


















Preview text:
Vận dụng thực tiễn Triết học Mác Lê nin
Quy luật lượng chất (Trình bày cách thức của sự vận động, phát triển)
Quy luật thống nhất giữa các mặt đối lập (122)
Quy luật phủ định của phủ định (Trình bày khuynh hướng của sự phát triển) (131-132)
Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. (41)
Quan điểm biện chứng duy vật vê chân lý. (45) [8]
Trong thời đại ngày nay khoa học đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp vì:[10]
(Tại sao nói sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên? Liên hệ VN)[13]
Vận dụng quan điểm của triết học mác-lê nin về vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh
tụ của đảng cộng sản việt nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng [18]
Bản chất của con người.Khái niệm con người và bản chất của con người(Quan điểm chủ
nghĩa duy vật lịch sử về con người) [17]
Giai cấp và dân tộc. Giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vai trò động lực của đấu tranh giai cấp
không chỉ thể hiện rõ nhất qua các cuộc cách mạng xã hội long trời lở đất, mà còn được
triết học Mác-Lênin nhìn nhận dưới một loạt các khía cạnh dưới đây [13]
Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội. Phương thức sản xuất vật
chất đóng vai quyết định trong đời sống xã hội vì
Chương 2: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG I.
Triết học và vấn đề cơ bản của Triết học.
(Câu hỏi có thể hỏi là trình bày nguyên tắc khách quan và vận dụng vào thực tiễn)
Vận dụng vào thực tiễn bản thân :
Dưới góc độ là một sinh viên kinh tế sẽ tham gia vào lĩnh vực đầy biến động, chúng ta sớm tự đề
ra cho mình những mục tiêu, những phương hướng cụ thể. Tuy vậy, cần tự xem xét năng lực
mình ở đâu, điều kiện hoàn cảnh của mình như thế nào để có thể đặt ra mục tiêu phù hợp, hợp lí
và có thể thực hiện được. Đi từ bước nhỏ, tránh nôn nóng mà lấy cái mong muốn của mình biến
nó thành mục tiêu cao xa, viễn vong. Để còn được thành tựu cho bản thân đó là yếu tố khách
quan nên không thể chỉ mong muốn mà có được, do đó cần kiên trì, chăm chỉ thông qua hoạt
động thực tiễn. Trong hoạt động biểu quyết đề bạc, phải khách quan đề cử người có năng lực 1
chuyên môn vào vị trí phù hợp, không nhờ do “chơi thân”, có tình cảm mà chủ quan trong công
tác đánh giá đề cử. Song song đó, tích lũy thêm tri thức khoa học, tiếp thu cái mới, cái tiến bộ, bổ
sung kĩ năng ngoại ngữ và tri thức công nghệ số để có thể tham gia với thời đại mới.
Vận dụng vào quá trình đổi mới / Đảng ta vận dụng :
Trong quá trình đổi mới đất nước, việc thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan và phát huy
tính năng động chủ quan trong nhận thức và thực tiễn là vô cùng quan trọng. Điều này đòi hỏi
phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, tức là những hành động áp đặt ý chí
lên thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, ý muốn chủ quan làm chính sách, hoặc tình cảm làm
xuất phát điểm cho các chiến lược lớn. Đồng thời, cũng cần chống lại chủ nghĩa kinh nghiệm, sự
xem thường tri thức khoa học, lý luận, cùng thái độ bảo thủ, trì trệ, và thụ động trong nhận thức và thực tiễn.
Trong mọi hoạt động, từ nhận thức đến thực tiễn, cần xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
các quy luật tự nhiên và xã hội. Việc tạo điều kiện, tổ chức lực lượng và phương tiện để biến các
tiềm năng thành hiện thực là thiết yếu, đồng thời phát huy tính chủ động sáng tạo của con người.
Đảng ta luôn xác định "Mọi đường lối, chủ trương phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật
khách quan," nhấn mạnh vai trò quyết định của vật chất và các quy luật khách quan trong mọi hoạt động.
Đặc biệt, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng luôn nhận thức rõ tính chất
đặc thù của con đường này: bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài
với nhiều chặng đường và hình thức tổ chức kinh tế - xã hội mang tính chất quá độ. Mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tế khách quan của đất nước,
phù hợp với các quy luật và điều kiện thực tế.
Ý thức, với vai trò phản ánh hiện thực khách quan, càng chính xác, đầy đủ, và khoa học, thì hiệu
quả cải tạo thế giới càng cao. Do đó, việc nắm bắt và xử lý thông tin thực tế một cách khoa học,
khách quan là yếu tố cốt lõi để xây dựng chính sách đúng đắn, đồng thời khẳng định sức mạnh
của ý thức trong nhận thức và vận dụng quy luật khách quan. Nhờ đó, Đảng ta tiếp tục đổi mới tư
duy lý luận, đặc biệt là tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đảm
bảo các đường lối và chính sách luôn phù hợp với thực tế khách quan, nhằm đưa đất nước phát triển bền vững. II.
Triết học Mác Lenin và vai trò của nó trong đời sống xã hội.
2.1.a. Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến.
(Nguyên tắc toàn diện=nguyên tắc mức độ phổ biến)
Vận dụng vào bản thân :
Dưới góc độ là một sinh viên năm nhất bước chân vào môi trường đại học có nhiều thay đổi so
với cấp ba, trước khi bắt đầu học một môn học nào đó, chúng ta cần tìm hiểu về môn học đó là
như thế nào, nội dung chủ yếu của môn đó yêu cầu gì, và nó có liên hệ với kiến thức mình đã học
như thế nào. Khi nắm bắt được các yếu tố trên, chúng ta có sự chuẩn bị ôn tập kiến thức cũ, đồng
thời tham khảo ý kiến từ nhiểu nguồn khác nhau về môn học đó để rút ra phương pháp và xây
dựng lộ trình học tập hợp lí cho bản thân. Song song đó, không nên chỉ nghe thông tin từ 1 chiều
rằng môn học đó khó, không dễ tiếp thu mà có cái nhìn phiến diện dẫn đến chễnh mãng, cần phải
nhìn toàn diện, lắng nghe thông tin từ nhiều cá nhân từ đó rút ra được kinh nghiệm.Và từ đó, để 2
chuẩn bị hành tranh bước chân vào lĩnh vực kinh tế đầy biến động nói riêng cũng như đời sống
xã hội nói chung,chúng ta cần phải nhìn sự vật, hiện tượng từ nhiều góc độ với cái nhìn đa chiều
bao quát, toàn cảnh với tư duy phản biện để có thái độ ứng xử phù hợp.
Vận dụng vào quá trình đổi mới của nước ta hiện nay / Đảng ta vận dụng :
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quan điểm toàn diện
và quan điểm lịch sử - cụ thể của phép biện chứng duy vật để xây dựng và thực hiện các đường
lối, chính sách phù hợp với điều kiện thực tế. Quan điểm toàn diện giúp Đảng nhận thức rõ rằng
đổi mới phải được thực hiện trên tất cả các mặt và lĩnh vực, bao gồm kinh tế, chính trị, văn hóa,
và môi trường. Tuy nhiên, Đảng cũng quán triệt rằng đổi mới kinh tế là trọng tâm, bởi kinh tế là
nền tảng để thúc đẩy sự phát triển bền vững của các lĩnh vực khác. Bên cạnh đó, quan điểm lịch
sử - cụ thể được vận dụng để đảm bảo rằng các giải pháp đổi mới luôn phù hợp với điều kiện lịch
sử, văn hóa, và đặc điểm cụ thể của từng giai đoạn phát triển.
Trong thực tiễn, Đảng đã kết hợp việc xây dựng và thực hiện các giải pháp trọng tâm, trọng điểm
với việc triển khai đồng bộ những giải pháp khác để đảm bảo sự hài hòa và hiệu quả. Trong giai
đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, việc vận dụng linh hoạt và sáng tạo nguyên tắc toàn diện đã
giúp Đảng xác định đúng đắn chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng, góp phần vào sự
thành công của công cuộc giải phóng dân tộc. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng tiếp tục khẳng định vai trò trọng tâm của phát triển kinh tế, đồng
thời từng bước đổi mới lĩnh vực chính trị theo hướng phù hợp, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn:
“Chẳng những xem xét công tác của họ, mà còn phải xét cách sinh hoạt của họ. Chẳng những
xem xét cách viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói, bài
viết của họ hay không. Chẳng những xem xét họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ đối
với người khác thế nào. Ta nhận họ tốt, còn phải xét số nhiều đồng chí có nhận họ tốt hay
không”(8), không nên chỉ xem công việc của họ trong một lúc, “mà phải xem xét công việc của họ
từ trước đến nay”
Thật vậy, khi đặt đối tượng trong nhiều mối quan hệ thì bản chất sự vật, hiện tượng mới bộc lộ
đúng bản chất vấn có của nó. Lời căn dặn của Người là một minh chứng cho thấy rằng phải vận
dụng triệt để nguyên tắc toàn diện trong công tắc bổ nhiệm nói riêng và chính sách, đường lối
của Đảng, Nhà nước nói chung.
2.1.b. Nguyên lý về sự phát triển. (Nguyên tắc phát triển)
Vận dụng vào đổi mới / Đảng :
Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê phán với quan điểm
bảo thủ, trì trệ, định kiến. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX có viết : “... Xóa bỏ mặc cảm, định
kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn
nhau hướng tới tương lai” .
Việc Đảng ta kiên trì đổi mới xây dựng đất nước phát triển theo con đường XHCN là căn cứ vào
quan điểm phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở tin tưởng vào sự tất thắng của 3
chủ nghĩa cộng sản mặc dù trong bối cảnh lịch sử hiện nay CNXH trên thế giới đang ở giai đoạn
thoái trào và công cuộc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta cũng như các nước XHCN.
Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng nguyên tắc phát triển này vào chính sách, đường lối phát triển
triển đất nước tại Nghị quyết Đại hội XII như sau:
Thứ nhất, Đảng dựa trên nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa và bổ sung phù hợp với những thay
đổi trong từng giai đoạn phát triển của đất nước để xác địng mục tiêu phương hướng, đồng thời
nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước và những chuẩn mực phát triển chung của thế
giới: Đảng và Nhà nước đã tổng kết kết quả đạt dược trong 35 năm đổi mới đồng thời nhìn
những mặt thiếu sót, hạn chế để khắc phục, tiến đến khát vọng Việt Nam thịnh vượng, hùng cường vào năm 2045
Thứ hai, trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, những nhân tố tác động đến
Việt Nam trong những năm sắp tới, đánh giá 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 và 10 năm
thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách
thức đan xen. Đảng ta đã đề ra mục tiêu tổng quát nhằm tháo gỡ khó khăn biến thành khó khăn
thành cơ hội,xem khó khăn là một điều tất yếu, không bi quan, chán nản.
Thứ ba, để thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hiện thực hóa khát vọng phát
triển đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045, Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng đã xác định: “ Có chiến lược phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế của thế
giới và điều kiện của đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn
mới, thích ứng với Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.
Vận dụng vào bản thân :
Dưới góc độ một sinh viên kinh tế, chúng ta cần phải quan sát sự vật hiện tượng trong trạng thái
vận động không ngừng, đặc biệt là lĩnh vực có nhiều biến động như kinh tế. Kết hợp với quan sát
là phải đánh giá được sự vật hiện tượng đó sẽ phát triển như thế nào, để có kế hoạch đầu xu thế.
Song song đó, trong quá trình học tập, làm việc phải chấp nhận rằng, phát triển không phải một
đường thẳng tắp nên cần có thái phù hợp khi gặp khó khăn, thử thách. Đồng thời, loại bỏ thái độ
bảo thủ, khăng khăng về 1 sự vật hiện tượng, phải có thái độ đón nhận, ủng hộ với sự vật hiện
tượng khi nó có sự phát triển tích cực. Ứng dụng vào quá trình học tập, khi chưa hiểu được kiến
thức này không có nghĩ sẽ mãi mãi không thể hiểu, chúng ta cần chăm chỉ, kiên trì không bỏ
cuộc, có biện pháp giải quyết để đưa đến kết quả tốt nhất.
2.1.c. Nguyên tắc lịch sử cụ thể
Vận dụng trong quá trình đổi mới / Đảng ta vận dụng :
Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta luôn quán triệt và vận dụng quan điểm toàn diện của
phép biện chứng duy vật để đảm bảo rằng mọi chủ trương, chính sách đều được xây dựng và
thực hiện trên cơ sở nhìn nhận tổng thể các yếu tố, mối quan hệ giữa các lĩnh vực khác nhau. Đặc
biệt, Đảng ta đã quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể, tức là trong mỗi giai đoạn phát triển, các
chính sách phải được điều chỉnh và linh hoạt để phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước tại
thời điểm đó. Việc quán triệt quan điểm phát triển của phép biện chứng duy vật giúp Đảng xây
dựng, hoạch định các chủ trương và chính sách đổi mới một cách khoa học, có tính chiến lược
dài hơi và phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong từng thời kỳ. 4
Trong thực tiễn, Việt Nam đã biết kế thừa những giá trị của văn minh nhân loại, đặc biệt là từ
các nước tư bản công nghiệp tiên tiến, trong các lĩnh vực như kinh tế, khoa học, công nghệ và
quản lý. Điều này thể hiện rõ trong quá trình hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế mở. Đồng
thời, công tác dự báo cũng được thực hiện để phục vụ cho việc hoạch định chính sách phát triển
dài hạn, đảm bảo sự bền vững và chiến lược của Đảng và Nhà nước. Đảng ta luôn kết hợp giữa
việc xây dựng và thực hiện các giải pháp trọng tâm với việc triển khai đồng bộ các giải pháp
khác để tạo nên sự phát triển toàn diện, đồng bộ trên tất cả các mặt như kinh tế, chính trị, văn hóa và môi trường.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm. Trên cơ sở đó, từng bước
đổi mới các lĩnh vực khác, nhất là chính trị, sao cho phù hợp, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển
mạnh mẽ, từ đó thúc đẩy sự phát triển toàn diện của xã hội. Như trong giai đoạn cách mạng dân
tộc dân chủ, Đảng ta đã quán triệt nguyên tắc toàn diện trong xây dựng chiến lược, sách lược
cách mạng, tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn và đưa công cuộc cách mạng đến thành
công. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng luôn xác định
phát triển kinh tế là trọng tâm, đồng thời đổi mới chính trị để tạo nền tảng vững chắc cho sự phát
triển chung của đất nước.
Vận dụng vào thực tiễn bản thân :
Trong quá trình học tập và rèn luyện, em luôn cố gắng tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ, vì em hiểu
rằng những tư tưởng này sẽ cản trở sự phát triển của bản thân. Em luôn nỗ lực nhìn nhận vấn đề
một cách toàn diện, không bị rơi vào cái nhìn phiến diện, một chiều, hay chủ nghĩa chiết trung.
Thay vào đó, em áp dụng quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật, xem xét mọi vấn đề
trong mối quan hệ tổng thể và sự tác động qua lại giữa các yếu tố. Em cũng luôn quán triệt quan
điểm lịch sử - cụ thể, tức là hiểu rằng mỗi vấn đề cần được xem xét trong bối cảnh thời gian,
không gian và điều kiện cụ thể để có giải pháp phù hợp.
Trong thực tiễn, em chủ động thích nghi và đổi mới phương pháp học tập để phù hợp với môi
trường học tập hiện đại. Em luôn hoàn thành các yêu cầu thầy cô giao, chủ động ôn tập và áp
dụng kiến thức đã học vào thực tế để đạt hiệu quả cao nhất. Em cũng kế thừa những yếu tố tích
cực từ phương pháp học cũ và sáng tạo chúng trong điều kiện mới, nhằm nâng cao hiệu quả học
tập. Ngoài ra, em tích cực tham gia các hoạt động xã hội, sống có trách nhiệm với bản thân, gia
đình, xã hội và đất nước.
Em không chỉ chú trọng phát triển tri thức mà còn rèn luyện phẩm chất đạo đức và lối sống lành
mạnh. Với sự nhiệt huyết sáng tạo và tinh thần vươn lên, em luôn cố gắng vượt qua khó khăn và
phát triển các kỹ năng sống cơ bản để sẵn sàng đối mặt với thử thách. Đồng thời, em không
ngừng học tập và rèn luyện ở mọi mặt để nâng cao trình độ, phẩm chất và năng lực của bản thân,
đáp ứng nhu cầu xã hội. Em kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện lệch lạc như sống thiếu lý
tưởng, thực dụng, coi trọng vật chất quá mức và thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
2.2.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên.
“ Trong cuộc sống phải biết tuân theo những quy luật nhưng phải biết nắm bắt cơ hội ” dựa trên
cặp phạm trù tất nhiên & ngẫu nhiên của phép biện chứng duy vật .
Tất nhiên là cái do bản chất do nguyên nhân bên trong của kết cấu vật chất quyết định và
trong những điều kiện nhất định nó nhất định phải xảy ra như thế này chứ không thể xảy ra như thế khác 5
Ngẫu nhiên là cái do những nguyên nhân bên ngoài do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh
mang lại; do đó nó có thể xảy ra có thể không xảy ra có thể xảy ra như thế này hoặc có thể xảy ra như thế khác
Cần lưu ý phân biệt phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên với phạm trù cái chung nguyên nhân và
tính quy luật. Có cái chung là cái tất nhiên nhưng có cái chung chỉ là cái ngẫu nhiên
Cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên đều có nguyên nhân trong đó tất nhiên là do nguyên nhân
bên trong quyết định còn ngẫu nhiên là tác động của nguyên nhân bên ngoài. Tất nhiên và ngẫu
nhiên đều tuân theo quy luật trong đó tất nhiên tuân theo quy luật động lực là loại quy luật mà
trong đó quan hệ qua lại giữa nguyên nhân và kết quả là quan hệ đơn trị. Còn ngẫu nhiên tuân
theo quy luật thống kê - là loại quy luật mà trong đó quan hệ qua lại giữa nguyên nhân và kết quả là quan hệ đa trị
Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan bên ngoài và độc lập với ý thức con người.
Trong quá trình phát triển của sự vật tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật còn
ngẫu nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển đó làm cho nó diễn ra nhanh hoặc chậm. Điều đó có
nghĩa là cái ngẫu nhiên chính là một bộ phận trong tiến trình phát triển chung của sự vật hiện
tượng. Sự phát triển của sự vật hiện tượng diễn ra nhanh hoặc chậm sẽ phụ thuộc rất nhiều vào cái ngẫu nhiên.
Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất hữu cơ đó
thể hiện ở chỗ không có cái tất nhiên thuần túy và cái ngẫu nhiên thuần túy tách rời nhau. Cái tất
nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên còn ngẫu nhiên
chính là hình thức biểu hiện của tất nhiên đồng thời là cái bổ sung cho tất nhiên. Điều đó có
nghĩa là cái tất nhiên bao giờ cũng là khuynh hướng chủ yếu của sự phát triển nhưng khuynh
hướng phát triển ấy khi bộc lộ thì bao giờ cũng bộc lộ gì ta thấy trong hiện thực và cho là ngẫu
nhiên thì đều không phải là cái ngẫu nhiên thuần túy mà là cái ngẫu nhiên bao hàm cái tất nhiên
đằng sau chúng bao giờ cũng ẩn nấp cái tất nhiên nào đó.
Ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có tính chất tương đối vì chúng có thể chuyển hóa cho
nhau khi thay đổi mối quan hệ. Điều đó thể hiện ở chỗ có cái thông qua những mặt này hay trong
mối quan hệ này là cái ngẫu nhiên nhưng thông qua những mặt khác hay trong mối quan hệ khác
thì lại là biểu hiện của tất nhiên và ngược lại.
Ý nghĩa phương pháp luận: trang 123
2.3.1. Quy luật lượng chất (Trình bày cách thức của sự vận động, phát triển)
Đảng ta đã vận dụng quy luật này một cách sáng tạo, tiêu biểu và rõ ràng nhất là cuộc cách mạng
tháng Tám năm 1945 - tâp dượt qua các cuộc đấu tranh để chờ thời cơ chín muồi tích đủ về
lượng tức đấu tranh chính trị và bạo lực cách mạng để xây dựng một xã hội mới dân chủ, tiến bộ
phủ định xã hội Phong kiến đã mục nát và lỗi thời.
Trong những năm đổi mới, trong hoạt động nhận thức cũng như thực tiễn Đảng ta đã vận dụng
tổng hợp tất cả các quy luật một cách đầy đủ, sâu sắc, năng động, sáng tạo phù hợp với điều kiện
cụ thể của dân tộc đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, củng cố địa vị trên trường quốc
tế và bước đầu đã gặt hái được những thành quả đáng mừng như: gia nhập phiên chợ toàn cầu
WTO, Thành viên không thường trực Đại hội đồng Liêp hợp quốc... và phấn đấu đến năm 2045
nước ta sẽ cơ bản là một nước phát triển. 6
Với tư cách là một sinh viên kinh tế, trước khi tham gia vào một lĩnh vực đầy biến động và có
nhiều thay đổi, ta cần phải tích lũy đầy đủ kiến thúc chuyên môn, tri thức khoa học lẫn công
nghệ và kiến thức xã hội. Khi đứng trước những thay đổi, thách thức cần có thái độ bình tĩnh, tìm
ra giải pháp phù hợp. Song song dó, biết nắm bắt cơ hội cũng như thời cơ. Bên cạnh đó, ta cần
tránh tâm thế nóng vội , duy ý chí, chủ quan mà phải cho bản thân có thời gian thích ứng. Đồng
thời, trong quá trình học tập cũng như làm việc, phải chủ động, đón nhận, tạo điều kiện cho
những thay đổi tích cực, phát huy tính năng lực sáng tạo riêng.
2.3.2 Quy luật thống nhất giữa các mặt đối lập (122)
Vận dụng vào quá trình đổi mới / Đảng vận dụng :
Tiếp thu tinh thần trên, Đảng ta đã vận dụng vào thực tiễn đảm bảo sự hài hòa giữa đoàn kết và
đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Một là, đảm bảo sự ổn định tương đối
của "tính đoàn kết" với sự vận động không ngừng của "tính chiến đấu'. Hai là, Giữ gìn đoàn kết
thống nhất bên trong để tăng cường sức chiến đấu với thách thức bên ngoài. Ba là, đảm bảo hài
hòa giữa đoàn kết rộng rãi và chiến đấu triệt để.
Vận dụng vào thực tiễn bản thân :
Với tư cách là một sinh viên kinh tế, ta phải nhìn nhận ra được mâu thuẫn là vấn đề khách quan
tồn tại trong mọi sự vật hiện tượng của đời sống xã hội. Ta phải biết được được rằng có mâu
thuẫn mới có nguồn gốc sự phát triển. Do đó, cần phải có thái độ đúng đắn tiếp nhận và giải
quyết từng vấn đề một, tôn trọng điểm khác biệt, đồng thời học hỏi tiếp thu cái mới nhưng hòa
nhập chứ không hòa tan. Song song, tích cực phát huy tư duy phản biện trong đóng góp và xây
dựng ý kiến. Tận dụng môi trường năng động như Đại học UEH như là một cơ hội để phát triển
tư duy đa chiều, đồng thời tự tin bày tỏ quan điểm cá nhân, có thái độ biết lắng nghe, cùng với đó
là đóng góp, kiến nghị phát huy cái tốt và đẩy lùi cái xấu để có thể giữ vững vị thế của Đại học
Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng như thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung.
2.3.3. Quy luật phủ định của phủ định (Trình bày khuynh hướng của sự phát triển) (131-132)
Vận dụng vào thực tiễn bản thân :
Trong quá trình học tập và rèn luyện, em luôn quán triệt thái độ phủ định sạch trơn hay thái độ
bảo thủ, khư khư ôm lấy những phương pháp cũ kỹ, lỗi thời. Em hiểu rằng không thể chỉ dựa vào
những gì đã qua mà bỏ qua sự đổi mới cần thiết trong học tập. Việc ôm giữ những phương pháp
không còn phù hợp sẽ cản trở sự phát triển và sáng tạo. Vì vậy, em luôn nỗ lực sàng lọc những
giá trị tích cực từ các phương pháp học cũ và tìm cách áp dụng chúng vào các phương pháp học
mới, phù hợp với môi trường học tập hiện đại.
Em luôn chủ động học hỏi, tìm tòi các cách thức học tập mới, sáng tạo và thử nghiệm nhiều
phương pháp học khác nhau để tìm ra phương pháp tối ưu nhất cho bản thân. Em nhận thức rõ
rằng học tập không phải là một quá trình dễ dàng và ngắn hạn mà là một hành trình dài, đòi hỏi
sự nỗ lực liên tục và không ngừng hoàn thiện bản thân. Em hiểu rằng không thể có cái nhìn giản
đơn hay dễ dàng từ bỏ khi gặp khó khăn, mà phải kiên trì và cố gắng vượt qua thử thách để đạt
được kết quả tốt nhất trong học tập và cuộc sống.
Vận dụng tư tưởng phủ định biện chứng vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam :
Trong quá trình xây dựng nền văn hóa việt nam Trên cơ sở vân dụng và phát triển lý luâ ̣n của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin và những ̣điều kiện thực tiễn của Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định lựa 7
chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế đô tư bản chủ ̣nghĩa. Điều này được Đảng
ta thể hiện rất rõ tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986), Đảng ta khẳng định: từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài là một tất yếu khách quan. Thời kỳ quá
độ ở nước ta do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Nhưng nhìn vào thành tựu to lớn sau 30 năm đổi mới, chúng ta thấy được
sự đúng đắn, hợp lý trong việc lựa chọn con đường phát triển của Đảng ta. Như vậy, khi nhìn
nhận và đánh giá về sự phát triển thì chúng ta không chỉ thấy sự phát triển theo đường thẳng, đi
lên theo bậc thang từ thấp đến cao, mà còn phải thấy được những bước rút ngắn, bỏ qua khi có
điều kiện thích hợp. Qua hàng ngàn năm lịch sử cùng với sự thay đổi và phát triển của các
phương thức sản xuất nền văn hóa của chúng ta cũng có nhiều sự chuyển biến dựa trên cái cốt là
bản sắc và gìn giữ bản sắc đó. Mặc dù trải qua bao thăng trầm, sóng gió cùng sự đô hộ xâm lược
của ngoại xâm, nền văn hóa Việt Nam vẫn duy trỳ được những đặc điểm riêng, con người Việt
Nam vẫn mạnh cái hồn riêng của mình. Và đất nước ta cũng giữ gìn những đúac tính tốt đẹp của
ông cha – thủy chung, thật thà, dũng cảm,cần cù chịu khó,.. III.
Lý luận nhận thức Câu 15-125
3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. (41)
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức.
VD: -Thông qua việc tác động vào thế giới tự nhiên, sử dụng công cụ, với công nghệ ngày càng
hiện đại, con người ngày càng nắm rõ quy luật của tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục vụ nhu cầu
của con người, chẳng hạn tạo ra điện năng nhờ sức nước, gió, mặt trời
- Thông qua thực tiễn đấu tranh với thực dân, đế quốc, Đảng mới rút ra được đường lối, đề
ra được chiến lược, sách lược cách mạng.
- Do nhu cầu đo đạc ruộng đất trong chế độ chiếm hữu nô lệ là cơ sở cho định lý Talet,
Pytago ra đời; những nhà “khoa học” nông dân chế tạo công cụ phục vụ SX
- Tỷ lệ đói nghèo ở vùng xa vẫn còn cao đòi hỏi nhà nước phải tìm ra nhiều chính sách để cải thiện…
Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
VD: - Hiện nay xuất hiện nhiều loại bệnh, dịch mới (thực tiễn) buộc con người phải tìm ra một
phương pháp, phương thuốc chữa trị mới để phòng ngừa những căn bệnh đó
- Trong nền KTTT nảy sinh nhiều tệ nạn như buôn gian, bán lận, tham ô, tham nhũng…đòi
hỏi Đảng và NN phải nhận thức rõ, phân tích, phân loại được nguyên nhân, hoàn thiện chính
sách, pháp luật để ngăn chặn, đẩy lùi.. mục đích cuối cùng là xây dựng XH công bằng, văn minh hơn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức. 8
VD: Aristotle từng cho rằng vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ, Galileo cho rằng các vật thể khác
nhau nhưng có cùng vận tốc rơi. Sau khi kiểm chứng bằng thí nghiệm cho hai vật có khối lượng
khác nhau rơi tự do ở tháp nghiêng Pisa, người ta kết luận được Galileo đúng.
Liên hệ bản thân:
Thực tiễn luôn là một phần quan trọng trong quá trình học tập và phát triển của mỗi người. Đối
với bản thân em, thực tiễn cung cấp cơ hội khám phá và học hỏi. Bằng cách tiếp xúc trực tiếp với
các tình huống và vấn đề thực tế, em có cơ hội khám phá, tìm hiểu và học hỏi từ kinh nghiệm của
mình cũng như của người khác. Qua đó, em không chỉ hiểu rõ hơn về lý thuyết mà còn có thể áp
dụng những gì đã học vào thực tế. Thực tiễn còn là một phần quan trọng trong quá trình học tập
và phát triển cá nhân. Khi thực hành và tiếp xúc với thực tế, em có thể phát triển các kỹ năng
mềm như giao tiếp, giải quyết vấn đề và làm việc nhóm. Những kỹ năng này rất cần thiết trong
mọi lĩnh vực và giúp chúng ta trở nên linh hoạt, tự tin hơn trong công việc và cuộc sống. Thực
tiễn cũng mở ra những cơ hội mới và đặt ra những thách thức cho em. Khi đối mặt với các tình
huống mới và không quen thuộc, em cơ hội phát triển sự linh hoạt và sẵn sàng thích nghi với môi
trường thay đổi. Chính những trải nghiệm thực tế giúp cho em trưởng thành và hoàn thiện bản thân hơn mỗi ngày.
Vận dụng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vào quá trình đổi mới ở VN
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là một tất yếu khách quan khi ở
vào thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay. Phải dung hòa và tồn tại nhiều thành phần kinh tế là
một tất yếu do lịch sử để lại song đưa chúng cùng tồn tại và phát triển mới là một vấn đề nan
giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải
thường xuyên đầu tranh với xu hướng tự phát tưbản chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong các
thành phần kinh tế, giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong sản xuất giữa chủng để cùng phát triển.
Sự nghiệp đối mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài học về quán
triệt quan điểm thực tiễn – nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm cơ bản và
hàng đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đối mới với tinh chất mới mẻ và khó khăn của nó đòi
hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều kiện
cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thức tiền. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên
mà có và cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa,
thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới
có cơ sở đề khái quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đối mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa tổngkết lý
luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quá trình đối mới. Có những
điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phảilàm rồi mới biết, thậm
chí có nhiều điều phải chở thực tiễn. Ví dụ như văn đò chống lạm phát vấn đề khoản trong nông
nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm... Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải
trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc nhất định. 9
Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất quan trọng.
Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hay làm rồi thực tiễn sẽ cho ta hiểu rõ sự vật hơn
nữa - đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm mà còn là bài học của
sự nghiệp đối mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi nhẹ lý luận. Quá
trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý luận của mình, cố gắng phát
triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Nó được thể hiện qua năm bước chuyển của đổi mới tư duy phù hợp với sự vận động
của thực tiễn cuộc sống trong những hoàn cảnh và điều kiện mới.
5. Quan điểm biện chứng duy vật vê chân lý. (45)
Ý NGHĨA LÝ LUẬN, THỰC TIỄN : TRANG 135
Chân lý tuyệt đối bằng tổng số vô hạn của các chân lý tương đối vì :
+ Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý là nói: Mỗi chân lý chỉ tuyệt đối đúng Trong một
giới hạn nhất định, còn ngoài giới hạn đó thì nó có thể không đúng. Mặt khác, mỗi chân lý trong
điều kiện xác định nó mới chỉ phản ánh được một phần thực tai khách quan
+ Số chân lý tương đối và tuyệt đối không thể đếm được
+ Tìm ra chân lý tuyệt đối thì ta có thể tìm ra chân lý tương đối vì chân lý tuyệt đối phản ánh
đúng và đầy đủ toàn diện hiện thực khách quan ở giai đoạn lịch sử cụ thể, trái ngược lại với chân
lý tương đối phản ánh chưa hoàn toàn đầy đủ chỉ phản ánh đúng một mặt hay bộ phận Theo
nghĩa đó, chân lý tuyệt đối chính là tổng số của chân lý tương đối xét trong quá trình phát triển
của nhận thức nhân loại.
Ví dụ : khẳng định sau đây đều là chân lý nhưng chỉ là chân lý tương đối: (1) Bản chất của ánh
sáng có đặc tính sóng, (2) Bản chất của ánh sáng có đặc tính hạt. Trên cơ sở hai chân lý đó có thể
tiến tới một khẳng định đầy đủ hơn ánh sáng mang bản chất lưỡng tính là sóng và hạt
Liên hệ xã hội: Trong lịch sử xã hội, các quan điểm chính trị, kinh tế, và xã hội đã liên tục thay
đổi và phát triển, phản ánh quá trình nhận thức về chân lý ngày càng sâu sắc hơn. Mỗi bước tiến
của xã hội đều gắn liền với việc khám phá ra những chân lý mới, phù hợp hơn với tình hình thực tế.
Liên hệ bản thân: Em có thể áp dụng quan điểm trong quá trình học tập và phát triển bản thân.
Em hiểu rằng trong cuộc sống, không phải tất cả mọi điều ta biết ngay từ ban đầu đều đúng hoàn
toàn. Những kiến thức, kỹ năng mà em tiếp nhận lúc đầu có thể còn thiếu sót hoặc chưa đầy đủ.
Tuy nhiên, khi em tiếp tục học hỏi, nghiên cứu, và trải nghiệm, em sẽ nhận ra nhiều khía cạnh
mới, từ đó điều chỉnh lại quan điểm và hiểu biết của mình, tiến dần đến một chân lý chính xác
hơn. Chẳng hạn, khi em học một môn học mới hoặc tiếp xúc với những quan điểm khác nhau,
em nhận ra rằng cái nhìn của mình có thể thay đổi, và đó chính là quá trình tìm kiếm chân lý theo
cách tiếp cận biện chứng duy vật.
Chương 3: CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ I.
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội.
1. Sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại của xã hội. (51) 1 0 Liên hệ:
Trong bối cảnh hiện đại, sự phát triển của các ngành công nghiệp, công nghệ thông tin, và sản
xuất nông nghiệp không chỉ thúc đẩy nền kinh tế mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã
hội. Các yếu tố này quyết định đến mức sống của người dân, tạo ra các cơ hội việc làm, và hình
thành các quan hệ xã hội mới. Cùng với sự phát triển này, các giá trị văn hóa và tư tưởng cũng có
sự thay đổi, phản ánh sự biến đổi trong quá trình sản xuất vật chất.
Thực tiễn cho thấy rằng, khi xã hội có sự cải tiến về công nghệ sản xuất, như trong cuộc Cách
mạng Công nghiệp 4.0 hiện nay, các phương thức làm việc, các ngành nghề, và cách thức sinh
hoạt của con người đều có sự thay đổi mạnh mẽ. Chế độ làm việc, quan hệ lao động, và ngay cả
giá trị con người trong xã hội cũng đều chịu sự tác động từ những thay đổi này. Điều này chứng
tỏ rằng sản xuất vật chất không chỉ là nền tảng vật lý cho sự tồn tại của xã hội mà còn là yếu tố
thúc đẩy các chuyển biến sâu rộng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (137)
(Quan hệ sản xuất và lực lượng xã hội) Liên hệ xã hội:
Ngành Công nghiệp Dệt may
- Lực lượng sản xuất: Máy móc dệt, nguyên liệu vải, và công nhân dệt may.
- Quan hệ sản xuất: Trong một nhà máy dệt may, các máy móc và nguyên liệu thuộc sở hữu của
doanh nghiệp. Công nhân làm việc theo hợp đồng lao động và nhận lương từ doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tổ chức và quản lý quá trình sản xuất, từ việc nhập nguyên liệu đến sản xuất và phân phối sản phẩm. Ngành Nông nghiệp
- Lực lượng sản xuất: Máy cày, máy gặt, hạt giống, phân bón, và nông dân.
- Quan hệ sản xuất: Trong một trang trại, các máy móc và nguyên liệu có thể thuộc sở hữu của
một cá nhân hoặc một hợp tác xã. Nông dân làm việc trên cánh đồng và nhận phần lợi nhuận từ
sản phẩm thu hoạch. Hợp tác xã hoặc chủ trang trại tổ chức và quản lý quá trình sản xuất, từ gieo
trồng đến thu hoạch và phân phối sản phẩm. Liên hệ bản thân
Với tư cách là một sinh viên kinh tế, ta cần nắm rõ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất để có thể ứng dụng linh hoạt vào lĩnh vực chuyên môn cũng
như đời sống xã hội. Từ đó, muốn nâng cao năng suất phải thực hiện phát triển lực lượng lao
động và công cụ lao động. Tích cực nghiên cứu, tận dụng môi trường năng động như Đại học
UEH để tìm ra những ý tưởng mới, sáng mới tạo góp phần phát triển lĩnh vực kinh tế nói riêng
và mọi lĩnh vực nói chung. Song song đó, cần phải tôn trọng thực tế khách quan,tìm ra, ủng hộ 1 1
và phát huy cái phù hợp chứ không phải cái tối ưu, tiên tiến nhất. Có thái độ lắng nghe, xem xét,
bày trừ thái độ cực đoan, chủ quan, duy tâm, duy ý chí trước những ý kiến mới về sự đổi mới.
(Kết cấu của lực lượng sản xuất. Tại sao nói trong thời đại ngày nay khoa học đã và đang trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp)
Khái niệm lực lượng sản xuất : Trang 132
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất:
Quan điểm của Karl Marx về lực lượng sản xuất được thể hiện rõ trong lý thuyết chủ nghĩa Mác
– Lênin, đặc biệt là trong tác phẩm “Tư tưởng kinh tế của Marx”. Theo Marx, lực lượng sản xuất
là một yếu tố quyết định trong việc xác định tính chất của các hệ thống kinh tế và xã hội. Từ đó,
ông phân tích và lập lý thuyết về sự tiến hóa của các hệ thống kinh tế và xã hội, đưa ra quan
điểm về phát triển lịch sử xã hội theo giai đoạn chuyển tiếp từ xã hội cộng sản chưa hoàn thiện
đến xã hội cộng sản hoàn thiện. Tuy nhiên, lực lượng sản xuất cũng đối địch với quan điểm chủ
nghĩa Mác – Lênin về vai trò của cấu trúc giai cấp xã hội.
Kết cấu của lực lượng sản xuất :
Kết cấu của lực lượng sản xuất được xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật (tư liệu
sx) và mặt kinh tế - xã hội (người lao động)
TRANG 56 … CÁCH MẠNG NHẤT
Trong thời đại ngày nay khoa học đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp vì:
Khoa học trực tiếp sản xuất ra của cải đặc biệt, loại hàng hoá đặc biệt, như phát minh; sáng chế;
những bí ẩn công nghệ và trở thành nguyên nhân của mọi biến đổi trong lực lượng sản xuất.
Khoa học kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, những yêu cầu do sản xuất đặt ra. Khoa học có
khả năng phát triển “vượt trước” và thâm nhập sâu vào tất cả các yếu tố sản xuất, trở thành khâu
bên trong của quá trình sản xuất. Tri thức khoa học được kết tinh thẩm thấu vào người lao động,
người quản lý vào công cụ lao động và đối tượng lao động. Sự phát triển của khoa học đã kích
thích sự phát triển năng lực làm chủ sản xuất của con người.
(Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất) – 137-140
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. 1 2
(Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và y thức trong kinh tế chính trị - CSHT-KTTT)
(Quy luật phản ánh quan hệ kte ctri)
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng phản ánh quan
hệ kinh tế và chính trị TRANG 141-143
Vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay : TRANG 83
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một yếu tố quan trọng
trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay. Cơ sở hạ tầng, bao
gồm phát triển kinh tế, công nghiệp hoá – hiện đại hoá và kinh tế tri thức, tạo nền tảng vững chắc
cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, gắn liền với việc đa dạng hoá các thành phần kinh tế và các kiểu quan hệ
sản xuất, qua đó củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã
hội. Đặc biệt, việc thực hiện công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo là những mục tiêu quan
trọng, đồng thời bảo vệ độc lập dân tộc và lợi ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Cùng với sự phát triển của cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc xây dựng nền tảng chính trị vững chắc cho đất nước. Việc nâng cao bản lĩnh và trình
độ trí tuệ của Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển
các lĩnh vực khoa học, giáo dục, công nghệ nhằm nâng cao dân trí và đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao là điều kiện tiên quyết để xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ. Phát triển văn
hóa mang đậm bản sắc dân tộc và giải quyết tốt vấn đề công bằng xã hội cũng là nhiệm vụ không
thể thiếu trong quá trình đổi mới.
Bên cạnh đó, việc củng cố sức mạnh của lực lượng vũ trang và đảm bảo an ninh quốc phòng là
yếu tố quan trọng để bảo vệ nền kinh tế và chế độ xã hội chủ nghĩa. Mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thể hiện rõ trong quá trình thực hiện chính sách phát
triển toàn diện của Đảng. Là sinh viên kinh tế, em nhận thức rõ rằng không thể tuyệt đối hóa một
yếu tố nào trong mối quan hệ này, mà phải hiểu và vận dụng một cách linh hoạt, kết hợp giữa lý
thuyết và thực tiễn để phát triển bền vững, đồng thời tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng. Em cũng cam kết sẽ trao dồi tri thức khoa học, công nghệ và hiểu biết về chủ trương,
đường lối của Đảng để trở thành công dân có trách nhiệm, hội nhập vào thời đại mới.
(Tại sao nói sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên? Liên hệ VN) TRANG 143 Liên hệ VN :
Trong thời đại ngày nay, chiến lược phát triển rút ngắn để đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số quốc
gia như Việt Nam chẳng những không mâu thuẫn với quy luật phát triển theo một quá trình lịch
sử – tự nhiên, mà còn là biểu hiện sinh động của quá trình lịch sử – tự nhiên ấy.
Chỉ khi người ta “rút ngắn” quá trình phát triển một cách duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan
thì lúc đó chiến lược “rút ngắn” mới đối lập với quá trình lịch sử – tự nhiên. 1 3
Có thể nói, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0) và bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay chính là cơ hội, là điều kiện thuận lợi, tạo cơ sở thực tế để Việt Nam thực hiện thành công
công cuộc Đổi Mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. II.
Giai cấp và dân tộc
1.a. Giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Vai trò động lực của đấu tranh giai cấp không chỉ thể hiện rõ nhất qua các cuộc cách mạng
xã hội long trời lở đất, mà còn được triết học Mác-Lênin nhìn nhận dưới một loạt các khía cạnh dưới đây :
Thứ nhất, đấu tranh giai cấp còn là động lực phát triển xã hội trong thời bình. C.Mác nêu ví
dụ điển hình ở nước Anh, rằng “… kể từ 1925 (nổ ra khủng hoảng “thừa” đầu tiên trong lịch sử
phát triển TBCN – chú thích của chúng tôi), sự phát sinh và sử dụng máy móc chỉ là do kết quả
của đấu tranh của các chủ xí nghiệp và công nhân” . Xét đến cùng thì vai trò là động lực của đấu
tranh giai cấp còn được thể hiện trong những thời kỳ tiến hóa xã hội
Thứ hai, các cải cách xã hội tiến bộ nhất định mà các giai cấp thống trị lỗi thời thực hiện
không phải là “ban ơn”, mà chính là kết quả đấu tranh bền bỉ của quần chúng lao động cùng với
các lực lượng tiến bộ trong nước và trên thế giới.
Thứ ba, đấu tranh giai cấp đặc biệt để lại những dấu ấn sâu sắc trong lĩnh vực tinh thần tinh
tế và nhạy cảm của đời sống xã hội là lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, và cũng là động lực mạnh mẽ của lĩnh vực này.
Thứ tư, đấu tranh giai cấp chẳng những có tác động cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực lượng lỗi
thời và phản động, mà còn cải tạo chính bản thân các giai cấp cách mạng.
Thứ năm, đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất của xã hội có giai cấp, nhưng
là động lực mạnh mẽ nhất và trực tiếp nhất của xã hội có giai cấp. Các cuộc đấu tranh khác như
đấu tranh dân tộc, đấu tranh tôn giáo… như nhận xét của Ăngghen – đều phản ánh ít nhiều đấu tranh giai cấp. Liên hệ
III . Nhà nước và cách mạng xã hội.
1. Nhà nước.
• Nguồn gốc bản chất, đặc trưng, chức năng của Nhà nước : TRANG 68-69
• Đặc trưng của NNc pháp quyền VN : TRANG 70 IV.
Ý thức xã hội.
1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội.
• Phương thức sản xuất vật chất đóng vai quyết định trong đời sống xã hội vì
Thứ nhất xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển trên cơ sở của sản xuất mà sản xuất bao
giờ cũng có cách thức nhất định.
Thứ hai các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn
nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất
vật chất là yếu tố cơ bản nhất. 1 4
Thứ ba trong lời tựa cuốn “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, Các Mác viết:
“Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội chính
trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái
lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”
3 . Quan hệ biện chứng giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội. (172-176)
(Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong lĩnh vực xã hội – Tồn tại xã hội và ý thức xã hội)
Từ những phân tích, cơ sở trên, khi muốn triển khai thực hiện một vấn đề gì, ta cần tuân thủ và
quán triệt nguyên tắc khách quan, tôn trọng tồn tại xã hội, phải chấp nhận rằng sự thay đổi phải
diễn ra từ từ trên nhiểu phương diện, tránh thái độ nôn nóng, đốt cháy giai đoạn. Song song đó,
tích cực ủng hộ, lan rộng những quan điểm tiến bộ, hiện đại. Đồng thời, chúng ta phải bày trừ
những quan điểm lạc hậu, lỗi thời không thức đẩy sự phát triển của xã hội. Từ đó, dưới góc độ là
một sinh viên kinh tế, với một lĩnh vực đầy biến động, ta phải học cách thích nghi nhanh chóng,
ứng phó những biến động và phát huy năng lực sáng tạo của bản thân.
Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
Tồn tại xã hội sinh ra ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc
vào tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội như thế ấy.
Mỗi khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã
hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức... sớm muộn cũng bị biến đổi theo
=> Không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, lý luận trong đầu óc con người, mà phải tìm ở điều kiện vật chất xã hội
Ví dụ: Trong xã hội phong kiến, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời trong lòng xã
hội này và dần dần lớn mạnh thì nảy sinh quan niệm cho rằng sự tồn tại của chế độ phong
kiến là trái với công lý, không phù hợp với lý tính con người và cần được thay thế bằng chế
độ công bằng và hợp lý tính của con người hơn.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh của tồn tại xã hội nhưng không
phải bất cứ tư tưởng, quan điểm, lý luận xã hội nào, tác phẩm nghệ thuật nào cũng nhất thiết trực
tiếp phản ánh những quan hệ kinh tế của thời đại đó mà chỉ xét đến cùng thì các quan hệ kinh tế
mới được phản ánh bằng cách này hay cách khác vào trong những tư tưởng đó. Bởi vì trong sự
phát triển của mình, ý thức xã hội có tính độc lập tương đối.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
2.1. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội 1 5
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã
hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Điều này biểu hiện đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý
xã hội (trong truyền thống, tập quán, thói quen….).
Ví dụ, chế độ phong kiến không còn nhưng tư tưởng phong kiến vẫn còn tới ngày nay, ta có
thể thấy điều này qua việc trọng nam khinh nữ vẫn còn xuất hiện trong môt số gia đình, họ
nâng cao người nam và hạ thấp giá trị của phụ nữ.
2.2. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết học Mác –
Lênin đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc
biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo
được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt
động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật
chất của xã hội đặt ra.
Ví dụ về vấn đề này, ta có thể thấy được ở sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật giúp
con người chinh phục được không gian và tiên đoán được những việc sẽ xảy ra trong tương
lai (thời tiết, các hiện tượng thiên nhiên,...)
Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng nhất của thời đại – giai cấp công
nhân, tuy ra đời vào thế kỷ XIX trong lòng chủ nghĩa tư bản nhưng đã chỉ ra được những quy
luật vận động tất yếu của xã hội loài người nói chung, của xã hội tư bản nói riêng, qua đó chỉ ra
rằng xã hội tư bản nhất định sẽ bị thay thế bằng xã hội cộng sản.
Trong thời đại ngày nay , chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn là thế giới quan và phương pháp luận
chung nhất cho nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh vực, vẫn là cơ sở lý luận và phương
pháp khoa học cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.3. Ý thức xã hội có tính kế thừa
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi
thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài
liệu lý luận của các thời đại trước.
Ví dụ: chính Các Mác và Ph.Ăngghen cũng đã thừa nhận rằng: “ngay cả chủ nghĩa cộng
sản phát triển cũng trực tiếp bắt nguồn từ chủ nghĩa duy vật Pháp”.
Trong sự phát triển của mình, ý thức xã hội có tính kế thừa nên không thể giải thích một tư tưởng
nào đó nếu dựa vào trình độ, hiện trạng phát triển kinh tế và các quan hệ kinh tế - xã hội. Ví dụ:
Nước Pháp thế kỷ XVIII có nền kinh tế phát triển kém nước Anh, nhưng tư tưởng thì lại tiên tiến
hơn nước Anh. So với Anh, Pháp thì nước Đức ở nửa đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng
đã đứng ở trình độ cao hơn về triết học.
Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các
giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Ngược lại, những 1 6
giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, những lý
thuyết bảo thủ, phản tiến bộ của những thời kỳ lịch sử trước.
Ví dụ: Giai cấp tư sản vào nửa sau thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã phục hồi và truyển bá chủ
nghỉa Cantơ mới và chủ nghĩa Tômát mới để chống lại phong trào cách mạng đang lên của
giai cấp vô sản, để chống lại chủ nghĩa Mác vốn là cơ sở của phong trào ấy.
2.4. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn
cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các
hình thái ý thức khác. Ví dụ: Ở Hy Lạp cổ đại, ý thức triết học và ý thức nghệ thuật đóng vai
trò đặc biệt to lớn; còn ở Tây Âu thời Trung Cổ thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ và chi phối
đến các hình thái ý thức khác như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức triết học, ý thức
đạo đức, ý thức nghệ thuật; còn ở nước Pháp sau thế kỷ XVIII, và ở nước Đức cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX, triết học và văn học đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong việc truyền
bà các tư tưởng chính trị và pháp quyền, là vũ khí tư tưởng và lý luận trong cuộc đấu tranh
chính trị chống lại các thế lực cầm quyền của các lực lượng xã hội tiến bộ.
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan
trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng
tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
2.5. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Ý thức tư tưởng phản tiến bộ, phản khoa học => kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Ý thức tư tưởng tiến bộ, khoa học => thúc đẩy xã hội phát triển.
Sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội của các hình thái ý thức xã hội mạnh hay yếu còn phụ
thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào các quan hệ kinh tế vốn là cơ sở hình thành các
hình thái ý thức xã hội; vào trình độ phản ánh và sức lan tỏa của ý thức đối với các nhu cầu khác
nhau của sự phát triển xã hội; đặc biệt là vào vai trò lịch sử của giai cấp đại diện cho ngọn cờ tư
tưởng đó. Vì vậy, cần phân biệt ý thức xã hội tiến bộ với ý thức xã hội lạc hậu, cản trở sự tiến bộ xã hội.
Sự vận dụng trong việc xây dựng ý thức xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn đề bức thiết. Xây dựng ý
thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở xây dựng
và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng ý thức xã hội mới đáp
ứng nhu cầu phát triển đất nước trên cả hai mặt đời sống tinh thần và đời sống vật chất trong thời
kỳ đổi mới và hội nhập, kèm theo là chống những biểu hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó (ví dụ
của những biểu hiện cản trở như: dao động về lý tưởng, mục tiêu và con đường phát triển của
dân tộc; phủ nhận thành quả cách mạng và giá trị truyền thống của dân tộc...) 1 7
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai trò tác động tích cực của
đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hoá, xây
dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã
hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền
thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa rất to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tinh
thần của xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I Lênin nhấn mạnh rằng, văn hóa xã hội chủ nghĩa cần phải
phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế
giới quan Mác - xít. Nắm vững nguyên lý về tính kế thừa của ý thức xã hội có một ý nghĩa quan
trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng. Trong kinh
tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, Đảng ta khẳng định: “Phát triển văn hóa dân tộc đi đôi
với mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.” V.
Bản chất của con người.
1. Khái niệm con người và bản chất của con người
(Quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người)
Vận dụng vào phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện nay :
Theo Marx – Lenin: “Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất
biện chứng giữa hai phương diện đó là phương diện tự nhiên và phương diện xã hội.”
Nguồn lực con người bao gồm tất cả các yếu tố như thể chất, ý thức chính trị, đạo đức, năng lực
chuyên môn và vị thế xã hội… Những yếu tố đó góp phần tạo nên năng lực của mỗi con người
và được huy động, tập hợp thành sức mạnh của cả cộng đồng người, cả dân tộc vào việc phát
triển kinh tế - xã hội của một quốc gia nói chung hay một tỉnh/thành phố nói riêng.
Để phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam chúng ta cần phải :
Quan tâm đến các nhu cầu chính đáng của con người của con người trong đó có các nhu cầu
bản năng. Vì triết học quan niệm con người là một thực thể sinh vật - xã hội, bản chất con người
là tổng hòa các quan hệ xã hội và con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của lịch sử.
Phải biết quan tâm đến lợi ích vật chất, khuyến khích lợi ích vật chất để phát huy tiềm năng
của con người. Bởi con người là một thực thể tự nhiên, con người là kết quả tiến hóa và phát
triển lâu dài của giới tự nhiên. Bên cạnh đó con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng
thời giới tự nhiên cũng là “thân thể vô cơ của con người”
Phải xây dựng lối sống văn minh về vật chất mở đường cho văn minh về tinh thần hoặc tiến
hành song song. Vì con người mang biểu hiện của con người sinh vật, phải thỏa mãn các nhu cầu
của bản thân và các tác động của quy luật tự nhiên - xã hội
Phải biết quan tâm đến lợi ích của cá nhân, và lợi ích tập thể kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân
với lợi ích tập thể, không được bắt cá nhân hy sinh một chiều trong tập thể
Phải biết kế thừa giá trị tốt đẹp của con người trong quá khứ để giáo dục con người trong
hiện tại; đồng thời phải biết xây dựng mẫu người phù hợp với từng giai đoạn lịch sử … 1 8
Câu 29: Bản chất của con người.
Với tư cách là một sinh viên kinh tế, mỗi chúng ta là mỗi tế bào có khả năng góp phần tạo nên
một Đại học UEH vững chắc nói riêng hay đất nước Việt Nam chung. Ta phải nhìn thấy được,
mỗi cá nhân chính là nhân tố quyết định, quan trọng nhất đóng góp vào sự phát triển chung cũng
toàn xã hội.Vì thế, ta phải định hình được bản thân cùng với việc không ngừng trao dồi, học hỏi
tận dụng mọi môi trường tích cực để có thể học hỏi, nânng cao thêm nhiều điều bổ ích. Cùng với
đó, phát huy năng lực sáng tạo của bản thân, vượt qua thử thách chứng tỏ khả năng, một phần
góp và tổng thể nâng tầm vị thế Đại học UEH nói riêng hay xây dựng Nhà nước Việt Nam chủ
nghĩa xã hội vững mạnh, trường tồn nói chung.
3 .b. Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử.
(Quần chúng nhân dân là gì? Vai trò của quần chúng nhân dân là chủ thể sang tạo ra lịch sử) – 80,81
Vận dụng quan điểm của triết học mác-lê nin về vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh
tụ của đảng cộng sản việt nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Mối quan hệ giữa cá nhân lãnh tụ và quần chúng nhân dân ở Việt Nam, dưới quan điểm của triết
học Mác - Lênin, thể hiện sự gắn kết mật thiết và là nền tảng cho mọi thắng lợi của cách mạng.
Tư tưởng Mác - Lênin khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể của lịch sử, và Đảng Cộng
sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo tư tưởng này trong suốt hơn 90 năm qua. Ngay từ khi thành
lập, Đảng đã xác định cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, tổ chức và vận động quần chúng
tham gia đấu tranh, mà tiêu biểu là việc thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam và lãnh
đạo thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và
Mỹ, tư tưởng đoàn kết toàn dân tiếp tục phát huy mạnh mẽ, trở thành động lực đưa đất nước đến
độc lập và thống nhất.
Bên cạnh vai trò của quần chúng nhân dân, các lãnh tụ kiệt xuất như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, hay Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã khẳng định vai trò quan trọng của
cá nhân trong việc định hướng, tổ chức và truyền cảm hứng cho toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng nhấn mạnh: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong,” thể hiện
tư duy lãnh đạo dựa trên sức mạnh nhân dân. Đến thời kỳ đổi mới, bài học “lấy dân làm gốc”
được Đại hội VI (1986) khởi xướng, mở đường cho những cải cách toàn diện và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Tinh thần gắn bó giữa lãnh đạo và quần chúng được thể hiện rõ nét trong cuộc chiến chống đại
dịch COVID-19, khi Đảng, Chính phủ và nhân dân cả nước đoàn kết vượt qua khó khăn. Các mô
hình như ATM gạo, cửa hàng 0 đồng thể hiện sức sáng tạo của nhân dân khi được dẫn dắt bởi tư
duy lãnh đạo đúng đắn. Chính sự phối hợp hài hòa giữa tư duy chiến lược của lãnh tụ và sức
mạnh quần chúng đã giúp Việt Nam không chỉ vượt qua thử thách mà còn xây dựng nền tảng
cho sự phát triển bền vững trong tương lai. 1 9