Vận dụng lý luận về mâu thuẫn để phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam | Bài tập lớn môn triết học mác - lênin
Vận dụng lý luận về mâu thuẫn để phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN THMLN ĐỀ BÀI:
Vận dụng lý luận về mâu thuẫn để phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Họ và tên SV: Đinh Thị Quỳnh Trang
Lớp tín chỉ : Kinh tế học Tài chính 63 Mã SV : 11219558
GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU HÀ NỘI, NĂM 2021 1 lOMoAR cPSD| 23022540 2 lOMoAR cPSD| 23022540 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................1
1. Một số vấn đề lý luận về mâu thuẫn biện chứng trong triết học..................1
1.1. Khái niệm mâu thuẫn biện chứng...................................................................1
1.2. Kết cấu, nguồn gốc của mâu thuẫn biện chứng....................................................... 6
1.3. Ý nghĩa của mâu thuẫn biện chứng ......................................................................... 6
2. Bản chất của sự mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với
hộinhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”...................................................................... 7
2.1. Quan điểm về độc lập, tự chủ .................................................................................. 7
2.2. Quan điểm về hội nhập quốc tế ............................................................................... 9
2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế ..................... 10
3. Thực trạng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, hội nhập kinh tếquốc
tế và phương hướng .................................................................................................... 14
3.1. Thực trạng.....................................................................................................13 .... 14
3.2. Phương hướng ....................................................................................................... 16
KẾT LUẬN.........................................................................................................15 .... 17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 17 MỞ ĐẦU
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định phải đặc biệt chú trọng nắm vững và
giải quyết tốt tám mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ “giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”.
Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh và cụ thể hơn là mối quan hệ “giữa độc lập, tự
chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”1. Để nhận thức đúng và xử lý tốt mối quan
1 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) 3 lOMoAR cPSD| 23022540
hệ đó, Đảng đã chỉ rõ nguyên tắc và phương châm: phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát
thực tiễn; chú trọng nghiên cứu dự báo xu hướng phát triển của đất nước và thế giới,
những diễn biến của khu vực, quốc tế tác động tới nước ta cả thuận lợi và khó khăn,
tích cực và tiêu cực để đón kịp, tận dụng thời cơ, chủ động vượt qua thách thức và nguy
cơ, tôn trọng quy luật khách quan, “không phiến diện, cực đoan, duy ý chí”.
Vậy độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế có mâu thuẫn với nhau không và nếu có
thì sự mâu thuẫn đó như thế nào ? Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin phép chọn
chủ đề: “Vận dụng lý luận về mâu thuẫn để phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” làm đề tài cho bài tập lớn của mình.
NỘI DUNG 1. Một số vấn đề lý luận về mâu thuẫn biện chứng trong triết học
1.1. Khái niệm mâu thuẫn biện chứng
Mâu thuẫn biện chứng (A: Dialectical contradiction; Ph: Contradiction
dialectique; N: Диалектическое противоречие) là một phạm trù của phép biện chứng
dùng để chỉ sự liên hệ và tác động giữa hai mặt đối lập. Thuật ngữ “mâu thuẫn” trong
tiếng Anh và các ngôn ngữ phương Tây khác có nghĩa đen là lời nói trái ngược nhau.
Nó gồm 2 từ gốc: diction (lời nói) và contra (tiền tố chỉ khuynh hướng trái ngược, chống
đối). Từ противоречие trong tiếng Nga cũng có kết cấu tương tự như vậy2.
Lúc đầu, thuật ngữ “mâu thuẫn” được dùng trong Lôgíc học hình thức để chỉ
những phát ngôn, phán đoán trái ngược nhau, một cái khẳng định, một cái phủ định (có
và không có; là và không phải là). Về sau thuật ngữ này được dùng trong phép biện
chứng của Hêghen và của Mác với một nghĩa rộng hơn, thậm chí khác với nghĩa nguyên
thủy của nó; “mâu thuẫn” đã trở thành một phạm trù triết học, nó không chỉ có trong tư
duy, mà cả trong hiện thực khách quan nữa.
“Mâu thuẫn” (từ Hán Việt) có liên quan đến hai loại binh khí - “mâu” là cái kích
để đâm và “thuẫn” là cái khiên để đỡ, có thể được hiểu như là mâu thuẫn khách quan
2 Từ điển triết học do M.M. Rodentan chủ biên ; Философский энциклопедический словарь;
3 Từ điển Bách khoa Việt Nam 4 lOMoAR cPSD| 23022540
giữa đâm và đỡ, giữa tác động và phản tác động; đồng thời cũng có thể hiểu như là một
mâu thuẫn lôgíc, tức là mâu thuẫn giữa hai lời quảng cáo phủ định nhau của anh thợ rèn
bán rao về hai loại sản phẩm đó của mình3.
Để phân biệt mâu thuẫn với tính cách là phạm trù của phép biện chứng với khái
niệm mâu thuẫn trong lôgíc học hình thức, người ta dùng những thuật ngữ khác nhau
mâu thuẫn biện chứng và mâu thuẫn lôgíc hình thức, gọi tắt là mâu thuẫn lôgíc. Tuy
nhiên, không phải lúc nào cũng có những tính từ biện chứng hay lôgíc hình thức đi sau
danh từ “mâu thuẫn”; do đó tùy theo từng ngữ cảnh mà ta có thể phân biệt thuật ngữ
“mâu thuẫn’’ được dùng với nghĩa như trên.
Mâu thuẫn biện chứng là những mâu thuẫn tồn tại tất yếu khách quan trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Ví dụ, mâu thuẫn giữa điện tích dương và điện tích âm, giữa
lực hút và lực đẩy trong thế giới vật lý, giữa đồng hóa và dị hóa trong sinh vật, giữa giai
cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột trong đời sống kinh tế, giữa các quan điểm, học thuyết
chống đối nhau trong triết học và các lý thuyết về tự nhiên, xã hội, v.v.. Còn mâu thuẫn
lôgíc là mâu thuẫn chủ quan và nó chỉ tồn tại trong tư duy.
Tuy nhiên, mâu thuẫn biện chứng khách quan được phản ánh thành mâu thuẫn
biện chứng trong tư duy (khác với mâu thuẫn lôgíc hình thức cũng là mâu thuẫn trong
tư duy). Hai loại mâu thuẫn trong tư duy này có sự khác nhau: Xét về nguồn gốc, mâu
thuẫn lôgíc là do sai lầm trong nhận thức, còn mâu thuẫn biện chứng là do tính phức
tạp của thế giới khách quan và của nhận thức con người. Trong mâu thuẫn lôgíc, khi đã
xác định được mặt mặt (phán đoán) là chân thật (đúng) thì mặt kia chắc chắn là sai lầm
(hoặc có thể cả hai đều sai lầm); còn trong mâu thuẫn biện chứng, vì mỗi tư tưởng chỉ
phản ánh một mặt trong hai mặt đối lập có liên hệ biện chứng với nhau của sự vật, nên
mỗi tư tưởng đều có thể chứa đựng những yếu tố chân lý nhất định (Ví dụ, với hai phán
đoán: “Trong mỗi con người đều có cái thiện” và “Trong mỗi con người đều có cái
ác”, không nhất thiết chỉ có một cái đúng, một cái sai). Giải quyết mâu thuẫn lôgíc chỉ
đơn giản là loại bỏ một hoặc cả hai tư tưởng sai lầm; còn giải quyết mâu thuẫn biện
chứng là một quá trình rất phức tạp3.
3 C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995 5 lOMoAR cPSD| 23022540
1.2. Kết cấu, nguồn gốc của mâu thuẫn biện chứng
Mâu thuẫn biện chứng có kết cấu gồm hai mặt đối lập và mối quan hệ giữa chúng
được thể hiện trong ba khái niệm: sự thống nhất của các mặt đối lập, sự đấu tranh của
các mặt đối lập và sự chuyển hóa của các mặt đối lập. Mối quan hệ của các mặt đối lập
có tính tất yếu, phổ biến, lặp đi lặp lại, được phép biện chứng coi là một trong ba quy
luật cơ bản của phép biện chứng - quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Mỗi sự vật, hiện tượng có thể chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Trong một mâu thuẫn
có thể vừa có những yếu tố tất yếu, khách quan vừa có những yếu tố không tất yếu,
không khách quan; cho nên nhận thức mâu thuẫn, phân biệt giữa mâu thuẫn biện chứng
với mâu thuẫn không biện chứng là hết sức khó khăn. Mâu thuẫn biện chứng được phân
thành nhiều loại: Mâu thuẫn bên trong (giữa các mặt đối lập trong cùng một sự vật,
hiện tượng) và mâu thuẫn bên ngoài (giữa các mặt đối lập ở các sự vật, hiện tượng
khác nhau); mâu thuẫn cơ bản (quy định bản chất, tồn tại trong suốt qua trình phát triển
của sự vật, hiện tượng và quy định các mâu thuẫn khác) và mâu thuẫn không cơ bản;
mâu thuẫn chủ yếu (mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong một giai đoạn phát triển của sự
vật) và mâu thuẫn không chủ yếu; mâu thuẫn đối kháng (mâu thuẫn giữa các lợi ích
không thể điều hòa được trong đời sống xã hội) và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn biện chứng có quá trình ra đời, phát triển từ thấp đến cao. Lúc đầu chỉ
là sự khác nhau giữa hai mặt, về sau biến thành sự đối lập. Sự đấu tranh của các mặt
đối lập đi từ chỗ ít gay gắt đến chỗ gay gắt hơn. Quá trình đấu tranh của các mặt đối lập
cũng gắn liền với sự giải quyết thường xuyên của mâu thuẫn, nhưng đó chỉ là sự giải
quyết cục bộ, tạm thời; mâu thuẫn thường xuyên được giải quyết nhưng cũng thường
xuyên tái lập lại trên cơ sở mới. Chỉ khi mâu thuẫn phát triển đến trình độ chín muồi
mới được giải quyết triệt để hoàn toàn4.
1.3. Ý nghĩa của mâu thuẫn biện chứng
Sự giải quyết mâu thuẫn biện chứng không chỉ phụ thuộc vào trình độ phát triển
(mâu thuẫn chưa chín muồi hay đã chín muồi) mà còn phụ thuộc vào bản chất (mâu
thuẫn đối kháng hay không đối kháng; mâu thuẫn kinh tế, mâu thuẫn chính trị hay mâu
4 Đỗ Minh Hợp, Lê Hữu Tầng (dịch) (1998). Lịch sử phép biện chứng. Nxb Chính trị Quốc gia 6 lOMoAR cPSD| 23022540
thuẫn tư tưởng …) và điều kiện tồn tại của mâu thuẫn (Ví dụ: Trong chế độ dân chủ hay
chế độ độc tài). Ngoài ra, sự giải quyết mâu thuẫn là quá trình khách quan phức tạp,
không phụ thuộc ý chí chủ quan của con người và không được quy về việc xóa bỏ mâu
thuẫn hay xóa bỏ một trong hai mặt đối lập. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết triệt để, chỉ
mất đi đã đạt đến chín muồi. Còn trong những trường hợp khác, sự giải quyết mâu thuẫn
thường là sự kết hợp hài hòa giữa các mặt đối lập.
Theo quan điểm của phép biện chứng, mâu thuẫn có vai trò là nguồn gốc, động
lực của sự vận động phát triển. Chính sự tác động, đấu tranh giữa các mặt đối lập bên
trong kết cấu sự vật làm cho sự vật vận động, biến đổi không ngừng. Sự đấu tranh của
các mặt đối lập dẫn đến giải quyết mâu thuẫn làm cho sự vật phát triển lên một trạng
thái mới. Khi mâu thuẫn cơ bản của sự vật được giải quyết hoàn toàn thì sẽ có sự thay
đổi về chất của sự vật, sự vật mới thay thế sự vật cũ. Trong quá trình đấu tranh của các
mặt đối lập, những gì lạc hậu, lỗi thời bị gạt bỏ nhường chỗ cho sự ra đời của cái mới, cái tiến bộ.
Quy luật mâu thuẫn biện chứng có vai trò quan trọng nhất trong ba quy luật cơ
bản của phép biện chứng duy vật và được V.I. Lênin coi là “hạt nhân của phép biện
chứng”. Nghiên cứu quy luật này giúp ta hiểu được nguồn gốc, động lực của sự tự thân
vận động, tự thân phát triển của thế giới khách quan và của tư duy con người, khắc phục
quan điểm duy tâm, siêu hình về sự phát triển5.
2. Bản chất của sự mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”.
2.1. Quan điểm về độc lập, tự chủ
Độc lập, tự chủ là tư duy nổi bật, nhất quán trong toàn bộ hoạt động chính trị của
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Nguyên lý chủ yếu của tư tưởng đó là “muốn người
ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”6. Giữ vững độc lập, tự chủ vừa là
đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia – dân tộc. Đó
chính là kết tinh của sự nghiệp đối ngoại thời đại Hồ Chí Minh.
5 Giáo Trình Triết Học Mác – Lênin (Dành Cho Bậc Đại Học Hệ Không Chuyên Lý Luận Chính Trị), tr.132
6 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 320 7 lOMoAR cPSD| 23022540
Theo Hồ Chí Minh, độc lập là không phụ thuộc, không bắt chước, theo đuôi, giáo
điều. Tự chủ là chủ động suy nghĩ và làm chủ suy nghĩ của mình, tự chịu trách nhiệm
trước nhân dân, trước đất nước, biết làm chủ bản thân và công việc. Trong quan hệ quốc
tế và đối ngoại của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Độc lập nghĩa là chúng tôi
điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”7. Trong
Lời kêu gọi nhân ngày kỷ niệm Độc lập 2-9-1948, Người khẳng định: “Độc lập mà
không có quân đội riêng, ngoại giao riêng, kinh tế riêng. Nhân dân Việt Nam quyết
không thèm thứ thống nhất và độc lập giả hiệu ấy”8. Như vậy, không chỉ dân tộc Việt
Nam độc lập, tự chủ, thống nhất và toàn vẹn về lãnh thổ mà ngoại giao, đối ngoại của
dân tộc cũng phải độc lập, không bị bất kỳ thế lực, lực lượng nào chi phối. Trong quan
hệ giữa các Đảng thuộc phong trào Cộng sản, công nhân quốc tế, Người xác định: “Các
Đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”9.
Độc lập, tự chủ tức là dựa vào sức mình là chính, có tham khảo, chọn lọc kinh
nghiệm, bài học của quốc tế, nhưng tự mình phải suy nghĩ, tìm tòi, định ra những chủ
trương, chính sách, biện pháp nhằm giải quyết công việc của đất nước, không chịu một
sức ép nào từ bên ngoài, không để “biến thành một con bài trong tay người khác”.
Độc lập, tự chủ là đặc trưng của bản lĩnh chính trị, đối ngoại của dân tộc Việt Nam. Hồ
Chí Minh đã kế thừa, vận dụng các giá trị ấy, vạch ra đường lối đối ngoại phù hợp với
điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam trong bối cảnh thời đại mới.
Để tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc tế, trước hết phải phát huy độc lập, tự chủ:
“Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không
xứng đáng được độc lập”10; từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tích cực, chủ động
đoàn kết, hợp tác quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ, tôn trọng lẫn nhau; thực hiện phương
châm “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”11, “thêm
bạn, bớt thù” và “giúp bạn là tự giúp mình”. Theo Hồ Chí Minh, Việt Nam đoàn kết,
7 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 162
8 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 602
9 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 732
10 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 445
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 256 8 lOMoAR cPSD| 23022540
hợp tác quốc tế không những để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ mà còn có trách nhiệm
ủng hộ, giúp đỡ các nước khác, thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng
chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hòa bình thế giới; đồng thời, Người chủ trương
hợp tác phải đi đôi với đấu tranh: mục đích của ta là vì đoàn kết, vì đoàn kết mà phải
tranh đấu; tranh đấu để đi đến đoàn kết, chứ không nói xấu ai.
Thực tế, trong Đại hội XIII của Đảng cũng đã thể hiện tư duy mới cũng như nội
hàm mới về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ. Đó là hướng tiếp cận mới
của Đại hội XIII về xây dựng nền kinh tế Việt Nam. Trong Văn kiện Đại hội XIII, việc
xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ chính thức được nhấn mạnh như một
nhiệm vụ kinh tế để hiện thực hóa khát vọng phát triển của Việt Nam trong bối cảnh mới.
2.2. Quan điểm về hội nhập quốc tế
Độc lập, tự chủ nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc chính đáng, thực hiện
các quyền dân tộc cơ bản trong điều kiện lợi ích của các dân tộc đan xen, chồng chéo.
Nhưng độc lập, tự chủ và tự lực, tự cường hoàn toàn đối lập với sự biệt lập và chủ nghĩa
biệt phái. Để chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần, Hồ Chí Minh
luôn chủ trương tăng cường đoàn kết và tranh thủ sự hợp tác quốc tế, coi đây là vấn đề
có tầm chiến lược hàng đầu trong đường lối cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của đoàn
kết và hợp tác quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và
giúp đỡ quốc tế, làm tăng thêm khả năng tự lực, tự cường, tạo điều kiện làm chuyển
biến so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng. Vì vậy, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
phải gắn với đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời kết hợp với đấu tranh kiên quyết và
khôn khéo để thực hiện mục tiêu của cách mạng và bảo vệ quyền lợi quốc gia. Đó là
một nguyên lý cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ
hoạt động quốc tế và ngoại giao Việt Nam, được Đảng ta nâng lên thành đường lối độc
lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế12.
Thực tế, trong quá trình lãnh đạo của Đảng ta, một mặt, độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của tiến trình cách mạng. Trong đó, vấn
12 Trần Vi Dân, Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong đối ngoại, đoàn kết quốc tế và việc vận dụng trong
tình hình hiện nay, Tạp Chí Cộng Sản, 07.2021 9 lOMoAR cPSD| 23022540
đề khát vọng độc lập dân tộc và phát triển luôn là nguồn mạch trong tư duy cũng như
trong chỉ đạo thực tiễn của Đảng. Trong thời kỳ đổi mới, khía cạnh phát triển càng trở
nên nổi bật trong suốt hệ thống đường lối, chủ trương của Đảng ta. Mặc dù vậy, để nhất
quán về mặt tư duy và cách tiếp cận, coi việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập,
tự chủ như một nội hàm chính thức của quá trình hiện thực hóa khát vọng phát triển, để
Việt Nam trở thành quốc gia giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc thì đến Đại hội XIII mới
được diễn đạt cụ thể và rõ hơn cả13.
Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là một nội dung trong ba nội dung cốt
lõi của hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (bao gồm: 1- Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 2- Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ những điểm nghẽn và xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; 3- Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế). Điều
này vừa thể hiện cách tiếp cận mới phù hợp với quy luật khách quan của nền kinh tế thị
trường, vừa thể hiện tư duy mới trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong
bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đòi hỏi
thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập
quốc tế; không tách rời việc hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; phù hợp với tầm nhìn về bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc là cao nhất,
song lại không trái với các nguyên tắc phát triển phù hợp với những điều ước quốc tế
và cam kết quốc tế mà Việt Nam đang ký kết. Đồng thời, xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ không phải là nền kinh tế khép kín, mà là nền kinh tế thị trường mở cửa, hội
nhập. Đây là sự nhất quán trong cách tiếp cận của Đại hội XIII, là điểm mới so với các
văn kiện tại các kỳ đại hội trước của Đảng ta.
2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế
Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế là mối quan
hệ khách quan, nảy sinh và ngày càng sâu đậm trong quá trình chúng ta đổi mới, phát
triển đất nước và mở cửa, hội nhập với thế giới. Đó là mối quan hệ mâu thuẫn biện
13 Ngô Tuấn Nghĩa, Quan điểm mới về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ trong Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng, Tạp Chí Cộng Sản, 09/2021 10 lOMoAR cPSD| 23022540
chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu được xử lý tốt sẽ tạo tiền đề, điều kiện cho nhau,
phát huy lẫn nhau, vừa thống nhất vừa thúc đẩy nhau trong việc bảo đảm lợi ích tối cao
của quốc gia, dân tộc. Ngược lại, nếu không giải quyết tốt, hai mặt của mối quan hệ này
sẽ hạn chế, cản trở lẫn nhau. Để giải quyết thật tốt mối quan hệ này, trước hết cần thấy
rõ bản chất và nội hàm của nó thể hiện rõ trên những điểm cơ bản sau:
a) Độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
Một là, độc lập, tự chủ không phải là biệt lập, cô lập với thế giới bên ngoài, không
đứng ngoài hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ thể hiện chủ quyền, quyền tự quyết, tự
lựa chọn con đường phát triển, tự quyết định mô hình phát triển của quốc gia, dân tộc.
Tự chủ là năng lực thực hiện chủ quyền, tức là thực hiện quyền tự quyết dân tộc trên
thực tế. Độc lập, tự chủ bao gồm độc lập, tự chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại,v.v. Do đó, không có độc lập, tự chủ thì không thể nói tới hội
nhập quốc tế chứ chưa nói tới chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Hai là, độc lập, tự chủ là nhân tố đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ với
hội nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong việc tự quyết định lộ
trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, đối tác, lĩnh vực… hội nhập quốc tế. Qua
gần 35 năm đổi mới cho thấy, đường lối độc lập, tự chủ của Đảng đã định hướng đúng
cho tiến trình hội nhập từ việc lựa chọn lĩnh vực ưu tiên, xác định lộ trình hội nhập phù
hợp... Ban đầu, chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, sau đó cùng với hội nhập
kinh tế, đã từng bước hội nhập toàn diện vào khu vực và quốc tế. Do vậy, quan hệ đối
ngoại của nước ta được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế và
lực mới của đất nước. Quan điểm và chính sách kiên trì độc lập, tự chủ của Đảng ta
luôn luôn được cụ thể hóa, bổ sung và phát triển theo sự chuyển biến của tình hình trong
nước và quốc tế. Điều đó đã mở đường cho quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
ngày càng sâu rộng, phục vụ thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng
đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.14
Ba là, có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong lựa chọn, đề xuất các giải
pháp đồng bộ, hữu hiệu, hạn chế tác động tiêu cực, phát huy tác động tích cực trong
14 Vũ Văn Hiền, Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, Tạp Chí Tuyên Giáo, 09/2020 11 lOMoAR cPSD| 23022540
quá trình hội nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong phân tích,
xử lý thông tin để có những giải pháp thiết thực, đồng bộ, hữu hiệu trước sự thay đổi
mau lẹ của tình hình thế giới và khu vực, mới chủ động, tích cực trong hội nhập quốc tế.
Bốn là, độc lập, tự chủ là cơ sở để tận dụng nhiều cơ hội to lớn, đồng thời hạn
chế tối đa những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước vừa, nhỏ, đang phát
triển như Việt Nam do quá trình toàn cầu hóa gây ra. Để thích ứng với tiến trình toàn
cầu hóa, tận dụng được những cơ hội vàng do toàn cầu hóa đem lại, ngăn ngừa và khắc
phục những thách thức do toàn cầu hóa gây ra thì các quốc gia phải chủ động, độc lập,
tự chủ và nỗ lực cùng nhau hợp tác không phân biệt giàu nghèo, to nhỏ. Nhưng sự hợp
tác đó phải trên tinh thần bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng luật pháp quốc tế. Do vậy,
các quốc gia, dân tộc chủ động hội nhập quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ thì mới có hiệu quả.
Năm là, độc lập, tự chủ sẽ là cơ sở, điều kiện để nước ta chủ động phát huy được
lợi thế so sánh của mình trong quá trình hội nhập quốc tế nhằm từng bước phát triển.
Chẳng hạn, chúng ta có lợi thế về các sản phẩm nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp,
may mặc, giày da… Chúng ta chỉ có thể xuất khẩu được những mặt hàng có lợi thế so
sánh này khi hội nhập đầy đủ và sâu rộng vào kinh tế quốc tế. Nhưng nếu không độc
lập, tự chủ thì lợi thế so sánh trong hội nhập sẽ bị các nước lớn mạnh lái theo ý họ. Có
độc lập, tự chủ thì mới cân đối được, làm chủ được quan hệ giữa xuất khẩu và nhập
khẩu, tránh nhập siêu quá giới hạn cho phép của nền kinh tế. Có độc lập, tự chủ chúng
ta mới thúc đẩy cho kinh tế du lịch phát triển, lôi cuốn, kêu gọi được khách quốc tế đến
tham quan, du lịch, làm ăn tại nước ta. Đây cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy
kinh tế trong nước phát triển.
b) Hội nhập quốc tế góp phần tăng cường khả năng giữ vững độc lập, tự chủ của quốc gia, dân tộc
Một là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội, tiền đề cho chúng ta giữ vững
độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc
phòng, an ninh. Thực tiễn gần 35 năm mở cửa, hội nhập, dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng, sự điều hành, quản lý hiệu quả của Nhà nước, hội nhập quốc tế đã trở thành 12 lOMoAR cPSD| 23022540
một trong các nguồn lực quan trọng để chúng ta củng cố độc lập, tự chủ. Chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế vừa là một giải pháp vừa là một động lực để giữ vững độc lập, tự chủ.
Hai là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cho chúng ta những cơ hội thuận lợi để huy
động nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội trong nước. Để phát triển kinh
tế - xã hội, giữ vững độc lập, tự chủ, chúng ta phải phát huy cao độ nội lực, xem đó là
nhân tố quyết định đối với sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy phải
coi trọng huy động các nguồn lực bên ngoài. Muốn phát huy được các nguồn lực bên
ngoài thì phải thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế. Chính hội nhập quốc tế cho chúng
ta những điều kiện để tận dụng được lợi thế của các nguồn lực bên ngoài như nguồn lực
vốn, nguồn lực kỹ thuật, nguồn lực quản lý. Chúng ta đều rõ, toàn cầu hóa tạo ra cơ hội
mở rộng thị trường, hàng rào thuế quan ngày càng thu hẹp, làm cho các luồng chuyển
giao vốn vượt ra khỏi biên giới quốc gia, dân tộc, tạo ra nhiều hình thức đầu tư, hợp tác
sản xuất. Tất cả những thuận lợi này cũng như các nguồn lực bên ngoài chỉ được phát
huy có hiệu quả thông qua nội lực. Do vậy, phải chủ động, tích cực trong hội nhập quốc tế.15
Ba là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế giúp chúng ta thực hiện thành công
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chính quá trình toàn
cầu hóa đang làm thay đổi phân công lao động trên từng khu vực và trên toàn thế giới.
Chúng ta có thể tận dụng sự tái phân công lao động này để phát huy mặt mạnh và lợi
thế so sánh cho phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế sẽ cho chúng ta những cơ hội để rút ngắn quá trình này. Bởi lẽ, hội nhập kinh
tế trong điều kiện toàn cầu hóa sẽ có cơ hội tiếp nhận và ứng dụng nhanh chóng những
thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến để rút ngắn quá trình phát triển.
Bốn là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội, môi trường hòa bình,
ổn định để chúng ta phát triển đất nước, trên cơ sở đó góp phần giữ vững độc lập, tự
chủ. Là một dân tộc đã trải qua nhiều năm chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam hiểu
15 Nguyễn Văn Thạo, Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, Hội đồng Lý luận Trung Ương, 12/2019 13 lOMoAR cPSD| 23022540
rõ và khát khao hơn bất cứ quốc gia, dân tộc nào sự hòa bình, ổn định để chấn hưng đất
nước. Chúng ta đều rõ, hiện nay trên bình diện an ninh, đang nổi lên nhiều vấn đề an
ninh đáng lo ngại như chủ nghĩa khủng bố, xung đột tôn giáo, xung đột sắc tộc, chủ
nghĩa ly khai, nguy cơ bất ổn chính trị.16
Năm là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta hội nhập đầy đủ,
sâu rộng hơn vào các thể chế kinh tế thế giới cũng như thể chế kinh tế khu vực, như Tổ
chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)... Trên cơ sở đó, góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế và giữ vững độc lập, tự chủ. Để phát triển kinh tế, chúng ta không thể không hội nhập
quốc tế để hội nhập đầy đủ hơn vào các thể chế kinh tế thế giới cũng như thể chế kinh
tế khu vực. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: "Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến
lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của
toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực,
gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh
của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo
thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ
động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không thể rơi vào thế bị động, đối đầu bất lợi"18.
3. Thực trạng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, hội nhập kinh tế
quốc tế và phương hướng 3.1. Thực trạng
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng, hội nhập quốc
tế của đất nước ta đã được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả tích cực. Đến nay, Việt
Nam có quan hệ ngoại giao với 184 nước thuộc tất cả các châu lục, có quan hệ với tất
cả các nước lớn, các ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc; có quan hệ
kinh tế, thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, ký kết hơn 90 hiệp định thương mại
song phương, đa phương, trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; gần
16 Vũ Văn Hiền, Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế,Tạp Chí Quốc Phòng Toàn Dân, 03/2019 18 Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.154- 155. 14 lOMoAR cPSD| 23022540
60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Việt Nam là thành viên Liên Hiệp Quốc,
nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng
thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), thành viên ASEAN, APEC, ASEM... Hội
nhập quốc tế được mở rộng, phát triển tất cả trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh, quốc phòng. Hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp mở rộng thị trường, thu hút được
lượng lớn vốn đầu tư, thành tựu khoa học, công nghệ mới và các nguồn lực quan trọng
khác, đóng góp tích cực vào tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu, nâng cao trình độ của nền
kinh tế, thu nhập, đời sống nhân dân.
Bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, việc nhận thức và giải quyết
mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế vẫn còn những hạn chế. Nhận
thức về mối quan hệ này chưa đầy đủ, chưa thành ý thức thường trực ở các cấp, các
ngành, các lĩnh vực; vẫn còn biểu hiện chỉ thấy lợi ích kinh tế trước mắt, còn không
thấy về lâu dài sẽ ảnh hưởng độc lập, tự chủ của đất nước. Chất lượng, hiệu quả hội
nhập kinh tế quốc tế chưa cao, chưa tận dụng và khai thác có hiệu quả các tiềm năng,
cơ hội do hội nhập đem lại để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Tình trạng xuất
khẩu một số sản phẩm tập trung quá nhiều vào một thị trường; nhất là tình trạng nhập
siêu, thâm hụt thương mại lớn, kéo dài với một đối tác, không được khắc phục mà vẫn
tiếp tục gia tăng. Tình trạng thiếu chủ động, kịp thời sử dụng các biện pháp phòng vệ
không trái với cam kết quốc tế để bảo vệ thị trường và sản xuất trong nước trước sự
xâm nhập của các lực lượng kinh tế hùng mạnh từ các nước trên thế giới; để ngăn ngừa
và giảm thiểu tác động tiêu cực đối với kinh tế đất nước do những biến động, cú sốc từ
bên ngoài. Tình trạng không phải các doanh nghiệp trong nước là lực lượng nòng cốt,
chủ lực mà doanh nghiệp FDI mới là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế của đất
nước (đã chiếm trên 70% giá trị kim ngạch xuất khẩu, gần 70% giá trị sản xuất công
nghiệp), trong khi doanh nghiệp FDI hầu như tách biệt với các doanh nghiệp trong
nước, trở thành khu vực kinh tế biệt lập17...
17 Báo cáo số 499/BC-CP, ngày 16-10-2019, của Chính phủ “Hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại
doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc”. 15 lOMoAR cPSD| 23022540 3.2. Phương hướng
Trong những năm tới, trong bối cảnh tình hình chính trị, an ninh và kinh tế thế
giới, khu vực thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, cơ hội và thách thức đối với
đất nước ta đều rất lớn. Hội nhập quốc tế phải tiếp tục được đẩy mạnh, nâng cao hiệu
quả; độc lập tự chủ của đất nước phải tiếp tục được giữ vững, tăng cường. Trong bối
cảnh đó, việc quán triệt và giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập
quốc tế cùng có ý nghĩa quan trọng. Để bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước trong bối
cảnh tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đòi hỏi:
Phải giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến
lược phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải không ngừng củng cố, tăng
cường tiềm lực, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước cả về chính trị, kinh tế, quốc
phòng, an ninh; nâng cao uy tín quốc tế; không ngừng củng cố, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc; phải bảo đảm an ninh, giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, xã hội
của đất nước, phát triển lực lượng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, thực sự là nòng
cốt trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực cần phải theo một chiến lược hội nhập tổng
thể với nhiều hình thức đa dạng, lộ trình, bước đi phải phù hợp với chiến lược, mục
tiêu, năng lực của đất nước trong từng giai đoạn. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế, nhất là với các đối tác lớn, có vai trò và ý nghĩa chiến lược, tránh lệ thuộc vào
một đối tác, một thị trường. Đổi mới, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài. Có
những giải pháp hiệu quả ngăn ngừa, làm thất bại những âm mưu, hoạt động chống phá
của các thế lực thù địch; chủ động xây dựng hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế,
doanh nghiệp và thị trường trong nước trước những biến động phức tạp, tác động tiêu
cực từ thị trường và kinh tế thế giới, không trái với các cam kết quốc tế đã ký kết18...
18 Nguyễn Văn Thạo, Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, Hội đồng Lý luận Trung Ương, 12/2019 16 lOMoAR cPSD| 23022540 KẾT LUẬN
Sự tác động, đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong kết cấu sự vật làm cho sự
vật vận động, biến đổi không ngừng. Đó cũng chính là mối quan hệ của việc xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là quan hệ biện chứng, vừa
thống nhất, vừa mâu thuẫn. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của đất nước thống nhất
với nhau ở mục tiêu cuối cùng đều là vì lợi ích của đất nước, của quốc gia, dân tộc, đều
vì lợi ích của nhân dân. Mục tiêu của hội nhập quốc tế là vì lợi ích của đất nước, để phát
triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Độc lập, tự chủ cũng vì lợi ích của đất
nước, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định chân lý “Không có gì quý hơn độc lập,
tự do”, Người cũng đã từng nói lên khát vọng cháy bỏng của nhân dân ta trong những
ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945: “Dù có phải đốt cháy cả dải Trường Sơn cũng
phải giành cho được độc lập, tự do”. Đồng thời, Bác cũng từng nói nước được độc lập
mà nhân dân không có tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Độc lập,
tự chủ và hội nhập quốc tế còn có quan hệ gắn bó, là tiền đề, điều kiện của nhau. Độc
lập, tự chủ là cơ sở, tiền đề, điều kiện cho hội nhập quốc tế, cụ thể là cho việc xác định
chiến lược hội nhập, nội dung, bước đi, cách thức hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực để
hội nhập quốc tế đạt hiệu quả cao nhất.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011)
2. Từ điển triết học do M.M. Rodentan chủ biên ; Философский
энциклопедический словарь;
3. Từ điển Bách khoa Việt Nam
4. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995
5. Đỗ Minh Hợp, Lê Hữu Tầng (dịch) (1998). Lịch sử phép biện chứng. Nxb Chính trị Quốc gia 17 lOMoAR cPSD| 23022540
6. Giáo Trình Triết Học Mác – Lênin (Dành Cho Bậc Đại Học Hệ Không Chuyên
Lý Luận Chính Trị), tr.132
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 320
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 162
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 732
10.Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 445
11.Trần Vi Dân, Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong đối ngoại, đoàn kết
quốc tế và việc vận dụng trong tình hình hiện nay, Tạp Chí Cộng Sản, 07.2021
12.Ngô Tuấn Nghĩa, Quan điểm mới về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự
chủ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Tạp Chí Cộng Sản, 09/2021
13.Vũ Văn Hiền, Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế, Tạp Chí Tuyên Giáo, 09/2020
14.Nguyễn Văn Thạo, Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, Hội
đồng Lý luận Trung Ương, 12/2019
15.Vũ Văn Hiền, Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế,Tạp Chí Quốc Phòng Toàn Dân, 03/2019
16.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.154-155.
17.Báo cáo số 499/BC-CP, ngày 16-10-2019, của Chính phủ “Hoạt động đầu tư,
quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc”.
18.Nguyễn Văn Thạo, Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế,
Hội đồng Lý luận Trung Ương, 12/2019 18