Preview text:
lOMoAR cPSD| 30964149 lOMoAR cPSD| 30964149 TÂY Nguyên - hhh
Văn hóa du lịch (Đại học Sư phạm Đà Nẵng - Đại học Đà Nẵng) lOMoAR cPSD| 30964149
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG KHOA LỊCH SỬ ----*******---- ĐỀ TÀI
Vùng văn hóa Tây Nguyên NHÓM 3
Thành Viên : Lê Nguyễn Thanh Mai Nguyễn Văn Tây Lê Nam Hưng Hồ Quỳnh Thơ
Trương Phú Ngọc Khuê Hồ Huy Thiện
Nguyễn Huỳnh Minh Mẫn Ngô Phan Văn Quân Phan Văn Long lOMoAR cPSD| 30964149
I. Khái quát chung về vùng văn hóa Tây Nguyên
1. Điều kiện tự nhiên 1.1. Vị trí
-Tây Nguyên là vùng cao nguyên, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông
giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
Thuận, phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, phía tây giáp với các tỉnh
Attapeu (Lào) và Ratanakiri và Mondulkiri (Campuchia). Trong khi Kon Tum có
biên giới phía tây giáp với cả Lào và Campuchia, thì Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk
Nông chỉ có chung đường biên giới với Campuchia. Còn Lâm Đồng không có
đường biên giới quốc tế. Đây là vị trí địa lý rất đặc biệt, là điểm nối giữa ba quốc
gia Việt Nam, Lào và Campuchia, với khả năng mở rộng giao lưu kinh tế và văn
hóa giữa các quốc gia trong tiểu vùng sông Mê Kông.
-Thực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là một loạt
cao nguyên liền kề. Đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500m, cao nguyên
Kon Plông, cao nguyên Kon Hà Nừng, Plâyku cao khoảng 800m, cao nguyên
M'Drăk cao khoảng 500m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao khoảng 500m, Mơ
Nông cao khoảng 800-1000m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500m và cao
nguyên Di Linh cao khoảng 900-1000m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao
bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao (chính là Trường Sơn Nam).
-Tây Nguyên lại có thể chia thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba tiểu
vùng khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon Tum và Gia Lai,
trước là một tỉnh), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk và Đắk
Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Trung Tây Nguyên có
độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam.
-Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500m đến 600m so với
mặt biển, Tây Nguyên rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao,
hồ tiêu, dâu tằm. Cây điều và cây cao su cũng đang được phát triển tại đây. Cà phê
là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Tây Nguyên cũng là vùng
trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ. Và đang tiến hành khai thác Bô xít. lOMoAR cPSD| 30964149
Tây Nguyên cũng là khu vực ở Việt Nam còn nhiều diện tích rừng với thảm sinh
vật đa dạng, trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác và tiềm năng
du lịch lớn, Tây nguyên có thể coi là mái nhà của miền trung, có chức năng phòng
hộ rất lớn. Tuy nhiên, nạn phá rừng, hủy diệt tài nguyên thiên nhiên và khai thác
lâm sản bừa bãi chưa ngăn chận được tại đây có thể dẫn đến nguy cơ làm nghèo
kiệt rừng và thay đổi môi trường sinh thái.
-Tây Nguyên là vùng đất đa dạng về địa hình, với các đồi núi, cao nguyên, thung
lũng, thác nước và hồ nước. Đây là một trong những vùng đất giàu tài nguyên thiên
nhiên của Việt Nam. Khí hậu ở đây khô hạn, mát mẻ và ôn đới, thích hợp cho
nhiều loại cây trồng và động vật sống. Tuy nhiên, Tây Nguyên là vùng đất duy
nhất không tiếp giáp với biển.
-Với vị trí địa lý đặc biệt, Tây Nguyên có vai trò chiến lược quan trọng về kinh
tế và an ninh quốc phòng của Việt Nam. Nơi đây là cầu nối giữa Việt Nam với Lào
và Campuchia, mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế cho vùng
đất này. Ngoài ra, Tây Nguyên còn có năng lực phát triển du lịch rất lớn, với nhiều
điểm đến hấp dẫn như khu du lịch Đà Lạt, đền Pô Nagar, thác Dambri và cảnh
quan độc đáo của các khu rừng nguyên sinh. 1.2. Địa hình
- Tây Nguyên không phải là cao nguyên duy nhất mà là vùng cao nguyên gồm 9
cao nguyên liền kề. Đó là cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500 mét, cao nguyên
Kon Plông, Kon Hà Nừng, Pleiku cao khoảng 800 m, cao nguyên M'Drăk cao
khoảng 500 m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao khoảng 500m, cao nguyên Mơ
Nông cao khoảng 800–1000m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500m và cao
nguyên Di Linh cao khoảng 900–1000 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao
bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao chính là Trường Sơn Nam.
- Địa hình của Tây Nguyên đặc trưng với bề mặt các cao nguyên xếp tầng rộng
lớn, khá bằng phẳng, tạo điều kiện thuận lợi cho hình thành các vùng quy canh quy
mô lớn. Tây Nguyên còn có diện tích đất ba dan lớn nhất cả nước, thích hợp với
cây công nghiệp nhiệt đới như cà phê, cao su, hồ tiêu. Nhờ đó, khu vực này đang
trở thành một trong những trung tâm sản xuất cây công nghiệp quan trọng của Việt Nam. lOMoAR cPSD| 30964149
- Ở về phía Tây của dãy Trường Sơn, bề mặt địa hình dốc thoải dần từ Đông
sang Tây, đón gió Tây nhưng ngăn chặn gió Đông Nam thổi vào. Địa hình chia cắt
phức tạp có tính phân bậc rõ ràng, bao gồm:
+ Địa hình cao nguyên là địa hình đặc trưng nhất của vùng, tạo lên bề mặt
của vùng. Dạng địa hình này thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp với qui mô lớn.
+ Địa hình vùng núi.
+ Địa hình thung lũng chiếm diện tích không lớn; chủ yếu phát triển cây
lương thực, thực phẩm và nuôi cá nước ngọt.
- “Mái nhà của bán đảo Đông Dương” chính là cụm từ dùng để ví vùng kinh
tế Tây Nguyên. Bởi đây là vùng có địa hình cao, gồm các cao nguyên xếp tầng
(600- 800m so với mực nước biển).
- Có nhiều sông chảy về các vùng lân cận, là nơi bắt nguồn của các con sông lớn
như Đồng Nai, sông Ba, sông Xêxan… 1.3. Khí hậu
- Nằm trong vùng nhiệt đới Xavan, gồm nhiều tiểu vùng nhưng khí hậu phổ biến
là nhiệt đới gió mùa cao nguyên. Khí hậu ở Tây Nguyên được chia làm hai mùa rõ
rệt: Mùa mưa (từ tháng 5 đến hết tháng 10) và Mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4),
trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và khô nhất. Do ảnh hưởng của độ
cao nên trong khi ở các cao nguyên cao 400–500 m khí hậu tương đối mát và mưa
nhiều, riêng cao nguyên cao trên 1000 m thì khí hậu lại mát mẻ quanh năm, đặc
điểm của khí hậu núi cao. Đặc biệt, dưới sự ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc ở
Đông Trường Sơn mà mùa khô ở vùng Tây Nguyên vô cùng khó chịu và gay gắt.
- Chịu ảnh hưởng của khí hậu cận xích đạo; nhiệt độ trung bình năm khoảng
20oC điều hoà quanh năm biên độ nhiệt ngày và đêm chênh lệch cao trên 5,5oC.
- Do sự khác biệt về độ cao, khí hậu ở cao nguyên nên khi đạt độ cao khoảng
500m sẽ tương đối mát mẻ và có mưa, ở vị trí cao hơn như cao nguyên với độ cao
1000m là thời tiết Đà Lạt thì mát mẻ quanh năm, đặc trưng của vùng có khí hậu núi
cao. Trung Tây Nguyên như thời tiết Đắk Lắk và thời tiết Đắk Nông thì có độ cao
thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam. lOMoAR cPSD| 30964149 1.4. Sông ngòi
- Tây Nguyên có mạng lưới sông ngòi dày đặc và đây cũng là nơi khởi nguồn
của 4 hệ thống sông chính, gồm:
+ Hệ thống sông Pô Kô-Sê San ở Kon Tum đổ về sông Mê Kông.
+ Hệ thống sông Ba-Ayun ở Gia Lai đổ vào sông Đà Rằng chảy ra biển Đông.
+ Hệ thống sông Sêrêpôk ở Đắk Lắk đổ vào sông Mê Kông.
+ Hệ thống sông Đồng Nai ở Đắk Nông và Lâm Đồng chảy ra biển Đông.
2. Lịch sử hình thành và phát triển
- Quá trình lịch sử hình thành và phát triển của Tây Nguyên, từ xưa vốn là vùng
đất tự trị, địa bàn sinh sống của các bộ tộc thiểu số, chưa phát triển thành một quốc
gia hoàn chỉnh, chỉ có những quốc gia mang tính chất sơ khai của người Ê Đê , Gia
Rai, Mạ... Tháng 2 năm Tân Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 2 (1471), vua Lê Thánh
Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, phá được thành Chà Bàn, bắt sống vua
Champa là Trà Toàn, sáp nhập 3 phần 5 lãnh thổ Champa thời đó vào Đại Việt.
Hai phần Champa còn lại, được Lê Thánh Tông chia thành các tiểu quốc nhỏ thuần phục Đại Việt.
- Phần đất Phan Lung (tức Phan Rang ngày nay) do viên tướng Chăm là Bồ Trì
trấn giữ, được vua Lê coi là phần kế thừa của vương quốc Chiêm Thành. Một phần
đất nay là tỉnh Phú Yên, Lê Thánh Tông phong cho Hoa Anh vương tạo nên nước
Nam Hoa. Vùng đất phía Tây núi Thạch Bi, tức miền bắc Tây Nguyên ngày nay
được lập thành nước Nam Bàn, vua nước này được phong là Nam Bàn vương.
- Sau khi Chúa Nguyễn Hoàng xây dựng vùng cát cứ phía Nam, các chúa
Nguyễn ra sức loại trừ các ảnh hưởng còn lại của Champa và cũng phái một số sứ
đoàn để thiết lập quyền lực ở khu vực Tây Nguyên. Các bộ tộc thiểu số ở đây dễ
dàng chuyển sang chịu sự bảo hộ của người Việt. Tuy nhiên, các bộ tộc ở đây vẫn
còn manh mún và mục tiêu của các chúa Nguyễn nhắm trước đến các vùng đồng
bằng, nên chỉ thiết lập quyền lực rất lỏng lẻo ở đây. Trong một số tài liệu vào thế
kỷ 16, 17 đã có những ghi nhận về các bộ tộc Mọi Đá Vách (Hré), Mọi Hời (Hroi,
Kor, Bru, Ktu và Pacoh), Mọi Đá Hàm (Djarai), Mọi Bồ Nông (Mnong) và Bồ Van
(Rhadé Epan), Mọi Vị (Raglai) và Mọi Bà Rịa (Mạ) để chỉ các bộ tộc thiểu số sinh
trú ở vùng Nam Tây Nguyên ngày nay. lOMoAR cPSD| 30964149
- Tuy sự ràng buộc lỏng lẻo, nhưng về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn
thuộc phạm vi bảo hộ của các chúa Nguyễn. Thời nhà Tây Sơn, rất nhiều chiến
binh thuộc các bộ tộc thiểu số Tây Nguyên gia nhập quân Tây Sơn, đặc biệt với đội
tượng binh nổi tiếng trong cuộc hành quân của Quang Trung tiến công ra Bắc xuân
Kỷ Dậu (1789). Tây Sơn thượng đạo, vùng đất phía Tây đèo An Khê là một căn cứ
chuẩn bị lực lượng cho quân Tây Sơn thủơ ban đầu. Người lãnh đạo việc hậu cần
này của quân Tây Sơn là người vợ dân tộc Ba Na của Nguyễn Nhạc. *Thời nhà Nguyễn:
- Sang đến triều nhà Nguyễn, quy chế bảo hộ trên danh nghĩa dành cho Tây
Nguyên vẫn không thay đổi nhiều, mặc dù vua Minh Mạng có đưa phần lãnh thổ
Tây Nguyên vào bản đồ Việt Nam (Đại Nam nhất thống toàn đồ - 1834). Người
Việt vẫn chú yếu khai thác miền đồng bằng nhiều hơn, đặc biệt ở các vùng miền
Đông Nam Bộ ngày nay, đã đẩy các bộ tộc thiểu số bán sơn địa lên hẳn vùng Tây
Nguyên (như trường hợp của bộ tộc Mạ).
- Trong cuốn Đại Việt địa dư toàn biên, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có viết:
Thủy Xá, Hỏa Xá ở ngoài cõi Nam Bàn nước Chiêm Thành. Bấy giờ trong Thượng
đạo tỉnh Phú An có núi Bà Nam rất cao. Thủy Xá ở phía Đông núi ấy,... Hỏa Xá ở
phía Tây núi ấy, phía Tây tiếp giáp với xứ Sơn Bốc sở nam nước Chân Lạp, phía
Nam thì là Lạc man (những tộc người du cư). Phía trên là sông Đại Giang, phía
dưới là sông Ba Giang làm giới hạn bờ cõi hai nước ấy ...
- Năm 1863 vua Tự Đức lập đơn vị sơn phòng để củng cố và bình định vùng sơn
cước của ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Tuy mục đính chính là
quân sự nhưng cơ sở sơn phòng sau biến thành mạch giao thương giữa miền xuôi
và miền núi qua trung gian các thuộc lái trong khi quan lại kiểm soát việc thu thuế.
Việc nhũng nhiễu của lái buôn và lạm thu của giới quan liêu khiến người Thượng
vì bị bức bách, đã tràn xuống miền xuôi cướp phá nhiều đợt. Quan quân phải truy
đuổi đánh dẹp. Hệ thống sơn phòng tồn tại sang thời Pháp thuộc đến năm 1905 thì
chính quyền Bảo hộ ra lệnh bãi bỏ và người Pháp trực tiếp cai trị vùng Cao nguyên.
3. Điều kiện Kinh tế - Xã hội và dân cư
3.1. Kinh tế - Xã hội:
- So với các vùng khác trong cả nước, điều kiện kinh tế - xã hội của Tây Nguyên
có nhiều khó khăn, như là thiếu lao động lành nghề, cơ sở hạ tầng kém phát triển,
sự chung đụng của nhiều sắc dân trong một vùng đất nhỏ và với mức sống còn
thấp. Tuy nhiên, Tây Nguyên có lợi điểm về tài nguyên thiên nhiên. Tây Nguyên lOMoAR cPSD| 30964149
có đến 2 triệu hecta đất bazan màu mỡ, tức chiếm đến 60% đất bazan cả nước, rất
phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm, trà. Cà
phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Diện tích cà phê ở Tây
Nguyên hiện nay là hơn 290 nghìn ha, chiếm 4/5 diện tích cà phê cả nước. Đắk
Lắk là tỉnh có diện tích cà phê lớn nhất (170 nghìn ha) và cà phê Buôn Ma Thuột
nổi tiếng có chất lượng cao. Tây Nguyên cũng là vùng trồng cao su lớn thứ hai sau
Đông Nam Bộ, chủ yếu tại Gia Lai và Đắk Lắk. Tây Nguyên còn là vùng trồng dâu
tằm, nuôi tằm tập trung lớn nhất nước ta, nhiều nhất là ở Bảo Lộc Lâm Đồng. Ở
đây có liên hiệp các xí nghiệp ươm tơ xuất khẩu lớn nhất Việt Nam. 3.2. Dân cư:
-Số dân: hơn 4,4 triệu người (năm 2002), trong đó đồng bào dân tộc ít người
chiếm khoảng 30% dân số, bao gồm các dân tộc: Gia-rai, Ê-đê, Ba-na, Mnông, Cơ-
ho,... Dân tộc Kinh phần lớn sinh sống ở các đô thị, ven đường giao thông và các
nông, lâm trường. Ngoài ra, còn một số dân tộc mới nhập cư từ các vùng khác tới.
Các dân lộc có truyền thống đoàn kết, đấu tranh cách mạng kiên cường, có bản sắc
văn hoá phong phú với nhiều nét đặc thù.
-Mật độ dân số khoảng 81 người/km2 (năm 2002), Tây Nguyên hiện là vùng
thưa dân nhất nước ta, nhưng phân bố không đều; các đô thị, ven trục đường giao
thông có mật độ cao hơn.
-Trong nhiều chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hôi, Tây Nguyên vẫn còn là vùng khó khăn của đất nước.
-Các chỉ tiêu tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên của dân số, tỉ lệ hộ nghèo, thu nhập
bình quân đầu người một tháng cao hơn mức bình quân của cả nước. Các chỉ tiêu
mật độ dân số, tỉ lệ người lớn biết chữ, tuổi thọ trung bình thấp hơn mức bình quân của cả nước.
-Nhờ những thành tựu của công cuộc đổi mới, điều kiện sống của các dân tộc ở
Tây Nguyên được cải thiện đáng kể.
-Tăng cường đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, cải thiện
đời sống của dân cư, đặc biệt là của đồng bào các dân tộc ít người và ổn định chính
trị xã hội là mục tiêu hàng đầu trong các dự án phát triển ở Tây Nguyên.
II. Đặc trưng văn hóa vùng Tây Nguyên lOMoAR cPSD| 30964149
1. Văn hóa vật thể 1.1. Nhà ở
- Nhà rông là một trong những nét đặc trưng văn hóa nổi bật của đồng bào dân
tộc cư ngụ tại Tây Nguyên. Đây là nơi diễn ra toàn sinh hoạt cộng đồng của buôn làng.
- Bên cạnh đó, nhà Rông Tây Nguyên còn thể hiện sự kết nối tâm linh trong
cộng đồng và truyền đạt cho thế hệ trẻ về những giá trị văn hóa truyền thống.
- Loại hình nhà văn hóa này thường được bắt gặp tại các buôn làng người dân
tộc Ba Na, Gia Rai ở phía Bắc vùng Tây Nguyên. Đặc biệt là ở tỉnh Kon Tum và Gia Lai.
- Tại Việt Nam, nhà Rông ở Tây Nguyên còn được biết đến là một sản phẩm
kiến trúc phi vật thể truyền thống của dân tộc. Đây là đặc trưng văn hóa tốt đẹp
được lưu truyền qua nhiều thế hệ đồng bào dân tộc.Nhà Rông rất nét văn hóa rất
quan trọng đối với mỗi người dân Tây Nguyên. Vì vậy việc xây dựng nhà Rông là
thiêng liêng đối với họ. Trong đó, vị trí đặt nhà Rông được xem là yếu tố quan
trọng hàng đầu khi xây dựng.
- Bên cạnh đó, những nghi thức cũng được quan tâm không kém mỗi khi xây
dựng. Vì tính chất trang trọng nên nghi thức xây dựng phải được những người già
làng tài giỏi nhất thực hiện.
- Những yếu tố cần đạt được khi chọn vị trí xây dựng nhà Rông:
+Phải là nơi cao ráo, thoáng mát về mùa nắng và ấm áp về mùa mưa.
+Phải được xây dựng ở trung tâm của làng, từ các con đường xa cũng nhìn thấy Nhà Rông.
+Phải tiện lợi cho người dân di chuyển đến địa điểm này.
+Phải bằng phẳng, rộng, đủ để khi tập trung phải ít nhất 2 – 3 lần số người
của làng.Gỗ là chất liệu chất liệu chủ đạo xây dựng nên nhà Rông bên cạnh các vật
liệu tre, mây, nứa, lá cây, cỏ tranh,… Hầu hết các vật liệu xây dựng nên nhà Rông
đều được lấy từ rừng. lOMoAR cPSD| 30964149
- Việc đi vào rừng lấy gỗ cũng được tính toán chu đáo bởi các già làng giỏi nhất.
Khi xuất phát, buôn làng sẽ chọn thêm 2 người có sức khỏe, nhanh nhẹn và tháo
vát để đi lấy gỗ cùng đoàn.
- Khi xuất phát, họ phải chuẩn bị đầy đủ lương thực và vật dụng cho 9 ngày ở
trong rừng tìm gỗ. Khi tìm được cánh rừng có nhiều gỗ tốt, cả đoàn sẽ dừng lại,
đứng vòng quanh, giơ rìu hú 9 tiếng lớn. Ngày hôm sau, họ sẽ đến lấy cho đủ gỗ xây dựng.
- Vào tháng 10 âm lịch, họ sẽ chọn ngày dựng nhà Rông. Ngày đó, làng có các
nghi thức cúng kiến và múa hát cùng nhau. Hoạt động này mang ý nghĩa là chào
mừng một cuộc sống mới bắt đầu trong nhà Rông.Đặc điểm, kích thước Nhà Rông
- Các đặc điểm trong thiết kế của nhà Rông:
+Dài khoảng 10m, rộng hơn 4m, cao 15 đến 16m.
+Không dùng đến sắt thép, các chỗ nối hay chắp đều được chặt đẽo cẩn thận
rồi dùng mây, lạt tre để buộc.
+Nóc nhà có 2 mái, nơi chỏm đầu dốc có một đôi sừng. Một dải trang trí đặc
biệt chạy dọc trên sóng nóng.
+Những tấm đan tre lồ ô, nứa hoặc cây giang thường được ghép trên sàn nhà.
+Giữa nhà có một hàng lan can chạy dọc. Lan can này là chỗ dựa cho những
ché rượu cần khi làng tổ chức lễ hội.
+Ngoài ra họ sẽ sử dụng cặp sừng trâu để trang trí và khắc hình sao tám cánh,
hình thôi, chim, người,… một cách tinh xảo trên cây cột chính giữaVề cầu thang,
nhà Rông thường được đẽo từ 7 đến 9 bậc. Hình trang trí trên đầu cầu thang sẽ
khác nhau tùy theo mỗi dân tộc. Ví dụ như người Gia Rai sẽ trang trí hình quả bầu
đựng nước, người Ba Na là hình ngọn cây rau dớn,...
- Hai loại nhà Rông xuất hiện ở Tây Nguyên: Gồm nhà Rông trống (đực) và nhà Rông mái (cái).
- Nhà Rông trống, trong tiếng Jrai gọi là Rông tơ nao, có mái to, cao chót vót.
Có nhà cao đến 30m. Nhà Rông trống được trang trí rất công phu.
- Nhà Rông mái được gọi là Rông Ana, nhỏ hơn, có mái thấp. Hình thức bên
ngoài và bên trong đơn giản hơn. lOMoAR cPSD| 30964149
- Kết cấu nhà Rông Tây Nguyên với các cột liên kết với nhau theo hình thức cột
kèo. Để đỡ toàn bộ sàn và mái nhà là phần chân đế gồm 10 đến 14 cột nâng. Trong
đó có 8 cột chính và 2 đến 6 cột phụ nhà “chồ” nơi đặt cầu thang.
- Nhà Rông Tây Nguyên thường lớn vì theo quan niệm của người dân, nhà Rông
càng to thì chứng tỏ buôn làng đó càng giàu có, sung túc. 1.2. Trang phục:
- Trang phục Trang phục dân tộc Tây Nguyên không chỉ đơn thuần là quần áo,
mà còn có giá trị văn hóa, là biểu tượng cho văn hóa, truyền thống, tâm linh và tôn
giáo của từng dân tộc.
- Trang phục truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên mang đậm bản sắc văn
hóa của từng tộc người, thể hiện đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán, tín
ngưỡng tôn giáo và quan niệm thẩm mỹ của mỗi dân tộc.
- Nhìn chung, trang phục truyền thống các dân tộc Tây Nguyên có những nét chung như sau:
+Sử dụng chất liệu tự nhiên
+Trang phục truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên chủ yếu được
làm từ các chất liệu tự nhiên như bông, gai, lá, ,. . . Những chất liệu này vừa mang
tính chất thẩm mỹ, vừa phù hợp với khí hậu và điều kiện sinh sống của người dân Tây Nguyên.
+Màu sắc: Trang phục truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên thường
có màu sắc đen trầm, mang đậm nét huyền bí, nổi bật, thể hiện sự lạc quan, yêu đời
của người dân nơi đây.Hoa văn trang trí độc đáo, mang ý nghĩa biểu tượng. Những
hoa văn này thường được thêu, vẽ hoặc dệt trên vải.
- Trang phục truyền thống của từng dân tộc Tây Nguyên: Trang phục truyền
thống của các dân tộc Tây Nguyên có sự đa dạng và phong phú, thể hiện bản sắc
văn hóa riêng của từng tộc người. Dưới đây là một số trang phục truyền thống tiêu
biểu của các dân tộc Tây Nguyên:
+Trang phục của người Ê Đê: Trang phục truyền thống của người Ê Đê
được làm từ chất liệu bông, có màu sắc sặc sỡ, nổi bật. Nam giới mặc áo ngắn,
quấn khố, đầu đội khăn. Nữ giới mặc áo dài, váy xòe, đầu đội khăn. Trang phục lOMoAR cPSD| 30964149
của người Ê Đê thường được trang trí bằng những hoa văn mang ý nghĩa biểu
tượng như hoa văn mặt trời, hoa văn chim muông,. . .
+Trang phục của người Ba Na: Trang phục truyền thống của người Ba Na
có màu sắc tương đối đơn giản, chủ yếu là màu đen, trắng. Nam giới mặc áo ngắn,
quấn khố, đầu đội khăn. Nữ giới mặc áo dài, váy xòe, đầu đội khăn. Trang phục
của người Ba Na thường được trang trí bằng những hoa văn đơn giản, mang ý
nghĩa biểu tượng như hoa văn hình chữ thập, hoa văn hình tam giác,. . .
+Trang phục của người Gia Rai: Trang phục truyền thống của người Gia
Rai có màu sắc sặc sỡ, nổi bật. Nam giới mặc áo ngắn, quấn khố, đầu đội khăn. Nữ
giới mặc áo dài, váy xòe, đầu đội khăn. Trang phục của người Gia Rai thường
được trang trí bằng những hoa văn độc đáo, mang ý nghĩa biểu tượng như hoa văn
hình sóng nước, hoa văn hình lông chim,. . .
+Trang phục của người M’Nông: Trang phục truyền thống của người
M’Nông có màu sắc tương đối đơn giản, chủ yếu là màu đen, trắng. Nam giới mặc
áo ngắn, quấn khố, đầu đội khăn. Nữ giới mặc áo dài, váy xòe, đầu đội khăn. Trang
phục của người M’Nông thường được trang trí bằng những hoa văn đơn giản,
mang ý nghĩa biểu tượng như hoa văn hình chữ thập, hoa văn hình tam giác,. . .Kết luận
- Trang phục truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên là một phần không thể
thiếu trong văn hóa đặc sắc của khu vực này. Sự đa dạng, phong phú và đặc trưng
của từng trang phục truyền thống giúp ta hiểu rõ hơn về đời sống, phong tục tập
quán, tín ngưỡng tôn giáo và quan niệm thẩm mỹ của từng dân tộc. Việc bảo tồn và
phát huy giá trị của trang phục truyền thống này là điều cần thiết để tiếp tục duy trì
và phát triển văn hóa đặc sắc của khu vực Tây Nguyên. 1.3. Ẩm thực
*NHỮNG ĐI쨃ऀ M ĐĂC TRƯNG VE VĂN H伃ĀA ẨM THỰC TÂY NGUYÊN
Nói đến ẩm thực Tây Nguyên, người ta sẽ nghĩ ngay những món dân giã với cách chế biến đôc đáo đâm
chất miền núi. 숃ऀ m thực, con người cùng những phong tục,
tâp quán riêng giữa núi rừng hùng vĩ và các đồi cà phê bạc ngàn là điểm thu vị thu
hút phượt thủ trên mọi miền tổ quốc.
숃ऀ m thực Tây Nguyên đi kèm với các lễ hôi truyền thống mang đâm bản sắc dân
tôc là môt trong những điểm mời gọi du khách. Đây cũng chính là điểm mạnh của lOMoAR cPSD| 30964149
vùng để đầu tư, phát triển du lịch, cải thiên đời sống người dân. Những nét đăc
trưng khiến bạn bất ngờ về ẩm thực Tây Nguyên mà ai đến đây cũng ấn tượng và nhớ mãi không nguôi.
*VĂN H伃ĀA ẨM THỰC TÂY NGUYÊN CHỨA ĐỰNG NHỮNG TINH HOA CỦA NÚI RỪNG
-Cách chế biến món ăn độc đáo:
- Khác với những địa phương khác, điểm đăc biêṭ khiến nhiều người thường hay
tò mò nhất trong văn hóa ẩm thực Tây Nguyên là cách chế biến món ăn. Người
Tây Nguyên thường sử dụng các vât dụng như ống tre, nứa, bương, vầu, lá chuối,
bếp than củi,... để tạo ra món ăn.
- Dù các món có được biến tấu chế biến theo cách nào đi nữa thì người Tây
Nguyên cũng ít có quy định cụ thể, các tỷ lê ̣chi tiết về nguyên liêu hay thời gian
nấu. Thâṭ khó để thể tìm kiếm những tài liêu ghi chép công thức nấu ăn của người
Tây Nguyên. Viêc chế biến món ăn gần như chỉ dựa vào kinh nghiêm , phong tục
truyền thông hay sự chỉ dạy trực tiếp từ gia đình.
-Tận dụng nguồn nguyên liệu từ núi rừng:
- Quá trình tẩm ướp gia vị trong ẩm thực Tây Nguyên có nhiều điểm khác với
các địa phương khác. Hầu như cái đăc biêṭ, cái ngon và hấp dẫn của nền ẩm thực
Tây Nguyên là nhờ vào gia vị tự nhiên từ các loại cây rừng mà người dân tân dụng
để tẩm ướp trong món ăn.
- Các món ăn nơi đây cũng mang đâm chất miền núi, điều này đã góp phần tạo
nên môt màu sắc rất riêng và được đông đảo mọi người yêu thích. Chính vì vây mà
khi nói đến Tây Nguyên, mọi người sẽ nghĩ đến viêc đầu tiên là thưởng thức nền ẩm thực nơi đây
-Nguyên liệu hoàn toàn không có chất gây hại:
- Môt trong những điều làm nên môt nền ẩm thực tuyêṭ vời của con người Tây
Nguyên là các nguyên liêu sử dụng để làm món ăn đều không có chứa chất bảo
quan hay hóa chất đôc hại. Đây chính là điều mà các bà mẹ nôi trợ hay nhiều ông
bố lại thường ưu tiên mua thực phẩm của người đồng bào mỗi khi bắt găp. lOMoAR cPSD| 30964149
- Hầu như các món đăc sản nổi tiếng của người Tây Nguyên đều được làm từ
nguồn nguyên liêu có sẵn trong mỗi gia đình người dân. Những tinh túy của nền
ẩm thực núi rừng đâm chất hoang sơ, hương vị hấp dẫn lại được kết hợp các loại
đăc sản vả tảo dược quý hiếm đã tạo nên những món ăn hấp dẫn đến khó cưỡng.
-Sự giao thoa văn hóa ẩm thực người Kinh và người thiểu số:
- Vùng Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh là Kom Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông
và Lâm Đồng với hơn 40 dân tôc anh em cùng chung sống. Sự giao thoa văn hóa
hòa lẫn giữa người Kinh và người dân tôc thiểu số đã ngày càng được mở rông và
phát triển. Tây Nguyên cũng là nơi có cả sự kết hợp ẩm thực Viêṭ từ ba miền với sự
biến tấu sao cho phù hợp về điều kiên miền núi cao để làm nên môt nền ẩm thực
Tây Nguyên vừa lạ, vừa quen đầy lôi cuốn.
- Sinh hoạt ăn uống của người Tây Nguyên thường có sự liên quan chăṭ chẽ tới
hê ̣thống xã hôị , phong tục, văn hóa, kinh tế,... Hầu hết sự giao lưu văn hóa chỉ
diễn ra tại địa phương nên gìn giữ được những phong tục cổ xưa, đâm chất truyền
thống. Tuy nhiên, những bản sắc văn hóa dân tôc truyền thống kết hợp đã cho ra
môt nền ẩm thực đôc đáo, phong phú của những con người nơi núi rừng Tây Nguyên.
*C䄃ĀC M伃ĀN NGON ĐĂC BIÊT ĐÔC
Đ䄃ĀO LÀM NÊN NEN ẨM THỰC TÂY NGUYÊN -Cơm ống:
+Lúa gạo cũng là nguồn thực phẩm chính của người Tây Nguyên. Ngoài
những cách nấu cơm thông thường thì dựa vào điều kiên địa lý, khí hâu và tính
chất công viêc ̣ , người dân Tây nguyên cõn nghĩ ra hình thức nấu cơm ống hay còn gọi là cơm lam.
+Gạo nương là môt loại gạo tẻ có hạt to, cứng nhưng khi chín lại rất thơm và
dẻo. Cơm ống thường sẽ được nấu bằng gạo này hoăc thay thế bằng gạo nếp. Gạo
sẽ được nấu trong ống tre (nứa, vầu, bương,...), không quá non hay quá già, còn
tươi. Môt đầu ống sẽ được giữ lại còn đầu kia để hở.
+Gạo vo sạch ngâm cho nở rồi cho vào ống tre, dùng là chuối bịt kín rồi nấu
trên bếp lửa cho đến khi thấy cháy đều hết lớp vỏ màu xanh bên ngoài thi cơm đã
chín. Cơm lam của người Tây Nguyên thường được ăn kèm với vừng, thịt nướng lOMoAR cPSD| 30964149
hoăc kho. Không chỉ là món ăn dân giã mà cơm lam còn chứa đựng tình người
miền sơn nước đối với du khách khi đến quê hương mình. -Canh thụt:
+Canh thụt là món ăn rất đăc biết có nguồn gốc từ dân tôc M’Nông. Đây là môt
trong những đăc sản mang đâm
hương vị và thể hiên bản sắc văn hóa của đông bào Tây Nguyên.
+Món được đăṭ tên là canh thụt bởi cách chế biến đôc đáo của nó. Tất cả các
nguyên liêu sẽ được thụt vào ống tre để nấu chín, tương tự như nấu cơm lam. Để
nấu món này cần có lá nhíp, cà đắng, đọt mây, ớt, cá suối, thịt đông vâṭ. Nghe đến
tên các loại nguyên liêu thôi đã đủ để bạn hiểu về sự hoang dã mang tính sơn nước của món ăn này.
+Sự kết hợp hoàn hảo của các loại nguyên liêu đã tạo nên môt món ăn đôc đáo
gây thương nhớ với khách thâp phương. Nếu môt lần đến vùng đất Tây Nguyên thì
đừng bỏ qua món canh đôc đáo say đắm lòng người này nhé. -Phở khô:
+Phở được xem là món ăn truyền thống và nổi tiếng của người Viêṭ Nam. Tuy
nhiên, nhiều người nói đến phở sẽ nghĩ ngay những sợi phở ăn chung với nước
dùng và tất cả nguyên liêu đều trong môt tô lớn.
+Còn phở khô hay còn được gọi là phở hai tô bở phần sợi phở cũng các loại
thức ăn kèm sẽ được sắp riêng và kèm môt tô nước riêng. Đây là món ăn đôc đáo
và lạ miêng nổi tiếng của người Gia Lai. Mọi người sẽ thưởng thức phở riêng rồi
mới húp nước lèo, ăn kèm rau sống các loại và tương ớt hoăc tương đen tùy ý mỗi người. -Gỏi lá:
+Đến Tây Nguyên mà chưa thưởng thức món gỏi lá của người Kom Tum thì là
môt thiếu sót lớn. Với môt nơi núi rừng ky vĩ như Tây Nguyên thì các loại cây
rừng được tân dụng cho nhiều mục đích khác nhau, nhất là trong nấu ăn. lOMoAR cPSD| 30964149
+Món gỏi lá của người Kom Tum được ví như tinh hoa ẩm thực Tây Nguyên.
Đây không chỉ đơn giản là môt món ăn mà còn là tác phẩm nghê ̣thuâṭ được tạo
nên bởi những con người chân chất, môc mạc của núi rừng Tây Nguyên.
+Gỏi lá là sự kết hợp của hơn 40 loại lá rừng khác nhau ăn kèm với thịt heo
đồng bào, tôm đất rang muối, bì heo và các gia vị riêng của người miền núi. Từng
vị khác nhau sẽ tan ngay trong miêng khiến bạn như vừa có môt chuyến tham quan
vào xứ xở thực vâṭ ky diêu của thiêng nhiên. -Cá Lăng:
+Cá Lăng là môt trong những loại cá suối bổ dưỡng được người dân Tây
Nguyên chế biến thành nhiều món ăn đôc đáo. Lẩu cá Lăng của Kom Tum hay cá
Lăng nướng muối ớt đều làm hài lòng du khách thâp phương.
+Giữa núi rừng hoang sơ, kỹ vĩ, khói bếp nghi ngút bên nồi lấu cá Lăng hấp dẫn
hay xiêng trên cá Lăng nướng tảo hương ngào ngạt sẽ gợi lên môt cảm giác đăc
biêṭ mà chỉ có tại Tây Nguyên.
-Gà nướng sa lửa Bản Đôn:
+Gà nướng thì ở đâu cũng có nhưng có thể nói ngon và nổi tiếng nhất thì phải
thử món gà nướng sa lửa ở Bản Đôn. Gà được người dân nuôi 100% từ nguồn thức
ăn tự nhiên theo hình thức nuôi thả nên rất chắt thịt, tẩm ướp gia vị theo kinh nghiêm
của người dân địa phương. Gà được nướng chín vàng hòa quyên với hương
thom của lá chanh, tiêu và môt số hương vị đăc biêṭ của người đồng bào, chỉ cần
ngửi thôi đã đủ khiến bạn phải tan chảy vì món ngon này.Trong thời buổi công
nghiêp như hiên nay, để tìm môt con gà rừng được nuôi hoàn toàn theo phương
thức tự nhiên thì không đâu dễ tìm bằng vùng đất Tây Nguyên. Đừng bỏ lỡ cơ hôi
thưởng thức món ăn tuyêṭ vời này khi tìm hiểu về nền ẩm thực Tây Nguyên.
*Những món ăn độc đáo từ côn trùng của nền ẩm thực Tây Nguyên
Môt nét đôc đáo của nền ẩm thực đồng bào Tây Nguyên gây tò mò nhất là các món
ăn được làm từ nguyên liêu khá đăc biêt biêt - côn trùng. Bạn sẽ vô cùng hoảng hốt
nhưng không thể nào cưỡng lại cái mới lạ, hấp dẫn từ những món sau:
-SÂU MUONG - “VỪA ĂN VỪA KH伃ĀC” lOMoAR cPSD| 30964149
+Nếu bạn nghĩ đến viêc vừa khóc vừa ăn thì chắc hẳn do sự tác đông nào đó từ
bên ngoài hoăc là bị ép. Tuy nhiên, đến với ẩm thức Tây Nguyên thì bạn sẽ được
thưởng thức môt món như vâỵ . Không ai bắt buôc hay tác đông bạn không thể nào
cưỡng lại hương vị hấp dẫn của món sâu muồng từ người Tây Nguyên măc dù sợ
đến chảy nước mắt.Như vây thôi đã đủ thấy kích thích cảm giác khám phá của
người và gây tò mò về món sâu muồng. Cây muồng mọc khá nhiều ở các tẫy cà
phê, tiêu và khu vực hai bên đường ở vùng đất đỏ bazan. Vào mùa mưa, sâu
muồng sinh sôi và nảy nở rất nhiều, đây chính là nguồn nguyên liêu để tạo ra món
ăn đôc đáo của người Tây Nguyên.
+Có thể nói, sâu muồng là môt món đăc sản hấp dẫn trong nền văn hóa ẩm thực
của người Tây Nguyên được nhiều du khách biết đến. Món ăn này không chỉ mang
môt hương vị rất lạ mà còn khiến mọi người khắc sâu khoảnh khắc “rùng rợn” về
lần đầu thưởng thức món này.
+Đã có món nào khiến bạn phải “vừa ăn vừa khóc” như sâu muồng của đồng bào Tây Nguyên chưa?
-KI쨃ĀN VÀNG - ĐĂC S䄃ऀ N TÂY NGUYÊN N퐃ऀ I TI쨃ĀNG
+Môt đăc sản nữa phải nhắc đến về ẩm thực của miền núi rừng Tây Nguyên là
kiến vàng. Dường như loài kiến này có măt ở khắp mọi nơi tại Tây Nguyên nhưng
tuyêṭ nhiên không có ở địa phương khác. Người dân đã tân dụng loài côn trùng này
mà chế biến thành các món ăn đôc đáo.
+Măc dù kiến vàng kích thước rất nhỏ nhưng cơ thể có chứa rất nhiều thành
phần dinh dưỡng. Người đồng bào có thể nấu xôi kiến, trứng kiến trôn gỏi, nêm
các món ăn hay muối kiến vàng. Muối kiến vàng rất nổi tiếng và được xem là món
quà quý giá mỗi khi có ai đó từ Tây Nguyên trở về. Muối có thể được ăn kèm với
trái cây hay các loại thịt rừng, nấu canh chua đều được.
-VE SAU - TAN CH䄃ऀ Y VỚI V䤃⌀ B䔃ĀO NGÂY
+Nếu bạn cảm thấy bực bôi với tiếng ve kêu ran những ngày hè oi bức thì tại
Tây Nguyên, đây lại là môt đăc sản hấp dẫn. Khi ấu trùng ve bắt dầu có hiên tượng
lốt xác để phát triển thành con trường thành thì sẽ là lúc được người dân bắt về làm thức ăn. lOMoAR cPSD| 30964149
+Ve bỏ hết cánh, chân và làm sạch ruôt rồi nhét đâu phông vào trong bụng.
Chiên sơ ve trên chảo dào, đảo nhanh và nêm ném gia vị vừa ăn. Sau khi thấy ve chuyển sang màu vàng ruôm
thì cho ra đĩa. Vị béo ngây hoàn quyên với cái bùi bùi
từ đâu và hương vị nêm ếm khiến bất ky ai cũng phải nhớ mãi không quên
-T唃⌀ C U퐃ĀNG RƯỢU CAN CỦA NGƯỜI TÂY NGUYÊN
+Trong văn hóa sinh hoạt ăn uống của người Tây Nguyên thì tuyêṭ nhiên không
thể thiếu rượu cần. Tại Tây Nguyên, Rượu Cần là sản vâṭ xuất hiên ở mọi nơi,
trong cuôc sống hay văn hóa sinh hoạt xã hôi của người dân. 夃Ā nghĩa Rượu Cần
với con người Tây Nguyên:
+Với người dân miền núi rừng, họ tôn thờ thần linh nhưng bởi trong quan niêm ̣
xưa, thần linh đã ban sự sống cũng như mọi vâṭ trên dân gian. Rượu Cần là lễ vât
được sử dụng để dâng kính lên các vị Thần, mong họ sẽ ban mưa thuân, gió hòa.
Hơn nữa, Rượu Cần như là cách thức để người dân đến gần hơn với đấng tối cao và giao tiếp với họ.
+Trong cuôc sống đời thường, Rượu Cần là phương tiên để mọi người cùng bên
nhau, chia sẻ và thêu dêṭ mối lương duyên.
+Dù mang ý nghĩa nào đi chăng nữa thì Rượu Cần cũng là môt nét đẹp văn hóa
ẩm thực Tây Nguyên tinh tế cần phải được gìn giữ. Điều này thể hiên môt cuôc
sống tinh thần no đủ, sung túc và tươi vui đối với người dân vùng đất Tây Nguyên.
Rượu Cần Tây Nguyên là sự chắt lọc nhưng tinh túy nhất từ hạt gạo mà người dân
làm nên. Không chỉ đăc biêṭ từ cách chưng cất để thành phẩm mà phương thức
uống cũng ẩn tượng không kém. 1.4. Làng nghề:
- Khôi phục các làng nghề truyền thống gắn kết với việc phát triển du lịch cũng
là một định hướng phát triển ngành du lịch của nhà tỉnh. Những chiếc khăn, khố,
váy, áo choàng… được thêu hoa văn, màu sắc rực lửa từ chất liệu thổ cẩm góp
phần làm đa dạng hóa các sản phẩm du lịch của Đắk Nông, móc giữ du khách khi
đến với vùng đất này để chuẩn hóa tìm hiểu, khám phá độc đáo trong từng trang
phục và chọn cho mình những món quà lưu niệm độc ý, ý nghĩa sau một chuyến đi xa….
-Hiện nay, ở Đăk Nông có nhiều làng nghề dệt thổ cẩm được lưu giữ và phát
triển như: Bon tại xã Đăk Nia, tx Gia Nghĩa, bon Đăk Sô, xã Quảng khê, và một số
bon làng tại huyện Cư Jút. Theo truyền thống của đồng bào M'Nông, người ta lOMoAR cPSD| 30964149
thường chọn nền vải là màu đen, biểu tượng cho đất; màu đỏ biểu tượng cho cú
dũng cảm, sức mạnh siêu nhiên. Đây là một hệ thống truyền thông nghề đã có từ
lâu đời, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của buôn, bon làng. Khi làm
nghề này, người ta đã sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ, tạo công việc làm ăn,
mang lại thu nhập cho gia đình tại địa phương. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây có nhiều nguyên nhân khác nhau đã tạo ra nghề dệt thổ cẩm cũng như nhiều
nét văn hóa khác của người M'nông ngày càng tăng. Để duy trì sự tồn tại của nghề
truyền thông độc hại này, cần có các chương trình, danh sách các công cụ chính
như: xây dựng dệt tập trung, mở lớp đào tạo, đưa các chị em có tay nghề lâu đi
năm tham quan, học tập các model ở các địa phương khác…
-Nói đến Đăk Nông dân ta thường nghĩ đến một nền văn hóa phong phú và đa
dạng với các lễ hội, lịch sử, không gian văn hóa cồng chiêng. Trong đó, nghề dệt
thổ cẩm - một nghề đã tồn tại từ lâu đời và mang đến những lợi ích cho đồng bào
dân tộc thiểu số cũng là nét văn hoá riêng của đồng bào dân tộc Tây Nguyên.
Những tấm Thổ cẩm dệt với nhiều hoa văn, họa tiết có thể hiện bàn tay khéo léo
của người phụ nữ đồng bào dân tộc và làm nên các trang phục đẹp nhiều màu sắc.
Đến Tây Nguyên hôm nay, du khách sẽ được tận hưởng những âm sắc ngân nga
của những giai điệu cồng chiêng, đắm mình và say mê trong những chén rượu cần,
để rồi sẽ bỏ bao giờ quên những tinh khiết chắt lọc cả tinh hoa của đất , của trời,
của rừng xanh, thác bạc trong mỗi mặt hàng thổ cẩm Tây Nguyên.
-Để có những tấm vải thổ cẩm đẹp với những con đường sạch, hoa văn độc
quyền là cả một quá trình lao động khá công phu và sức khỏe từ trồng bông, cán
bông, kéo sợi, nhựa màu và dệt. Khung dệt của đồng bào Tây Nguyên tuy đơn giản
nhưng rất đa dạng, có loại chuyên dành cho dệt váy, dệt chăn, lại có loại chuyên
dệt những tấm vải có kích thước nhỏ hơn như túi thổ cẩm, là khăn địu, là khố…
-Tây Nguyên, một dải Trường Sơn xanh sâu với những cánh rừng đại ngàn
nguyên sinh, trắng xóa bao dòng thác bạc với một nền văn hóa độc và phong phú.
Từng bước chân ta đi đều có thể bắt gặp ở mọi nơi. Dưới đôi bàn tay chuyển
hướng của người thiếu nữ, những họa tiết đều mang tính cách điệu cao và thường
được thực hiện bằng các văn chấm chấm, bao gồm các mô típ: bông hoa, con chim,
con ba ba, chiêng, ché, ngà voi…cần được hiện thực hóa với nhiều hỗn hợp màu
sắc tinh tế khác nhau. Theo quan niệm của các dân tộc Tây Nguyên: vải nền màu lOMoAR cPSD| 30964149
đen đặc trưng cho đất đai mà cả cuộc đời họ gắn bó – lúc sống cũng như lúc chết;
màu đỏ biểu tượng cho sự đam mê, cho tăng trưởng lên, cho khát vọng, tình yêu;
màu xanh là màu của đất trời, cây lá; màu vàng là màu của ánh sáng, là sự kết hợp
hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Với người Êđê, màu đen và đỏ là 2 màu
được ưa chuộng nhất, nhưng đối với người Thượng là sự kết hợp giữa các màu sợi
đỏ, vàng rực rỡ ở “gam màu” nóng tương phản rõ nét với nền. Cũng có màu trắng
nhưng phải như nó hiện lên đột ngột nhắc nhở tiềm ẩn như đã mờ phai theo thời
gian năm tháng để phù hợp với hoàn cảnh sống, cánh tác, nơi núi rừng. Dày và thô
– rất “rừng”, là hàng người Kơ Hồ, người Lạch còn dệt vải của một số dân tộc phía
Nam Cao Nguyên hay ven biển như những dân tộc Chàm, Châu Ro, người Stiêng
lại lấy màu nền trắng làm chủ đạo, tựa như để hòa hòa với sóng biển bạc đầu…
Công phu, ấn tượng, hoa văn tỉ tỉ và có độ dày đáng “nể”. được ngoại trừ khách
hàng tốt nhất có thể là hàng của người Mạ. Nếu người Anh, Đức, Bỉ thích thổ cẩm
dân tộc Mạ, Kơ Ho thì người Hà Lan, Nhật lại Lợi hàng người Chàm.
-Đã thành công truyền thống, bất cứ cô gái Tây Nguyên nào khi lớn lên đều
được mẹ bày tỏ cho cách dệt vải để không chỉ thêu cho mình những bộ váy đẹp mà
cho cả gia đình sau này. Những bộ váy đẹp nhất được dành cho những ngày lễ hội,
đám cưới xin khi dân làng tụ hội vui vẻ trong tiếng cồng chiêng, cô gái nào có bộ
váy đẹp cũng được coi là người chăm chỉ giỏi giang.
1.5. Phương tiện đi lại:
Người Tây Nguyên ít khi dùng trâu làm sức kéo để vận chuyển như một số dân
tộc miền núi phía Bắc. Ngược lại họ dùng sức voi, sức ngựa,… vào việc vận
chuyển lại rất phổ biến. Nhất là đối với người Gia Rai, Ê Đê, M'nông,…
2. Văn hóa phi vật thể:
-Tây Nguyên là địa bàn hoạt động của nhiều loại hình tôn giáo đã được công
nhận về mặt tổ chức tôn giáo, trong đó chủ yếu là Công giáo, Phật giáo, Tin Lành
và Cao Đài, với tổng số 1.753.761 tín đồ (chiếm 34,7% dân số), gần 3.500 nhà tu
hành, khoảng 840 cơ sở thờ tự.
-Những năm qua, số lượng tín đồ các tôn giáo ở Tây Nguyên tăng nhanh theo
tốc độ tăng dân số. Trong đó chủ yếu là Công giáo, Phật giáo, đạo Tin Lành và đạo
Cao Đài với tổng số khoảng 2.301.884 tín đồ, chiếm 34,7% dân số, đó là chưa kể
những người theo các tín ngưỡng truyền thống khác. Hiện nay, đạo Tin Lành là tôn
giáo có tỷ lệ tín đồ là đồng bào DTTS cao nhất trong các tôn giáo ở Tây Nguyên. lOMoAR cPSD| 30964149
Theo số liệu, các tỉnh Tây Nguyên có tới 47 hệ phái Tin Lành, trong số đó nhiều hệ
phái chưa được công nhận về mặt tổ chức tôn giáo. 2.1. Tín ngưỡng:
-Đạo Tin Lành: được du nhập vào Tây Nguyên từ cuối những năm 20 thế kỷ
XX. Từ đầu những năm 1990 trở đi, đạo Tin Lành phục hồi và phát triển mới với
tốc độ rất nhanh trong nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) ở Tây
Nguyên. Đến tháng 12/2020, số lượng tín đồ đạo Tin Lành ở 5 tỉnh Tây Nguyên là
529.410 người, trong đó tín đồ là người dân tộc thiểu số khoảng 511.450 người
(Đắk Lắk: 186.000 tín đồ DTTS; Gia Lai: 152.690; Lâm Đồng: 88.000; Đăk Nông:
76.050; Kon Tum: 17.710) chiếm 96,6% tổng số tín đồ đạo Tin Lành ở khu vực
này. Tây Nguyên là nơi tập trung đông tín đồ Công giáo là đồng bào dân tộc thiểu
số, chiếm 30,9% tổng số người theo Công giáo của toàn vùng. Công giáo truyền
lên Tây Nguyên sớm, với mốc khởi điểm từ những năm 1765 và mốc chính thức
đầu từ năm 1850 với khu vực truyền giáo đầu tiên ở Kon Tum, sau đến Lâm Đồng
và Đắc Lắc. Trong quá trình phát triển, Công giáo ở Tây Nguyên hình thành 3 giáo
phận: Kon Tum (1932), Đà Lạt (1960) và Buôn Ma Thuột (1967) với khoảng
1.126.474 tín đồ, 5 giám mục, hơn 630 linh mục (396 linh mục triều, 234 linh mục
dòng), hơn 2714 tu sĩ nam nữ.
-Phật giáo: ở Tây Nguyên phát triển tín đồ phật tử chủ yếu trong đồng bào Kinh
(khoảng trên 600.000 phật tử), tỷ lệ đồng bào DTTS theo đạo Phật rất ít so với sự
phát triển và hoằng pháp chung của Phật giáo ở các vùng miền cả nước. Đạo Cao
Đài bắt đầu được truyền bá lên Tây Nguyên từ năm 1938 cùng với chính sách khai
thác Tây Nguyên của thực dân Pháp. Tiếp đó, giáo hội Cao Đài các hệ phái Tây
Ninh, Ban Chỉnh đạo đã cử chức sắc lên Tây Nguyên truyền đạo và xây dựng cơ sở.
-Đến những năm 50 - 60 của thế kỷ XX, nhiều hộ gia đình từ các tỉnh miền
Trung và các tỉnh đồng bằng được đưa lên Tây Nguyên sinh sống và mang theo tín
ngưỡng của đạo Cao Đài. Từ đó, ở Tây Nguyên có thêm các hệ phái Cao Đài Chơn
lý, Cao Đài Cầu kho và hệ phái Truyền giáo Cao Đài. Cũng như Phật giáo, đạo
Cao Đài truyền lên Tây Nguyên chủ yếu phát triển trong đồng bào dân tộc Kinh
với khoảng 22.000 tín đồ, số tín hữu Cao Đài là người DTTS rất ít. Ngoài các tôn
giáo lớn đó, ở Tây Nguyên hiện đang tồn tại hàng chục hiện tượng tôn giáo mới
với nguồn gốc xuất xứ, phạm vi và nội dung hoạt động, mức độ ảnh hưởng cũng
như xu hướng phát triển rất khác nhau. Các hiện tượng tôn giáo mới có mặt ở Tây
Nguyên trong những năm gần đây với cả hai chiều kích đã làm cho bức tranh tôn lOMoAR cPSD| 30964149
giáo ở Việt Nam nói chung và ở Tây Nguyên nói riêng vốn đã đa dạng lại càng trở nên đa dạng hơn.
2.2. Phong tục tập quán:
6 lễ hội ở Tây Nguyên nổi tiếng nhất năm 2023 Tây Nguyên là nơi tụ hội của
nhiều dân tộc anh em và cũng có rất nhiều lễ hội rất đa dạng. Đặt chân du lịch Tây
Nguyên du khách sẽ có cơ hội khám phá các lễ hội mang đậm chất văn hóa nơi đây. 1. Lễ hội Cồng Chiêng:
· Thời gian: Hiện nay, vẫn chưa có thời gian diễn ra lễ hội cồng chiêng Tây
Nguyên cụ thể mà mỗi năm tổ chức vào một thời điểm khác nhau.
· Địa điểm: 5 tỉnh Tây Nguyên sẽ luân phiên tổ chức đó là Đăk Lăk, Lâm Đồng,
Kontum, Đăk Nông và Gia Lai.
Đến với Tây Nguyên lễ hội nổi tiếng và đặc sắc nhất được rất nhiều du khách quan
tâm đó là lễ hội Cồng Chiêng. Các du khách nếu đến với Tây Nguyên mà bỏ qua lễ
hội này thì quả là điều đáng tiếc nhất.
Lễ hội Cồng Chiêng Tây Nguyên năm 2005 được tổ chức UNESCO chính thức
công nhận là kiệt tác văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đây là lễ hội thể hiện đậm
chất nhất nét đẹp và văn hóa của người dân Tây Nguyên rất chân chất, mộc mạc, thật thà,... 2. Lễ hội đua voi:
· Thời gian: Lễ hội được diễn ra vào khoảng tháng 3 âm lịch và thường kéo dài
khoảng 3 ngày, thời điểm mà người dân nơi đây khởi đầu trước khi vào rừng phát rẫy làm nương
· Địa điểm: Tổ chức tại Bản Đôn, xã Krông na, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk.
Lễ hội đua voi Tây Nguyên nổi tiếng luôn được các du khách lựa chọn khi đến với
mảnh đất núi rừng ở đây. Hình ảnh chú voi được coi là “linh vật” của vùng miền
Tây Nguyên. Chắc chắn, mọi người đã rất quen thuộc với hình ảnh “Chú voi con ở
Bản Đôn” gắn liền với ký ức tuổi thơ. Khi tham gia lễ hội đua voi Bản Đôn, du
khách sẽ được tận mắt chứng kiến những chú voi to, khỏe mạnh cùng nhau đọ sức
trong cuộc thi để giành được chiến thắng. 3. Lễ ăn cơm mới: lOMoAR cPSD| 30964149
· Thời gian: Lễ hội thường được diễn ra vào khoảng tháng 11 đến tháng 1 (vào
khoảng cuối năm nếu tính theo âm lịch)
· Địa điểm: Lễ hội được diễn ra ở khắp các bản làng của Tây Nguyên. Lễ hội ăn
cơm mới đặc sắc ở Tây Nguyên. Đây là nghi lễ nổi tiếng của người dân Ê Đê để
tổng kết lại những thành quả và vất vả nhất của người đồng bào sau mùa màng bội
thu. Người dân Ê Đê cũng cầu cho một năm mới thuận lợi đến với những vụ mùa tiếp theo.
Không chỉ có vậy, du khách còn có cơ hội thưởng thức rất nhiều món ăn như: gà
nướng, cơm lam và thưởng thức rượu cần,... Chắc chắn hương vị ẩm thực của Tây
Nguyên sẽ mang dấu ấn cho các du khách khi đến với mảnh đất núi rừng nơi đây.
4. Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột:
· Thời gian: Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột thường được tổ chức vào tuần đầu tiên
trong tháng 3, Lễ hội được tổ chức vào thời gian này một phần để du khách và
người dân địa phương nhớ đến ngày Giải phóng Buôn Ma Thuột 10-03-1975.
· Địa điểm: Lễ hội gồm một chuỗi các sự kiện được tổ chức tại thành phố Buôn
Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk.
Một trong những đặc sản nổi tiếng của Tây Nguyên đó là cà phê. Tại đây diễn ra
lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột được đánh giá là lễ hội đặc sắc nhất mang tầm vóc
một lễ hội cấp Quốc gia. Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột không chỉ nhằm mục đích
thể hiện được sự ấm no, mùa bội thu mà còn mang tính chất để quảng bá hình ảnh
Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk là vùng đất huyền thoại, giàu bản sắc dân tộc.
Tại Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột du khách còn được tham gia rất nhiều hoạt động
đặc sắc khác như: hội chợ triển lãm, hội thi pha chế cà phê, hành trình du lịch cà phê,… 4. Lễ tạ ơn cha mẹ:
Thời gian: Sau ngày lễ mừng cơm mới.
Địa điểm: Tại cộng đồng người Bahnar và Jrai ở Kon Tum.
Người dân đồng bào tại Tây Nguyên có lễ hội mang tên Lễ tại ơn cha mẹ. Đây là
một lễ hội thể hiện sự hiếu thảo của những người con sau khi đã có gia đình. Đối
với những người con gái sau khi đã kết hôn thì họ quay về nhà cha mẹ để làm “Lễ lOMoAR cPSD| 30964149
tạ ơn cha mẹ” nhằm tạ ơn công sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ. Tiếp đó, họ
quây quần bên nhau, ăn uống cùng nhau trong khoảng 2 ngày. Lễ hội được diễn ra
ở cả nhà ba mẹ bên chồng lẫn bố mẹ bên vợ. Lễ tạ ơn cha mẹ gồm 2 phần: phần lễ
và phần hội. Trong đó phần lễ là quan trọng thể hiện sự báo hiệu, tỏ lòng thành
kính biết ơn đối với đấng sinh thành. 5. Lễ cúng bến nước:
Thời gian: Lễ cúng thường được tổ chức vào tháng 3 dương lịch hàng năm, sau mùa thu hoạch.
· Địa điểm: Các buôn làng của người đồng bào Ê đê
Lễ cúng bến nước nổi tiếng ở Tây Nguyên. Đây là lễ hội của người đồng bào Ê Đê.
Sau khi thu hoạch vụ mùa, trưởng làng tìm đến người chủ bến nước để bàn bạc với
nhau về việc tổ chức lễ cúng bến nước. Lễ hội cúng bến nước cầu cho một năm
mưa thuận gió hòa mong cho một năm mùa màng bội thu. 2.3. Văn học:
-Kho tàng văn hóa ở vùng đất Tây Nguyên với các trường ca, sử thi đồ sộ, ky vĩ
đã khẳng định sức sống bền vững cùng với thời gian. Và đó cũng là tiền đề để văn
học nghệ thuật ở vùng đất này có những thành tựu đáng khích lệ.
-Nhiều nhà văn, nhạc sĩ, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đã để lại dấu ấn sâu
sắc trên diễn đàn văn học nghệ thuật, đặc biệt là những tác giả là người dân tộc
thiểu số như các nhà văn: Y Điêng, Linh Nga Nie Kdăm, Thu Loan, Niê Thanh
Mai...; các nhạc sĩ như: Kpă Púi, Ama Nô, Kpă Y Lăng, Y Phôn Ksor...; các họa sĩ
như: Y Nhi Ksor, Mlô Hiu, Trương Văn Linh...; các nhà nghiên cứu văn hóa như:
Buôn Krông Tuyết Nhung, Nguyễn Quang Tuệ...; các ca sĩ như: Y Moan, Rơ Chăm Pheng...
-Nhiều tác phẩm nghệ thuật của các văn nghệ sĩ người dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên mang đậm dấu ấn các dân tộc thiểu số đã tạo nên dòng chảy mạnh mẽ
trong văn học nghệ thuật. Các đoàn ca múa nhạc dân tộc khu vực Tây Nguyên đã
cho ra đời những tác phẩm âm nhạc, bản hòa tấu đàn đá, biểu diễn nhạc cụ, chiêng
đồng và chiêng tre, được các ca sĩ, nghệ nhân biểu diễn trên các sân khấu ở trong lOMoAR cPSD| 30964149
và ngoài nước, đạt được nhiều huy chương ở các sân khấu chuyên và không chuyên.
-Một số vở nhạc kịch về sức sống mãnh liệt của các dân tộc Tây Nguyên được
dàn dựng thành phim truyện điện ảnh, phim tài liệu có giá trị về lịch sử cũng như
nghệ thuật. Đặc biệt là việc đưa các tác phẩm văn học nghệ thuật của dân tộc này
đến giới thiệu ở vùng sinh sống của dân tộc khác để tăng sự giao thoa, kết nối.
Bên cạnh đó, hàng trăm tác phẩm hội họa và nhiếp ảnh sáng tác về con người các
dân tộc thiểu số như: Ê Đê, M’nông, Xê Đăng… với sức sống mãnh liệt, huyền bí,
màu sắc đa dạng đoạt được rất nhiều huy chương ở trong và ngoài nước. Sắc thái
đặc trưng của dân tộc bản địa như: Ê Đê, M’nông và sắc màu đa dạng của các dân
tộc thiểu số cùng sinh sống trên mảnh đất này được thể hiện phong phú và rõ nét
trong các tác phẩm của các họa sĩ gạo cội như: Lê Vấn, Trần Thanh Long, Trương
Văn Linh, Ngô Tiến Sỹ…; các nghệ sĩ nhiếp ảnh như: Huy Tịnh, Ngô Minh
Phương, Bảo Hưng, Hương Vượng, Trần Thị Mùi…
-Thông qua hoạt động sáng tạo, các văn nghệ sĩ góp phần tuyên truyền các chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chú trọng việc giữ gìn bản
sắc văn hóa và các giá trị đạo đức tốt đẹp, quảng bá về hình ảnh và con người của
vùng đất đến với công chúng yêu văn học nghệ thuật trong vùng và khắp cả nước.
Mặc dù vậy, đề tài của các văn nghệ sĩ đa phần gắn bó sâu sắc với con người, bản
sắc văn hóa của vùng, các tác phẩm đều dành phần lớn thời lượng sáng tác về các
dân tộc thiểu số bản địa như: Ê Đê, M’nông, Ba Na, Xê Đăng... mà xem nhẹ các
dân tộc khác, nếu có sáng tác thì vẫn còn hạn chế, tác phẩm còn mờ nhạt, chưa có
chiều sâu, chưa thật sự thâm nhập thực tế.
-Bên cạnh đó, tại các tỉnh Tây Nguyên, đời sống tinh thần của bà con dân tộc
thiểu số còn rất nghèo nàn, đơn điệu. Khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền
núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân còn khá xa.
-Còn ít những tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ
thuật, một số tác phẩm chạy theo thị yếu tầm thường, chất lượng thấp; các tác
phẩm văn học nghệ thuật ở các chuyên ngành đa phần được phổ biến trong lực
lượng những tầng lớp trí thức ở thành thị; người sáng tạo tác phẩm phổ biến chủ lOMoAR cPSD| 30964149
yếu trên các phương tiện truyền thông hiện đại ở các trung tâm thành phố, huyện lỵ
chứ chưa phổ biến đến vùng sâu, vùng xa...
-Trước những thực tế trên, văn học nghệ thuật phải đặt ra cho mình mục tiêu lớn.
Theo nhà văn Niê Thanh Mai, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Đắk Lắk thì
cùng hệ thống chính trị, văn hóa, văn học nghệ thuật phải nỗ lực khôi phục cái hay,
vốn quý của văn hóa dân tộc các dân tộc thiểu số. Về phía người sáng tác phải
từng bước đưa họ đi thực tế, điền dã, thu thập thông tin về văn hóa dân gian, tiếp
cận nhiều hơn với bà con dân tộc thiểu số tại nhiều địa bàn và có những chương
trình thực tế sáng tác dài ngày, cùng ăn, cùng ở với bà con.
2.4. Lễ hội:
-Nhạc sĩ Nông Quốc Bình, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số
Việt Nam khẳng định, người dân tộc thiểu số phải được các cấp, các ngành tạo mọi
điều kiện tốt nhất để có các hoạt động dành riêng cho dân tộc mình, tổ chức theo
quy mô từ nhỏ đến lớn. Họ sẽ được hỗ trợ về cơ sở vật chất để tự đứng ra tổ chức
các lễ hội, buổi cúng tế, hát xướng… phù hợp với nguyện vọng, phong tục, tập
quán dân tộc. Điều đó cũng đồng thời tạo nên cơ hội để các văn nghệ sĩ hiểu được
sâu rộng hơn nét đẹp văn hóa để có được tư liệu quý giá cho các tác phẩm của mình.
-Theo nhạc sĩ Nông Quốc Bình, việc tìm kiếm, phát hiện và đào tạo những
người có tài năng văn học nghệ thuật trẻ, nhất là người dân tộc thiểu số phải được
đẩy mạnh. Cùng với đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ để họ có được cơ hội
sáng tạo nên những tác phẩm về dân tộc mình, mang theo hơi thở cuộc sống, văn
hóa và những điều đặc sắc của dân tộc thiểu số đến với công chúng một cách đặc trưng nhất.
III. Vũ điệu cồng chiêng: 1. Nguồn gốc:
• Các nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng, cồng chiêng có từ thời cổ đại, bắt
nguồn từ nền văn minh Đông Sơn có cách đây ít nhất 3.500-4.000 năm, với
hai nhạc cụ điển hình là trống đồng và cồng chiêng.
• Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa và lịch sử
rất lâu đời. Về cội nguồn, cồng chiêng là sự phát triển và biến thể của đàn
đá, tuy chất liệu, kỹ thuật chế tác và cách sử dụng có khác nhau. trước khi có
văn hóa đồng, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá: cồng đá, chiêng đá... tre,
rồi tới thời đại đồ đồng, mới có chiêng đồng... lOMoAR cPSD| 30964149
• Từ thuở sơ khai, cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng;
biểu hiện của tín ngưỡng - là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên... âm
thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiếng
suối, tiếng gió và với tiếng lòng người, sống mãi cùng với đất trời và con người Tây Nguyên.
• Giáo sư người Philippinse J. Maxêda nhận xét: "Dãy Trường Sơn có thể xem
như chính là cái nôi sản sinh và truyền bá toàn khu vực Đông Nam Á nền
văn hóa âm nhạc độc đáo của cồng chiêng"
• Ngoài ra, khi nói về nguồn gốc xuất xứ, các học giả còn cho rằng: "Tây
nguyên và vùng lân cận là nơi làm ra và sử dụng đàn đá, nơi sử dụng nhạc
cụ cồng chiêng chứ không phải là nơi làm ra cồng chiêng, mà cồng chiêng
Tây nguyên đều do người Việt, người Lào và người Khmer chế tác, vì ở Tây
nguyên chưa trải qua đúc kim khí, người Tây nguyên mua cồng chiêng của
người Việt, Lào và Khmer sau đó về thỉnh âm lại theo truyền thống của mình".
• Xét về không gian văn hóa và lịch sử văn hóa tộc người thì Tây nguyên là
một vùng văn hóa rất đặc trưng của Việt Nam, bởi Việt Nam là một quốc gia
được xem như là Đông Nam Á thu nhỏ, vì những đặc trưng về điều kiện tự
nhiên (rừng, núi, đồng bằng, biển, sông), khí hậu và văn hóa tộc người
(nhiều văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo). Một số tộc người Tây nguyên (nhóm
Nam Đảo) trong quá trình "thiên cư" lên vùng đất Tây nguyên, có thể họ đã
mang theo nhạc cụ cồng chiêng. Vì vậy, sản phẩm nhạc cụ cồng chiêng ở
Tây nguyên không hoàn toàn là của người Việt, Lào và Khmer. 2. Đặc điểm:
-Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa và lịch sử rất
lâu đời. Về cội nguồn, có nhà nghiên cứu cho rằng, cồng chiêng là "hậu duệ" của
đàn đá. trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá: cồng đá,
chiêng đá... tre, rồi tới thời đại đồ đồng, mới có chiêng đồng...
-Chiêng bằng cấu tạo gồm hai bộ phận: mặt chiêng và thành chiêng. Mặt chiêng
là một mặt phẳng có hình vòng tròn, quyết định âm thanh như: độ cao, sự tròn
tiếng, đầy tiếng và độ vang; thành chiêng nối liền với mặt chiêng thành một bản
rộng bao quanh mặt chiêng và không khum vào trong.
-Cồng chiêng M’nông gồm có 2 bộ: bộ chiêng 6 chiếc và bộ cồng 3 chiếc có
kích thước khác nhau. Mỗi chiếc mang một chức năng riêng trong khi hòa điệu và
có những tên gọi khác nhau tùy theo từng nhóm địa phương. Tên gọi bộ chiêng 6
chiếc theo thứ tự: Chiêng lớn nhất được gọi là chiêng mẹ (mei, me hay măi); lOMoAR cPSD| 30964149
chiêng lớn thứ hai gọi là rênul (nhóm M’nông Nong gọi là nêgrơm); chiếc thứ ba
gọi thống nhất là n'dơt hay n'dất; chiếc thứ tư gọi là tru (M’nông Preh, M’nông
Nong và M’nông Prâng), gọi là dua (M’nông Chil, M’nông Rlăm); chiếc thứ năm
gọi là trơ (M’nông Preh, M’nông Nong, M’nông Prâng) và gọi là thơ (M’nông Chil
và M’nông Rlăm); chiêng nhỏ nhất gọi là chiêng con (kon). Bộ cồng 3 chiếc:
Chiếc lớn nhất gọi là cồng mẹ; chiếc thứ hai làm chuẩn trong khi hòa nhạc và được
gọi là tru (M’nông Prâng), du gong (M’nông Rlăm và M’nông Chil); chiếc nhỏ
nhất là cồng con (kuôn gong hay kon gong). Ngoài ra, người M’nông còn có một
chiếc chiêng lớn gọi là Char, giống như chiêng Char của người Êđê nhưng hiếm
khi họ sử dụng chiếc chiêng này.
-Cồng và chiêng là loại nhạc cụ chủ yếu để dùng trong nghi lễ. Người M’nông
thường sử dụng bộ chiêng 6 chiếc. Các nghi lễ dùng vật hiến sinh là heo hay gà,
người M’nông tấu nhạc bằng bộ chiêng 6 chiếc. Trong các cuộc rượu ngày thường,
đôi khi bộ chiêng 6 chiếc cũng được đem ra hòa điệu. Trường hợp trong buôn có
khách từ xa tới, chủ nhà đãi khách rượu cần và khi đấy thường phải sử dụng bộ
chiêng 6 chiếc như một nghi thức đón mừng để tỏ lòng hiếu khách của toàn buôn.
Đây cũng là dịp để bà con trong buôn đến vui chung. Ngoài tang lễ, hôn lễ và
những dịp vui, những nghi lễ khác thường được tổ chức tấu cồng chiêng như: lễ
kết bạn, cúng hồn lúa, cúng cơm mới sau ngày thu hoạch, lễ chúc sức khỏe người
chủ nhà trong dịp dựng nhà mới đối với hầu hết các nhóm M’nông; lễ lên nhà mới
của người M’nông Chil; lễ hoàn công một ngôi nhà, cúng rường cột của người
M’nông Rlăm... Ứng với mỗi hoàn cảnh ấy là một bài chiêng khác nhau. Ngay
trong một lễ hội, các bài chiêng cũng được đánh theo tiết tấu, nhịp điệu khác nhau,
tùy theo không khí chung của lễ hội.
-Theo quan niệm của người M’nông, âm thanh của hai loại nhạc cụ cồng chiêng
trong lễ hội vang lên sẽ kết nối với các thần linh, có thể gọi thần tốt đến và nhờ sự
trợ giúp của họ đuổi các ma xấu. Vì thế, tính tâm linh ở các lễ hội trong đời sống
văn hóa tinh thần qua tiếng chiêng luôn được đồng bào gìn giữ và phát huy.
-Vũ điệu cồng chiêng không chỉ như giai điệu của thần, mang đến cho ai nấy
tham gia lễ hội nét mặt phấn khích, vui tươi mà tiếng cồng chiêng trong trẻo như
đưa khúc ca cầu mùa, bình an và hạnh phúc của người đồng bào nơi đây vang vọng
cả núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ.
-Giá trị cồng chiêng không chỉ thể hiện ở kỹ thuật diễn tấu mà nó còn có ý nghĩa
tâm linh. Cồng chiêng đại diện cho văn hóa Tây Nguyên. Được sử dụng trong
nhiều nghi lễ, tín ngưỡng quan trọng. Khi âm thanh của cồng chiêng vang lên, lOMoAR cPSD| 30964149
đồng bào quan niệm có thể giúp con người thông tin trực tiếp đến các đấng thần linh. 3. Giá trị:
*Giá trị văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
• Không gian văn hóa truyền thống cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5
tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông và Lâm Đồng. Chủ nhân của
loại hình văn hóa đặc sắc này là cư dân các dân tộc Tây Nguyên. Như Êđê,
Ba na, Xơ đăng, Gia rai, M’nông, Cơ ho… Cồng chiêng gắn bó mật thiết với
cuộc sống của các tộc người Tây Nguyên. Là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn
con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống. Trong lao động và
sinh hoạt hàng ngày của họ. Bên cạnh đó, cồng chiêng còn được người Tây
Nguyên xem như sợi dây kết nối giữa con người và thần linh, để mỗi lần
cúng tế đều phải có âm thanh cồng chiêng vang vọng, báo cáo với các vị
thần về những thành quả đạt được của người dân.
• Giá trị cồng chiêng không chỉ thể hiện ở kỹ thuật diễn tấu mà nó còn có ý
nghĩa tâm linh. Cồng chiêng đại diện cho văn hóa Tây Nguyên. Được sử
dụng trong nhiều nghi lễ, tín ngưỡng quan trọng. Khi âm thanh của cồng
chiêng vang lên, đồng bào quan niệm có thể giúp con người thông tin trực
tiếp đến các đấng thần linh. Là chiếc cầu nối giữa các thành viên trong cộng
đồng.Từ lúc cất tiếng khóc chào đời, con người đã nghe tiếng chiêng chào
đón. Khi lớn lên dựng vợ, gả chồng tiếng chiêng lại rộn ràng trong ngày vui
hạnh phúc. Và khi vĩnh biệt cõi đời về với tổ tiên thì cũng có tiếng cồng
chiêng tiễn đưa. Cồng chiêng của đồng bào Tây Nguyên không được sử
dụng bừa bãi. Mà chỉ được sử dụng trong các nghi lễ, lễ hội của gia đình,
buôn làng, trong những dịp tiếp khách quý.
• Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng,
chiêng đều ẩn chứa một vị thần. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của
vị thần càng cao. Cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho
quyền lực và sự giàu có. Đã có thời một chiếc chiêng giá trị bằng hai con
voi hoặc 20 con trâu. Vào những ngày hội, hình ảnh những vòng người
nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò rượu cần trong tiếng
cồng chiêng vang vọng núi rừng, tạo cho Tây Nguyên một không gian
lãng mạn và huyền ảo. Cồng chiêng do vậy góp phần tạo nên những sử
thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùng tráng.
• Cồng chiêng mang lại sự thiêng liêng vào cuộc sống, điều này khiến con
người cảm thấy được sống trong một không gian thanh cao, tâm linh, huyền lOMoAR cPSD| 30964149
ảo. Tiếng cồng chiêng Tây Nguyên hòa nhịp âm vang gợi cho người nghe
như thấy được cả không gian săn bắn. Không gian làm nương rẫy, không
gian lễ hội… của cả vùng Tây Nguyên. Không chỉ có vậy, cồng chiêng còn
đem đến đời sống của các tộc người Tây Nguyên sự lãng mạn. Đó chính là
nguồn gốc của những áng sử thi, thơ ca đi vào lòng người…. Đời người dài
theo tiếng chiêng. Chiêng đem cái thiêng vào cuộc sống, khiến con người
cảm thấy được sống trong một tâm trạng an toàn, một không gian huyền ảo.
Không chỉ có thế, tiếng cồng, tiếng chiêng còn đem đến cho đời sống của
người Tây Nguyên cánh bay của sự lãng mạn, đó cũng là nguồn gốc của
những áng thơ ca, sử thi bay bướm.
• Cồng chiêng vì thế, không chỉ đại diện cho văn hóa Tây Nguyên, mà còn là
một sứ giả của nền văn hóa Việt Nam, xứng đáng là một kiệt tác văn hóa. Có
thể khẳng định văn hóa và âm nhạc cồng chiêng thể hiện tài năng sáng tạo
văn hóa. Nghệ thuật ở đỉnh cao của các tộc người ở Tây Nguyên. Và vì thế,
nó xứng đáng được UNESSCO vinh danh là kiệt tác văn hóa phi vật thể và
truyền khẩu của nhân loại.
4. Bảo vệ và bảo tồn phát huy giá trị:
-Ngay sau khi Không gian Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO
công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào
ngày 25/11/2005, tỉnh Đắk Lắk đã có nhiều chủ trương, giải pháp để bảo tồn và
phát huy văn hóa cồng chiêng. Cụ thể, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số
10/NQ-HĐND ngày 13/7/2007 và Nghị quyết số 63/2012/NQ-HĐND ngày
6/7/2012 về "Bảo tồn, phát huy di sản không gian văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk
Lắk giai đoạn 2007-2015". Trên cơ sở kết quả đạt được của hai nghị quyết này,
ngày 30-8-2016, HĐND tỉnh Đắk Lắk tiếp tục ban hành Nghị quyết số
05/2016/NQ-HĐND về "Bảo tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk"
giai đoạn 2016-2020 với nhiều nội dung, giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm thực
hiện cam kết trong hồ sơ đệ trình UNESCO... Thực hiện các nghị quyết của HĐND
tỉnh, từ năm 2007 đến năm 2020, tỉnh đã cấp ngân sách mua và cấp 154 bộ chiêng
cho những đội chiêng tiêu biểu ở các buôn trong tỉnh, trong đó giai đoạn 2016-
2020 cấp được 26 bộ chiêng, 358 bộ trang phục truyền thống cho các đội chiêng,
đội văn nghệ ở các buôn. Sở VHTTDL và các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh
đã tổ chức được 124 lớp truyền dạy đánh chiêng cho hàng trăm thanh thiếu niên, lOMoAR cPSD| 30964149
học sinh là con em đồng bào DTTS các buôn làng và các trường học trong tỉnh;
phục dựng được 136 nghi lễ, lễ hội truyền thống gắn với cồng chiêng; tổ chức biểu
diễn định ky một tháng hai chương trình văn hóa cồng chiêng phục vụ nhân dân và
du khách tại trung tâm văn hóa tỉnh… với tổng kinh phí hơn 12,7 tỷ đồng. Với sự
hỗ trợ thiết thực đó, văn hóa cồng chiêng đang "sống lại" trong đời sống, sinh hoạt
của đồng bào các dân tộc ở Đắk Lắk. Theo kết quả kiểm kê di sản văn hóa phi vật
thể trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk vào tháng 9/2020 cho thấy, toàn tỉnh hiện có 2.098
bộ chiêng, 5.116 nghệ nhân biết đánh chiêng, 311 nghệ nhân biết chỉnh chiêng,
1.366 nghệ nhân biết chơi các nhạc cụ truyền thống… Những nghệ nhân này là lực
lượng nòng cốt giữ gìn, bảo tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng ở các buôn làng Đắk Lắk.
-Tuy nhiên, Giám đốc Sở VHTTDL tỉnh Đắk Lắk, Thái Hồng Hà cũng cho biết,
văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nói chung, ở Đắk Lắk nói riêng đã và đang đối
mặt với nhiều nguy cơ, thách thức do quá trình chuyển biến về kinh tế, xã hội, tín
ngưỡng… làm thay đổi mạnh mẽ cuộc sống của đồng bào các dân tộc. Bên cạnh
đó, do ảnh hưởng của lối sống hiện đại, tác động tiêu cực bởi mặt trái của kinh tế
thị trường; quá trình đô thị hóa nhanh và sự ảnh hưởng của tôn giáo; đồng thời
những người biết văn hóa cồng chiêng ngày càng ít dần, lớp trẻ không mặn mà với
văn hóa cồng chiêng, rừng bị tàn phá, không gian canh tác nương rẫy bị thu hẹp,
bến nước bị khô hạn, nhà dài truyền thống đang bị thay thế bằng nhà bê-tông…
khiến cho văn hóa cồng chiêng đang bị mai một dần. Ở nhiều địa phương, buôn
làng cồng chiêng không còn ý nghĩa linh thiêng, cuộc sống của một bộ phận đồng
bào còn gặp khó khăn dẫn đến đem cồng chiêng đi bán, trao đổi, phục vụ cho các
mục đích khác… Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy
văn hóa cồng chiêng trên địa bàn, tại ky họp thứ 11, HĐND tỉnh Đắk Lắk khóa 9
vào đầu tháng 12/2020 vừa qua đã thông qua nghị quyết kéo dài thời gian thực
hiện Nghị quyết số 05/2016/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về bảo tồn, phát huy văn
hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk đến năm 2025. Với chủ trương này, Đắk Lắk không
ngừng nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng gắn
với phát triển du lịch cộng đồng nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước
đến với Đắk Lắk cũng như đại ngàn Tây Nguyên. Và chỉ khi du lịch cộng đồng
phát triển thì văn hóa cồng chiêng mới được bảo tồn bền vững cho hôm nay và mai sau. IV. Kết luận: lOMoAR cPSD| 30964149
*Thực trạng đáng suy ngẫm
-Tuy nhiên, hiện nay, văn hóa Tây Nguyên đang ngày càng mai một. Rừng bị
tàn phá, người dân tộc phải bỏ rừng, trong khi rừng vốn được coi là cội nguồn của
đời sống tâm linh, là phần sâu xa của con người và cộng đồng các dân tộc Tây
Nguyên. Nhà văn Nguyên Ngọc đã từng khẳng định: “mất rừng là mất văn hóa Tây
Nguyên ”. Bởi mất rừng thì cộng đồng nơi đây sẽ mất đi nền tảng vững bền và
thiêng liêng gắn liền với quốc thể, cộng đồng của chính họ. Đó là nơi nuôi dưỡng
con người, nơi các thế hệ đồng bào Tây Nguyên gửi gắm tâm hồn, chung sống hòa thuận từ bao đời nay.
-Bên cạnh đó, quy mô của làng bản ở Tây Nguyên không còn như xưa, nhất là
những khu định cư mới cho các công trình thủy điện. Không còn những buôn làng
trong một không gian truyền thống, những nhà rông, nhà dài, nhà sàn đã mất đi.
Thực trạng này thực sự rất đáng báo động. Đời sống nhân dân các dân tộc Tây
Nguyên hiện đang có rất nhiều khó khăn nên đồng bào chưa có điều kiện quan tâm
đến việc giữ gìn, phát huy văn hóa truyền thống. Thậm chí, ở một số địa phương,
người dân phải bán cả tài sản văn hóa vật thể như cồng chiêng, ché, nhà cổ… để
lấy tiền làm vốn sản xuất, đời sống.
-Khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tây Nguyên chỉ có khoảng 1 triệu người
với 12 dân tộc. Đến nay, số dân đã tăng lên đến khoảng 5 triệu người, chủ yếu do
sự gia tăng cơ học. Việc di dân, di cư ồ ạt kéo dài từ nhiều năm như vậy đã làm
cho tỷ lệ người dân tộc bản địa Tây Nguyên thay đổi, hiện chỉ còn 23-27% số dân
của Tây Nguyên. Việc tăng nhanh về dân số đã tác động đến văn hóa Tây Nguyên,
trở thành một thách thức lớn đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
cũng như đặt ra nhiều vấn đề trong phát triển kinh tế - xã hội. Chính sự gia tăng đột
biến về dân số đã tạo ra những biến đổi về văn hóa Tây Nguyên, bản sắc văn hóa
bản địa bị phá vỡ, lai tạp. Nhiều đồng bào dân tộc bản địa hiện không còn sống tập
trung trong những ngôi nhà rông, nhà dài như trước nữa. Văn hóa nhà rông, nhà
dài đang ngày càng mai một. Những mái nhà dài của người Ê Đê, nhà rông của
người Ba Na, Xê Đăng và người Kơ Tu với những nét kiến trúc riêng dần dần biến
mất ở các buôn làng Tây Nguyên. Giờ đây, nhà truyền thống được xây dựng bằng
bê tông, khiến cho không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng các dân tộc Tây
Nguyên dần bị thu hẹp. Mặt khác, nạn khai thác, phá rừng bừa bãi, diễn ra tràn lan
với tốc độ chóng mặt làm rất nhiều diện tích rừng bị mất đi, những cánh rừng đại
ngàn bị xóa bỏ. Hiện trạng trên đã để lại những hệ lụy nghiêm trọng về biến đổi
khí hậu, văn hóa - xã hội. lOMoAR cPSD| 30964149
-Hiện tại, một số lễ hội của văn hóa Tây Nguyên như lễ hội đâm trâu, lễ hội năm
mới, lễ hội cồng chiêng… chỉ còn xuất hiện trong các festival, hay các hoạt động
văn hóa do Nhà nước tổ chức. Ngoài ra, một bộ phận không nhỏ thanh niên ở Tây
Nguyên hiện nay ít quan tâm đến văn hóa truyền thống; cồng chiêng đã phần nào
bị thương mại hóa, bị mang đi bán ở các tỉnh miền xuôi; dẫn đến thực trạng không
gian văn hóa cồng chiêng đang thu hẹp dần, nghệ nhân sản xuất cồng chiêng,
người sử dụng cồng chiêng ngày càng ít. Văn hóa trang phục của đồng bào các dân
tộc Tây Nguyên cũng ít được sử dụng, thường chỉ có thể thấy ở những dịp lễ hội...
*Giải pháp phát triển bền vững văn hóa Tây Nguyên
-Là địa bàn chiến lược đặc biệt trọng yếu về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc
phòng và môi trường sinh thái của đất nước, sự ổn định và phát triển bền vững của
Tây Nguyên đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của cả nước. Bởi
vậy, để phát triển bền vững văn hóa Tây Nguyên cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
+1: Nhà nước cần phải có chính sách về việc nhanh chóng phục hồi rừng; xử lý
nghiêm các hành vi phá hoại rừng. Đây là cơ sở quan trọng cho việc ứng phó với
biến đổi khí hậu cũng như góp phần ổn định xã hội, gìn giữ những giá trị văn hóa
đặc sắc của đất và người Tây Nguyên.
+2: cần có chính sách đặc thù để gắn giáo dục với văn hóa Tây Nguyên, nâng
cao ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ Tây
Nguyên - những chủ nhân tương lai của vùng đất đỏ ba-zan. Đưa vào chương trình
giáo dục phổ thông các vấn đề về văn hóa dân tộc; giải pháp về giáo dục được coi
là tiên phong và là yếu tố then chốt, quyết định đến sự phát triển bền vững của Tây Nguyên.
+3: xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa sự phát triển của tôn giáo và việc bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa của các tộc người ở Tây Nguyên vì tôn giáo và tâm
linh là một nét đặc trưng, ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Tây Nguyên. Hiện nay,
sự phát triển ồ ạt của tôn giáo, tín ngưỡng như là một tín hiệu phức hợp. Chúng ta
cần phải xem xét có chiều sâu tình hình xã hội, không thể thờ ơ hay quy kết giản
đơn. Mặt khác cũng cần nhìn nhận, khuyến khích mặt tích cực của một số tôn giáo
ở Tây Nguyên, hướng tới mục tiêu chung trong phát triển kinh tế - xã hội. lOMoAR cPSD| 30964149
+4: có những cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển du lịch văn hóa bản làng,
du lịch sinh thái, đưa việc giữ gìn và phát triển bền vững văn hóa Tây Nguyên,
nhất là văn hóa cồng chiêng vào trong cuộc sống, để các giá trị văn hóa đặc sắc, đa
dạng được phát huy và vững bền. Cần xây dựng các mô hình du lịch cộng đồng
(homestay), gắn phát triển du lịch với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên để người
dân thực sự phát huy vai trò làm chủ của mình trong hoạt động du lịch, vừa góp
phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần vừa nâng cao ý thức bảo tồn, phát huy
và quảng bá giá trị văn hóa vùng đất đại ngàn tới du khách trong và ngoài nước.
Đây được coi là giải pháp mang tính đột phá để phát huy vai trò của văn hóa đối
với sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên.
*Nhiệm vụ của từng cá nhân trong bài thuyết trình:
- Thanh Mai: Điều kiện tự nhiên + Soạn Word lOMoAR cPSD| 30964149
- Quynh Thơ: Lịch sử hình thành và phát triển + Làm Slide
- Huy Thiện: Điều kiện kte-xhoi và dân cư
- Minh Mẫn: Văn hóa vật thể
- Ngọc Khuê: Văn hóa phi vật thể - Nam Hưng: Nguồn gốc - Văn Quân: Đặc điểm - Văn Long: Giá trị
- Văn Tây: Bảo tồn và phát huy giá trị