Vấn đề giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt trên các chương trình truyền hình tại Việt Nam hiện nay | Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí

Trong đời sống xã hội hiện nay, thông tin báo chí là một điều không thể thiếu hằng ngày. Báo chí ra đời và phát triển mạnh mẽ cũng chính là nhờ sự phát triển của ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là nền tảng cho mọi thể loại báo chí ra đời và sớm nhất  nhằm mang đến cho con người những thông tin mang phát triển tính sự kiện, kịp thời và thiết thực. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Môn:
Thông tin:
33 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Vấn đề giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt trên các chương trình truyền hình tại Việt Nam hiện nay | Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí

Trong đời sống xã hội hiện nay, thông tin báo chí là một điều không thể thiếu hằng ngày. Báo chí ra đời và phát triển mạnh mẽ cũng chính là nhờ sự phát triển của ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là nền tảng cho mọi thể loại báo chí ra đời và sớm nhất  nhằm mang đến cho con người những thông tin mang phát triển tính sự kiện, kịp thời và thiết thực. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

10 5 lượt tải Tải xuống
VIỆN BÁO CHÍ - TRUYỀN THÔNG
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TIỂU LUẬN HỌC PHẦN:
NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Họ và tên: Nguyễn Anh Thư
Mã sinh viên: 2256050046
Lớp: Báo Truyền hình K42
Hà Nội, 2024
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 2
1. Lý do lựa chọn đềi .................................................................................. 2
2. Mục đích nhiệm vụ ................................................................................. 3
3. Đối ợng phạm vi nghiên cứu khảo sát ......................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 4
5. Kết cấu tiểu luận ......................................................................................... 4
NỘI DUNG CHÍNH ................................................................................................ 5
CHƯƠNG 1: SỞ THUYẾT.................................................................... 5
1. Ngôn ngữ báo c ........................................................................................ 5
2. Ngôn ngữ truyền hình ................................................................................. 7
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ GÌN TRONG SÁNG GIỮ SỰ CỦA TIẾNG VIỆT
TRÊN CÁC CHƯƠNG TRÌNH TRÒ CHƠI TRUYỀN HÌNH ..................... 11
1. Các khái niệm bản ...............................................................................11
2. Khảo sát thực tế ........................................................................................ 15
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP GÓP PHẦN GIỮ GÌN SỰ TRONG
SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT TRÊN SÓNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH ................................................................................................. 22
1. Nâng cao nhận thức của đội ngũ sản xuất các chương trình truyền
hình về vai trò ý nghĩa của việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. .. 23
2. Nâng cao trình độ tiếng Việt cho đội ngũ sản xuất chương trình ........24
3. Xây dựng một môi trường trong sáng, mẫu mực ................................... 26
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 28
TÀI THAM LIỆU KHẢO ..................................................................................... 30
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
2
MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội hiện nay, thông tin báo chí là một điều không thể thiếu hằng
ngày. Báo chí ra đời phát triển mạnh mẽ cũng chính nhờ sự phát triển của
ngôn ngữ. Ngôn ngữ nền tảng loại báo chí ra đời và triển chính là cho mọi thể phát
sớm nhất nhằm mang đến cho con người những thông tin tính sự kiện, kịp mang
thời thiết thực. Hiện nay rất nhiều loại hình báo chí khác nhau, nhưng không
một loại dụng đến ngữ. truyền tải hình báo chí nào không sử ngôn Báo phát thanh
thông tin đến công chúng qua nói, báo ngôn ngữ truyền hình truyền tải thông tin đến
công chúng qua ngôn nói, ngữ ngôn ngữ viết, ngôn ngữ âm thanh cả ngôn ng
hình ảnh, báo mạng điện tử truyền tải thông tin đến công chúng của ngôn ngữ viết
là chủ yếu.
1. do lựa chọn đềi
Trong vài năm trở lại đây, con người chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ của truyền
thông thế kỷ 21 thực sự bùng nổ tạo ra những bước chuyển bất ngờ trong mọi khi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Truyền hình cũng không nằm ngoài sự thay đổi đó.
Mỗi loại hình báo chí đều có một thể loại ngôn ngữ riêng phù hợp với đặc thù của
mình. Ngày nay, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định, sức ảnh hưởng của báo chí
vô cùng lớn, bởi thế là nó được mệnh danh là “quyền lực thứ tư” trong hội. Trong
thời đại bùng nổ thông tin mạnh mẽ như ngày nay, vấn đề ngôn ngữ báo chí truyền
hình không còn là một vấn đề mới, nó cũng đã được rất nhiều nhà nghiên cứu đào
sâu theo từng góc cạnh khác nhau và có một điều rằng không thể không ai có thể
phủ nhận được tầm quan trọng của báo chí truyền hình. điều đó dẫn đến vấn đề:
chưa bao giờ truyền hình rơi vào trạng thái cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Xuất
phát là một kênh truyền thông có sức mạnh đặc biệt trong việc điều hướng dư luận,
đến nay, truyền hình đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt nhiều kênh từ
truyền thông khác. Đây chính là nguyên nhân chính truyền hình phải phá sự đột
nhất định. Dễ dàng nhận thấy, chưa bao giờ các kênh truyền lại hình nở rộ như hiện
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
3
nay. Các chương trình truyền hình mới liên
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
4
tục xuất hiện, tạo những thần trước Việc ra món ăn tinh phong phú công chúng. xây
dựng chương truyền tương như các trình hình mang tính tác cao trò chơi truyền hình
một xu thế chung của truyền hình thế giới cũng như Việt Nam đã góp phần tạo
cho khán xem số lượng giả truyền tăng nhiều với trước đây. Khản hình lên rất so giả
trong bất một khung giờ nào đều thể thấy một chương trình truyền hình trên
TV. Chính tần suất dày đặc như vậy vấn đề sử dụng từ ngtrên các chương
trình truyền hình cũng cùng đáng lưu tâm. Dần dần, trong nhiều chương trình
truyền hình được phát trên đài quốc gia Việt Nam xuất hiện tương đối nhiều những
từ ngữ pha tạp, sự trong sáng của tiếng Việt mất đi trên sóng truyền hình. Điều đó
cho thấy cần phải một nghiên cứu cụ cho vấn đề sử dụng ngôn ngữ, giữ rằng thể
gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên sóng truyền hình, đặc biệt là các chương trình
trò chơi truyền hình. tài tiểu luận kết thúc môn học Đó do em chọn đề “Vấn
đề giữ gìn sự trong sáng trên các trình nh của tiếng Việt chương truyền tại Việt
Nam hiện nay (Khảo sát các chương trình truyền hình giải trí trên VTV)”.
2. Mục đích nhiệm v
Mục đích:
Mục đích của tiểu luận khảo sát này nhằm chỉ ra làm các lỗi dùng từ thường
gặp trong các chương trình truyền hình giải trí trên sóng đài truyền hình Việt Nam,
đặc biệt kênh VTV1 VTV3, bàn về vấn đề sự trong sáng của tiếng Việt trong
đó và đưa ra một số ý kiến ca bản thân tác giả.
Nhiệm vụ:
- Nêu rõ các khái niệm và đặc điểm về ngôn ngữ báo chí nói chung và ngôn
ngữ truyền hình nói riêng.
- Khảo sát một số các chương trình truyền hình giải trí trên VTV1 và VTV3 để
thu thập liệu.
- Đưa ra thực trạng tổng quát về những biểu hiện của việc không giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt trong các chương trình truyền hình trí trên sóng giải
Đài Truyền hình Việt Nam.
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
5
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu khảo t
Đối tượng nguyên cứu khảo sát:
Đối tượng nghiên cứu và khảo sát của đề tài là cách sử dụng từ ngữ trong một số
chương trình truyền hình giải trí trên sóng VTV1 và VTV3.
Phạm vi nghiên cứu khảo t
- Ai là triệu phú (01/06/2021)
- ức vui mùa 3 vẻ tập 23
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, tức là tìm
hiểu sách, báo, các tạp chí, website hay video có liên quan để tổng hợp nội dung cần
thiết, chủ yếu thu thập tài liệu từ thông tin đại chúng. Ngoài ra trong quá trình làm
đề tài các phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phê
bình đều được sử dụng triệt để.
5. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo thì tiểu luận gồm 3 chương Nội
dung chính.
Chương 1: Cơ sởthuyết
Chương 2: Vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên các chương trìnH
truyền hình
Chương 3: Những giải pháp góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng việt trên
sóng các chương trình truyền hình
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
6
NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1: SỞTHUYẾT
1. Ngôn ngữ báo c
1.1. Ngôn ngữ chí báo là gì?
Từ điển tiếng Việt giải nghĩa: “Ngôn ngữ hệ thống những âm, những từ những
quy tắc kết hợp chúng những người trong cũng một cộng đồng dùng làm phương
tiện giao tiếp với nhau”
1
Trên báo chí phục vụ cho cách tiếp cận sự thật của báo chí. Dựa vào việc nghiên cứu
thực tế sử dụng ngôn ngữ trên các tác phẩm báo chí cụ thể nhiều ý kiến về
khái niệm ngôn ngữ báo chí.
Theo sách Ngữ văn nâng cao lớp 11 tập 1: “Ngôn ngữ báo chí ngôn ngữ dùng để
thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và
dư luận quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.”
2
Sách Thuật ngữ Báo chí - Truyền thông giải nghĩa: “Ngôn ngữ báo chí (jourmalistic
language) là ngôn ngữ đặc trưng cho quá trình chuyển tải thông tin báo chí”.
3
Sách
này cũng giải thích thêm là sự đa dạng của thể loại báo chí dẫn đến sự đa dạng của
ngôn ngữ báo chí.
Về vấn đề này, tác Thoa trong Giáo trình Tác báo giả Nguyễn Thị cộng sự phẩm
chí đại cương đã đưa ra quan niệm: “Ngôn ngữ báo chí toàn bộ các tín hiệu các
quy chúng mà nhà trong tác báo tắc kết hợp báo dùng để chuyển tải thông tin phẩm
chí”
4
.
1
Từ điển tiếng Việt (1995). Nẵng, NXB Đà tr.666
2
nâng 11 (2007), Giáo Nam, tr.173 Ngữ văn cao lớp NXB dục Việt tập 1,
3
báo chí thông (2007), Thuật ngữ Truyền NXB Đại học Quốc gia Nội, tr.115
4
Giáo trình Tác (2012), phẩm báo chí đại cương NXB Giáo dục Việt Nam, tr.72
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
7
Dựa phần giải vào nghĩa trong Từ điển tiếng Việt, kết hợp với việc tham khảo các ý
kiến trước đó cùng thực tế báo chí hiện nay, thể khái quát khái niệm ngôn ngữ
báo chí như sau: “Ngôn ngữ báo chí là hệ thống các thành tố (những âm, tiếng, từ,
kí hiệu, hình ảnh,...) và cách kết hợp chúng, nhằm chuyển tải thông tin báo chí đến
công chúng, thông báo tin để tức thời sự trong nước quốc tế, phản ánh chính kiến
của quan báo cđó luận quần chúng, nhằm mục tiêu thúc đẩy sự phát triển
văn minh của xã hội. Ngôn ngữ báo chí được sử dụng ở nhiều thể loại báo chí như
bản tin, phóng sự, bài phản ánh,….”
1.2. Đặc trưng của ngôn ngữ báo chí
Ngôn ngữ báo chí ngôn ngữ sự kiện
Ngôn ngữ sự kiện ngôn ngữ phản ánh nguyên trung dạng, thực những vấn đề thực
tế đang diễn ra.
Ngôn ngữ sự kiệnphương tiện duy nhất để phản ánh của báo chí, đồng thời là tiêu
chí khu biệt các ngôn ngữ khác. Ngôn ngữ sự kiện bao giờ cũng được nhìn nhận
trong quy trình vận động của sự kiện, do đó cần chú ý tới mối quan hệ tương tác
giữa nội dung của ngôn ngữ sự kiện. thể nói ngôn ngữ sự kiện tấm gương phản
chiếu những gì đang diễn ra.
Yêu cầu đối với nhà báo: phản ánh trung thực, khách quan sự kiện, phản ánh s kiện
trong từng lát cắt, khía cạnh của nó.
Ngôn ngữ báo chí ngôn ngữ siêu ngôn ngữ
Theo nhà Ngôn ngữ học Nguyễn Tri Niên: “Siêu ngôn ngữ cách diễn đạt phù hợp
với từng hoàn cảnh, từng đối tượng. phương thức diễn đạt thường trực của nhà
báo. Hay nói cách khác, ngôn ngữ trong tác phẩm báo chí siêu ngôn ngữ. Siêu
ngôn ngữ giúp nhà báo phản ánh trung thực, chính xác đảm bảo yêu cầu thông
tin.”
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
8
Yêu cầu đối với nhà báo: Ngoài việc phản ánh chính xác, khác quan, trung thực sự
kiện, vấn đề, các nhà báo còn phải có sự linh hoạt trong sử dụng từ ngữ trong từng
câu văn để cho bài báo của mình thêm hấp dẫn.
Ngôn ngữ báo chí ngôn ngữ định ợng
Ngôn ngữ định lượng thực chất sự phái sinh, sự hóa ngôn cụ thể của ngữ sự kiện.
Chính đòi hỏi phản ánh cụ thể, chính xác về sự kiện thật nguyên dạng đã
dẫn đến việc đòi hỏi phải coi trọng số lượng.
Yêu cầu đối với nhà báo: để bài báo nhận được sự tin tuyệt đối của công cậy chúng
thì việc sử dụng ngôn ngữ định lượng cần thiết, nó giúp tăng đ chính xác cho bài
viết bằng viết sử dụng những số liệu cụ thể liên quan đến vấn đề, sự kiện.
2. Ngôn ngữ truyền hình
2.1. Ngôn ngữ truyền hình gì?
Trong ngôn ngữ báo chí nói chung bao gồm các dạng ngôn ngữ đặc trưng của các
loại hình báo in, báo phát báo mạng điện tử, báo truyền hình. Trong phạm thanh, vi
nghiên cứu bài tập này chúng ta sẽ tìm hiểu sâu về ngôn ngữ báo truyền hình và
những sai phạm sử ngôn trên dụng ngữ truyền Trước hình. tiên, chúng ta sẽ cùng đi
làm rõ khái niệm ngôn ngữ báo truyền hình là gì.
Ngôn ngữ truyền hình "loại" ngôn ngữ tổng hợp, ngôn ngữ viết ncho độc
giả báo in, có ngôn ngữ nói cho thính như giả phát thanh, hơn thế nữa, có "ngôn ngữ
hình ảnh" cho một ưu thế của truyền hình, truyền khán giả truyền hình. Đó chính
tải cả thanh cùng Khác in, hình ảnh và âm một lúc. với báo người đọc chỉ tiếp nhận
bằng con đường thị giác, phát thanh bằng con đường thính giác, người xem truyền
hình tiếp cận sự kiện bằng cả thị giác thính giác. Khảo sát cho thấy 70% lượng
thông tin con người thu được là qua thị giác và 20% qua thính giác. Do vậy truyền
hình thành trở một phương tiện cấp rất cung thông tin lớn, cậy độ tin cao, có khả
năng làm thay đổi nhận thức của con người trước sự kiện
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
9
Đề tường thuật một sự kiện (đưa tin), cả ba phóng viên của ba loại báo chí trên đều
phải nêu những yếu tố cần đủ của thể loại. Nhưng truyền hình đã hình nên ảnh
không phải mô tả như báo viết và báo nói trời nắng hay mưa, tĩnh mịch hay ồn ào,
buồn rầu hay sung hình phát thanh sướng...). Truyền lại giống tiếng động hiện
trường sự kiện.
Đi theo sự phát triển nhiều loại hình thông tin đại chúng, ngôn ngữ báo chí cũng tách
dần theo ra từng ngành riêng. Lợi thế rất lớn của truyền ảnh sống hình hình động,
nên ngôn ngữ truyền hình không những phải bám sát các khuôn hình còn cần
biết gợi mở cảm xúc cho người xem. Tiếp nhận thông tin bằng mắt bao giờ cũng sâu
hơn, hiệu quả hơn bằng tai nghe. hình, công chúng truyền vừa xem bằng mắt, vừa
nghe bằng tai, cho nên truyền hình lợi thế hơn rất nhiều các loại hình báo chí
khác.
Ngôn ngữ trên báo hình, báo nói (phát thanh truyền hình) cơ bản giống ngôn ngữ -
trên báo viết, đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu sử dụng ngôn ngữ chuẩn mực, chuẩn
phong cách ngôn ngữ báo chí. Nếu như thông tin trên báo in câu do chữ và hình ảnh
trong bài viết lại thì do hình ảnh cùng với lời đọc, lời đưa thông tin trên báo hình là
bình. Ngôn ngữ được sử dụng ở đây là ngôn ngữ viết dùng để đọc, vì vậy phải viết
sao cho khán thính giả kịp nghe, kịp hiểu khi nó tác động đến người nghe bằng âm
thanh. Chắc chắn ngôn ngữ tác động đến khán, thính giả bằng âm thanh sẽ khác với
ngôn ngữ Nói viết. đúng hơn thì ngôn ngữ viết ngôn ng dùng để đọc sự khác
biệt đáng kể về phương diện từ vựng, ngữ pháp và phong cách. Chính vì vậy ngôn
ngữ trong chương trình không chỉ mang tính thời sự còn gây ấn tượng đòi hỏi
giọng đọc cũng như từ ngữ phải có phong cách thân mật, tự nhiên. Chính thế vấn
đề về sự phát âm, ngữ điệu, ngắt giọng... trên truyền hình cũng cần có sự quan tâm
thỏa đáng.
Trên báo hình, bài nào cũng đọc cho mọi người, vì vậy nội dung cần phải đơn giản
hơn và chỉ sâu khía thể đi vào một cạnh nào đó của vấn đề chứ không thể tất nói
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
10
cả các khía cạnh, ngóc ngách của vấn đề như viết. báo Như vậy thông tin trên báo
hình lược hơntừ ngữ cần đơn giản hơn.
Như vậy thể khái quát lại ngôn ngữ của báo truyền hình là: “Ngôn ngữ truyền
hình ngôn ngữ dùng để truyền tải thông tin đến công chúng qua màn hình bao
gồm nhiều yếu tố ngôn ngữ hình ảnh và ngôn ngữ âm thanh.”
2.2. Đặc tính ngôn của ngữ truyền hình
Ngôn phát thanh - hình mang các tính sau: ngữ truyền đặc
Tính đa dạng và phức thể của âm thanh
Dùng thanh trên sóng âm truyền để thể hiện ý nghĩa và khai thác ngôn các từ giàu
âm hưởng làm phương tiện tác động chính. Cũng như loại báo phát thanh, âm thanh
đây bao nói, hình cùng thanh gồm cả lời tiếng động âm nhạc. Kết hợp ảnh âm
sinh động đã tạo nên sức hấp dẫn của truyền hình với khán giả.
Tính đơn thoại trong giao tiếp
Đặc tính này đặc tính được hiểu ngôn ngữ của một người nói với hàng triệu
người, vì vậy có tác giả cho đây là một thứ ngôn ngữ độc thoại đặc biệt. Vì vậy đòi
hỏi người thực hiện cần lựa chọn phương tiện ngôn ngữ sao cho thỏa mãn sự tiếp
nhận của hàng triệu khán giả.
Tính khoảng cách
Khoảng đây cách là cách phát thanh viên khán khoảng giữa giả. Khán giả nhìn
thấy, hoặc không nhìn thấy PTV, BTV nhưng phát thanh viên không nhìn khán thấy
giả. PTV, BTV cần thể hiện những yếu tố phi ngôn ngữ giao tiếp như nét mặt, ánh
mắt, cử chỉ khi xuất hiện. Khi không xuất hiện thì tác giả, biên tập cần tìm kiếm
phương tiện ngôn ngữ thể hiện hiệu quả. Mặt khác tính khoảng cách còn thể hiện
trong việc tiếp nhận của khán giả. Họ thể hay bật tắt, tăng hay âm giảm âm tùy ý,
chắc chắn ngôn ngữ của chương trình dễ được tiếp nhận khi nó không bị phức tạp
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
11
hóa. Biên tập viên, phát thanh viên cần tốc độ đọc phù hợp, sự lôi cuốnphù
hợp nhất định.
Tính tức thời
ràng theo dõi chương trình khán giả tiếp nhận ngôn ngữ ngay trong thời điểm
phát sóng. Như vậy, một mặt tính tức thời và một mặt của ngôn ngữ truyền hình là
ngôn ng hội thoại đặc biệt. Cả hai chế định sự bắt buộc phải tiết kiệm phương tiện
thể hiện. Sử dụng ngôn ngữ hiệu quả sẽ đưa đến cho khán giả lượng thông tin lớn
hơn nhiều so với việc kéo dài thời lượng chương trình điều này đặc biệt phù hợp
trong chương trình thời sự.
Tính phổ cập
Cũng như ngôn ngữ phát thanh, ngôn ngữ truyền hình ngôn ngữ dành cho đám
đông. Đám đông ấy dân, khác nhau trình là các thành phần cư họ thể về lứa tuổi,
độ học vấn, trình độ văn hóa, thẩm mỹ ... Chắc chắn khán giả trong đám đông ấy chỉ
nghe (hoặc xem) chương trình một lần thoáng qua, không thể kéo chậm ngữ lưu
được nên cũng khó nói lại đầy đủ thông tin vừa tiếp nhận, đây yêu cầu đòi hỏi
công tác chuẩn bị văn bản truyền hình...
Nằm trong xu thế của báo chí hiện đại, ngôn ngữ Truyền hình luôn hướng tới sự hấp
dẫn để cạnh tranh trong cơ chế thị trường bằng cách kết hợp hài hoà giữa nội dung
thông tin độc giả, khán thính giả yêu cầu chủ yếu với những thông tin định
hướng cần thiết thông qua phương tiện quan trọng nhất đó là ngôn ngữ.
thể khẳng định, chương trình hình nói chung truyền thời s hình truyền kết
quả của một quá hiện gồm công đoạn, trong đó công đoạn đầu tiên trình thực nhiều
là phản ánh hiện thực, sáng tác các tác phẩm báo chí bằng ngôn ngữ.
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
12
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG
VIỆT TRÊN CÁC CHƯƠNG TRÌNH TRÒ CHƠI TRUYỀN HÌNH
1. Các khái niệm bản
1.1. Chương trình truyền hình và trình trò chương chơi truyền nh
1.1.1. Chương trình truyền hình
Thuật ngữ Chương trình là thuật ngữ xuất hiện sớm, gần như đồng thời với sự xuất
hiện của báo chí phát thanh và báo chí truyền hình.
Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng Anh: programme, program đều mang nghĩa nội
hàm là Chương trình.
Chương trình truyền hình được hiểusản phẩm cuối cùng của truyền hình, những
nội dung được phát sóng theo kế hoạch định kỳ của một ngày, một tuần hay một
tháng. Như vậy, chương truyền gần như tạo trình hình bao hàm cả quá trình sáng ra
một sản phẩm chung. Những tác phẩm riêng lẻ sẽ được tổ chức thành các chuyên
mục hoặc được sắp xếp theo một mẫu nào đó của đài để tạo nên các chương trình.
Các chương trình khi tồn tại đều có một sự định hình như: tên gọi, thời lượng, thời
gian phát sóng... Tên gọi của chương trình thể hiện chủ đề, mục đích chính của
chương trình như: chương trình thời sự, chương trình ca nhạc, chương trình thể thao,
chương trình giao lưu trò chuyện, chương trình trò chơi...
Như vậy, thuật ngữ Chương trình (programme, program) sự bao hàm nhiều vấn
đề: về nội dung, hình thức thể hiện, đối tượng hướng đến mục đích... Chính vì vậy,
chương trình một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực truyền hình
hiện nay.
1.1.2. Chương trình tchơi truyền hình Nam tại Việt
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
13
Ở Việt Nam, chương trình Trò chơi truyền
hình xuất hiện vào năm 1996, khi lần đầu
chương trình SV96 xuất hiện. Chương trình
đã ngay lập tức gây sự chú ý cho công
chúng, làm giới truyền hình chuyên nghiệp
Việt Nam lúc đó mới biết đến thuật ngữ
“Game Show Trò chơi truyền hình”. Từ đó, tất cả những chương trình xuất hiện -
trên truyền hình được thể hiện dưới dạng trò chơi đều được gọi là “Game Show”.
Tuy nhiên, chương trình trò chơi truyền hình hiện nay cũng nhiều sthay đổi,
các chương trình Trò chơi truyền hình vừa mang tính chất tranh đua, thi đấu vừa
mang tính chất giải trí. Thậm chí, theo xu thế chung ở một vài năm trở lại đây, các
chương trình Game Show mang nhiều tính giải trí. Thuật ngữ Trò chơi giải trí trên
truyền hình đã xuất hiện trong thời gian gần đây đã lý giải điều này.
Chương trình Trò chơi trên truyền hình thực sự bùng nổ trong vài năm trở lại đây
trên Truyền hình Việt Nam các đài truyền hình địa phương, Chương trình này
được xem chương trình trọng yếu của nhà Đài để thu hút khán giả, tăng tỷ lệ người
xem o truyền hình. Ch đến thời điểm này, Chỉ tính riêng Đài Truyền hình Việt Nam
(VTV) Đài Truyền hình TP Hồ C Minh (HTV), hiện nay khoảng 40
gameshow truyền hình các loại phát sóng mỗi tuần. Chưa kể, Đài Phát thanh - Truyền
hình Hà Nội, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và cả nhiều Đài phương PT-TH địa
đều có trình chiếu gameshow mua bản quyền phát sóng gameshow tự sản xuất.
Đài Truyền hình Việt Nam còn thành lập cả những ekip chuyên nghiệp chuyên làm
các chương trình Trò chơi truyền hình, đó Tiểu ban Trò chơi Gặp gỡ trên truyền
hình - “TV Show and TV Game”, hiện tại các phòng phụ trách chương trình
Gameshow (Phòng Gameshow 1, Phòng Gameshow 2..)
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
14
Các dạng chương
trình Trò chơi truyền
hình phổ biến Việt
Nam mang tính thi tìm
hiểu
kiến
thức
như:
“Đường lên đỉnh
Olympia”, “Đấu
trường
100”,
“Ai
triệu phú”, “Ai thông minh hơn học sinh lớp 5?”, “Trẻ em luôn đúng”, “Chiếc nón
kỳ diệu”, “SV 2012”, “Đuổi hình bắt chữ”...
Còn các chương trình Trò chơi mang nhiều tính giải trí, trong đó khán giả hoặc người
tham gia tham có thể gia biểu diễn để làm giải giả tại trường trí cho khán quay hoặc
qua màn ảnh nhỏ đang
xuất hiện nhiều như: rất
“Bước nhảy hoàn vũ”,
“Cặp đôi hoàn hảo”, “Việt
Nam next top model”,
Việt Nam Got talent”,
“The Voice”, “Song ca
cùng thần tượng”, “Hợp
ca tranh tài”, “Hát với ngôi sao”, “Người đi xuyên tường (Hole in the Wall)”, “Cuộc
thi tìm kiếm tài năng âm nhạc (X - Factor)”…
Như vậy, chúng ta thể thấy, các
chương trình Trò chơi truyền hình
đang phát triển cùng sôi động.
Mặc các chương trình này đều
được “nhập khẩu”, tức mua bản
quyền chương chơi các trình trò nổi
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
15
tiếng trên thế giới về. So với các dạng chương trình khác trên truyền hình, chương
trình Trò chơi truyền hình được công chúng quan tâm khá cao.
Về chương trình Trò chơi truyền hình, tác giả Tạ Bích Loan trong bài viết “Sức hấp
dẫn của thể loại trò chơi truyền hình” đã định nghĩa: “Trò chơi truyền hình trồng
thuật một cuộc trình diễn trong đó các thành viên tham gia vào thi một cuộc đấu
theo một luật lệ nhất định, được tổ chức ghi hình và đưa lên truyền hình sao cho
người xem dễ dàng theo dõi”.
Như vậy, trò chơi truyền hình là chương trình tường thuật lại “cuộc trình diễn” nào
đó mà những người tham gia phải “thi đấu theo luật lệ nhất định”. Cuộc trình diễn
lại mang tính chất tranh đua nên làm tăng độ hấp dẫn của chương trình, nhấttrong
xu hướng hiện nay, khi người tham gia chơi lại là những người nổi tiếng (phần lớn
họ đều thuộc giới nghệ sỹ, nhóm người vốn luôn công chúng quan tâm). Và được
những nghệ sỹ này cũng coi việc tham gia các Game Show truyền hình như những
hình thức quảng hình ảnh cùng hiệu quả, nên họ đã tham gia một cách nhiệt
tình, sự đầu không khác một chiến dịch quảng cáo hình ảnh bản thân.
người được lợi nhất là khán giả, họ được xem các trình hình chương truyền hấp dẫn,
mới mẻ và đầy hào hứng.
Các chương trình trò chơi đều có luật chơi, luật chơi tạo nên cao trào, thắt nút, mở,
kịch tính, sự hồi hộp, sự căng thẳng, sự may rủi thông qua những định quy trong trò
chơiđược bổ trợ bằng những yếu tố khác như sự dẫn dắt khéo léo của người điều
khiển chương trình - người dẫn chương trình hiệu quả từ các yếu tố khác như hình
ảnh, âm thanh, ánh sáng.
Chính vì những đặc điểm cuốn hút như vậy chương trình trò chơi truyền hình trở
thành các chương trình rất được công chúng đón xem.
1.2. Sự trong sáng của tiếng Việt trên các phương tiện truyền thông báo chí
phương tiện thông tin chúng luôn đại rất nhiều người s dụng; thêm vào đó,
chúng coi trong vẫn thường được mẫu mực việc sử dụng từ. thế ngôn Chính
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
16
các sai sót về mặt này của các phương tiện thông tin đại chúng rất nhanh chóng trở
thành sai sót chung của toàn xã hội. Và từ đây, nảy sinh một vấn đề khá quan trọng
nhưng chưa được quan tâm đúng mức: Vấn đề trách nhiệm của nhà báo trong việc
nói đúng viết đúng, nhằm góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, cũng
có nghĩa là góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong những năm trở lại đây, chính sự phát triển và hội nhập nhanh chóng của
thế giới mà khiến cho các kênh thông tin truyền thông dần dần phát triển mạnh mẽ
hơn nữa. Đómột lợi thế cho Việt Nam trong quá trình hội nhập với thế giới nhưng
bên cạnh đó cũng xuất hiện một số điểm đen trong qtrình phát triển các kênh
thông tin truyền thông, đặc biết là trên truyền hình một phương tiện truyền thông
thể nói nhiều công chúng nhất hiện nay. Một trong những vấn đề nổi trội
nhất đó là sự trong sáng của tiếng Việt dần bị mất đi.
2. Khảo sát thực tế
2.1. Sự ảnh hưởng của các chương trình trò chơi truyền hình đến công chúng
Khi thực hiện một khảo sát nhỏ trong phạm vi xung quanh, tôi đã được một số
liệu cụ thể về sự ảnh hưởng của các chương trình trò chơi truyền hình đến công
chúng như sau:
Người tham gia khảo sát chủ yếu sinh viên, chiếm 72% số người tham gia khảo
sát, thế hệ trẻ luôn chạy theo xu ớng, những người nhiều thời gian s dụng các
phương tiện truyền thông đại chúng nhất. Còn lại là học sinh, chiếm 16% và người
đã đi làm, chiếm 12%.
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
17
Khi hỏi về mức độ xem các trình gameshow trên chương truyềnnh, hơn 66,7%
số người trả lời rằng họ thường xuyên xem các chương trình trên sóng truyền hình.
Đây cũng một con số tương đối lớn trong thời đại công nghệ số phát triển như
hiện nay, phương tiện truyền thông thu hút công chúng nhất lại là Internet.
Trong số các chương trình truyền hình đang chiếu hiện nay trên Đài truyền hình Việt
Nam, chủ ở 2 kênh VTV1 và VTV3 thì kết quả hỏi về đặc biệt khảo sát khi được
chương trình truyền hình bạn hay dạo gần đây bao gồm xem 7 chương trình: “Ai là
triệu phú”, “Quán thanh xuân”, “Kí ức vui vẻ”, “Đường lên đỉnh Olympia”, “Điều
ước thứ 7”, “Nhóm nhảy siêu việt”, “Sàn chiến giọng hát”, “Thần tượng đối thần
tượng” đã thu được là:
Có thể thấy rõ trong biểu đồ, chương trình được quan tâm và theo dõi nhiều nhất là
“Ai triệu phú?”, một chương truyền trình hình nổi tiếng đã được phát sóng u rất
của Đài Truyền hình Việt Nam. Đây chương trình gameshow được mua bản quyền
từ gameshow đến từ Anh “Who Wants to Be a Millionaire?”, được phát sóng vào
mỗi tối thứ ba hàng tuần trên VTV3 từ 4 tháng 1 năm 2005. Không khó để đoán
được đây chương trình được ưa thích nhất bởi nhiều đối tượng bởi sự lâu dài trong
Nguyễn Anh Thư – Truyền hình K42 2256050046
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
18
phát sóng của nó. Bên cạnh đó, chương trình ít được quan tâm nhất đó chương
trình “Nhóm nhảy siêu việt” mới được phát sóng gần đây trên VTV3. Đây là một
chương trình mới, đối tượng công chúng lại là các bạn trẻ tuy nhiên vẫn chưa khả
năng thu hút được nhiều lượt quan tâm.
Khảo sát trên đây chỉ những khảo sát bphục vụ cho mục đích chính đó
khảo sát về vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên sóng các chương trình
trò chơi truyền hình nói chung của Đài Truyền hình Việt Nam nói riêng. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ của tiểu luận này, đđảm bảo về mặt dung lượng, em xin
phép chỉ khảo sát qua hai trình chương phổ biến hiện nay đó “Ai triệu phú?”
“Kí ức vui vẻ”. Khảo sát sẽ chỉ những ý kiến, quan điểm nhân về vấn đề của
đề tài.
2.2. Thực trạng sử dụng từ ngữ trong các chương trình trò chơi truyền hình
Trong khuôn khổ của tiểu luận nhằm đảm bảo việc khảo sát được chính xác nhát,
em xin phép chỉ khảo sát 2 chương trình có thể coi là phổ biến nhất hiện nay đó là
“Ai triệu phú?” “Kí ức vui vẻ mùa 3”. Mỗi chương trình khảo sát 2 tập phát
sóng gần đây nhất. Bài khảo sát sẽ chỉnhững ý kiến và quan điểm nhân về cách
sử dụng từ ngữ trong chương trình.
a. Chương trình “Ai triệu phú” phát sóng ngày 1/6/2021
Chương trình “Ai là triệu phú” phát sóng ngày 1/6/2021 chương trình phát sóng
số đặc biệt nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi mùng 1 tháng 6. Khách mời tham gia
chương trình các em thiếu nhi dưới 14 tuổi. Đây lứa tuổi đang phát triển về
| 1/33

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VIỆN BÁO CHÍ - TRUYỀN THÔNG
TIỂU LUẬN HỌC PHẦN: NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Họ và tên: Nguyễn Anh Thư Mã sinh viên: 2256050046 Lớp: Báo Truyền hình K42 Hà Nội, 2024
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí MỤC L ỤC
MỞ ĐẦU . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
1. Lý do lựa chọn đề tài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
2. Mục đích và nhiệm vụ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu và khảo sát . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
4. Phương pháp nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .4
5. Kết cấu tiểu luận . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
NỘI DUNG CHÍNH . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ L
Ý THUYẾT. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
1. Ngôn ngữ báo chí . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .5
2. Ngôn ngữ truyền hình . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ GIỮ GÌN S Ự TRONG SÁNG CỦ A TIẾNG VIỆT
TRÊN CÁC CHƯƠNG TRÌNH TRÒ CHƠI TRUYỀN HÌNH . . . . . . . . . . . 11
1. Các khái niệm cơ bản . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .11
2. Khảo sát thực tế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .15
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP GÓP PHẦN GIỮ GÌN SỰ TRONG
SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT TRÊN SÓNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
22
1. Nâng cao nhận thức của đội ngũ sản xuất các chương trình truyền hình về vai trò v
à ý nghĩa của việc giữ gì
n sự trong sáng của tiếng Việt. . 23
2. Nâng cao trình độ tiếng Việt cho đội ngũ sản xuất chương trình . . . . .24
3. Xây dựng một môi trường trong sáng, mẫu mực. . . . . . . . . . . . . . . . . . 26
KẾT LUẬN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 30 1
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội hiện nay, thông tin báo chí là một điều không thể thiếu hằng
ngày. Báo chí ra đời và phát triển mạnh mẽ cũng chính là nhờ sự phát triển của
ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là nền tảng cho mọi thể loại báo chí ra đời và phát triển
sớm nhất nhằm mang đến cho con người những thông tin mang tính sự kiện, kịp
thời và thiết thực. Hiện nay có rất nhiều loại hình báo chí khác nhau, nhưng không
một loại hình báo chí nào không sử dụng đến ngôn ngữ. Báo phát thanh truyền tải
thông tin đến công chúng qua ngôn ngữ nói, báo truyền hình truyền tải thông tin đến
công chúng qua ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, ngôn ngữ âm thanh và cả ngôn ngữ
hình ảnh, báo mạng điện tử truyền tải thông tin đến công chúng của ngôn ngữ viết là chủ yếu.
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong vài năm trở lại đây, con người chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ của truyền
thông thế kỷ 21 khi thực sự bùng nổ tạo ra những bước chuyển bất ngờ trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Truyền hình cũng không nằm ngoài sự thay đổi đó.
Mỗi loại hình báo chí đều có một thể loại ngôn ngữ riêng phù hợp với đặc thù của
mình. Ngày nay, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định, sức ảnh hưởng của báo chí là
vô cùng lớn, bởi thế là nó được mệnh danh là “quyền lực thứ tư” trong xã hội. Trong
thời đại bùng nổ thông tin mạnh mẽ như ngày nay, vấn đề ngôn ngữ báo chí truyền
hình không còn là một vấn đề mới, nó cũng đã được rất nhiều nhà nghiên cứu đào
sâu theo từng góc cạnh khác nhau và có một điều rằng không thể không ai có thể
phủ nhận được tầm quan trọng của báo chí truyền hình. Và điều đó dẫn đến vấn đề:
chưa bao giờ truyền hình rơi vào trạng thái cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Xuất
phát là một kênh truyền thông có sức mạnh đặc biệt trong việc điều hướng dư luận,
đến nay, truyền hình đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ nhiều kênh
truyền thông khác. Đây chính là nguyên nhân chính truyền hình phải có sự đột phá
nhất định. Dễ dàng nhận thấy, chưa bao giờ các kênh truyền hình lại nở rộ như hiện 2
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
nay. Các chương trình truyền hình mới liên 3
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
tục xuất hiện, tạo ra những món ăn tinh thần phong phú trước công chúng. Việc xây
dựng các chương trình truyền hình mang tính tương tác cao như trò chơi truyền hình
là một xu thế chung của truyền hình thế giới cũng như Việt Nam đã góp phần tạo
cho số lượng khán giả xem truyền hình tăng lên rất nhiều so với trước đây. Khản giả
trong bất kì một khung giờ nào đều có thể thấy một chương trình truyền hình trên
TV. Chính vì tần suất dày đặc như vậy mà vấn đề sử dụng từ ngữ trên các chương
trình truyền hình cũng vô cùng đáng lưu tâm. Dần dần, trong nhiều chương trình
truyền hình được phát trên đài quốc gia Việt Nam xuất hiện tương đối nhiều những
từ ngữ pha tạp, sự trong sáng của tiếng Việt mất đi trên sóng truyền hình. Điều đó
cho thấy rằng cần phải có một nghiên cứu cụ thể cho vấn đề sử dụng ngôn ngữ, giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên sóng truyền hình, đặc biệt là các chương trình
trò chơi truyền hình. Đó là lý do em chọn đề tài tiểu luận kết thúc môn học là “Vấn
đề
giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên các chương trình truyền hình tại Việt
Nam hiện nay (Khảo sát các chương trình truyền hình giải trí trên VTV)”
.
2. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích:
Mục đích của tiểu luận khảo sát này nhằm chỉ ra và làm rõ các lỗi dùng từ thường
gặp trong các chương trình truyền hình giải trí trên sóng đài truyền hình Việt Nam, đặc biệt l
à kênh VTV1 và VTV3, bàn v ềvấn đề sự trong sáng của tiếng Việt ở trong
đó và đưa ra một số ý kiến của bản thân tác giả.
Nhiệm vụ:
- Nêu rõ các khái niệm và đặc điểm về ngôn ngữ báo chí nói chung và ngôn
ngữ truyền hình nói riêng.
- Khảo sát một số các chương trình truyền hình giải trí trên VTV1 và VTV3 để thu thập tư liệu.
- Đưa ra thực trạng tổng quát về những biểu hiện của việc không giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt trong các chương trình truyền hình giải trí trên sóng
Đài Truyền hình Việt Nam. 4
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu v à khảo sát
Đối tượng nguyên cứu v à khảo sát:
Đối tượng nghiên cứu và khảo sát của đề tài là cách sử dụng từ ngữ trong một số
chương trình truyền hình giải trí trên sóng VTV1 và VTV3.
Phạm vi nghiên cứu v à khảo sá t
- Ai là triệu phú (01/06/2021)
- Kí ức vui vẻ mùa 3 tập 23
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, tức là tìm
hiểu các sách, báo, tạp chí, website hay video có liên quan để tổng hợp nội dung cần
thiết, chủ yếu thu thập tài liệu từ thông tin đại chúng. Ngoài ra trong quá trình làm
đề tài các phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phê
bình đều được sử dụng triệt để.
5. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo thì tiểu luận gồm 3 chương Nội dung chính.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên các chương trìnH truyền hình
Chương 3: Những giải pháp góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng việt trên
sóng các chương trình truyền hình 5
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1. Ngôn ngữ báo chí
1.1. Ngôn ngữ
o chí là gì?
Từ điển tiếng Việt giải nghĩa: “Ngôn ngữ l
à hệ thống những âm, những từ và những
quy tắc kết hợp chúng mà những người trong cũng một cộng đồng dùng làm phương
tiện giao tiếp với nhau”1
Trên báo chí phục vụ cho cách tiếp cận sự thật của báo chí. Dựa vào việc nghiên cứu
thực tế sử dụng ngôn ngữ trên các tác phẩm báo chí cụ thể mà có nhiều ý kiến về
khái niệm ngôn ngữ báo chí.
Theo sách Ngữ văn nâng cao lớp 11 tập 1: “Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ dùng để
thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và
dư luận quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.”2
Sách Thuật ngữ Báo chí - Truyền thông giải nghĩa: “Ngôn ngữ báo chí (jourmalistic
language) là ngôn ngữ đặc trưng cho quá trình chuyển tải thông tin báo chí”. 3Sách
này cũng giải thích thêm là sự đa dạng của thể loại báo chí dẫn đến sự đa dạng của ngôn ngữ báo chí.
Về vấn đề này, tác gi ả Nguyễn Thị Thoa v
à cộng sự trong Giáo trình Tác phẩm báo
chí đại cương đã đưa ra quan niệm: “Ngôn ngữ báo chí l àtoàn bộ các tín hiệu và các
quy tắc kết hợp chúng mà nhà báo dùng để chuyển tải thông tin trong tác phẩm báo chí”4. 1 T ừ
điển tiếng Việt (1995). NX B Đà Nẵng, tr.666 2 Ngữ văn nâng ca o lớp 11 (2007), NX Giáo B dục Việt Nam, tr tập 1, .173 3 Thuật báo c ngữ hí – thông (2007), Truyền NX
B Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.115
4 Giáo trình Tác phẩm báo chí đại cương (2012), NXB Giáo dục Việt Nam, tr.72 6
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
Dựa vào phần giải nghĩa trong Từ điển tiếng Việt, kết hợp với việc tham khảo các ý
kiến trước đó cùng thực tế báo chí hiện nay, có thể khái quát khái niệm ngôn ngữ
báo chí như sau: “Ngôn ngữ báo chí là hệ thống các thành tố (những âm, tiếng, từ,
kí hiệu, hình ảnh,...) và cách kết hợp chúng, nhằm chuyển tải thông tin báo chí đến
công chúng, để thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản ánh chính kiến
của cơ quan báo chí đó và dư luận quần chúng, nhằm mục tiêu thúc đẩy sự phát triển
văn minh của xã hội. Ngôn ngữ báo chí được sử dụng ở nhiều thể loại báo chí như
bản tin, phóng sự, bài phản ánh,….”
1.2. Đặc trưng của ngôn ngữ báo chí
• Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ sự kiện
Ngôn ngữ sự kiện là ngôn ngữ phản ánh nguyên dạng, trung thực những vấn đề thực tế đang diễn ra.
Ngôn ngữ sự kiện là phương tiện duy nhất để phản ánh của báo chí, đồng thời là tiêu
chí khu biệt các ngôn ngữ khác. Ngôn ngữ sự kiện bao giờ cũng được nhìn nhận
trong quy trình vận động của sự kiện, do đó cần chú ý tới mối quan hệ tương tác
giữa nội dung của ngôn ngữ sự kiện. Có thể nói ngôn ngữ sự kiện là tấm gương phản
chiếu những gì đang diễn ra.
Yêu cầu đối với nhà báo: phản ánh trung thực, khách quan sự kiện, phản ánh sự kiện
trong từng lát cắt, khía cạnh của nó.
• Ngôn ngữ báo chí l
à ngôn ngữ siêu ngôn ngữ
Theo nhà Ngôn ngữ học Nguyễn Tri Niên: “Siêu ngôn ngữ là cách diễn đạt phù hợp
với từng hoàn cảnh, từng đối tượng. Nó là phương thức diễn đạt thường trực của nhà
báo. Hay nói cách khác, ngôn ngữ trong tác phẩm báo chí là siêu ngôn ngữ. Siêu
ngôn ngữ giúp nhà báo phản ánh trung thực, chính xác và đảm bảo yêu cầu thông tin.” 7
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
Yêu cầu đối với nhà báo: Ngoài việc phản ánh chính xác, khác quan, trung thực sự
kiện, vấn đề, các nhà báo còn phải có sự linh hoạt trong sử dụng từ ngữ trong từng
câu văn để cho bài báo của mình thêm hấp dẫn.
• Ngôn ngữ báo chí l
à ngôn ngữ định lượng
Ngôn ngữ định lượng thực chất là sự phái sinh, sự cụ thể hóa của ngôn ngữ sự kiện.
Chính vì đòi hỏi phản ánh cụ thể, chính xác về sự kiện có thật và nguyên dạng đã
dẫn đến việc đòi hỏi phải coi trọng số lượng.
Yêu cầu đối với nhà báo: để bài báo nhận được sự tin cậy tuyệt đối của công chúng
thì việc sử dụng ngôn ngữ định lượng là cần thiết, nó giúp tăng độ chính xác cho bài
viết bằng viết sử dụng những số liệu cụ thể liên quan đến vấn đề, sự kiện.
2. Ngôn ngữ truyền hình
2.1. Ngôn ngữ
truyền hình là gì?
Trong ngôn ngữ báo chí nói chung c
ó bao gồm các dạng ngôn ngữ đặc trưng của các
loại hình báo in, báo phát thanh, báo mạng điện tử, báo truyền hình. Trong phạm vi
nghiên cứu bài tập này chúng ta sẽ tìm hiểu sâu về ngôn ngữ báo truyền hình và
những sai phạm sử dụng ngôn ngữ trên truyền hình. Trước tiên, chúng ta sẽ cùng đi
làm rõ khái niệm ngôn ngữ báo truyền hình là gì.
Ngôn ngữ truyền hình là "loại" ngôn ngữ tổng hợp, có ngôn ngữ viết như cho độc
giả báo in, có ngôn ngữ nói như cho thính giả phát thanh, hơn thế nữa, có "ngôn ngữ
hình ảnh" cho khán giả truyền hình. Đó chính là một ưu thế của truyền hình, truyền
tải cả hình ảnh và âm thanh cùng một lúc. Khác với báo in, người đọc chỉ tiếp nhận
bằng con đường thị giác, phát thanh bằng con đường thính giác, người xem truyền
hình tiếp cận sự kiện bằng cả thị giác và thính giác. Khảo sát cho thấy 70% lượng
thông tin con người thu được là qua thị giác và 20% qua thính giác. Do vậy truyền
hình trở thành một phương tiện cung cấp thông tin rất lớn, c ó độ tin cậy cao, c ó khả
năng làm thay đổi nhận thức của con người trước sự kiện 8
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
Đề tường thuật một sự kiện (đưa tin), cả ba phóng viên của ba loại báo chí trên đều
phải nêu những yếu tố cần và đủ của thể loại. Nhưng truyền hình đã có hình ảnh nên
không phải mô tả như báo viết và báo nói trời nắng hay mưa, tĩnh mịch hay ồn ào,
buồn rầu hay sung sướng...). Truyền hình lại giống phát thanh là có tiếng động hiện trường sự kiện.
Đi theo sự phát triển nhiều loại hình thông tin đại chúng, ngôn ngữ báo chí cũng tách
dần ra theo từng ngành riêng. Lợi thế rất lớn của truyền hình l
à hình ảnh sống động,
nên ngôn ngữ truyền hình không những phải bám sát các khuôn hình mà còn cần
biết gợi mở cảm xúc cho người xem. Tiếp nhận thông tin bằng mắt bao giờ cũng sâu
hơn, hiệu quả hơn bằng tai nghe. Ở truyền hình, công chúng vừa xem bằng mắt, vừa
nghe bằng tai, cho nên truyền hình có lợi thế hơn rất nhiều các loại hình báo chí khác.
Ngôn ngữ trên báo hình, báo nói (phát thanh - truyền hình) cơ bản giống ngôn ngữ
trên báo viết, đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu sử dụng ngôn ngữ chuẩn mực, chuẩn
phong cách ngôn ngữ báo chí. Nếu như thông tin trên báo in do câu chữ và hình ảnh
trong bài viết đưa lại thì thông tin trên báo hình là do hình ảnh cùng với lời đọc, lời
bình. Ngôn ngữ được sử dụng ở đây là ngôn ngữ viết dùng để đọc, vì vậy phải viết
sao cho khán thính giả kịp nghe, kịp hiểu khi nó tác động đến người nghe bằng âm
thanh. Chắc chắn ngôn ngữ tác động đến khán, thính giả bằng âm thanh sẽ khác với
ngôn ngữ viết. Nói đúng hơn thì ngôn ngữ viết và ngôn ngữ dùng để đọc có sự khác
biệt đáng kể về phương diện từ vựng, ngữ pháp và phong cách. Chính vì vậy ngôn
ngữ trong chương trình không chỉ mang tính thời sự m
à còn gây ấn tượng và đòi hỏi
giọng đọc cũng như từ ngữ phải có phong cách thân mật, tự nhiên. Chính v ìthế vấn
đề về sự phát âm, ngữ điệu, ngắt giọng... trên truyền hình cũng cần có sự quan tâm thỏa đáng.
Trên báo hình, bài nào cũng đọc cho mọi người, vì vậy nội dung cần phải đơn giản
hơn và chỉ có thể đ isâu vào một khía cạnh nào đó của vấn đề chứ không thể nói tất 9
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
cả các khía cạnh, ngóc ngách của vấn đề như báo viết. Như vậy thông tin trên báo hình s
ơ lược hơn và từ ngữ cần đơn giản hơn.
Như vậy có thể khái quát lại ngôn ngữ của báo truyền hình là: “Ngôn ngữ truyền
hình là ngôn ngữ dùng để truyền tải thông tin đến công chúng qua màn hình bao
gồm nhiều yếu tố ngôn ngữ hình ảnh và ngôn ngữ âm thanh.”
2.2. Đặc tính của ngôn ngữ truyền hình
Ngôn ngữ phát thanh - truyền hình mang các đặc tính sau:
• Tính đa dạng và phức thể của âm thanh
Dùng âm thanh truyền trên sóng để thể hiện ý nghĩa và khai thác các ngôn từ giàu
âm hưởng làm phương tiện tác động chính. Cũng như loại báo phát thanh, âm thanh
đây bao gồm cả lời nói, tiếng động v àâm nhạc. Kết hợp hình ảnh cùng âm thanh
sinh động đã tạo nên sức hấp dẫn của truyền hình với khán giả.
• Tính đơn thoại trong giao tiếp
Đặc tính này là đặc tính được hiểu là ngôn ngữ của một người nói với hàng triệu
người, vì vậy có tác giả cho đây là một thứ ngôn ngữ độc thoại đặc biệt. Vì vậy đòi
hỏi người thực hiện cần lựa chọn phương tiện ngôn ngữ sao cho thỏa mãn sự tiếp
nhận của hàng triệu khán giả.
• Tính khoảng cách
Khoảng cách ở đây là khoảng cách giữa phát thanh viên và khán giả. Khán giả nhìn
thấy, hoặc không nhìn thấy PTV, BTV nhưng phát thanh viên không nhìn thấy khán
giả. PTV, BTV cần thể hiện những yếu tố phi ngôn ngữ giao tiếp như nét mặt, ánh
mắt, cử chỉ khi xuất hiện. Khi không xuất hiện thì tác giả, biên tập cần tìm kiếm
phương tiện ngôn ngữ thể hiện hiệu quả. Mặt khác tính khoảng cách còn thể hiện
trong việc tiếp nhận của khán giả. H
ọ có thể bật hay tắt, tăng âm hay giảm âm tùy ý,
chắc chắn ngôn ngữ của chương trình dễ được tiếp nhận khi nó không bị phức tạp 10
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
hóa. Biên tập viên, phát thanh viên cần có tốc độ đọc phù hợp, có sự lôi cuốn và phù hợp nhất định.
• Tính tức thời
Rõ ràng theo dõi chương trình khán giả tiếp nhận ngôn ngữ ngay trong thời điểm
phát sóng. Như vậy, một mặt tính tức thời và một mặt của ngôn ngữ truyền hình là
ngôn ngữ hội thoại đặc biệt. C ảhai chế định sự bắt buộc phải tiết kiệm phương tiện
thể hiện. Sử dụng ngôn ngữ hiệu quả sẽ đưa đến cho khán giả lượng thông tin lớn
hơn nhiều so với việc kéo dài thời lượng chương trình – điều này đặc biệt phù hợp
trong chương trình thời sự.
• Tính phổ cập
Cũng như ngôn ngữ phát thanh, ngôn ngữ truyền hình là ngôn ngữ dành cho đám
đông. Đám đông ấy là các thành phần cư dân, họ có thể khác nhau v ề lứa tuổi, trình độ học vấn, trình đ
ộ văn hóa, thẩm mỹ . .Chắc chắn khán giả trong đám đông ấy chỉ
nghe (hoặc xem) chương trình một lần thoáng qua, không thể kéo chậm ngữ lưu
được nên cũng khó nói lại đầy đủ thông tin vừa tiếp nhận, đây là yêu cầu đòi hỏi
công tác chuẩn bị văn bản truyền hình...
Nằm trong xu thế của báo chí hiện đại, ngôn ngữ Truyền hình luôn hướng tới sự hấp
dẫn để cạnh tranh trong cơ chế thị trường bằng cách kết hợp hài hoà giữa nội dung
thông tin mà độc giả, khán thính giả yêu cầu là chủ yếu với những thông tin định
hướng cần thiết thông qua phương tiện quan trọng nhất đó là ngôn ngữ.
Có thể khẳng định, chương trình truyền hình nói chung và thời sự truyền hình là kết
quả của một quá trình thực hiện gồm nhiều công đoạn, trong đó công đoạn đầu tiên
là phản ánh hiện thực, sáng tác các tác phẩm báo chí bằng ngôn ngữ. 11
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG
VIỆT TRÊN CÁC CHƯƠNG TRÌNH TRÒ CHƠI TRUYỀN HÌNH
1. Các khái niệm cơ bản
1.1. Chương
trình truyền hình và chương trình trò chơi truyền hình
1.1.1. Chương trình truyền hình
Thuật ngữ Chương trình là thuật ngữ xuất hiện sớm, gần như đồng thời với sự xuất
hiện của báo chí phát thanh và báo chí truyền hình.
Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng Anh: programme, program đều mang nghĩa nội hàm là Chương trình.
Chương trình truyền hình được hiểu là sản phẩm cuối cùng của truyền hình, là những
nội dung được phát sóng theo kế hoạch định kỳ của một ngày, một tuần hay một
tháng. Như vậy, chương trình truyền hình gần như bao hàm cả quá trình sáng tạo ra
một sản phẩm chung. Những tác phẩm riêng lẻ sẽ được tổ chức thành các chuyên
mục hoặc được sắp xếp theo một mẫu nào đó của đài để tạo nên các chương trình.
Các chương trình khi tồn tại đều có một sự định hình như: tên gọi, thời lượng, thời
gian phát sóng... Tên gọi của chương trình thể hiện chủ đề, mục đích chính của
chương trình như: chương trình thời sự, chương trình ca nhạc, chương trình thể thao,
chương trình giao lưu trò chuyện, chương trình trò chơi...
Như vậy, thuật ngữ Chương trình (programme, program) là sự bao hàm nhiều vấn
đề: về nội dung, hình thức thể hiện, đối tượng hướng đến mục đích... Chính vì vậy,
chương trình là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực truyền hình hiện nay.
1.1.2. Chương trình trò chơi truyền hình tạ iViệt Nam 12
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
Ở Việt Nam, chương trình Trò chơi truyền
hình xuất hiện vào năm 1996, khi lần đầu
chương trình SV96 xuất hiện. Chương trình
đã ngay lập tức gây sự chú ý cho công
chúng, giới làm truyền hình chuyên nghiệp
ở Việt Nam lúc đó mới biết đến thuật ngữ
“Game Show - Trò chơi truyền hình”. Từ đó, tất cả những chương trình xuất hiện
trên truyền hình được thể hiện dưới dạng trò chơi đều được gọi là “Game Show”.
Tuy nhiên, chương trình trò chơi truyền hình hiện nay cũng có nhiều sự thay đổi,
các chương trình Trò chơi truyền hình vừa mang tính chất tranh đua, thi đấu vừa
mang tính chất giải trí. Thậm chí, theo xu thế chung ở một vài năm trở lại đây, các
chương trình Game Show mang nhiều tính giải trí. Thuật ngữ Trò chơi giải trí trên
truyền hình đã xuất hiện trong thời gian gần đây đã lý giải điều này.
Chương trình Trò chơi trên truyền hình thực sự bùng nổ trong vài năm trở lại đây
trên Truyền hình Việt Nam và các đài truyền hình địa phương, Chương trình này
được xem là chương trình trọng yếu của nhà Đài để thu hút khán giả, tăng tỷ lệ người
xem truyền hình. Cho đến thời điểm này, Chỉ tính riêng Đài Truyền hình Việt Nam
(VTV) và Đài Truyền hình TP Hồ Chí Minh (HTV), hiện nay có khoảng 40
gameshow truyền hình các loại phát sóng mỗi tuần. Chưa kể, Đài Phát thanh - Truyền
hình Hà Nội, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và cả nhiều Đài PT-TH địa phương
đều có trình chiếu gameshow mua bản quyền phát sóng và gameshow tự sản xuất.
Đài Truyền hình Việt Nam còn thành lập cả những ekip chuyên nghiệp chuyên làm
các chương trình Trò chơi truyền hình, đó là Tiểu ban Trò chơi và Gặp gỡ trên truyền
hình - “TV Show and TV Game”, hiện tại là các phòng phụ trách chương trình
Gameshow (Phòng Gameshow 1, Phòng Gameshow 2. ) 13
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí Các dạng chương trình Trò chơi truyền hình phổ biến ở Việt Nam mang tính thi tìm hiểu kiến thức như: “Đường lên đỉnh Olympia”, “Đấu trường 100”, “Ai là
triệu phú”, “Ai thông minh hơn học sinh lớp 5?”, “Trẻ em luôn đúng”, “Chiếc nón
kỳ diệu”, “SV 2012”, “Đuổi hình bắt chữ”. .
Còn các chương trình Trò chơi mang nhiều tính giải trí, trong đó khán giả hoặc người tham gia c
ó thể tham gia biểu diễn để làm giải trí cho khán giả tại trường quay hoặc qua màn ảnh nhỏ đang
xuất hiện rất nhiều như:
“Bước nhảy hoàn vũ”,
“Cặp đôi hoàn hảo”, “Việt Nam next top model”, “ Việt Nam Got talent”, “The Voice”, “Song ca
cùng thần tượng”, “Hợp
ca tranh tài”, “Hát với ngôi sao”, “Người đi xuyên tường (Hole i n the Wall)”, “Cuộc
thi tìm kiếm tài năng âm nhạc (X - Factor)”…
Như vậy, chúng ta có thể thấy, các
chương trình Trò chơi truyền hình
đang phát triển vô cùng sôi động.
Mặc dù các chương trình này đều
được “nhập khẩu”, tức là mua bản
quyền các chương trình trò chơi nổi 14
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
tiếng trên thế giới về. So với các dạng chương trình khác trên truyền hình, chương
trình Trò chơi truyền hình được công chúng quan tâm khá cao.
Về chương trình Trò chơi truyền hình, tác giả Tạ Bích Loan trong bài viết “Sức hấp
dẫn của thể loại trò chơi truyền hình” đã định nghĩa: “Trò chơi truyền hình trồng
thuật một cuộc trình diễn m
à trong đó các thành viên tham gia vào một cuộc thi đấu
theo một luật lệ nhất định, được tổ chức ghi hình và đưa lên truyền hình sao cho
người xem dễ dàng theo dõi”.
Như vậy, trò chơi truyền hình là chương trình tường thuật lại “cuộc trình diễn” nào
đó mà những người tham gia phải “thi đấu theo luật lệ nhất định”. Cuộc trình diễn
lại mang tính chất tranh đua nên làm tăng độ hấp dẫn của chương trình, nhất là trong
xu hướng hiện nay, khi người tham gia chơi lại là những người nổi tiếng (phần lớn
họ đều thuộc giới nghệ sỹ, là nhóm người vốn luôn được công chúng quan tâm). Và
những nghệ sỹ này cũng coi việc tham gia các Game Show truyền hình như những
hình thức quảng bá hình ảnh vô cùng hiệu quả, nên họ đã tham gia một cách nhiệt
tình, có sự đầu tư không khác gì một chiến dịch quảng cáo hình ảnh bản thân. Và
người được lợi nhất là khán giả, họ được xem các chương trình truyền hình hấp dẫn,
mới mẻ và đầy hào hứng.
Các chương trình trò chơi đều có luật chơi, luật chơi tạo nên cao trào, thắt nút, mở,
kịch tính, sự hồi hộp, sự căng thẳng, sự may rủi thông qua những qu y định trong trò
chơi và được bổ trợ bằng những yếu tố khác như sự dẫn dắt khéo léo của người điều
khiển chương trình - người dẫn chương trình và hiệu quả từ các yếu tố khác như hình ảnh, âm thanh, ánh sáng.
Chính vì những đặc điểm cuốn hút như vậy mà chương trình trò chơi truyền hình trở
thành các chương trình rất được công chúng đón xem.
1.2. Sự trong sáng của tiếng Việt trên các phương tiện truyền thông báo chí
Có phương tiện thông tin đại chúng luôn có rất nhiều người sử dụng; thêm vào đó,
chúng vẫn thường được coi là mẫu mực trong việc sử dụng ngôn từ. Chính vì thế 15
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
các sai sót về mặt này của các phương tiện thông tin đại chúng rất nhanh chóng trở
thành sai sót chung của toàn xã hội. Và từ đây, nảy sinh một vấn đề khá quan trọng
nhưng chưa được quan tâm đúng mức: Vấn đề trách nhiệm của nhà báo trong việc
nói đúng và viết đúng, nhằm góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, và cũng
có nghĩa là góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong những năm trở lại đây, chính vì sự phát triển và hội nhập nhanh chóng của
thế giới mà khiến cho các kênh thông tin truyền thông dần dần phát triển mạnh mẽ
hơn nữa. Đó là một lợi thế cho Việt Nam trong quá trình hội nhập với thế giới nhưng
bên cạnh đó cũng xuất hiện một số điểm đen trong quá trình phát triển các kênh
thông tin truyền thông, đặc biết là trên truyền hình – một phương tiện truyền thông
có thể nói là có nhiều công chúng nhất hiện nay. Một trong những vấn đề nổi trội
nhất đó là sự trong sáng của tiếng Việt dần bị mất đi. 2. Khảo sát thực tế
2.1. Sự ảnh hưởng của các chương trình trò chơi truyền hình đến công chúng
Khi thực hiện một khảo sát nhỏ trong phạm vi xung quanh, tôi đã có được một số
liệu cụ thể về sự ảnh hưởng của các chương trình trò chơi truyền hình đến công chúng như sau:
Người tham gia khảo sát chủ yếu là sinh viên, chiếm 72% số người tham gia khảo
sát, thế hệ trẻ luôn chạy theo xu hướng, những người có nhiều thời gian sử dụng các
phương tiện truyền thông đại chúng nhất. Còn lại là học sinh, chiếm 16% và người đã đi làm, chiếm 12%. 16
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
Khi hỏi về mức độ xem các chương trình gameshow trên truyền hình, có hơn 66,7%
số người trả lời rằng họ thường xuyên xem các chương trình trên sóng truyền hình.
Đây cũng là một con số tương đối lớn trong thời đại công nghệ số phát triển như
hiện nay, phương tiện truyền thông thu hút công chúng nhất lại là Internet.
Trong số các chương trình truyền hình đang chiếu hiện nay trên Đài truyền hình Việt
Nam, chủ đặc biệt là ở 2 kênh VTV1 và VTV3 thì kết quả khảo sát khi được hỏi về
chương trình truyền hình bạn hay xem dạo gần đây bao gồm 7 chương trình: “Ai là
triệu
phú”, “Quán thanh xuân”, “Kí ức vui vẻ”, “Đường lên đỉnh Olympia”, “Điều
ước thứ 7”, “Nhóm nhảy siêu việt”, “Sàn chiến giọng hát”, “Thần tượng đối thần

tượng” đã thu được là:
Có thể thấy rõ trong biểu đồ, chương trình được quan tâm và theo dõi nhiều nhất là
“Ai là triệu phú?”, một chương trình truyền hình nổi tiếng đã được phát sóng rất lâu
của Đài Truyền hình Việt Nam. Đây chương trình gameshow được mua bản quyền
từ gameshow đến từ Anh “Who Wants to Be a Millionaire?”, được phát sóng vào
mỗi tối thứ ba hàng tuần trên VTV3 từ 4 tháng 1 năm 2005. Không khó để đoán
được đây là chương trình được ưa thích nhất bởi nhiều đối tượng bởi sự lâu dài trong 17
Nguyễn Anh Thư – 2256050046 Truyền hình K42
Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí
phát sóng của nó. Bên cạnh đó, chương trình ít được quan tâm nhất đó là chương
trình “Nhóm nhảy siêu việt” mới được phát sóng gần đây trên VTV3. Đây là một
chương trình mới, đối tượng công chúng lại là các bạn trẻ tuy nhiên vẫn chưa c ó khả
năng thu hút được nhiều lượt quan tâm.
Khảo sát trên đây chỉ là những khảo sát sơ bộ phục vụ cho mục đích chính đó là
khảo sát về vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên sóng các chương trình
trò chơi truyền hình nói chung và của Đài Truyền hình Việt Nam nói riêng. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ của tiểu luận này, để đảm bảo về mặt dung lượng, em xin
phép chỉ khảo sát qua hai chương trình phổ biến hiện nay đ
ó là “Ai là triệu phú?” và
“Kí ức vui vẻ”. Khảo sát sẽ chỉ là những ý kiến, quan điểm cá nhân về vấn đề của đề tài.
2.2. Thực trạng sử dụng từ ngữ trong các chương trình trò chơi truyền hình
Trong khuôn khổ của tiểu luận và nhằm đảm bảo việc khảo sát được chính xác nhát,
em xin phép chỉ khảo sát 2 chương trình có thể coi là phổ biến nhất hiện nay đó là
“Ai là triệu phú?” và “Kí ức vui vẻ mùa 3”. Mỗi chương trình khảo sát 2 tập phát
sóng gần đây nhất. Bài khảo sát sẽ chỉ là những ý kiến và quan điểm cá nhân về cách
sử dụng từ ngữ trong chương trình.
a. Chương trình “Aitriệu phú” phát sóng ngày 1/6/2021
Chương trình “Ai là triệu phú” phát sóng ngày 1/6/2021 là chương trình phát sóng
số đặc biệt nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi mùng 1 tháng 6. Khách mời tham gia
chương trình là các em thiếu nhi dưới 14 tuổi. Đây là lứa tuổi đang phát triển về 18