địch vận) là
sáng tạo của nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong ba mũi giáp công ấy, binh- địch vận là mũi giáp
công quan trọng. Phong trào Đồng khởimiền Trung Nam Bộ và Nam Bộ (1959-
1960), mà điển hìnhtỉnh Bến Tre, binh- địch vận trở thành mũi tiến công chủ
yếu với các hình thức phong phú như dùng nội tuyến diệt ác ôn, nghi binh dọa
địch, dùng lực lượng gia đình binh sĩ kêu gọi địch đầu hàng..., đánh địch trên cả ba
vùng chiến lược, địch trên cả ba vùng: rừng núi, nông thôn đồng bằng đô thị,
kết hợp ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương với chiến tranh của các
binh đoàn chủ lực, kết hợp đánh lớn, đánh vừađánh nhỏ, thực hiện làm chủ để
tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; nắm vững phương châm chiến lược đánh
lâu dài, đồng thời biết tạo thời mở những cuộc tiến công chiến lược làm thay
đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, đè
bẹp quân địch, giành thắng lợi cuối cùng. Trong giai đoạn này, đấu tranh quân sự
có một vị trí ngày càng quan trọng và có tác dụng trực tiếp.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế (chuyển sang
kinh tế thời chiến), đảm bảo tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạng về kinh tế
quốc phong trong điều kiện chiến tranh, tiến hanh cuộc chiến tranh nhân dân
chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc hội
chủ nghĩa động viên sức người sức của cao nhất chi viện cho miền Nam, đồng
thời chuẩn bị tinh thần đánh bại địch trong trường họp chúng liều lĩnh mở rộng
chiến tranh cục bộ ra cả nước.
Hội nghị xác định “Tiếp tục xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế
tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền bắc, đánh thắng cuộc chiến
tranh phá hoại phong toả bằng không quân hải quân của địch, chuẩn bị sẵn
sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến tranh phá hoại hiện
nay đến một trình độ ác liệt gấp bội, hoặc chuyển thành một cuộc chiến tranh
cục bộ cả hai miền nam lần miền bắc. ra sức động viên lực lượng của miền bắc chi
viện cho miền nam”. Hội nghị quyết định nhiệm vụ cấp bách của ta ở miền Bắc lúc
này phải kịp thời chuyển hướng tưởng tổ chức, chuyển hướng xây dựng
kinh tếtăng cường lực lượng quốc phòng cho hợp với tình hình mới. Miền Bắc
phải có đủ sức mạnh, kịp thời với yêu cầu tự bảo vệ, chống lại các cuộc ném bom
bắn phá và phong toả của địch.
Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam tiền tuyến lớn, miền Bắc hậu
phương lớn. Bảo vệ miền Bắc nhiệm vụ của cả nước miền Bắc hội chủ
nghĩa hậu vững chắc của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Phải tiến hành đánh bại
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ miền Bắc ra sức tăng cường lực
lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm bảo vệ chi viện đắc lực cho miền Nam càng
đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau mật thiết gắn
với nhau. Khẩu hiệu chung của tất cẳ nhân dân lúc này là: tất cả để đánh thắng giặc
mỹ xâm lược”
III. Ý nghĩa vai trò lãnh đạo của Đảng
Vai trò của Đảng thể hiện trên mọi mặt của công tác lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng
chiến. Trước tiên, Đảng luôn luôn trung thành hạn với Tổ quốc, với nhân dân,
kiên định lập trường cách mạng, kiên định “quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ” vì sự
sống còn của dân tộc, lợi ích bản lâu dài của nhân dân Việt Nam độc
lập, thống nhất, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó, Đảng đã có những sáng
tạo trong quá trình hoạch định đường lối lãnh đạo cách mạng giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước.
Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, không chỉ đường lối chính trị đúng
Đảng cần phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Ở những bước ngoặt khó khăn của
cách mạng, đứng trước những thách thức, Đảng luôn tỏ nâng cao bản lĩnh
chính trị. Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện ở những thời điểm cam go của cách
mạng, Đảng đã những quyết sách sáng suốt, kịp thời, chủ động chèo lái con
thuyền cách mạng vượt qua thách thức. Đó là quyết định của Nghị quyết Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 15, Khóa II (năm 1959) khởi nghĩa từng phần, mở
đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách độc đáo, khéo léo, đáp ứng khát vọng
của nhân dân yêu nước và cán bộ miền Nam, được sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè
quốc tế. Bản lĩnh chính trị chẳng những cần thiết trong hoạch định đường lối
chính sách mà cả trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện.
Đảng đã đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ, phù hợp
với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển chung của thế giới. Chính sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - nin của Đảng trong thực tiễn cách mạng đã chứng
minh giá trị bền vững, sức sống của học thuyết cách mạng trong điều kiện lịch sử
mới. Để tiếp tục trở thành nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng,
trước hết, Đảng Cộng sản Việt Nam thấm nhuần sâu sắc vai trò, tầm quan trọng
của công tác lý luận theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lý luận như cái
kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có
lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”.
Vai trò nổi bật là Đảng đã thiết kế con đường đúng đắn, với giải pháp tối ưu để giải
phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước trước một kẻ thù mới
đế quốc Mỹ. Đócùng một lúc giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
hội, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng hai miền nhằm mục tiêu
chung bao trùm chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc, thống nhất Tổ quốc. Đây ngọn cờ đúng đắn duy nhất tập hợp được lực
lượng lớn nhất trên cả hai miền Nam, Bắc tiến hành kháng chiến cứu nước, cũng là
ngọn cờ chính nghĩa phù hợp với mục tiêu cách mạng xu thế thời đại, được cả
loài người đồng tình ủng hộ. Bên cạnh đó, Đảng đường lối quốc tế đúng đắn,
luôn nêu cao tinh thần quốc tế vô sản cao cả; luôn coi cách mạng Việt Nam là một
bộ phận của cách mạng thế giới, liên minh chiến đấu chặt chẽ với nhân dân Lào
nhân dân Campuchia anh em, gắn chặt với ba dòng thác cách mạng; luôn coi cuộc
chiến đấu chống Mỹ vừa là nhiệm vụ dân tộc thiêng liêng, vừa là nghĩa vụ quốc tế
cao cả; mọi hoạt động chống Mỹ, cứu nước đều nhằm phục vụ lợi ích cả cách
mạng Việt Nam cách mạng thế giới nên đã tranh thủ được sự giúp đỡ rộng lớn
của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Một phương pháp sáng tạo – phương pháp cách mạng mà Đảng đã vận dụng trong
sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; đó là, đánh địch
không chỉ bằng quân sự bằng chiến lược tổng hợp, cả quân sự, chính trị
ngoại giao; đánh địch bằng sức mạnh cả tiền tuyến hậu phương, kết hợp sức
mạnh dân tộc sức mạnh thời đại; kiên quyết thực hành chiến lược tiến công
nhưng biết thắng từng bước; vừa đánh, vừa đàm để kéo địch xuống thang từng
bước để đánh thắng chúng. Đây bước phát triển cao về đường lối nghệ
thuật tiến hành chiến tranh, đỉnh cao của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong
thời đại Hồ Chí Minh.
Chương III: Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi bài học kinh
nghiệm.
I.Kết quả và ý nghĩa lịch sử
1. Kết quả
Ở miền Bắc: Công cuộc xây dựng chế độ XHCN đạt được những thành tựu đáng tự
hào. Một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa bắt đầu được hình thành.
chiến tranh ác liệt, bị tổn thất nặng nề về vật chất nhưng văn hoá, xã hội, y tế, giáo
dục không những được duy trì mà còn phát triển mạnh. Sản xuất nông nghiệp phát
triển, công nghiệp địa phương được tăng cường. Quân dân miền Bắc đã đánh thắng
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ điển hình là chiến thắng “Điện Biên Phủ
trên không” (1972). Miền Bắc hoàn thành xuất sắc vai trò căn cứ địa cách mạng cả
nước và nhiệm vụ hậu phương lớn đối với chiến trường miền Nam.
miền Nam: Trong giai đoạn 1954-1960, đã đánh bại “Chiến tranh đơn phương”
của Mỹ - nguỵ, giai đoạn 1961-1965, đã giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh
bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, giai đoạn 1965-1968, đã đánh bại
chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ và chư hầu, giai đoạn 1969-1975, đã đánh
bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ và tay sai.
2. Ý nghĩa lịch sử
Đối với nước ta:
Kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (tính từ năm
1954), 30 năm chiến tranh cách mạng (tính từ năm 1945), 115 năm chống đế quốc
thực dân phương Tây (tính từ năm 1858), quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi,
giải phóng miền Nam, đưa lại độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước,
mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hoà bình, thống nhất,
cùng chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với cách mạng thế giới:
Đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa hội, góp
phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của
chúng ỏ khu vực Đông Nam Á. Đồng thời, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh
mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ tự do hoà bình phát triển của nhân dân thế
giới.
II. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm
1. Nguyên nhân thắng lợi
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ thiên anh hùng ca bất hủ trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
trong cuộc đụng đầu lịch sử ấy, quân và dân ta đã đánh thắng hàng nghìn trận, mở
hàng chục chiến dịch lớn, đỉnh cao cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa
Xuân năm 1975. Phân tích nguyên nhân thắng lợi trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước là việc làm mang nhiều ý nghĩa, rất cần thiết cho sự nghiệp xây dựngbảo
vệ Tổ quốc.
Sự lãnh đạo tài tình đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam nhân tố quyết
định hàng đầu bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đại hội lần thứ IV
của Đảng đã khẳng định: ''Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta trước hết thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc
lập, tự chủ đúng đắn sáng tạo của Đảng ta''. Trong cuộc kháng chiến này, Đảng
ta đã nhận rõ sứ mạng, trọng trách lịch sử của mình trước giai cấp, trước dân tộc và
phong trào cách mạng thế giới, đã ra sức xây dựng mình vững mạnh cả về chính
trị, tưởng tổ chức. Trên sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin,
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kịp thời đưa ra đường lối phương pháp cách mạng
đúng đắn, sáng tạo, đồng thời kiên quyết chỉ đạo thực hiện bằng được mục tiêu,
con đường, nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí hành động, trên dưới một lòng, triệu người
như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, đứng trước những khó khăn thử thách, truyền thống quý báu đó
càng được phát huy cao độ. Sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân đã trở thành nhân tố quan trọng, sức mạnh to lớn, góp phần đánh thắng đế
quốc Mỹ xâm lược.
Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng
hợp đánh Mỹ thắng Mỹ. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh của thời đại,
coi đó một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước đặt hoạt
động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận tầm quan trọng chiến
lược góp phần tạo nên sự vượt trội về thếlực của nhân dân ta để đánh thắng kẻ
thù. Dưới tác động của hoạt động đối ngoại của chính cuộc kháng chiến của
nhân dân ta, một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam
ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược đã hình thànhphát triển. Đó Liên Xô,
Trung Quốc, hệ thống các nước XHCN, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào
cộng sản công nhân, phong trào cách mạng, lực lượng hoà bình, dân chủ, tiến
bộ trên toàn thế giới, kể cả đông đảo nhân dân Mỹ yêu chuộng hoà bình và công lý.
Chính những yếu tố này đã tạo ra một tập hợp lực lượng mạnh mẽ bao vây lập
và tiến công đế quốc Mỹ từ mọi phía.
Nhân dân các lực lượng trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước
của dân tộc. Mỗi khi Tổ quốc bị lâm nguy, dân tộc ta triệu người như một, sẵn sàng
đứng lên chống giặc cứu nước, chiến đấu dũng cảm ngoan cường, bền bỉ, lao động
quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc,chủ nghĩa xã hội và vì quyền sống của
con người. Đó là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, ngoan cường,
bền bỉ và anh dũng; thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ của nhân dân và các lực lượng
trang nhân dân ta trong cả nước, của hàng chục triệu đồng bào yêu nước trên
tuyến đầu Tổ quốc đã nêu cao tấm gương kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại
xâm.
Phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc việt Nam, Lào, Campuchia
để cùng nhau đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Phát huy truyền thống láng giềng
anh em gắnvề lịch sử, địa lý, kinh tế,hội, quốc phòng cùng kháng chiến
chống Pháp thắng lợi, nhân dân Việt Nam đã chủ động đoàn kết, liên minh với
nhân dân Lào, nhân dân Campuchia chiến đấu, chiến thắng kẻ thù chung là đế quốc
Mỹ. Sự đoàn kết liên minh đó được thể hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ
quyền, lợi ích của mỗi nước, cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung, bảo vệ độc
lập chủ quyền quốc gia cho cả ba dân tộc; thể hiện sự hiệp đồng chiến đấu của
quân đội ta với quân đội Lào, Campuchia, cho nên đã tạo ra thế chiến lược tiến
công chung cho cả 3 nước, đánh bại từng kế hoạch, từng biện pháp chiến lược lớn
của địch trên toàn Đông Dương.
Với đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên hoà bình, độc lập, thống nhất và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta
đã thực hiện trọn vẹn lời tiên đoán, điều mong mỏi thiết tha, lời căn dặn thiêng
liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân
dân ta phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi
hoàn toàn... Tổ quốc ta nhất định thống nhất. Đồng bào Nam - Bắc nhất định sẽ
sum họp một nhà”.
2. Bài học kinh nghiệm
Một là, đề ra thực hiện đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc chủ
nghĩa hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ. Hai
là, tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc, kiên định tưởng chiến lược tiến công,
quyết đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Ba là, thực hiện chiến tranh nhân
dân, tìm ra biện pháp chiến đấu đúng đắn, sáng tạo. Bốn là, trên sở đường lối,
chủ trương chiến lược chung đúng đắn phải công tác tổ chức thực hiện giỏi,
năng động, sáng tạo của các cấp bộ đảng trong quân đội, của các ngành, các địa
phương. Năm là, phải hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực
lượng cách mạng cả hậu phương tiền tuyến Để làm được điều đó, phải tăng
cường hơn nữa sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân
đội; tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao; kiên quyết đấu tranh
chống âm mưu, thủ đoạn "phi chính trị hóa" Quân đội của các thế lực thù địch.
Quân ủy Trung ương Bộ Quốc phòng cần nghiên cứu, tổ chức thực hiện thắng
lợi Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới; trong đó trọng tâm xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực
phòng thủ các phương án, kế hoạch phòng thủ đất nước. Để xây dựng Đảng ta
ngày càng trong sạch, vững mạnh, thật sự "là đạo đức, văn minh" như tâm
nguyện của Bác Hồ, toàn Đảng phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh; tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí những
biểu hiện suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Các tổ chức đảng từ Trung ương đến sở phải làm tốt hơn nữa công
tác xây dựng Đảng; cán bộ của Đảng phải thực sự công bộc của dân, quan tâm
| 1/26

Preview text:

MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài:
Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra
đời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Ngay từ
đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm đứng ra nhận sứ mệnh lịch sử to lớn mà giai
cấp và dân tộc giao phó: Lãnh đạo các tầng lớp nhân dân Việt Nam đấu tranh
chống thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân. Trước
sự bế tắc về lý luận cũng như đường lối của các lực lượng cách mạng Việt Nam
trong những năm 20 của thế kỷ XX, sự thất bại không tránh khỏi của các phong
trào chống Pháp do các sĩ phu yêu nước và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản
lúc đó, dân tộc ta đã hướng đến con đường cứu nước mới, khác về chất, con đường
mà các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã đi. Chính lúc dân tộc Việt Nam cần
một đường lối chính trị đúng đắn, một đội tiên phong dẫn đường, một bộ tham
mưu lãnh đạo thì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đáp ứng kịp thời và đầy đủ những đòi hỏi bức thiết của lịch sử.
Đảng ta ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân chính nhất, có sức
hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, sớm trở thành đội tiên
phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến.
Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam là do thời đại, do giai
cấp và dân tộc quy định. Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo nhân dân
Việt Nam cùng một lúc vừa làm tư sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng và
làm giai cấp cách mạng. Đây là đặc điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt
Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh
lịch sử của Đảng đối với giai cấp và dân tộc Việt Nam. Với thắng lợi vĩ đại của các
cuộc cách mạng: Tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1946 - 1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) do
Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại lãnh đạo, dân
tộc Việt Nam trở thành một trong những dân tộc đầu tiên làm cách mạng giải
phóng dân tộc thành công ở một nước thuộc địa và lệ thuộc; một trong những dân
tộc đầu tiên đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới, mở đầu
phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ-La tinh. Thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thể hiện sâu sắc sức mạnh của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó
cũng là một sự kiện có tầm vóc quốc tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc. Chính
vì vậy, em chọn đề tài “Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hệ
thống chính trị ở thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất đất nước
(1954-1975)” làm đề tài tiểu luận. II.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Tiểu luận tập trung phân tích đánh giá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với hệ thống chính trị ở thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
thống nhất đất nước (1954-1975). Để từ đó có nhận thức khách quan, toàn diện về
diễn biến lịch sử trong quá trình kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Làm cơ sở khoa
học và tư tưởng để chống lại những quan điểm sai trái về sự lãnh đạo của Đảng
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bên cạnh đó việc nghiên cứu giúp sinh viên
nắm rõ tri thức lịch sử về quá trình Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Từ đó đánh giá về tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong đề ra
đường lối và lãnh đạo thành công chống lại kẻ thù hùng mạnh bậc nhất thế giới
thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Xem xét những kinh
nghiệm lịch sử của Đảng trong lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có
ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. Từ đó nêu ra
những bài học, ý nghĩa đối với chính sách, đường lối lãnh đạo của Đảng hiện nay. III.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: a. Đối tượng nghiên cứu:
Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với hệ thống chính trị ở
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất đất nước(1954-1975) b. Phạm vi nghiên cứu:
Đường lối lãnh đạo của Đảng năm 1954- 1975 IV. Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận sử dụng các phương pháp như: phương pháp thống kê, phương
pháp tài liệu, phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so
sánh, phương pháp quan sát thực tiễn, phương pháp tổng kết. V. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nôi dung
chính của đề tài được thể hiện ở 3 chương như sau:
Chương I: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1954-1964.
Chương II: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1965-1975.
Chương III: Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm. NỘI DUNG
Chương I: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1954-1964:
Bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng 7-1954:
Sau hiệp định Giơnevơ, cách mạng Việt Nam có nhiều thuận lợi mới nhưng
cũng phải đối phó với nhiều thử thách phức tạp:  Thuận lợi:
Hệ thống XHCN tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ
thuật, nhất là của Liên Xô; phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở châu
Á, chấu Phi và Mỹ La Tinh; phong trào hòa bình dân chủ lên cao ở các nước tư
bản; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả nước; thế
và lực của cách mạng Việt Nam đã lớn mạnh hơn sau 9 năm kháng chiến; ý chí độc
lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí Nam.  Khó khăn:
Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh có âm mưa bá chủ thế
giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng; thế giới bước vào thời kỳ chiến
tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe XHCN và TBCN; sự xuất hiện bất đồng
trong hệ thống xã hội chủ nghĩa nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc; đất nước ta
bị chia làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo nàn và lạc hậu, miền Nam trở thành
thuộc đia kiểu mới của Mỹ và đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta.
Một Đảng lãnh đạo hai cuộc cách mạng khác nhau ở hai miền đất nước có
chế độ chính trị khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam sau tháng
7/ 1954. Đặc điểm trên và những thuận lợi, khó khăn chính là cở sở để Đảng phân
tích hoạch định đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới.
Quá trình hình thành, nội dung ý nghĩa của đường lối lãnh đạo của Đảng:
Quá trình hình thành của đường lối cách mạng của Đảng
Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta sau tháng 7-1954 là phải vạch ra được
đường lối đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình mỗi miền, tình hình cả nước, vừa
phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới
và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của
tình hình trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến
tranh chuyển sang hoà bình; nước nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển
vào thành thị; từ phân tán chuyển sang tập trung.
Tại Hội nghị lần thứ bảy (tháng 3-1955) và lần thứ tám (tháng 8-1955)
Trung ương Đảng nhận định: Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hoà
bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra
sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, đường lối tiến hành
đồng thời hai chiến lược cách mạng được xác định: “Mục tiêu và nhiệm vụ cách
mạng của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là: Củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc
tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà
trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình”.
Tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền
Nam. Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết
về cách mạng miền Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn,
chẳng những đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ
bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-
1960, đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1954-1964.
 Nội dung đường lối lãnh đạo của Đảng:
Nhiệm vụ chung: “tăng cường đoàn kết dân tộc, kiên quyết đấu tranh giữ
vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy
mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội
chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
Nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc.
Trong niềm vui miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng Trung ương Đảng chuẩn bị trở về Thủ đô. Ngày 19-9-1954, Người về thăm
Đền Hùng, gặp gỡ và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên phong
chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô. Người căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng
nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Người nêu những nhiệm vụ trước mắt của nhân dân ta là kiên quyết thi hành
hiệp định đình chiến, khôi phục kinh tế, củng cố quốc phòng, tiếp tục cải cách
ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng…“nhằm củng cố hoà bình, thực hiện
thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”. Về đối ngoại, Người
nêu lên chính sách của Đảng và Nhà nước ta là tán thành 5 nguyên tắc chung sống
hoà bình, lấy đó làm cơ sở để xây dựng và phát triển mối quan hệ với các nước
láng giềng Lào, Miên và các nước Đông Nam Á khác. Với nước Pháp, cố gắng lập
lại mối quan hệ kinh tế và văn hoá trên nguyên tắc bình đẳng, hai bên đều có lợi,
đoàn kết với nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng tập trung lãnh
đạo củng cố miền Bắc về mọi mặt, vì “Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ lực lượng
đấu tranh của toàn dân ta”. Trong việc khôi phục kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh trước hết phải khôi phục và nâng cao sản xuất nông nghiệp. Người đã
phát động phong trào thi đua sản xuất và tiết kiệm mùa xuân, kêu gọi cấy lúa xuân,
trồng các loại hoa màu ngắn ngày để cứu đói. Để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp,
thì phải tiếp tục thực hiện “người cày có ruộng”, vì vậy Đảng và Chính phủ đã
quyết định tiến hành cải cách ruộng đất đợt 5, đợt cuối cùng của cuộc đấu tranh
xoá bỏ giai cấp phong kiến ở miền Bắc. Sau gần nửa năm tiến hành khẩn trương và
gian khổ, cải cách ruộng đất đợt 5 đã căn bản hoàn thành ở đồng bằng, trung du và
280 xã miền núi. Thắng lợi đó đã “mở đường cho đồng bào nông thôn ta xây dựng
cuộc đời ấm no, góp phần xứng đáng vào công cuộc khôi phục và phát triển kinh
tế, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh để đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà”. Tuy nhiên trong quá trình này đã xảy ra những sai lầm cơ bản về nhận
thức, đường lối, nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Những sai lầm này
đã ảnh hưởng lớn đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nói riêng
và cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước nói chung.
Song song với việc phát triển nông nghiệp là đẩy mạnh phát triển công
nghiệp. Theo Người: Đời sống của nhân dân chỉ có thể được cải thiện khi chúng ta
dùng máy móc trong sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, để đưa năng suất lao
động lên cao. Người đã đi thăm và tìm hiểu tình hình sản xuất cũng như đời sống
của cán bộ, công nhân các cơ sở sản xuất, nhà máy, xí nghiệp, khu mỏ của các tỉnh
Hải Phòng, Hồng Quảng, Nam Định, Lào Cai, Phú Thọ, Nghệ An, Hà Nội…
Đi đôi với việc lãnh đạo khôi phục kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú
trọng tới việc chỉ đạo phát triển nền văn hoá nước nhà. Người nói: Giáo dục phải
cung cấp cán bộ cho kinh tế. Kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ được… Giáo
dục không phát triển thì không đủ cán bộ giúp cho kinh tế phát triển. Người còn
nhắc nhở việc chăm sóc sức khỏe cho toàn dân. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn quan tâm tới việc củng cố, xây dựng và phát triển quân đội và công
an nhân dân, những lực lượng có vai trò quan trọng trong công tác bảo vệ nền độc
lập của dân tộc, giữ gìn hoà bình, chống thù trong giặc ngoài, chống bọn phá hoại
và làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến
hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng
Trung ương Đảng đã làm rõ hơn những nội dung cụ thể về đường lối, nhiệm vụ
chiến lược và mối quan hệ chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược đồng thời tiến
hành ở hai miền trong cuộc đấu tranh đòi thực hiện đúng những điều khoản của
Hiệp định Giơnevơ. Người nhấn mạnh: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì
đấu tranh thống nhất nước nhà nhất định thắng lợi”.
Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay
sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Nhân dân ta ở miền Nam, dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương 15 (1-
1959), Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III (9-1960) của Đảng, đã đẩy mạnh
cuộc đấu tranh chính trị đồng thời với đẩy mạnh cuộc đấu tranh vũ trang, tiến công
địch trên cả hai mặt trận chính trị và quân sự và đã giành được thắng lợi ngày càng
to lớn. Tháng 3-1961, các lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam đã được hợp
nhất lại, thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Mục tiêu chiến lược: “nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách
mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết
yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà bị chia cắt. Hai nhiệm vụ
đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc
Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất tổ quốc”.
Mối quan hệ của cách mạng hai miền: “Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan
hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau”.
Vai trò, nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền đối với cách mạng cả nước:
Cách mạng XHCN ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn
cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi
lên CNXH về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ
cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự
nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai,
thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Con đường thống nhất đất nước: trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng, Đảng kiên trì con đường hòa bình thống nhất theo tinh thần hiệp nghị
Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hòa bình thống nhất Việt
Nam, vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù
hợp với xu hướng chung của thế giới: “Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao
cảnh giác, sẵn sang đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của
chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước
ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất tổ quốc”.
Triển vọng của Cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống
nhất nước nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và
lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối
cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên XHCN.
Ý nghĩa vai trò lãnh đạo của Đảng
Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng
do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền
Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam và phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã
huy động và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả
nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự
đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc. Do đó đã tạo ra được sức mạnh
tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.
Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của cách
mạng Việt Nam đã thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong
việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt
Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.
Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi miền là cơ
sở để Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to lớn trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược
chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.
Đảng ta đặc biệt coi trọng và phát huy hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị
trong quân đội; trong các chiến dịch. Kế thừa kinh nghiệm công tác đảng, công tác
chính trị được tiến hành từ khi Quân đội ta mới thành lập và trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, công tác đảng, công tác chính trị trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước đã được phát triển lên một bước mới, phong phú về
nhiều mặt, thực sự là "linh hồn, mạch sống" của Quân đội ta. Căn cứ vào tình hình
thực tế trên chiến trường, công tác đảng, công tác chính trị đã tập trung xây dựng
quyết tâm chiến đấu, làm cho toàn quân nhất trí cao với đường lối, chủ trương của
Đảng, cả về mục tiêu chiến lược, thời cơ chiến lược, phương châm chỉ đạo chiến
lược, phương thức tác chiến để giành thắng lợi. Chủ động chỉ đạo làm tốt chức
năng "đội quân công tác" ở vùng mới giải phóng, phát huy vai trò của lực lượng vũ
trang địa phương, nhân dân trên địa bàn tác chiến chiến dịch. Công tác đảng, công
tác chính trị đã trực tiếp định hướng tư tưởng bộ đội, khơi dậy và phát huy truyền
thống yêu nước, sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt ở miền bắc, tinh
thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của đồng bào miền nam "thành đồng Tổ
quốc". Qua đó, tạo động lực chính trị - tinh thần to lớn cho đồng bào và chiến sĩ cả
nước trong cuộc đọ sức quyết liệt với kẻ thù xâm lược. Hoạt động công tác đảng,
công tác chính trị còn góp phần xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ phương pháp tư duy
quân sự cách mạng, khoa học; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người và
vũ khí; giữa chính trị và quân sự; giữa dân chủ, kỷ luật và đoàn kết.
Về công tác tổ chức, xây dựng Đảng, đã tập trung xây dựng "chi bộ 4 tốt" kết hợp
với xây dựng các trung đoàn, sư đoàn vững mạnh; tăng cường rèn luyện đảng viên
gắn với rèn luyện cán bộ; duy trì nghiêm các nền nếp sinh hoạt, hoạt động của các
tổ chức đảng trong điều kiện chiến tranh; thường xuyên chăm lo bảo đảm chính
sách đối với bộ đội và hậu phương quân đội. Đội ngũ cán bộ chính trị các cấp được
kiện toàn, bồi dưỡng về phẩm chất, năng lực nên có sự phát triển nhanh chóng và
khẳng định vai trò quan trọng trong thực tiễn chiến đấu. Đặc biệt, Đảng ta hết sức
chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược có đủ "tâm", đủ
"tầm" và kinh nghiệm chỉ đạo tác chiến. Hình ảnh những vị tư lệnh, chính ủy các
binh đoàn chủ lực mẫu mực, xông xáo, quyết đoán, toàn tâm toàn ý với sự nghiệp
giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc, mãi mãi để chúng ta tôn vinh và học tập.
Hoạt động hiệu quả của công tác đảng, công tác chính trị cùng với các mặt công
tác khác đã thực sự làm cho đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng đi vào thực
tiễn chiến đấu của quân và dân ta, tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần to lớn,
nhất là trong những thời điểm bước ngoặt, có tính quyết định.
Chương II: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1965- 1975: I. Bối cảnh lịch sử:
Từ đầu năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân Mỹ và các nước chư hầu vào miền Nam nhằm
cứu vãn sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của chiến lược “chiến tranh
đặc biệt”. Mỹ bắt đầu tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ” với quy mô lớn, đồng
thời dùng không quân, hải quân phá hoại miền bắc. Trước tình hình đó, Đảng tiến
hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên phạm vi cả nước.  Thuận lợi:
Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cách mạng thế giới đang ở thế tấn
công. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc đã đạt và vượt các mục tiêu về kinh
tế, văn hóa. Ở miền Nam, từ năm 1963 cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có bước
phát triển mới. Ba công cụ của “Chiến tranh đặc biệt” (ngụy quân, ngụy quyền và
ấp chiến lược và đô thị) đều bị quân ta tấn công liên tục. Đến năm 1965, chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đã bị phá sản.  Khó khăn:
Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng ngày càng gay gắt, không có lợi
cho cách mạng Việt Nam. Mỹ mở cuộc “chiến tranh cục bộ” ồ ạt đưa quân viễn
chinh Mỹ và các nước chư hầu vào trực tiếp xâm lược miền Nam làm cho tương
quan lực lượng bất lợi cho ta.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu cho Đảng ta trong việc xác định quyết tâm và đề ra
đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước. II.
Quá trình hình thành, nội dung, ý nghĩa của đường lối lãnh đạo của Đảng
1. Quá trình hình thành của đường lối:
Quá trình hình thành đường lối cách mạng kháng chiến chống Mỹ trong giai đoạn
1964-1975 tiếp tục kế thừa đường lối chỉ đạo của giai đoạn trước (1961 – 1962),
đồng thời đưa ra đường lối mới trong ba hội nghị trung ương Đảng lần thứ 9, 10,
11 để phù hợp với tình hình cách mạng lúc đó.
Hội nghị của Bộ Chính trị đầu 1961 và 1962 nêu chủ trương giữ vững và phát triển
thế tiến công giành được sau “đồng khởi” 1960, đưa cách mạng miền Nam từ khởi
nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền. Bộ
Chính trị chủ trương kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng,
giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị, phát triển đấu tranh vũ trang nhanh lên
một bước mới ngang tầm với đấu tranh chính trị. Thực hành kết hợp đấu tranh
quân sự và đấu tranh chính trị song đẩy mạnh đánh địch bằng ba mũi giáp công:
quân sự, chính trị, binh vận. Vận dụng phương châm đấu tranh phù hợp với đặc
điểm từng vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng, thành thị.
Hội nghị TW Đảng lần IX (11-1963): xác định đúng đắn quan điểm quốc tế, hướng
hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
đánh và thắng Mỹ. Hội nghị khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đi
đôi, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của
đấu tranh vũ trang. Xác định nhiệm vụ của miền Bắc là căn cứ địa, hậu phương đối
với cách mạng miền Nam, nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt, sẵn sàng đối
phó với âm mưu đánh phá của địch.
Hội nghị Trung ương lần thứ XI (tháng 3/1965) và lần thứ XII (tháng 12/1965): tập
trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên cả nước.
2. Nội dung của đường lối:
Trong giai đoạn trước đó, Mỹ tiến hành “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam nhưng
thất bại và chuyển sang chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trước tình hình đó, Trung
ương Đảng đã tổ chức Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (tháng 3-1965) và lần thứ
12 (tháng 12-1965) tập trung đánh giá tình hình và vạch ra đường lối kháng chiến
chống mỹ cứu nước trên cả nước. Nội dung đường lối gồm các vấn đề chính sau:
Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng nhận định
cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu
mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và bị động nên nó chứa đựng
đầy mâu thuẫn về chiến lược. Mỹ đưa quân vào miền Nam trong thế thua, thất bại
thảm hại của chiến tranh đặc biệt (1961-1965), và lâm vào cuộc khủng hoảng quân
sự chính trị trầm trọng. Hơn nữa phong trào cách mạng ở hai miền đang phát triển
mạnh: miền Bắc được xây dựng và phát triển về mọi mặt và là hậu phương vững
chắc chi viện cho miền Nam. Từ sự phân tích đó, Trung ương Đảng quyết định
phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cứu nước trong toàn quốc, coi
chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của dân tộc cả nước từ Bắc chí Nam.
Như vậy so với nhiệm vụ chung trong đại hội lần 3 mà Đảng đã xác định thì nhiệm
vụ giai đoạn này nhấn mạnh đến nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ là trên hết,
kháng chiến trong toàn quốc và với quyết tâm cao độ, dốc hết sức lực nhằm giành
lại độc lập cho nước nhà, cả miền Nam, miền Bắc đều đặt nhiệm vụ kháng chiến
chống Mỹ là nhiệm vụ trọng tâm và quan trọng nhất.
Về quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu “ quyết tâm đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược”, “ kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ trong bất kì tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới hòa binh thống
nhất nước nhà”. Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Đảng Cộng sản Việt
Nam trên cơ sở khoa học. Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói “ đế quốc Mỹ sử dụng
phương tiện khoa học để tiến hành chiến tranh. Còn ta lãnh đạo, chỉ đạo chiến
tranh chống Mỹ cứu nước một cách khoa học”. Sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh
chống Mỹ cứu nước một cách khoa học của ĐCSVN được thể hiện ở chỗ Đảng đã
vận dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin. Đảng ta quán
triệt quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử.
Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục và đẩy mạng cuộc chiến tranh nhân dân
chống “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động chiến tranh
nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, mà Mỹ tiến hành bằng
không quân và hải quân, nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế-quốc phòng, ngăn chặn sự
chi viện của miền Bắc cho miền Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân
dân Việt Nam, hỗ trợ cho chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam Việt
Nam; thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng
mạnh cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những
cuộc tiến công lớn tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian khá
ngắn trên chiến trường miền Nam. Trong chiến tranh cục bộ, Mỹ đưa quân viễn
chinh Mỹ và các nước chư hầu ồ ạt vào miền Nam trực tiếp tham chiến; đồng thời
tăng cường không quân và hải quân đánh phá miền Bắc. Đây là bước leo thang
chiến tranh cao nhất của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, cũng là lần đầu nước Mỹ xuất
quân đi xâm lược với số lượng lớn nhất kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Giới cầm quyền Mỹ đã huy động lực lượng và tiền của đến mức cao nhất vào cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: giữ vững và phát triển
thế tiến công kiên quyết tiến công và tiếp tục tiến công. “Tiếp tục kiên trì phương
châm đấu tranh quân sự kết hợp đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng cả ba mũi
giáp công”, đánh địch bằng ba mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh-địch vận) là
sáng tạo của nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong ba mũi giáp công ấy, binh- địch vận là mũi giáp
công quan trọng. Phong trào Đồng khởi ở miền Trung Nam Bộ và Nam Bộ (1959-
1960), mà điển hình là ở tỉnh Bến Tre, binh- địch vận trở thành mũi tiến công chủ
yếu với các hình thức phong phú như dùng nội tuyến diệt ác ôn, nghi binh hù dọa
địch, dùng lực lượng gia đình binh sĩ kêu gọi địch đầu hàng..., đánh địch trên cả ba
vùng chiến lược, địch trên cả ba vùng: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị,
kết hợp ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương với chiến tranh của các
binh đoàn chủ lực, kết hợp đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ, thực hiện làm chủ để
tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; nắm vững phương châm chiến lược đánh
lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ mở những cuộc tiến công chiến lược làm thay
đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, đè
bẹp quân địch, giành thắng lợi cuối cùng. Trong giai đoạn này, đấu tranh quân sự
có một vị trí ngày càng quan trọng và có tác dụng trực tiếp.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế (chuyển sang
kinh tế thời chiến), đảm bảo tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạng về kinh tế và
quốc phong trong điều kiện có chiến tranh, tiến hanh cuộc chiến tranh nhân dân
chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội
chủ nghĩa và động viên sức người sức của cao nhất chi viện cho miền Nam, đồng
thời chuẩn bị tinh thần đánh bại địch trong trường họp chúng liều lĩnh mở rộng
chiến tranh cục bộ ra cả nước.
Hội nghị xác định “Tiếp tục xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế
và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền bắc, đánh thắng cuộc chiến
tranh phá hoại và phong toả bằng không quân và hải quân của địch, chuẩn bị sẵn
sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến tranh phá hoại hiện
nay đến một trình độ ác liệt gấp bội, hoặc chuyển nó thành một cuộc chiến tranh
cục bộ cả hai miền nam lần miền bắc. ra sức động viên lực lượng của miền bắc chi
viện cho miền nam”. Hội nghị quyết định nhiệm vụ cấp bách của ta ở miền Bắc lúc
này là phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng
kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho hợp với tình hình mới. Miền Bắc
phải có đủ sức mạnh, kịp thời với yêu cầu tự bảo vệ, chống lại các cuộc ném bom
bắn phá và phong toả của địch.
Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu
phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước vì miền Bắc xã hội chủ
nghĩa là hậu vững chắc của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Phải tiến hành đánh bại
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực
lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm bảo vệ chi viện đắc lực cho miền Nam càng
đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau mà mật thiết gắn bó
với nhau. Khẩu hiệu chung của tất cẳ nhân dân lúc này là: tất cả để đánh thắng giặc mỹ xâm lược” III.
Ý nghĩa vai trò lãnh đạo của Đảng
Vai trò của Đảng thể hiện trên mọi mặt của công tác lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng
chiến. Trước tiên, Đảng luôn luôn trung thành vô hạn với Tổ quốc, với nhân dân,
kiên định lập trường cách mạng, kiên định “quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ” vì sự
sống còn của dân tộc, vì lợi ích cơ bản và lâu dài của nhân dân Việt Nam là độc
lập, thống nhất, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó, Đảng đã có những sáng
tạo trong quá trình hoạch định đường lối và lãnh đạo cách mạng giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước.
Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, không chỉ có đường lối chính trị đúng mà
Đảng cần phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Ở những bước ngoặt khó khăn của
cách mạng, đứng trước những thách thức, Đảng luôn tỏ rõ và nâng cao bản lĩnh
chính trị. Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện ở những thời điểm cam go của cách
mạng, Đảng đã có những quyết sách sáng suốt, kịp thời, chủ động chèo lái con
thuyền cách mạng vượt qua thách thức. Đó là quyết định của Nghị quyết Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 15, Khóa II (năm 1959) khởi nghĩa từng phần, mở
đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách độc đáo, khéo léo, đáp ứng khát vọng
của nhân dân yêu nước và cán bộ miền Nam, được sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè
quốc tế. Bản lĩnh chính trị chẳng những là cần thiết trong hoạch định đường lối
chính sách mà cả trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện.
Đảng đã đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ, phù hợp
với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển chung của thế giới. Chính sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin của Đảng trong thực tiễn cách mạng đã chứng
minh giá trị bền vững, sức sống của học thuyết cách mạng trong điều kiện lịch sử
mới. Để tiếp tục trở thành nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng,
trước hết, Đảng Cộng sản Việt Nam thấm nhuần sâu sắc vai trò, tầm quan trọng
của công tác lý luận theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lý luận như cái
kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có
lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”.
Vai trò nổi bật là Đảng đã thiết kế con đường đúng đắn, với giải pháp tối ưu để giải
phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước trước một kẻ thù mới là
đế quốc Mỹ. Đó là cùng một lúc giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền nhằm mục tiêu
chung và bao trùm là chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc, thống nhất Tổ quốc. Đây là ngọn cờ đúng đắn duy nhất tập hợp được lực
lượng lớn nhất trên cả hai miền Nam, Bắc tiến hành kháng chiến cứu nước, cũng là
ngọn cờ chính nghĩa phù hợp với mục tiêu cách mạng và xu thế thời đại, được cả
loài người đồng tình ủng hộ. Bên cạnh đó, Đảng có đường lối quốc tế đúng đắn,
luôn nêu cao tinh thần quốc tế vô sản cao cả; luôn coi cách mạng Việt Nam là một
bộ phận của cách mạng thế giới, liên minh chiến đấu chặt chẽ với nhân dân Lào và
nhân dân Campuchia anh em, gắn chặt với ba dòng thác cách mạng; luôn coi cuộc
chiến đấu chống Mỹ vừa là nhiệm vụ dân tộc thiêng liêng, vừa là nghĩa vụ quốc tế
cao cả; mọi hoạt động chống Mỹ, cứu nước đều nhằm phục vụ lợi ích cả cách
mạng Việt Nam và cách mạng thế giới nên đã tranh thủ được sự giúp đỡ rộng lớn
của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Một phương pháp sáng tạo – phương pháp cách mạng mà Đảng đã vận dụng trong
sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; đó là, đánh địch
không chỉ bằng quân sự mà bằng chiến lược tổng hợp, cả quân sự, chính trị và
ngoại giao; đánh địch bằng sức mạnh ở cả tiền tuyến và hậu phương, kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; kiên quyết thực hành chiến lược tiến công
nhưng biết thắng từng bước; vừa đánh, vừa đàm để kéo địch xuống thang từng
bước và để đánh thắng chúng. Đây là bước phát triển cao về đường lối và nghệ
thuật tiến hành chiến tranh, là đỉnh cao của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Chương III: Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm.
I.Kết quả và ý nghĩa lịch sử 1. Kết quả
Ở miền Bắc: Công cuộc xây dựng chế độ XHCN đạt được những thành tựu đáng tự
hào. Một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa bắt đầu được hình thành. Dù
chiến tranh ác liệt, bị tổn thất nặng nề về vật chất nhưng văn hoá, xã hội, y tế, giáo
dục không những được duy trì mà còn phát triển mạnh. Sản xuất nông nghiệp phát
triển, công nghiệp địa phương được tăng cường. Quân dân miền Bắc đã đánh thắng
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ điển hình là chiến thắng “Điện Biên Phủ
trên không” (1972). Miền Bắc hoàn thành xuất sắc vai trò căn cứ địa cách mạng cả
nước và nhiệm vụ hậu phương lớn đối với chiến trường miền Nam.
Ở miền Nam: Trong giai đoạn 1954-1960, đã đánh bại “Chiến tranh đơn phương”
của Mỹ - nguỵ, giai đoạn 1961-1965, đã giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh
bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, giai đoạn 1965-1968, đã đánh bại
chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ và chư hầu, giai đoạn 1969-1975, đã đánh
bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ và tay sai. 2. Ý nghĩa lịch sử  Đối với nước ta:
Kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (tính từ năm
1954), 30 năm chiến tranh cách mạng (tính từ năm 1945), 115 năm chống đế quốc
thực dân phương Tây (tính từ năm 1858), quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi,
giải phóng miền Nam, đưa lại độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước,
mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hoà bình, thống nhất,
cùng chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội.
 Đối với cách mạng thế giới:
Đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã hội, góp
phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của
chúng ỏ khu vực Đông Nam Á. Đồng thời, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì
mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ tự do và hoà bình phát triển của nhân dân thế giới. II.
Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm 1. Nguyên nhân thắng lợi
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ là thiên anh hùng ca bất hủ trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
trong cuộc đụng đầu lịch sử ấy, quân và dân ta đã đánh thắng hàng nghìn trận, mở
hàng chục chiến dịch lớn, mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân năm 1975. Phân tích nguyên nhân thắng lợi trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước là việc làm mang nhiều ý nghĩa, rất cần thiết cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sự lãnh đạo tài tình và đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết
định hàng đầu bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đại hội lần thứ IV
của Đảng đã khẳng định: ''Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc
lập, tự chủ đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta''. Trong cuộc kháng chiến này, Đảng
ta đã nhận rõ sứ mạng, trọng trách lịch sử của mình trước giai cấp, trước dân tộc và
phong trào cách mạng thế giới, đã ra sức xây dựng mình vững mạnh cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kịp thời đưa ra đường lối phương pháp cách mạng
đúng đắn, sáng tạo, đồng thời kiên quyết chỉ đạo thực hiện bằng được mục tiêu,
con đường, nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người
như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, đứng trước những khó khăn thử thách, truyền thống quý báu đó
càng được phát huy cao độ. Sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân đã trở thành nhân tố quan trọng, sức mạnh to lớn, góp phần đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng
hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh của thời đại,
coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước và đặt hoạt
động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến
lược góp phần tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta để đánh thắng kẻ
thù. Dưới tác động của hoạt động đối ngoại và của chính cuộc kháng chiến của
nhân dân ta, một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam và
ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược đã hình thành và phát triển. Đó là Liên Xô,
Trung Quốc, hệ thống các nước XHCN, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào
cộng sản và công nhân, phong trào cách mạng, lực lượng hoà bình, dân chủ, tiến
bộ trên toàn thế giới, kể cả đông đảo nhân dân Mỹ yêu chuộng hoà bình và công lý.
Chính những yếu tố này đã tạo ra một tập hợp lực lượng mạnh mẽ bao vây cô lập
và tiến công đế quốc Mỹ từ mọi phía.
Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước
của dân tộc. Mỗi khi Tổ quốc bị lâm nguy, dân tộc ta triệu người như một, sẵn sàng
đứng lên chống giặc cứu nước, chiến đấu dũng cảm ngoan cường, bền bỉ, lao động
quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền sống của
con người. Đó là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, ngoan cường,
bền bỉ và anh dũng; thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ của nhân dân và các lực lượng
vũ trang nhân dân ta trong cả nước, của hàng chục triệu đồng bào yêu nước trên
tuyến đầu Tổ quốc đã nêu cao tấm gương kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm.
Phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc việt Nam, Lào, Campuchia
để cùng nhau đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Phát huy truyền thống láng giềng
anh em gắn bó về lịch sử, địa lý, kinh tế, xã hội, quốc phòng và cùng kháng chiến
chống Pháp thắng lợi, nhân dân Việt Nam đã chủ động đoàn kết, liên minh với
nhân dân Lào, nhân dân Campuchia chiến đấu, chiến thắng kẻ thù chung là đế quốc
Mỹ. Sự đoàn kết liên minh đó được thể hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ
quyền, lợi ích của mỗi nước, cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung, bảo vệ độc
lập chủ quyền quốc gia cho cả ba dân tộc; thể hiện sự hiệp đồng chiến đấu của
quân đội ta với quân đội Lào, Campuchia, cho nên đã tạo ra thế chiến lược tiến
công chung cho cả 3 nước, đánh bại từng kế hoạch, từng biện pháp chiến lược lớn
của địch trên toàn Đông Dương.
Với đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên hoà bình, độc lập, thống nhất và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta
đã thực hiện trọn vẹn lời tiên đoán, điều mong mỏi thiết tha, lời căn dặn thiêng
liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân
dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi
hoàn toàn... Tổ quốc ta nhất định thống nhất. Đồng bào Nam - Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. 2. Bài học kinh nghiệm
Một là, đề ra và thực hiện đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ. Hai
là, tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc, kiên định tư tưởng chiến lược tiến công,
quyết đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Ba là, thực hiện chiến tranh nhân
dân, tìm ra biện pháp chiến đấu đúng đắn, sáng tạo. Bốn là, trên cơ sở đường lối,
chủ trương chiến lược chung đúng đắn phải có công tác tổ chức thực hiện giỏi,
năng động, sáng tạo của các cấp bộ đảng trong quân đội, của các ngành, các địa
phương. Năm là, phải hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực
lượng cách mạng ở cả hậu phương và tiền tuyến Để làm được điều đó, phải tăng
cường hơn nữa sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân
đội; tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, có năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao; kiên quyết đấu tranh
chống âm mưu, thủ đoạn "phi chính trị hóa" Quân đội của các thế lực thù địch.
Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng cần nghiên cứu, tổ chức thực hiện thắng
lợi Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới; trong đó trọng tâm là xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực
phòng thủ và các phương án, kế hoạch phòng thủ đất nước. Để xây dựng Đảng ta
ngày càng trong sạch, vững mạnh, thật sự "là đạo đức, là văn minh" như tâm
nguyện của Bác Hồ, toàn Đảng phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh; tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và những
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở phải làm tốt hơn nữa công
tác xây dựng Đảng; cán bộ của Đảng phải thực sự là công bộc của dân, quan tâm