TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI T P L N MÔN THMLN
ĐỀ BÀI: Vận dụng lý luận về mâu thuẫn để phân tích
mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Họ và tên SV: Lê Đặng Ngọc Huyền
Lớp tín chỉ: (121)_15
Mã SV: 11217254
GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU
....................................................................................
HÀ NỘI, NĂM 2021
1
ĐẶT VẤN ĐỀ...............................................................................................................3
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ MÂU THUẪN...............................................................4
1. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất...4
1.1. Khái niệm về mâu thuẫn................................................................................4
1.2. Các loại mâu thuẫn........................................................................................5
2. Chuyển hóa của các mặt đối lập.........................................................................6
CHƯƠNG II. MÂU THUẪN GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP, TỰ
CHỦ VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM..............................7
1. Bản chất của nền kinh tế độc lập tự chủ............................................................7
2. Giải quyết mâu thuẫn giữa nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế
quốc tế......................................................................................................................10
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN.......................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................14
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và
tư duy con người. Triết học Mác – Lê nin đã chỉ ra, mâu thuẫn là một tất yếu
khách quan, mang tính phổ biến và có đa dạng các loại mâu thuẫn. Từ lí luận
về mâu thuẫn, ta xem xét mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ
với hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong hoạt động kinh tế, mâu thuẫn cũng mang tính phổ biến, chẳng hạn
như cung - cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp,
từng công ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá... Mâu
thuẫn tồn tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự
vật mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và
sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn này mất đi thì
mâu thuẫn khác lại hình thành... Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo đã dành được nhiều thắng lợi bước đầu mang tính
quyết định, quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đó đã đạt được nhiều thành công to
lớn nhưng trong những thành công đó luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn
làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Đòi hỏi phải được giải
quyết và nếu được giải quyết sẽ thúc đẩy cho sự phát triển của nền kinh tế.
Với mong muốn tìm hiểu thêm những vấn đề của nền kinh tế, quan điểm
lý luận dựa trên nền tảng kiến thức lý luận về mâu thuẫn trong Triết học Mác
– Lê nin cũng như những vướng mắc trong giải pháp, quy trình xử lý các vấn
đề chính trị - xã hội có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc
chuyển nền kinh tế, em quyết định chọn làm đề tài về “Mâu thuẫn giữa nền
kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” để làm đề
tài cho tiểu luận môn triết học Mác- Lê nin của mình.
3
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ MÂU THUẪN
1. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống
nhất
1.1. Khái niệm về mâu thuẫn
Mâu thuẫn của sự vật, của thế giới đã được rất nhiều nhà Triết học trong
lịch sử bàn đến. Chẳng hạn, thuyết âm dương ngũ hành của Trung Hoa đã đề
cập tới các mâu thuẫn Âm – Dương, mâu thuẫn giữa các yếu tố bản nguyên
bản nguyên Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại
Heerraclit cũng nhấn mạnh mâu thuẫn của các hiện tượng, quá trình khác
quan. Hê-ghen đề cập tới mâu thuẫn của tư duy. Nói chung, các quan niệm
trên đều đã mô tả mâu thuẫn khách quan nhưng chưa làm rõ được sự chuyển
hóa biện chứng của các mặt đối lập. Vì thế, khái niệm mâu thuẫn còn nặng
về hình thức mà chưa đi sâu vào nội dung biện chứng của các mặt đối lập.
Quan niệm về mâu thuẫn trong triết học Mác – Lênin: Trong phép biện
chứng duy vật, là khái niệm dùng để chỉ mâu thuẫn biện chứng sự liên hệ,
tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại trừ,
vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn
biện chứng là các mặt đối lập, các bộ phận, các thuộc tính… có khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau, nhưng cùng tồn tại khách quan trong mỗi sự
vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong mỗi mâu thuẫn các mặt
đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau tạo nên trạng thái ổn
định tương đối của sự vật, hiện tượng.
Thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa
chúng và được thể hiện ở việc: Thứ nhất, các mặt đối lập cần đến nhau,
nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại, không có mặt này thì
không có mặt kia; Thứ hai, các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng
nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình thành và với cái cũ chưa
mất hẳn; Thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự tương đồng, đồng nhất do trong
các mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau. Do sự đồng nhất này
4
mà trong nhiều trường hợp, khi mâu thuẫn xuất hiện và tác động ở điều kiện
phù hợp, các mặt đối lập chuyển hóa vào nhau. Đồng nhất không tách rời với
sự khác nhau, với sự đối lập, bởi mỗi sự vật, hiện tượng vừa là bản thân nó,
vừa là sự vật, hiện tượng đối lập với nó nên trong đồng nhất đã bao hàm sự
khác nhau, đối lập.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua
lại theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng và sự tác động đó cũng
không tách rời sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng trong một
mâu thuẫn. So với đấu tranh giữa các mặt đối lập thì thống nhất giữa chúng
có tính tạm thời, tương đối, có điều kiện; còn đấu tranh có tính tuyệt đối,
nghĩa là đấu tranh phá vỡ sự ổn định tương đối của chúng dẫn đến sự chuyển
hóa về chất của chúng. Tính tuyệt đối của đấu tranh gắn với sự tự thân vận
động, phát triển diễn ra không ngừng của sự vật, hiện tượng.
1.2. Các loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới và vô cùng
đạ dạng. Sau đây là một số loại mâu thuẫn:
* Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
- Mâu thuân cơ bản tác động trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, hiện
tượng; quy định bản chất, sự phát triển của chúng từ khi hình thành đến lúc
tiêu vong.
- Mâu thuẫn không cơ bản đặc trưng cho một phương diện nào đó, chỉ quy
định sự vận động, phát triển của một hay một số mặt của sự vật, hiện tượng
và chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ bản
* Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu:
- Mâu thuẫn chủ yếu luôn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển của sự
vật, hiện tượng, có tác dụng quy định đối với các mâu thuân khác trong cùng
giai đoạn đó của quá trình phát triển. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ tạo
điều kiện để giải quyết các mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn. còn sự phát
triển, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng từ hình thức này sang hình thức
5
khác phụ thuộc vào việc giải quyết các mâu thuẫn khác phụ thuộc vào việc
giải quyết mâu thuẫn chủ yếu
- Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định trong sự
vận động, phát triển cúa sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, ranh giới giữa mâu
thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu chỉ là tương đối, tùy theo hoàn cảnh cụ
thể.
* Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài:
- Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập quy định
trực tiếp quá trình vận động và sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Mâu thuẫn bên ngoài xuất hiện trong mối liên hệ giữa các sự v ật, hiện
tượng với nhau; tuy cũng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của chúng,
nhưng phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy tác dụng.
* Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:
- Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực
lượng, xu hướng xã hội… có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều
hòa được. Đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp bóc lột và bị bóc lột, giữa giai
cấp thống trị và giai cấp bị trị…
- Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn
người, lực lượng, xu hướng xã hội… có lợi ích cơ bản không đối lập nhau
nên là mâu thuẫn cục bộ, tạm thời.
2. Chuyển hóa của các mặt đối lập
Không phải bất kì sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự
chuyển hóa giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển
đến một trình độ nhất định, hội tụ đủ điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển
hóa, bài trừ, phủ định nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hóa của các mặt đối
lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hóa của các
mặt đối lập nhất thiết phải diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con
người, Do đó không nên hiểu sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập
chỉ là sự hoán đổi vị trí theo một cách máy móc, đơn giản. Trong thế giới
6
hiện thực, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng chứa đựng những mặt có
khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hóa của các
mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện
tượng khách quan, phổ biến. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũng mất đi,
sự vật mới được hình thành. Sự vật mới tiếp tục nảy sinh các mặt đối lập,
mâu thuẫn.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo
thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu
thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quá phát triển.
CHƯƠNG II. MÂU THUẪN GIỮA XÂY DỰNG
NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VỚI HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
Trong giai đoạn hiện nay, cũng như trong tương lai, hội nhập kinh tế quốc
tế đối với Việt Nam có nghĩa là Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế
quốc tế và khu vực …, phát triển các quan hệ thương mại, đầu tư với mọi
quốc gia, đặc biệt là các trung tâm kinh tế thế giới, hợp tác mở rộng với các
công ty xuyên quốc gia. Phát triển các mối quan hệ này sẽ dẫn đến một kết
quả là: các hàng rào thuế quan và phi thuế quan phải giảm thiểu theo các
nguyên tắc của các tổ chức trên, các công ty nước ngoài được phép vào Việt
Nam hoạt động một cách bình đẳng với các công ty Việt Nam và ngược lại.
1. Bản chất của nền kinh tế độc lập tự chủ.
Bản chất của nền kinh tế độc lập tự chủ được hiểu theo :hai cách
Thứ nhất, nền kinh tế độc lập tự chủ trong mô hình kinh tế hướng nội.
Mô hình kinh tế độc lập tự chủ hướng nội là một nền kinh tế có khả năng tự
đảm bảo các nhu cầu của đất nước. Một cơ cấu hoàn chỉnh, hoặc tương đối
hoàn chỉnh là quốc sách của mô hình này. Những ngành công nghiệp nặng,
đặc biệt là những ngành công nghiệp nền tảng gồm năng lượng, sản xuất các
7
nguyên liệu cơ bản như sắt thép, hoá chất, lọc dầu, xi măng, … được chú
trọng đặc biệt. Quan điểm cơ cấu ngành của nền kinh tế độc lập tự chủ theo
mô hình này là nhấn mạnh tính quan trọng của việc tự đảm bảo các nhu cầu
trong nước, dù phải chịu những bất lợi về hiệu quả, hầu như không tính tới
những lợi thế so sánh quốc tế. Ưu tiên hàng đầu là không phụ thuộc vào bên
ngoài.
Những chính sách này đã gây ra những hậu quả lớn: Làm tăng giá các
hàng hoá trong nước gây thiệt hại cho người tiêu dùng; Duy trì bảo hộ tình
trạng lạc hậu về công nghệ tổ chức quản lý; Chính sách bảo hộ cao đã làm
ảnh hưởng đến môi trường đầu tư; Hạn chế việc mở rộng thị trường. Một
nền kinh tế độc lập tự chủ trong mô hình kinh tế hướng nội có đặc trưng
quan trọng nhất là tự đảm bảo các nhu cầu thiết yếu trong nước, để không lệ
thuộc vào bên ngoài, từ hoạch định chiến lược đến các hàng hoá, dịch vụ,
cũng không bị tác động từ bên ngoài bởi các chấn động về chính trị, an ninh,
kinh tế, …
Thực tế cho thấy không có một quốc gia nào đi theo mô hình kinh tế này
đạt được những thành công vững chắc, hầu hết đều đã hoặc là thất bại, hoặc
là phải trả giá đắt, hoặc là lâm vào khủng hoảng, suy thoái, trì trệ kéo dài. Vì
vậy, buộc các quốc gia phải tìm kiếm một mô hình phát triển khác, một cách
hiểu khác về tính độc lập tự chủ của nền kinh tế.
Thứ hai, là nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế. Nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
là một nền kinh tế gồm những ngành có lợi thế cạnh tranh cao, và tuỳ thuộc
vào thị trường thế giới. Độc lập tự chủ trong mô hình này chấp nhận sự tuỳ
thuộc lẫn nhau trên cơ sở cùng có lợi trong quan hệ giữa các quốc gia. Sự
tuỳ thuộc lẫn nhau này diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực từ hoạch định chính
sách phát triển, thể chế kinh tế vĩ mô, đến cả sự hình thành các ngành kinh
tế, các công ty. Mô hình kinh tế này đưa lại nhiều mặt tích cực, nhưng đồng
thời cũng đưa lại nhiều mâu thuẫn, nhiều tiêu cực.
Trước hết, nhận định mặt tích cực, hội nhập kinh tế quốc tế đã và sẽ tạo ra
những cơ hội cho sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, cho phép chúng
8
ta tiếp cận với nền văn minh công nghiệp của thế giới. Toàn cầu hoá kinh tế
là một cơ hội để chúng ta phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo ra cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội
và do đó mà có điều kiện và khả năng thực tế để bảo đảm vững chắc chủ
quyền quốc gia. Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, chúng ta có
nhiều cơ hội để tiếp cận nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại của
thế giới, học hỏi những kinh nghiệm quản lí xã hội, tiếp thu những tinh hoa
của nền văn minh công nghiệp.
Bên cạnh mặt tích cực, toàn cầu hoá kinh tế cũng đưa lại không ít mâu thuẫn.
Cụ thể là:
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài, có
nhiều vốn đầu tư đổ vào thì nền kinh tế mới có điều kiện xây dựng cơ sở hạ
tầng hiện đại, mới có điều kiện đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao năng
suất lao động. Tuy nhiên, vốn đầu tư từ nước ngoài bao giờ cũng gắn với
những điều kiện nhất định, như điều kiện về mục đích sử dụng, đối tượng sử
dụng, thời gian sử dụng, …. Như vậy là nước nhận đầu tư đã phần nào bị chi
phối, bị khống chế về kinh tế, chính trị bởi chủ đầu tư. Và từ đó làm nảy sinh
mâu thuẫn bên ngoài giữa nước nhận đầu tư và nước chủ đầu tư, nước nhận
đầu tư mất tính độc lập. Hơn nữa, nếu sử dụng không đúng nhu cầu của nền
kinh tế hay sử dụng không có hiệu quảthì nền kinh tế không những không
phát triển mà còn bị khủng hoảng, mất cân đối. Nghĩa là ảnh hưởng đến tính
tự chủ về kinh tế của nước nhận đầu tư.
- Phân công lao động ngày càng trở nên sâu sắc là hệ quả tất yếu của nền sản
xuất hàng hoá nói chung và của toàn cầu hoá kinh tế nói riêng. Toàn cầu hoá
kinh tế sẽ tạo ra sự phân công lao động quốc tế một cách sâu sắc hơn; do đó
trên phạm vi toàn cầu, năng suất lao động sẽ cao hơn, của cải được sản xuất
ra sẽ nhiều hơn với chất lượng tốt hơn và giá thành rẻ hơn. Bởi vì khi chưa
tham gia toàn cầu hoá kinh tế cũng tức là chưa có sự phân công lao động
quốc tế sâu sắc, mỗi quốc gia gần như đều phải tự cấp tự túc, đều phải làm ra
cả những cái mà mình không có thế mạnh để đáp ứng cho nhu cầu đa dạng
của nền kinh tế quốc dân; còn khi tham gia toàn cầu hoá kinh tế, mỗi quốc
9
gia sẽ chỉ sản xuất ra một số loại hàng hoá nhất định để trao đổi với các quốc
gia khác, ai mạnh mặt nào sẽ khai thác triệt để mặt đó. Tức là có mối liên hệ
phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau giữa các quốc gia.
- Toàn cầu hoá, tức hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ bị bãi bỏ dần, các
công ty được tự do cạnh tranh bình đẳng trên toàn thế giới. Lúc đó, ở những
nước kém phát triển, do các công ty làm ăn kém hiệu quả, sức cạnh tranh
yếu nên dần dần sẽ bị phá sản, giải thể. Hàng hoá ngoại nhập chiếm lĩnh thị
trường nội địa, nền kinh tế bị lệ thuộc vào nước ngoài. Dẫn đến nước yếu thế
trong cạnh tranh sẽ bị mất quyền tự chủ.
- Toàn cầu hoá, nghĩa là sẽ hình thành các thể chế kinh tế toàn cầu. Các quốc
gia thành viên phải áp dụng và thi hành hệ thống luật pháp quốc tế, các quan
hệ tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia sẽ phát triển. Do đó, độc
lập, tự chủ về kinh tế chỉ mang tính tương đối.
- Những nước nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn do bị thiệt thòi vì những quy
định bị áp đặt từ những nước lớn. Đồng thời, những nước nghèo và kém phát
triển nếu không nhanh chóng tạo ra được một thiết chế kinh tế tương hợp với
thiết chế kinh tế khu vực và toàn cầu, không có khả năng cạnh tranh và hội
nhập thực sự thì chỉ đơn thuần trở thành nơi cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ
sản phẩm cho các nước có kinh tế phát triển, thành nơi tiếp nhận các công
nghệ lạc hậu hoặc thải loại, thành nơi mà các nước phát triển chuyển giao ô
nhiễm dưới cái vỏ bọc chuyển nhượng hay viện trợ công nghệ, nghĩa là thay
thế sự phụ thuộc này bằng một sự phụ thuộc khác.
2. Giải quyết mâu thuẫn giữa nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập
kinh tế quốc tế
Để giải quyết mâu thuẫn giữa hội nhập kinh tế với độc lập tự chủ:
Đầu tiên, phải đảm bảo lợi ích phát triển của quốc gia ở mức cao nhất.
Các mối quan hệ của một nước với các nước khác phải được xem xét đánh
giá trên tiêu chuẩn có đảm bảo được lợi ích phát triển của đất nước không.
Đó mới là mục tiêu cho mọi chiến lược phát triển. Trong điều kiện hội nhập
quốc tế tiến triển như hiện nay, mọi nền kinh tế ngày càng tuỳ thuộc nhiều
10
hơn vào bên ngoài. Nhưng nếu sự tuỳ thuộc nhiều hơn đó đảm bảo tốt hơn
cho lợi ích phát triển quốc gia, thì không có lí gì lại không chấp nhận.
Thứ hai, có khả năng ứng phó có hiệu quả với những chấn động chính
trị, kinh tế, xã hội bên ngoài. Những chấn động bên ngoài có thể là: chiến
tranh từ bên ngoài, cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực hay thế giới, …. Cách
tốt nhất là cố gắng tránh việc tham gia vào những cuộc chiến tranh bên
ngoài, hạn chế để xảy ra xung đột, mâu thuẫn trong nước. Khi bùng nổ chiến
tranh, đã tham chiến, thì đất nước chắc chắn sẽ bị tàn phá nặng nề nhất là
trong bối cảnh chiến tranh hiện đại ngày nay. Song một nền kinh tế có sức
cạnh tranh cao, có dự trữ ngoại tệ lớn, sẽ có sức chịu đựng cao hơn các nền
kinh tế lạc hậu khác. Một nền kinh tế hội nhập quốc tế cao, lợi ích quốc gia
đan xen chặt chẽ với lợi ích của nhiều quốc gia khác, nhiều trung tâm kinh
tế, thì sẽ có nhiều khả năng kết hợp sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế
để bảo vệ đất nước tốt hơn. Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế có thể đưa đến
một số mâu thuẫn với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Tuy nhiên
hội nhập kinh tế là hợp quy luật và không thể đảo ngược. Hội nhập kinh tế
mang lại những lợi ích lớn về nhiều mặt cho tất cả các nước. Những nước đi
sau có thể tận dụng các cơ hội do nó mang lại phục vụ cho sự phát triển đất
nước nhằm thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển để nhanh chóng bắt
kịp. Và không có gì có thể tồn tại vĩnh viễn. Nhận thức của con người đối
với các sự vật phải thay đổi với những điều kiện lịch sử cụ thể thay đổi.
Nhận thức về một nền kinh tế độc lập tự chủ ngày nay không thể vẫn là
những nhận thức của những năm 50 và 60. Cần có nhận thức mới, tư duy
mới thích hợp với điều kiện mới, với thực tiễn. Cần nhìn thẳng vào sự thật.
Chính những nhận thức mới này sẽ mở đường cho thực tiễn phát triển.
Thứ ba, sức cạnh tranh của nền kinh tế phải được cải thiện và tăng dần.
Sức cạnh tranh này phải được thể hiện các mặt:
- Thể chế chính trị, kinh tế, xã hội, phải đủ mạnh, đủ tạo ra một môi trường
đầu tư, kinh doanh thuận lợi, chi phí thấp, rủi ro thấp, khả năng sinh lợi lớn.
- Cơ cấu kinh tế gồm những ngành có khả năng cạnh tranh cao, có khả năng
tự điều chỉnh, tự rút lui khỏi những ngành kém khả năng cạnh tranh.
11
- Cơ cấu doanh nghiệp cũng phải bao gồm những doanh nghiệp có sức
mạnh công nghệ và trí lực, đủ sức cạnh tranh trên thương trường trong nước
và quốc tế.
- Nguồn nhân lực trong nước phải được đào tạo tốt và phát triển, sử dụng có
hiệu quả. Biểu hiện tập trung của sức cạnh tranh của nền kinh tế là ở chất
lượng và giá thành của sản phẩm và dịch vụ của đất nước. Nếu sản phẩm và
dịch vụ của một quốc gia có giá thành cao nhưng chất lượng không tương
xứng, thì sẽ không tiêu thụ được ở cả thị trường trong nước và bên ngoài.
Hậu quả là nền kinh tế của quốc gia đó sẽ rơi vào suy thoái, khủng hoảng, tụt
hậu kéo dài. Trong điều kiện đó khó có thể nói đến độc lập và tự chủ. Còn
một nền kinh tế làm ra các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao nhưng giá
thành rẻ, có thể chiếm lĩnh cả thị trường trong nước và quốc tế, tạo ra thu
nhập ngoại tệ, dự trữ ngoại tệ lớn, có thể nhập khẩu nhiều loại hàng hoá và
dịch vụ đáp ứng các nhu cầu trong nước. Một nền kinh tế có sức cạnh tranh
cao như vậy trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay là một nền kinh tế có
tính độc lập và tự chủ cao.
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế có thể đưa đến một số mâu thuẫn với
việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Trong thời đại toàn cầu hóa, vẫn
còn tồn tại nhận thức lo ngại, do dự khi hội nhập kinh tế quốc tế vì sợ mất
độc lập, tự chủ, bỏ lỡ cơ hội, cản trở, kìm hãm sự phát triển của đất nước; có
những quốc gia vẫn khép kín, tách biệt với thế giới để bảo vệ độc lập, tự chủ
của mình. Nếu loại bỏ những nhận thức, quan điểm cực đoan, thì nhìn nhận
khách quan, những lo ngại về mất độc lập, tự chủ của đất nước không phải là
không có cơ sở bởi hội nhập quốc tế thật sự tạo ra những thách thức không
nhỏ đối với việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước. Khi hội nhập quốc tế,
đất nước phải chấp nhận và tuân thủ những “luật chơi” chung; khi tham gia,
trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế, ký kết các hiệp định thương
mại, đầu tư song phương, đa phương với các nước, các khu vực trên thế giới,
đất nước phải điều chỉnh luật pháp, chính sách của mình phù hợp với các
12
cam kết đã ký. Hội nhập quốc tế vừa tạo cơ hội mở rộng thị trường cho
doanh nghiệp trong nước, mà còn phải mở cửa thị trường cho doanh nghiệp
và sản phẩm nước ngoài; các doanh nghiệp, các sản phẩm trong nước đứng
trước thách thức cạnh tranh rất lớn với các doanh nghiệp và sản phẩm của
nước ngoài, không chỉ ở thị trường nước ngoài mà ngay cả ở thị trường trong
nước. Những biến động trên thị trường thế giới, của kinh tế thế giới sẽ nhanh
chóng tác động trực tiếp, gây ra bất lợi cho kinh tế đất nước. Những nguy cơ
như: bất ổn của kinh tế đất nước do những tác động từ bên ngoài; đất nước
trở thành “bãi thải” công nghệ, ô nhiễm môi trường, phụ thuộc vào doanh
nghiệp nước ngoài... đều rất nghiêm trọng. Những nguy cơ này sẽ trở thành
hiện thực khi đất nước không có một chiến lược hội nhập quốc tế đúng đắn,
hiệu quả phù hợp với điều kiện của mình.
Trong thời kỳ chuyền nền kinh tế ở Việt Nam từ kế hoạch tập chung quan
liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, việc kết hợp giữa xây dựng nền kinh tế
tự chủ vàhội nhập quốc tế là rất quan trọng, tuy nhiên chúng ta cần chủ
động, sáng tạo vận dụng lý luận về mâu thuẫn để nhanh chóng tìm ra và giải
quyết những mâu thuẫn nảy sinh, từ đó phát triển kinh tế xã hội theo đúng
hướng.
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Triết học Mác – Lê nin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên
lý luận chính trị) – NXB Chính trị quốc gia sự thật.
- Trang thông tin điện tử Hội đồng lý luận Trung Ương
- Hệ thống tư liệu – văn kiện Đảng
- Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
- Báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam VOV
14

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI T P L N MÔN THMLN
ĐỀ BÀI: Vận dụng lý luận về mâu thuẫn để phân tích
mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Họ và tên SV: Lê Đặng Ngọc Huyền Lớp tín chỉ: (121)_15 Mã SV: 11217254
GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU
.................................................................................... HÀ NỘI, NĂM 2021 1
ĐẶT VẤN ĐỀ...............................................................................................................3
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ MÂU THUẪN...............................................................4
1. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất...4
1.1. Khái niệm về mâu thuẫn................................................................................4
1.2. Các loại mâu thuẫn........................................................................................5
2. Chuyển hóa của các mặt đối lập.........................................................................6
CHƯƠNG II. MÂU THUẪN GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP, TỰ
CHỦ VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
..............................7
1. Bản chất của nền kinh tế độc lập tự chủ............................................................7
2. Giải quyết mâu thuẫn giữa nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế
quốc tế
......................................................................................................................10
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN.......................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................14 2 ĐẶT VẤN ĐỀ
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và
tư duy con người. Triết học Mác – Lê nin đã chỉ ra, mâu thuẫn là một tất yếu
khách quan, mang tính phổ biến và có đa dạng các loại mâu thuẫn. Từ lí luận
về mâu thuẫn, ta xem xét mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ
với hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong hoạt động kinh tế, mâu thuẫn cũng mang tính phổ biến, chẳng hạn
như cung - cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp,
từng công ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá... Mâu
thuẫn tồn tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự
vật mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và
sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn này mất đi thì
mâu thuẫn khác lại hình thành... Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo đã dành được nhiều thắng lợi bước đầu mang tính
quyết định, quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đó đã đạt được nhiều thành công to
lớn nhưng trong những thành công đó luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn
làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Đòi hỏi phải được giải
quyết và nếu được giải quyết sẽ thúc đẩy cho sự phát triển của nền kinh tế.
Với mong muốn tìm hiểu thêm những vấn đề của nền kinh tế, quan điểm
lý luận dựa trên nền tảng kiến thức lý luận về mâu thuẫn trong Triết học Mác
– Lê nin cũng như những vướng mắc trong giải pháp, quy trình xử lý các vấn
đề chính trị - xã hội có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc
chuyển nền kinh tế, em quyết định chọn làm đề tài về “Mâu thuẫn giữa nền
kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” để làm đề
tài cho tiểu luận môn triết học Mác- Lê nin của mình. 3
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ MÂU THUẪN
1. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất
1.1. Khái niệm về mâu thuẫn
Mâu thuẫn của sự vật, của thế giới đã được rất nhiều nhà Triết học trong
lịch sử bàn đến. Chẳng hạn, thuyết âm dương ngũ hành của Trung Hoa đã đề
cập tới các mâu thuẫn Âm – Dương, mâu thuẫn giữa các yếu tố bản nguyên
bản nguyên Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại
Heerraclit cũng nhấn mạnh mâu thuẫn của các hiện tượng, quá trình khác
quan. Hê-ghen đề cập tới mâu thuẫn của tư duy. Nói chung, các quan niệm
trên đều đã mô tả mâu thuẫn khách quan nhưng chưa làm rõ được sự chuyển
hóa biện chứng của các mặt đối lập. Vì thế, khái niệm mâu thuẫn còn nặng
về hình thức mà chưa đi sâu vào nội dung biện chứng của các mặt đối lập.
Quan niệm về mâu thuẫn trong triết học Mác – Lênin: Trong phép biện
chứng duy vật, mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ,
tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại trừ,
vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn
biện chứng là các mặt đối lập, các bộ phận, các thuộc tính… có khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau, nhưng cùng tồn tại khách quan trong mỗi sự
vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong mỗi mâu thuẫn các mặt
đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau tạo nên trạng thái ổn
định tương đối của sự vật, hiện tượng.
Thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa
chúng và được thể hiện ở việc: Thứ nhất, các mặt đối lập cần đến nhau,
nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại, không có mặt này thì
không có mặt kia; Thứ hai, các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng
nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình thành và với cái cũ chưa
mất hẳn; Thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự tương đồng, đồng nhất do trong
các mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau. Do sự đồng nhất này 4
mà trong nhiều trường hợp, khi mâu thuẫn xuất hiện và tác động ở điều kiện
phù hợp, các mặt đối lập chuyển hóa vào nhau. Đồng nhất không tách rời với
sự khác nhau, với sự đối lập, bởi mỗi sự vật, hiện tượng vừa là bản thân nó,
vừa là sự vật, hiện tượng đối lập với nó nên trong đồng nhất đã bao hàm sự khác nhau, đối lập.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua
lại theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng và sự tác động đó cũng
không tách rời sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng trong một
mâu thuẫn. So với đấu tranh giữa các mặt đối lập thì thống nhất giữa chúng
có tính tạm thời, tương đối, có điều kiện; còn đấu tranh có tính tuyệt đối,
nghĩa là đấu tranh phá vỡ sự ổn định tương đối của chúng dẫn đến sự chuyển
hóa về chất của chúng. Tính tuyệt đối của đấu tranh gắn với sự tự thân vận
động, phát triển diễn ra không ngừng của sự vật, hiện tượng.
1.2. Các loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới và vô cùng
đạ dạng. Sau đây là một số loại mâu thuẫn:
* Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
- Mâu thuân cơ bản tác động trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, hiện
tượng; quy định bản chất, sự phát triển của chúng từ khi hình thành đến lúc tiêu vong.
- Mâu thuẫn không cơ bản đặc trưng cho một phương diện nào đó, chỉ quy
định sự vận động, phát triển của một hay một số mặt của sự vật, hiện tượng
và chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ bản
* Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu:
- Mâu thuẫn chủ yếu luôn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển của sự
vật, hiện tượng, có tác dụng quy định đối với các mâu thuân khác trong cùng
giai đoạn đó của quá trình phát triển. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ tạo
điều kiện để giải quyết các mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn. còn sự phát
triển, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng từ hình thức này sang hình thức 5
khác phụ thuộc vào việc giải quyết các mâu thuẫn khác phụ thuộc vào việc
giải quyết mâu thuẫn chủ yếu
- Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định trong sự
vận động, phát triển cúa sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, ranh giới giữa mâu
thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu chỉ là tương đối, tùy theo hoàn cảnh cụ thể.
* Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài:
- Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập quy định
trực tiếp quá trình vận động và sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Mâu thuẫn bên ngoài xuất hiện trong mối liên hệ giữa các sự v ật, hiện
tượng với nhau; tuy cũng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của chúng,
nhưng phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy tác dụng.
* Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:
- Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực
lượng, xu hướng xã hội… có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều
hòa được. Đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp bóc lột và bị bóc lột, giữa giai
cấp thống trị và giai cấp bị trị…
- Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn
người, lực lượng, xu hướng xã hội… có lợi ích cơ bản không đối lập nhau
nên là mâu thuẫn cục bộ, tạm thời.
2. Chuyển hóa của các mặt đối lập
Không phải bất kì sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự
chuyển hóa giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển
đến một trình độ nhất định, hội tụ đủ điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển
hóa, bài trừ, phủ định nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hóa của các mặt đối
lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hóa của các
mặt đối lập nhất thiết phải diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con
người, Do đó không nên hiểu sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập
chỉ là sự hoán đổi vị trí theo một cách máy móc, đơn giản. Trong thế giới 6
hiện thực, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng chứa đựng những mặt có
khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hóa của các
mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện
tượng khách quan, phổ biến. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũng mất đi,
sự vật mới được hình thành. Sự vật mới tiếp tục nảy sinh các mặt đối lập, mâu thuẫn.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo
thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu
thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quá phát triển.
CHƯƠNG II. MÂU THUẪN GIỮA XÂY DỰNG
NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VỚI HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
Trong giai đoạn hiện nay, cũng như trong tương lai, hội nhập kinh tế quốc
tế đối với Việt Nam có nghĩa là Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế
quốc tế và khu vực …, phát triển các quan hệ thương mại, đầu tư với mọi
quốc gia, đặc biệt là các trung tâm kinh tế thế giới, hợp tác mở rộng với các
công ty xuyên quốc gia. Phát triển các mối quan hệ này sẽ dẫn đến một kết
quả là: các hàng rào thuế quan và phi thuế quan phải giảm thiểu theo các
nguyên tắc của các tổ chức trên, các công ty nước ngoài được phép vào Việt
Nam hoạt động một cách bình đẳng với các công ty Việt Nam và ngược lại.
1. Bản chất của nền kinh tế độc lập tự chủ.
Bản chất của nền kinh tế độc lập tự chủ được hiểu theo hai cách:
Thứ nhất, nền kinh tế độc lập tự chủ trong mô hình kinh tế hướng nội.
Mô hình kinh tế độc lập tự chủ hướng nội là một nền kinh tế có khả năng tự
đảm bảo các nhu cầu của đất nước. Một cơ cấu hoàn chỉnh, hoặc tương đối
hoàn chỉnh là quốc sách của mô hình này. Những ngành công nghiệp nặng,
đặc biệt là những ngành công nghiệp nền tảng gồm năng lượng, sản xuất các 7
nguyên liệu cơ bản như sắt thép, hoá chất, lọc dầu, xi măng, … được chú
trọng đặc biệt. Quan điểm cơ cấu ngành của nền kinh tế độc lập tự chủ theo
mô hình này là nhấn mạnh tính quan trọng của việc tự đảm bảo các nhu cầu
trong nước, dù phải chịu những bất lợi về hiệu quả, hầu như không tính tới
những lợi thế so sánh quốc tế. Ưu tiên hàng đầu là không phụ thuộc vào bên ngoài.
Những chính sách này đã gây ra những hậu quả lớn: Làm tăng giá các
hàng hoá trong nước gây thiệt hại cho người tiêu dùng; Duy trì bảo hộ tình
trạng lạc hậu về công nghệ tổ chức quản lý; Chính sách bảo hộ cao đã làm
ảnh hưởng đến môi trường đầu tư; Hạn chế việc mở rộng thị trường. Một
nền kinh tế độc lập tự chủ trong mô hình kinh tế hướng nội có đặc trưng
quan trọng nhất là tự đảm bảo các nhu cầu thiết yếu trong nước, để không lệ
thuộc vào bên ngoài, từ hoạch định chiến lược đến các hàng hoá, dịch vụ,
cũng không bị tác động từ bên ngoài bởi các chấn động về chính trị, an ninh, kinh tế, …
Thực tế cho thấy không có một quốc gia nào đi theo mô hình kinh tế này
đạt được những thành công vững chắc, hầu hết đều đã hoặc là thất bại, hoặc
là phải trả giá đắt, hoặc là lâm vào khủng hoảng, suy thoái, trì trệ kéo dài. Vì
vậy, buộc các quốc gia phải tìm kiếm một mô hình phát triển khác, một cách
hiểu khác về tính độc lập tự chủ của nền kinh tế.
Thứ hai, là nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế. Nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
là một nền kinh tế gồm những ngành có lợi thế cạnh tranh cao, và tuỳ thuộc
vào thị trường thế giới. Độc lập tự chủ trong mô hình này chấp nhận sự tuỳ
thuộc lẫn nhau trên cơ sở cùng có lợi trong quan hệ giữa các quốc gia. Sự
tuỳ thuộc lẫn nhau này diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực từ hoạch định chính
sách phát triển, thể chế kinh tế vĩ mô, đến cả sự hình thành các ngành kinh
tế, các công ty. Mô hình kinh tế này đưa lại nhiều mặt tích cực, nhưng đồng
thời cũng đưa lại nhiều mâu thuẫn, nhiều tiêu cực.
Trước hết, nhận định mặt tích cực, hội nhập kinh tế quốc tế đã và sẽ tạo ra
những cơ hội cho sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, cho phép chúng 8
ta tiếp cận với nền văn minh công nghiệp của thế giới. Toàn cầu hoá kinh tế
là một cơ hội để chúng ta phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo ra cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội
và do đó mà có điều kiện và khả năng thực tế để bảo đảm vững chắc chủ
quyền quốc gia. Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, chúng ta có
nhiều cơ hội để tiếp cận nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại của
thế giới, học hỏi những kinh nghiệm quản lí xã hội, tiếp thu những tinh hoa
của nền văn minh công nghiệp.
Bên cạnh mặt tích cực, toàn cầu hoá kinh tế cũng đưa lại không ít mâu thuẫn. Cụ thể là:
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài, có
nhiều vốn đầu tư đổ vào thì nền kinh tế mới có điều kiện xây dựng cơ sở hạ
tầng hiện đại, mới có điều kiện đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao năng
suất lao động. Tuy nhiên, vốn đầu tư từ nước ngoài bao giờ cũng gắn với
những điều kiện nhất định, như điều kiện về mục đích sử dụng, đối tượng sử
dụng, thời gian sử dụng, …. Như vậy là nước nhận đầu tư đã phần nào bị chi
phối, bị khống chế về kinh tế, chính trị bởi chủ đầu tư. Và từ đó làm nảy sinh
mâu thuẫn bên ngoài giữa nước nhận đầu tư và nước chủ đầu tư, nước nhận
đầu tư mất tính độc lập. Hơn nữa, nếu sử dụng không đúng nhu cầu của nền
kinh tế hay sử dụng không có hiệu quảthì nền kinh tế không những không
phát triển mà còn bị khủng hoảng, mất cân đối. Nghĩa là ảnh hưởng đến tính
tự chủ về kinh tế của nước nhận đầu tư.
- Phân công lao động ngày càng trở nên sâu sắc là hệ quả tất yếu của nền sản
xuất hàng hoá nói chung và của toàn cầu hoá kinh tế nói riêng. Toàn cầu hoá
kinh tế sẽ tạo ra sự phân công lao động quốc tế một cách sâu sắc hơn; do đó
trên phạm vi toàn cầu, năng suất lao động sẽ cao hơn, của cải được sản xuất
ra sẽ nhiều hơn với chất lượng tốt hơn và giá thành rẻ hơn. Bởi vì khi chưa
tham gia toàn cầu hoá kinh tế cũng tức là chưa có sự phân công lao động
quốc tế sâu sắc, mỗi quốc gia gần như đều phải tự cấp tự túc, đều phải làm ra
cả những cái mà mình không có thế mạnh để đáp ứng cho nhu cầu đa dạng
của nền kinh tế quốc dân; còn khi tham gia toàn cầu hoá kinh tế, mỗi quốc 9
gia sẽ chỉ sản xuất ra một số loại hàng hoá nhất định để trao đổi với các quốc
gia khác, ai mạnh mặt nào sẽ khai thác triệt để mặt đó. Tức là có mối liên hệ
phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau giữa các quốc gia.
- Toàn cầu hoá, tức hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ bị bãi bỏ dần, các
công ty được tự do cạnh tranh bình đẳng trên toàn thế giới. Lúc đó, ở những
nước kém phát triển, do các công ty làm ăn kém hiệu quả, sức cạnh tranh
yếu nên dần dần sẽ bị phá sản, giải thể. Hàng hoá ngoại nhập chiếm lĩnh thị
trường nội địa, nền kinh tế bị lệ thuộc vào nước ngoài. Dẫn đến nước yếu thế
trong cạnh tranh sẽ bị mất quyền tự chủ.
- Toàn cầu hoá, nghĩa là sẽ hình thành các thể chế kinh tế toàn cầu. Các quốc
gia thành viên phải áp dụng và thi hành hệ thống luật pháp quốc tế, các quan
hệ tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia sẽ phát triển. Do đó, độc
lập, tự chủ về kinh tế chỉ mang tính tương đối.
- Những nước nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn do bị thiệt thòi vì những quy
định bị áp đặt từ những nước lớn. Đồng thời, những nước nghèo và kém phát
triển nếu không nhanh chóng tạo ra được một thiết chế kinh tế tương hợp với
thiết chế kinh tế khu vực và toàn cầu, không có khả năng cạnh tranh và hội
nhập thực sự thì chỉ đơn thuần trở thành nơi cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ
sản phẩm cho các nước có kinh tế phát triển, thành nơi tiếp nhận các công
nghệ lạc hậu hoặc thải loại, thành nơi mà các nước phát triển chuyển giao ô
nhiễm dưới cái vỏ bọc chuyển nhượng hay viện trợ công nghệ, nghĩa là thay
thế sự phụ thuộc này bằng một sự phụ thuộc khác.
2. Giải quyết mâu thuẫn giữa nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế
Để giải quyết mâu thuẫn giữa hội nhập kinh tế với độc lập tự chủ:
Đầu tiên, phải đảm bảo lợi ích phát triển của quốc gia ở mức cao nhất.
Các mối quan hệ của một nước với các nước khác phải được xem xét đánh
giá trên tiêu chuẩn có đảm bảo được lợi ích phát triển của đất nước không.
Đó mới là mục tiêu cho mọi chiến lược phát triển. Trong điều kiện hội nhập
quốc tế tiến triển như hiện nay, mọi nền kinh tế ngày càng tuỳ thuộc nhiều 10
hơn vào bên ngoài. Nhưng nếu sự tuỳ thuộc nhiều hơn đó đảm bảo tốt hơn
cho lợi ích phát triển quốc gia, thì không có lí gì lại không chấp nhận.
Thứ hai, có khả năng ứng phó có hiệu quả với những chấn động chính
trị, kinh tế, xã hội bên ngoài. Những chấn động bên ngoài có thể là: chiến
tranh từ bên ngoài, cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực hay thế giới, …. Cách
tốt nhất là cố gắng tránh việc tham gia vào những cuộc chiến tranh bên
ngoài, hạn chế để xảy ra xung đột, mâu thuẫn trong nước. Khi bùng nổ chiến
tranh, đã tham chiến, thì đất nước chắc chắn sẽ bị tàn phá nặng nề nhất là
trong bối cảnh chiến tranh hiện đại ngày nay. Song một nền kinh tế có sức
cạnh tranh cao, có dự trữ ngoại tệ lớn, sẽ có sức chịu đựng cao hơn các nền
kinh tế lạc hậu khác. Một nền kinh tế hội nhập quốc tế cao, lợi ích quốc gia
đan xen chặt chẽ với lợi ích của nhiều quốc gia khác, nhiều trung tâm kinh
tế, thì sẽ có nhiều khả năng kết hợp sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế
để bảo vệ đất nước tốt hơn. Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế có thể đưa đến
một số mâu thuẫn với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Tuy nhiên
hội nhập kinh tế là hợp quy luật và không thể đảo ngược. Hội nhập kinh tế
mang lại những lợi ích lớn về nhiều mặt cho tất cả các nước. Những nước đi
sau có thể tận dụng các cơ hội do nó mang lại phục vụ cho sự phát triển đất
nước nhằm thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển để nhanh chóng bắt
kịp. Và không có gì có thể tồn tại vĩnh viễn. Nhận thức của con người đối
với các sự vật phải thay đổi với những điều kiện lịch sử cụ thể thay đổi.
Nhận thức về một nền kinh tế độc lập tự chủ ngày nay không thể vẫn là
những nhận thức của những năm 50 và 60. Cần có nhận thức mới, tư duy
mới thích hợp với điều kiện mới, với thực tiễn. Cần nhìn thẳng vào sự thật.
Chính những nhận thức mới này sẽ mở đường cho thực tiễn phát triển.
Thứ ba, sức cạnh tranh của nền kinh tế phải được cải thiện và tăng dần.
Sức cạnh tranh này phải được thể hiện các mặt:
- Thể chế chính trị, kinh tế, xã hội, phải đủ mạnh, đủ tạo ra một môi trường
đầu tư, kinh doanh thuận lợi, chi phí thấp, rủi ro thấp, khả năng sinh lợi lớn.
- Cơ cấu kinh tế gồm những ngành có khả năng cạnh tranh cao, có khả năng
tự điều chỉnh, tự rút lui khỏi những ngành kém khả năng cạnh tranh. 11
- Cơ cấu doanh nghiệp cũng phải bao gồm những doanh nghiệp có sức
mạnh công nghệ và trí lực, đủ sức cạnh tranh trên thương trường trong nước và quốc tế.
- Nguồn nhân lực trong nước phải được đào tạo tốt và phát triển, sử dụng có
hiệu quả. Biểu hiện tập trung của sức cạnh tranh của nền kinh tế là ở chất
lượng và giá thành của sản phẩm và dịch vụ của đất nước. Nếu sản phẩm và
dịch vụ của một quốc gia có giá thành cao nhưng chất lượng không tương
xứng, thì sẽ không tiêu thụ được ở cả thị trường trong nước và bên ngoài.
Hậu quả là nền kinh tế của quốc gia đó sẽ rơi vào suy thoái, khủng hoảng, tụt
hậu kéo dài. Trong điều kiện đó khó có thể nói đến độc lập và tự chủ. Còn
một nền kinh tế làm ra các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao nhưng giá
thành rẻ, có thể chiếm lĩnh cả thị trường trong nước và quốc tế, tạo ra thu
nhập ngoại tệ, dự trữ ngoại tệ lớn, có thể nhập khẩu nhiều loại hàng hoá và
dịch vụ đáp ứng các nhu cầu trong nước. Một nền kinh tế có sức cạnh tranh
cao như vậy trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay là một nền kinh tế có
tính độc lập và tự chủ cao.
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế có thể đưa đến một số mâu thuẫn với
việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Trong thời đại toàn cầu hóa, vẫn
còn tồn tại nhận thức lo ngại, do dự khi hội nhập kinh tế quốc tế vì sợ mất
độc lập, tự chủ, bỏ lỡ cơ hội, cản trở, kìm hãm sự phát triển của đất nước; có
những quốc gia vẫn khép kín, tách biệt với thế giới để bảo vệ độc lập, tự chủ
của mình. Nếu loại bỏ những nhận thức, quan điểm cực đoan, thì nhìn nhận
khách quan, những lo ngại về mất độc lập, tự chủ của đất nước không phải là
không có cơ sở bởi hội nhập quốc tế thật sự tạo ra những thách thức không
nhỏ đối với việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước. Khi hội nhập quốc tế,
đất nước phải chấp nhận và tuân thủ những “luật chơi” chung; khi tham gia,
trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế, ký kết các hiệp định thương
mại, đầu tư song phương, đa phương với các nước, các khu vực trên thế giới,
đất nước phải điều chỉnh luật pháp, chính sách của mình phù hợp với các 12
cam kết đã ký. Hội nhập quốc tế vừa tạo cơ hội mở rộng thị trường cho
doanh nghiệp trong nước, mà còn phải mở cửa thị trường cho doanh nghiệp
và sản phẩm nước ngoài; các doanh nghiệp, các sản phẩm trong nước đứng
trước thách thức cạnh tranh rất lớn với các doanh nghiệp và sản phẩm của
nước ngoài, không chỉ ở thị trường nước ngoài mà ngay cả ở thị trường trong
nước. Những biến động trên thị trường thế giới, của kinh tế thế giới sẽ nhanh
chóng tác động trực tiếp, gây ra bất lợi cho kinh tế đất nước. Những nguy cơ
như: bất ổn của kinh tế đất nước do những tác động từ bên ngoài; đất nước
trở thành “bãi thải” công nghệ, ô nhiễm môi trường, phụ thuộc vào doanh
nghiệp nước ngoài... đều rất nghiêm trọng. Những nguy cơ này sẽ trở thành
hiện thực khi đất nước không có một chiến lược hội nhập quốc tế đúng đắn,
hiệu quả phù hợp với điều kiện của mình.
Trong thời kỳ chuyền nền kinh tế ở Việt Nam từ kế hoạch tập chung quan
liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, việc kết hợp giữa xây dựng nền kinh tế
tự chủ vàhội nhập quốc tế là rất quan trọng, tuy nhiên chúng ta cần chủ
động, sáng tạo vận dụng lý luận về mâu thuẫn để nhanh chóng tìm ra và giải
quyết những mâu thuẫn nảy sinh, từ đó phát triển kinh tế xã hội theo đúng hướng. 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Triết học Mác – Lê nin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên
lý luận chính trị) – NXB Chính trị quốc gia sự thật.
- Trang thông tin điện tử Hội đồng lý luận Trung Ương
- Hệ thống tư liệu – văn kiện Đảng
- Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam VOV 14