Vận dụng lý thuyết giá trị vào Việt Nam hiện nay | Đại học Nội Vụ Hà Nội

1. Thực trạng vận dụng lý thuyết giá trị, giá cả vào Việt Nam hiện nay Vận dụng lý thuyết giá trị, giá cả thể hiện chủ yếu qua việc hình thành giá cả.Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả phải lấy giá trị làm giá trị thìmới có căn cứ kinh tế, mới có tác dụng kích thích năng suất lao động, cải tiếnhạ tầng cơ sở sản xuất.Nhà nước phải tận dụng cơ chế hoạt động của lý thuyết
giá trị, giá cả nghĩa là khả năng tách rời giá trị với giá cả và đưa giá cả trở vềgiá trị, từ đó vận dụng vào thực tiễn nền kinh tế nước ta.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.

lOMoARcPSD| 36844358
II Vận dụng lý thuyết giá trị, giá cả vào Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng vận dụng lý thuyết giá trị, giá cả vào Việt Nam hiện nay Vận
dụng lý thuyết giá trị, giá cả thể hiện chủ yếu qua việc hình thành giá cả. Giá cả
là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả phải lấy giá trị làm giá trị thì mới có
căn cứ kinh tế, mới có tác dụng kích thích năng suất lao động, cải tiến hạ tầng
cơ sở sản xuất.Nhà nước phải tận dụng cơ chế hoạt động của lý thuyết giá trị,
giá cả nghĩa là khả năng tách rời giá trị với giá cả và đưa giá cả trở về giá trị, từ
đó vận dụng vào thực tiễn nền kinh tế nước ta
Thứ nhất là điều tiết và lưu thông hàng hóa. Nếu một loại hàng hóa
có giá cả cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy và đem lại lại lợi
nhuận cao cho người tiêu dùng thì người sản xuất sẽ mở rộg sản xuất
và nâng cao giá cả. Ngược lại nếu loại hàng hóa đó có giá cả thấp
hơn giá trị, bị ế hàng thì người sản xuất sẽ thu hẹp sản xuất để tránh
bị lỗ vốn. Như vậy dưới tác động của lý thuyết giá trị, giá cả nó đã
thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, làm cho
hàng hóa có sự mất cân bằng ở một số vùng nhất định. Trong trường
hợp này, Nhà nước sẽ thực hiện các chính sách nhằm cân bằng th
trường ở những vùng có sự chênh lệch về giá cả, như đánh thuế cao
vào các loại hàng có giá cả cao để tránh lạm phát hay trựo cấp chi
phí sản xuất đối với những vùng sản phẩm có giá cả thấp để kích
thích sản xuất.
Thứ hai là kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng
năng suất lao động. Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều
kiện khác nhau do đó có mức độ hao phí lao động cá biệt khác nhau,
nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo
mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng hóa
nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động
hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi.
Điều đó kích thích lao những người sản xuất hàng hóa cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết
kiệm nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.Vì thế Nhà
nước cần thực hiện các quá trình cấp vốn đầu tư cho các cơ sở sản
xuất, tạo điều kiện để các doahnh nghiệp có thể tiếp cận một cách dễ
dàng nhất với các trang thiết bị hiện đâij, hỗ trợ sản xuất.
Thứ ba là phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các
ngành.Nhà nước cần phải có các chính sách phân phối, phân phối lại
thu nhập quốc dân giữa các ngành nhằm phục vụ, nâng cao, cải
thiện đời sống của nhân dân lao động. Tiến hành các chính sách phát
triển kinh tế hướng đến thị trường quốc tế, tiến hành xuất khẩu c
lOMoARcPSD| 36844358
sản phẩm nông nghiệp, nhập khẩu các loại máy móc trang thiết bị
hiện đại, nhằm phát huy thế mạnh của nước ta là một nước nông
nghệp với các sản phẩm nông nghiệp, cây ăn quả và đồng thời khắc
phục sự hạn chế trong cơ sở vật chất và hạ tầng của nước ta.
Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế. Việc chuyển từ nền kinh tế quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trường cùng với việc loại bỏ cơ chế xin cho, bảo hộ,
cấp phát trong lao động sẽ làm cho mỗi doanh nghiệp phải tự hạch toán. Không
bị ràng buộc bởi các chỉ tiêu mà nhà nước đặt ra nhưng cùng với đó là phải tự
nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp với sản phẩm của mình. Mặt khác nước
ta đang dần tiến đến nền kinh tế cạnh tranh, vì thế mỗi doanh nghiệp mối cá
nhân cần phải tự tính cho những những bước đi riêng để có thể đứng vững trước
“cơn bão táp” cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước, giữa
các daonh nghiệp trong nước với nhau. Từ đó thúc đẩy sự phát triển chung của
nền kinh tế.
Tăng tính năng động cho nền kinh tế. Cạnh tranh gay gắt sẽ đưa đến một hệ quả tất
yếu là làm cho nền kinh tế năng động lên .Vì trong cạnh tranh, mỗi người sẽ tìm
cho mình một con đường đi mới trong một lĩnh vực sản xuất, kinh doá nhao cho
tạo nên sự sản xuất hiệu quả nhất.Các con đường đó sẽ vô vàn khác nhau,các
con đường đó luôn tạo ra những lĩnh vực sản xuất mới. Và hơn nữa, cạnh tranh
năng dộng sẽ làm cho sản phẩm hàng hoá đa dạng về mẫu mã, nhiều về số
lượng, cao về chất lượng. Bởi vì, sự đào thải của quy luật giá trị sẽ ngày càng
làm cho sản phẩm hoàn thiện hơn, mang lại nhiều lơi ích cho người tiêu dùng.Sự
năng động còn thể hiện ở sự phát triển nhiều thành phần kinh tế. Bởi vì, việc
phát triển nhiều thành phần kinh tế có tác dụng thu hút nguồn nhân lực vào các
thành phần kinh tế, phát huy nội lực, tận dụng nội lực để sản xuất ra nhiều hàng
hoá thu lợi nhuận(lợi nhuận siêu nghạch, lợi nhuận độc quyền) hay nâng cao
trình độ sản xuất trong một nghành, một lĩnh vực nhất định .
Tuy nhiên việc vận dụng lý thuyết giá trị giá cả cũng đêm đến những “khuyết tật”
nhất định cho nước ta. Cụ thể:
Trong điều tiết và lưu thông hàng hóa, một số người đã đầu cơ tích
trữ hàng hóa và sau đó dem bán ra thị trường với giá cao. Đối với
những trường hợp như vậy, Chính phủ đã tiến hành thu hồi lại tất cả
số lượng hàng hóa trên đông thời cũng tiến hành các biện pháp xử
phạt nghiêm khắc như phạt tiền hay thậ chí là phạt tù
Nhà nước cần phát huy vai trò chủ đạo của nền kinh tế nHà nước
vào sản xuất lưu thông hàng hóa. Tránh để thế độc quyền sản phẩm
rơi vào tay của các thương nhân hay doanh nghiệp tư nhân bởi lẽ
những doanh nghiệp này chỉ chạy theo lợi nhuận mà không nghĩ đến
người dân. Chẳng hạn ở những vùng đặc iệt khó khăn, hàng hóa và
lOMoARcPSD| 36844358
các nhu yếu phẩm khá khan hiếm chính vì thế nhà nước cần tạo điều
kiện để có thể cung ứng một cách nhanh nhất đến người dân bằng
cách thông qua các chợ đầu mối, kho lương.
Trong dòng lưu thông hàng hóa, có một số người chạy theo lợi
nhuận một cách mù quáng. Họ tiến hành nhập khẩu nhứngarn phẩm
kém chất lượng như các loại hàng Trung Quốc vào nước ta rồi bán
với giá như những mặt hàng này được sản xuất trực tiếp ở Việt Nam.
Và vì thế để ngăn chặn những tình huống này Nhà nước cần phải cso
biện pháp xử phạp mạnh nhất như tiêu hủy toàn bộ luogwj hàng hóa
trên đông thời phạt tiện, phạt hình sự đối với các chủ mưu trên tùy
thuộc vào mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị nhất định sẽ dẫn đến một số
kết quả tất yếu: Những người có điều kiện sản xuất tốt hơn, có trang
thiết bị tốt hơn,có trình độ kiến thức cao hơn , có hao phí lao động cá
biệt thấp hơn hao phí xã hội cần thiết sẽ trở nên giàu có một cách
nhanh chóng và ngược lại những người có thời gian lao động cá biệt
cao hơn thời gian lao động xã hội cần thiết, có ít điều kiện thuận lợi
hơn sẽ trở thành người nghèo. Tuy nhiên người giàu là người sử
dụng tư liệu sản xuất, họ sẽ chạy theo lợi nhuận của họ mà quên đi
những lợi ích mà mình sẽ mang lại cho cộng đồng. Đây có lẽ là
“khuyết tật “ lớn nhất mà khi vận dụng lý thuyết giá trị đem lại .
Chính vì thế Nhà nước cần phải có các biện pháp, các nguồn trợ cấp
hỗ trợ người nghèo những người còn gặp khó kăn trong cuộc sống,
đồng thời kích thích sự phát triển của các doanh nghiệp nhưng cũng
có các biện pháp xử phạt mạnh mẽ nghiêm khắc nhất đối với các
daonh nghiệp thực hiện trái quy định, có các hành vi vi phạm pháp
luật, dùng những “chiêu trò” bẩn để làm giàu.
2. Kết quả của vận dụng lý thuyết giá trị giá cả vào Việt Nam
Việt Nam sau khi thực hiện đổi mới, dưới tác dụng của lý thuyết giá trị và
đường lối lãnh đạo của Nhà nước, nước ta đã có những thay đổi tích cực về
nhiều mặt đặc biệt là nền kinh tế. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với
90% dân số làm nông, Việt Nam đã từng bước đổi mới, xây dựng hệ thống cơ
cấu hạ tầng, các trang thiết bị hiện đại nhằm phục vụ mục đích tiến hành quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tăng trưởng kinh tế đã có những biến chuyển lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế
thuộc vào hàng các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong khu vực và
thế giới. Cụ thể mức tăng trưởng kinh tế trong 9 năm trở lại đây của Việt nam
như sau:
lOMoARcPSD| 36844358
Có thể thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta đã có sự thay đổi rõ rệt
qua từng năm. Tuy nhiên vẫn có sự tăng giảm qua các năm nhưng đã có sự
tăng lên khá nhiều so với thời khi chưa đổi mới. Bởi lẽ, tốc độ tăng trưởng
kinh tế của nước ta trong giai đoạn hội nhập và hướng đến nền kinh tế
quốc tế còn chịu nhiều ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài
Và chỉ số tiêu dùng của nước ta cũng có những thay đổi đáng kể qua từng
năm, có thể thấy rõ nhu cầu sử dụng hàng hóa của con người ngày một tăng
lên, đời sống xã hội phát triển đã kích thích của nhu cầu của con người, điều đó
đã góp phần nào đó thúc đẩy sự phát triển của các lực lượng sản xuất, đòi hỏi
các nhà sản xuất phải tăng cường đổi mới tư duy sáng tạo
hơn trong sản xuất, nhằm gia tăng năng suất lao động.
2011
2015
2012
2013
2014
2016
2017
2018
2019
6.24
5.25
5.42
5.98
6.68
6.21
6.81
7.08
7.02
ng GDP ca Vit Nam qua các năm (%)
Biu đồồ th hin s
lOMoARcPSD| 36844358
Ch sồố Cpi qua các nămỉ
2015 2016 2017 2018 2019 2020
3. Những giải pháp để vận dụng lý thuyết giá trị tốt hơn Những giải pháp
của Đảng và nhà nước ta
Để phát huy các tác động tích cực, đẩy lùi các tác động tiêu cực của việc
vận dụng lý thuyết giá trị mang lại Nhà nước cần nâng cao vai trò quản lý
thông qua quy hoạch, kế hoạch , công cụ tài chính,; qua các phương thức
kích thích , giáo dục, thuyêt phục và cả cưỡng chế nữa. Chủ trương của
Đảng ta trong thời gian tới là :
Phát triển kinh tế , công nghiệp hoá, hiện đại hoá là trung tâm .Đây
là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước ta.Phát triển
kinh tế,công nghiệp hoá ,hiện đại hoá để từ đó tạo đà để thực hiện
những nhiệm vụ khác,đưa nước ta nhanh chóng phát triển ,tiến theo
con đường xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng hội nhập quốc tế.
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.Tạo điều kiện cho
các thành phần kinh tế cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thi trường,
tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước. Lấy kinh tế Nhà
nước làm vai trò chủ đạo, thông qua đó điều tiết sự phát triển của các
lOMoARcPSD| 36844358
thành phần kinh tế khác, tạo ra cơ cấu nền kinh tế đa ngành, nhiều
thành phần.Đây là một yêu cầu cấp thiết, là đIều kiện cơ bản để xây
dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam trong thời gian tới.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội , nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Đây là nhiệm vụ nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị với nền
kinh tế nước ta. Bởi lẽ con người là “nhân tố” quan trọng nhất của sự
hình thành và phát triển nền kinh tế của một dất nước. Có thể nói, dù
cho lý thuyết giá trị, giá cả mang đến hiệu quả cao như thế nào nếu
không có sự vận dụng của con người thì nó vẫn mãi là những con
chữ nằm thẳng đơ trên trang giấy. Chính con người, đã sử dụng sức
lao động của mình để cụ thể hóa hững vấn đề mang tính đai cương
ấy thành những giải pháp cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn phát
triển kinh tế để ứng dụng vào nền kinh tế, góp phần tạo nên những
biến chuyển tích cực của nền kinh tế.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế , bảo đảm độc
lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa , bảo vệ lợi ích dân tộc,
giữ vững an ninh quốc gia , giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
môi trường sinh thái.Trên nguyên tắc “Hòa nhập không hòa tan”
Đảng và nhà nước ta đã có các chính sách đối ngoại nhằm thu hút
nguồn vốn đầu tư, tạo sự hợp tác liên kết với nước trong khu vực
Đông Nam Á hay Châu Á, các nước Mĩ, Nga, Nhật Bản,..... từ đó
thực hiện các chính sách kinh tế hội nhập, thự hiện xuất khẩu các sản
phẩm lương thực, cà phê, hồ tiêu,... đồng thời nhập khẩu các loại
máy móc, các trang thiết bị hiện đại, kích thích sự phát triển của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
Những giải pháp của bản thân.
Em xin đưa ra một số biện pháp nhỏ nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị
ở nước ta hiện nay.
Giải phóng lực lượng sản xuất ,huy động mọi nguồn lực để thúc đẩy
nhanh công nghiệp hoá,hiện đại hoá,nâng cao hiệu quả kinh tế-xã
hội,cải thiện đời sống nhân dân. Nhà nước bằng các công cụ, chính
sách kinh tế vĩ mô để dẫn dắt ,hướng dẫn cho hệ thống thị trường
phát triển,nhà nước có vai trò quan trọng trong quá trình phân phối
đảm bảo công bằng ,hiệu quả,hướng tới xã hội công bằng,dân
chủ,văn minh.
Nhà nước cần chú ý hơn tới vấn đề đồng bộ hệ thống thị trường ở
nước ta ở nước ta một số loại thị trường thì phát triển nhanh chóng,
lOMoARcPSD| 36844358
phát huy được hiệu quả trong nền kinh tế thị trường,trong khi đó một
số loại thị trường còn rất sơ khai, chưa hình thành một cách đầy đủ
và bị biến dạng.Vì thế nhà nước cần có những biện pháp để vực dậy
một số thị trường còn bỏ ngỏ.
Việc vận dụng quy luật giá trị trong định giá giả cả phải có giới
hạn,có căn cứ kinh tế .Như vậy mới có tác dụng trong việc phát
triển sản xuất
Nhà nước ta khi vận dụng quy luật giá trị phải xuất phát từ nhiều
quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hộ, căn cứ vào nhiệm vụ kinh tế
,chính trị từng thời kì
PHẦN KẾT LUẬN: Lý thuyết giá trị có vai trò đặc biệt quan trọng
trong sự phát triển kinh tế thi trường , nó là quy luật kinh tế căn bản chi
phối sự vận động của nền kinh tế thị trường . Sự tác động của lý thuyết
giá trị một mặt thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, mặt khác gây ra
các hệ quả tiêu cực …Đối với nền kinh tế thi trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta giai đoạn hiện nay, quy luật giá trị đóng một vai trò
cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên có phát huy được các mặt tích cưc, đẩy lùi
các mặt tiêu cực còn là một vấn đề phụ thuộc nhiều vào vai trò quản lý
vĩ mô của nhà nước và nhận thức của mỗi công dân.
| 1/7

Preview text:

lOMoAR cPSD| 36844358
II Vận dụng lý thuyết giá trị, giá cả vào Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng vận dụng lý thuyết giá trị, giá cả vào Việt Nam hiện nay Vận
dụng lý thuyết giá trị, giá cả thể hiện chủ yếu qua việc hình thành giá cả. Giá cả
là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả phải lấy giá trị làm giá trị thì mới có
căn cứ kinh tế, mới có tác dụng kích thích năng suất lao động, cải tiến hạ tầng
cơ sở sản xuất.Nhà nước phải tận dụng cơ chế hoạt động của lý thuyết giá trị,
giá cả nghĩa là khả năng tách rời giá trị với giá cả và đưa giá cả trở về giá trị, từ
đó vận dụng vào thực tiễn nền kinh tế nước ta
Thứ nhất là điều tiết và lưu thông hàng hóa. Nếu một loại hàng hóa
có giá cả cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy và đem lại lại lợi
nhuận cao cho người tiêu dùng thì người sản xuất sẽ mở rộg sản xuất
và nâng cao giá cả. Ngược lại nếu loại hàng hóa đó có giá cả thấp
hơn giá trị, bị ế hàng thì người sản xuất sẽ thu hẹp sản xuất để tránh
bị lỗ vốn. Như vậy dưới tác động của lý thuyết giá trị, giá cả nó đã
thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, làm cho
hàng hóa có sự mất cân bằng ở một số vùng nhất định. Trong trường
hợp này, Nhà nước sẽ thực hiện các chính sách nhằm cân bằng thị
trường ở những vùng có sự chênh lệch về giá cả, như đánh thuế cao
vào các loại hàng có giá cả cao để tránh lạm phát hay trựo cấp chi
phí sản xuất đối với những vùng sản phẩm có giá cả thấp để kích thích sản xuất.
Thứ hai là kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng
năng suất lao động. Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều
kiện khác nhau do đó có mức độ hao phí lao động cá biệt khác nhau,
nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo
mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng hóa
nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã
hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi.
Điều đó kích thích lao những người sản xuất hàng hóa cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết
kiệm nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.Vì thế Nhà
nước cần thực hiện các quá trình cấp vốn đầu tư cho các cơ sở sản
xuất, tạo điều kiện để các doahnh nghiệp có thể tiếp cận một cách dễ
dàng nhất với các trang thiết bị hiện đâij, hỗ trợ sản xuất.
Thứ ba là phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các
ngành.Nhà nước cần phải có các chính sách phân phối, phân phối lại
thu nhập quốc dân giữa các ngành nhằm phục vụ, nâng cao, cải
thiện đời sống của nhân dân lao động. Tiến hành các chính sách phát
triển kinh tế hướng đến thị trường quốc tế, tiến hành xuất khẩu các lOMoAR cPSD| 36844358
sản phẩm nông nghiệp, nhập khẩu các loại máy móc trang thiết bị
hiện đại, nhằm phát huy thế mạnh của nước ta là một nước nông
nghệp với các sản phẩm nông nghiệp, cây ăn quả và đồng thời khắc
phục sự hạn chế trong cơ sở vật chất và hạ tầng của nước ta.
Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế. Việc chuyển từ nền kinh tế quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trường cùng với việc loại bỏ cơ chế xin cho, bảo hộ,
cấp phát trong lao động sẽ làm cho mỗi doanh nghiệp phải tự hạch toán. Không
bị ràng buộc bởi các chỉ tiêu mà nhà nước đặt ra nhưng cùng với đó là phải tự
nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp với sản phẩm của mình. Mặt khác nước
ta đang dần tiến đến nền kinh tế cạnh tranh, vì thế mỗi doanh nghiệp mối cá
nhân cần phải tự tính cho những những bước đi riêng để có thể đứng vững trước
“cơn bão táp” cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước, giữa
các daonh nghiệp trong nước với nhau. Từ đó thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế.
Tăng tính năng động cho nền kinh tế. Cạnh tranh gay gắt sẽ đưa đến một hệ quả tất
yếu là làm cho nền kinh tế năng động lên .Vì trong cạnh tranh, mỗi người sẽ tìm
cho mình một con đường đi mới trong một lĩnh vực sản xuất, kinh doá nhao cho
tạo nên sự sản xuất hiệu quả nhất.Các con đường đó sẽ vô vàn khác nhau,các
con đường đó luôn tạo ra những lĩnh vực sản xuất mới. Và hơn nữa, cạnh tranh
năng dộng sẽ làm cho sản phẩm hàng hoá đa dạng về mẫu mã, nhiều về số
lượng, cao về chất lượng. Bởi vì, sự đào thải của quy luật giá trị sẽ ngày càng
làm cho sản phẩm hoàn thiện hơn, mang lại nhiều lơi ích cho người tiêu dùng.Sự
năng động còn thể hiện ở sự phát triển nhiều thành phần kinh tế. Bởi vì, việc
phát triển nhiều thành phần kinh tế có tác dụng thu hút nguồn nhân lực vào các
thành phần kinh tế, phát huy nội lực, tận dụng nội lực để sản xuất ra nhiều hàng
hoá thu lợi nhuận(lợi nhuận siêu nghạch, lợi nhuận độc quyền) hay nâng cao
trình độ sản xuất trong một nghành, một lĩnh vực nhất định .
Tuy nhiên việc vận dụng lý thuyết giá trị giá cả cũng đêm đến những “khuyết tật”
nhất định cho nước ta. Cụ thể:
Trong điều tiết và lưu thông hàng hóa, một số người đã đầu cơ tích
trữ hàng hóa và sau đó dem bán ra thị trường với giá cao. Đối với
những trường hợp như vậy, Chính phủ đã tiến hành thu hồi lại tất cả
số lượng hàng hóa trên đông thời cũng tiến hành các biện pháp xử
phạt nghiêm khắc như phạt tiền hay thậ chí là phạt tù
Nhà nước cần phát huy vai trò chủ đạo của nền kinh tế nHà nước
vào sản xuất lưu thông hàng hóa. Tránh để thế độc quyền sản phẩm
rơi vào tay của các thương nhân hay doanh nghiệp tư nhân bởi lẽ
những doanh nghiệp này chỉ chạy theo lợi nhuận mà không nghĩ đến
người dân. Chẳng hạn ở những vùng đặc iệt khó khăn, hàng hóa và lOMoAR cPSD| 36844358
các nhu yếu phẩm khá khan hiếm chính vì thế nhà nước cần tạo điều
kiện để có thể cung ứng một cách nhanh nhất đến người dân bằng
cách thông qua các chợ đầu mối, kho lương.
Trong dòng lưu thông hàng hóa, có một số người chạy theo lợi
nhuận một cách mù quáng. Họ tiến hành nhập khẩu nhứngarn phẩm
kém chất lượng như các loại hàng Trung Quốc vào nước ta rồi bán
với giá như những mặt hàng này được sản xuất trực tiếp ở Việt Nam.
Và vì thế để ngăn chặn những tình huống này Nhà nước cần phải cso
biện pháp xử phạp mạnh nhất như tiêu hủy toàn bộ luogwj hàng hóa
trên đông thời phạt tiện, phạt hình sự đối với các chủ mưu trên tùy
thuộc vào mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị nhất định sẽ dẫn đến một số
kết quả tất yếu: Những người có điều kiện sản xuất tốt hơn, có trang
thiết bị tốt hơn,có trình độ kiến thức cao hơn , có hao phí lao động cá
biệt thấp hơn hao phí xã hội cần thiết sẽ trở nên giàu có một cách
nhanh chóng và ngược lại những người có thời gian lao động cá biệt
cao hơn thời gian lao động xã hội cần thiết, có ít điều kiện thuận lợi
hơn sẽ trở thành người nghèo. Tuy nhiên người giàu là người sử
dụng tư liệu sản xuất, họ sẽ chạy theo lợi nhuận của họ mà quên đi
những lợi ích mà mình sẽ mang lại cho cộng đồng. Đây có lẽ là
“khuyết tật “ lớn nhất mà khi vận dụng lý thuyết giá trị đem lại .
Chính vì thế Nhà nước cần phải có các biện pháp, các nguồn trợ cấp
hỗ trợ người nghèo những người còn gặp khó kăn trong cuộc sống,
đồng thời kích thích sự phát triển của các doanh nghiệp nhưng cũng
có các biện pháp xử phạt mạnh mẽ nghiêm khắc nhất đối với các
daonh nghiệp thực hiện trái quy định, có các hành vi vi phạm pháp
luật, dùng những “chiêu trò” bẩn để làm giàu.
2. Kết quả của vận dụng lý thuyết giá trị giá cả vào Việt Nam
Việt Nam sau khi thực hiện đổi mới, dưới tác dụng của lý thuyết giá trị và
đường lối lãnh đạo của Nhà nước, nước ta đã có những thay đổi tích cực về
nhiều mặt đặc biệt là nền kinh tế. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với
90% dân số làm nông, Việt Nam đã từng bước đổi mới, xây dựng hệ thống cơ
cấu hạ tầng, các trang thiết bị hiện đại nhằm phục vụ mục đích tiến hành quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tăng trưởng kinh tế đã có những biến chuyển lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế
thuộc vào hàng các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong khu vực và
thế giới. Cụ thể mức tăng trưởng kinh tế trong 9 năm trở lại đây của Việt nam như sau: lOMoAR cPSD| 36844358
Biu đồồ th hin s tăng tr ng G DP c a Vit N am qua các năm (%) 6.68 6.81 7.08 7.02 6.24 6.21 5.98 5.25 5.42 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Có thể thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta đã có sự thay đổi rõ rệt
qua từng năm. Tuy nhiên vẫn có sự tăng giảm qua các năm nhưng đã có sự
tăng lên khá nhiều so với thời khi chưa đổi mới. Bởi lẽ, tốc độ tăng trưởng
kinh tế của nước ta trong giai đoạn hội nhập và hướng đến nền kinh tế
quốc tế còn chịu nhiều ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài
Và chỉ số tiêu dùng của nước ta cũng có những thay đổi đáng kể qua từng
năm, có thể thấy rõ nhu cầu sử dụng hàng hóa của con người ngày một tăng
lên, đời sống xã hội phát triển đã kích thích của nhu cầu của con người, điều đó
đã góp phần nào đó thúc đẩy sự phát triển của các lực lượng sản xuất, đòi hỏi
các nhà sản xuất phải tăng cường đổi mới tư duy sáng tạo
hơn trong sản xuất, nhằm gia tăng năng suất lao động. lOMoAR cPSD| 36844358
Ch sồố Cpi qua các nămỉ 2015 2016 2017 2018 2019 2020
3. Những giải pháp để vận dụng lý thuyết giá trị tốt hơn Những giải pháp
của Đảng và nhà nước ta
Để phát huy các tác động tích cực, đẩy lùi các tác động tiêu cực của việc
vận dụng lý thuyết giá trị mang lại Nhà nước cần nâng cao vai trò quản lý
thông qua quy hoạch, kế hoạch , công cụ tài chính,; qua các phương thức
kích thích , giáo dục, thuyêt phục và cả cưỡng chế nữa. Chủ trương của
Đảng ta trong thời gian tới là :
Phát triển kinh tế , công nghiệp hoá, hiện đại hoá là trung tâm .Đây
là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước ta.Phát triển
kinh tế,công nghiệp hoá ,hiện đại hoá để từ đó tạo đà để thực hiện
những nhiệm vụ khác,đưa nước ta nhanh chóng phát triển ,tiến theo
con đường xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng hội nhập quốc tế.
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.Tạo điều kiện cho
các thành phần kinh tế cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thi trường,
tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước. Lấy kinh tế Nhà
nước làm vai trò chủ đạo, thông qua đó điều tiết sự phát triển của các lOMoAR cPSD| 36844358
thành phần kinh tế khác, tạo ra cơ cấu nền kinh tế đa ngành, nhiều
thành phần.Đây là một yêu cầu cấp thiết, là đIều kiện cơ bản để xây
dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời gian tới.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội , nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Đây là nhiệm vụ nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị với nền
kinh tế nước ta. Bởi lẽ con người là “nhân tố” quan trọng nhất của sự
hình thành và phát triển nền kinh tế của một dất nước. Có thể nói, dù
cho lý thuyết giá trị, giá cả mang đến hiệu quả cao như thế nào nếu
không có sự vận dụng của con người thì nó vẫn mãi là những con
chữ nằm thẳng đơ trên trang giấy. Chính con người, đã sử dụng sức
lao động của mình để cụ thể hóa hững vấn đề mang tính đai cương
ấy thành những giải pháp cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn phát
triển kinh tế để ứng dụng vào nền kinh tế, góp phần tạo nên những
biến chuyển tích cực của nền kinh tế.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế , bảo đảm độc
lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa , bảo vệ lợi ích dân tộc,
giữ vững an ninh quốc gia , giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
môi trường sinh thái.Trên nguyên tắc “Hòa nhập không hòa tan”
Đảng và nhà nước ta đã có các chính sách đối ngoại nhằm thu hút
nguồn vốn đầu tư, tạo sự hợp tác liên kết với nước trong khu vực
Đông Nam Á hay Châu Á, các nước Mĩ, Nga, Nhật Bản,..... từ đó
thực hiện các chính sách kinh tế hội nhập, thự hiện xuất khẩu các sản
phẩm lương thực, cà phê, hồ tiêu,... đồng thời nhập khẩu các loại
máy móc, các trang thiết bị hiện đại, kích thích sự phát triển của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
Những giải pháp của bản thân.
Em xin đưa ra một số biện pháp nhỏ nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nước ta hiện nay.
Giải phóng lực lượng sản xuất ,huy động mọi nguồn lực để thúc đẩy
nhanh công nghiệp hoá,hiện đại hoá,nâng cao hiệu quả kinh tế-xã
hội,cải thiện đời sống nhân dân. Nhà nước bằng các công cụ, chính
sách kinh tế vĩ mô để dẫn dắt ,hướng dẫn cho hệ thống thị trường
phát triển,nhà nước có vai trò quan trọng trong quá trình phân phối
đảm bảo công bằng ,hiệu quả,hướng tới xã hội công bằng,dân chủ,văn minh.
Nhà nước cần chú ý hơn tới vấn đề đồng bộ hệ thống thị trường ở
nước ta ở nước ta một số loại thị trường thì phát triển nhanh chóng, lOMoAR cPSD| 36844358
phát huy được hiệu quả trong nền kinh tế thị trường,trong khi đó một
số loại thị trường còn rất sơ khai, chưa hình thành một cách đầy đủ
và bị biến dạng.Vì thế nhà nước cần có những biện pháp để vực dậy
một số thị trường còn bỏ ngỏ.
Việc vận dụng quy luật giá trị trong định giá giả cả phải có giới
hạn,có căn cứ kinh tế .Như vậy mới có tác dụng trong việc phát triển sản xuất
Nhà nước ta khi vận dụng quy luật giá trị phải xuất phát từ nhiều
quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hộ, căn cứ vào nhiệm vụ kinh tế
,chính trị từng thời kì
PHẦN KẾT LUẬN: Lý thuyết giá trị có vai trò đặc biệt quan trọng
trong sự phát triển kinh tế thi trường , nó là quy luật kinh tế căn bản chi
phối sự vận động của nền kinh tế thị trường . Sự tác động của lý thuyết
giá trị một mặt thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, mặt khác gây ra
các hệ quả tiêu cực …Đối với nền kinh tế thi trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta giai đoạn hiện nay, quy luật giá trị đóng một vai trò
cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên có phát huy được các mặt tích cưc, đẩy lùi
các mặt tiêu cực còn là một vấn đề phụ thuộc nhiều vào vai trò quản lý
vĩ mô của nhà nước và nhận thức của mỗi công dân.