















Preview text:
Văn hóa biển :  
TÊN ĐÀ TÀI : NghÁ làm mÁm của ng°ời dân vùng biển Phan  Thi¿t   •  Mai ngọc ánh 
A. Lý do chọn đÁ tài :  
Trong khi loay hoay chọn đề tài, nhiều lần chọn đến chọn lui một đề tài sao cho 
phù hợp, sao cho vừa đặc sắc mà phải gần gũi với ngưßi nghe, giúp các bạn có thể 
dễ hình dung, tiếp cận được đề tài này một cách dễ dàng nhất. Trong lúc ấy, em có 
nhìn vào mâm cơm của mình, chẳng phải từ lâu, nước mắm luôn đồng hành cùng 
bữa cơm của mỗi gia đình ngưßi Việt hay sao. 
Nước mắm trá thành một gia vị phổ biến trong hầu hết mọi cách chế biến đồ ăn, 
đâu đâu cũng hiện hữu vị đặc trưng của mắm. Vậy sao chúng ta không thử tìm hiểu 
về văn hóa làm mắm của ngưßi dân làng nghề ? Không chỉ là quy trình làm mắm 
mà còn là văn hóa của ngưßi dân làm mắm, về cuộc sống của họ để hiểu hơn 
những hi sinh tần tảo họ đã phải bỏ ra để cho chúng ta có một bữa ăn đong đầy trọn  vẹn. 
Nghĩ đến đây, nhóm chúng em đã bắt đầu làm ngay về văn hóa làm mắm và nơi 
chúng em lựa chọn chính là vùng biển Phan Thiết. Nơi làm mắm từ rất sớm và vô 
cùng nổi tiếng tại Việt Nam.      •  Nguyễn Ngọc Ánh 
1. Vị trí địa lí :      
Phan Thiết là một thành phố ven biển thuộc tỉnh Bình Thuận Việt Nam thuộc vùng 
Duyên Hải Nam Trung Bộ. Vùng đất Phan Thiết đã trá nên rất thu hút với các ngư 
dân đến đây để sinh nhai cùng nghề biển, có lẽ là bái vì nơi đây có vị trí rất thuận 
lợi cho nghề tôm cá chài lưới. Ban đầu những ngưßi định cư đến chỉ dựng lều tạm, 
lều chòi để cốt có thể tìm việc sinh sinh quanh khu vực dọc bß sông, bãi biển này. 
Rồi dần dà từ đó về sau, việc thuận lợi ôn hòa đã khiến cả một vùng ấy ăn nên làm 
ra, họ bắt đầu xây dựng được nhà cửa kiên cố rồi quyết định cùng nhau góp vốn để 
xây Dinh, Vạn, Lăng thß thần Cá Voi. Thêm bằng chứng để chứng minh rằng ngư 
dân từ Phan Thiết làm nghề chài lưới sớm hơn những nơi khác đó là việc Đình 
làng Vạn Thủy Tú được xây dựng vào năm 1762 á Phưßng Đức Thắng – đây chính 
là ngôi Vạn có niên hiệu sớm nhất tại Phan Thiết 
Thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) nổi tiếng với những cảnh đẹp thiên nhiên trù 
phú, nơi vùng biển đầy nắng gió được mệnh danh là một trong những tỉnh có ngư trưßng lớn của cả nước với vùng biển rộng 52.000 
km2, bß biển dài 192 km. Hàng năm, sản lượng khai thác hải sản đạt trên 200.000 
tấn. Với nguồn lợi hải sản dồi dào, đây chính là nguồn nguyên liệu phong phú, chất 
lượng tạo nên thương hiệu nước mắm Phan Thiết nổi tiếng từ xưa đến nay.      • 
ĐiÁu kián tă nhiên tác đßng đ¿n nghÁ làm mÁm ở Phan Thi¿t 
- Nguồn lợi hải sản dồi dào 
- Thành phố Phan Thiết nằm trong vùng khô hạn, khí h¿u nhiát đái điển hình, 
nhiÁu gió, nhiÁu nÁng, ít bão, không có s°¡ng mußi, có nhiát đß trung bình 
hàng năm từ 26 °C đ¿n 27 °C. Tháng 1, tháng 2 và tháng 12 (nhiệt độ trung bình 
25,5 °C) mát hơn so với các tháng khác trong năm. 
- Biến thiên nhiệt độ giữa các tháng không lớn, ít mưa, nhiều nắng và gió -> điều 
kiện lí tưáng cho việc cá chín trong muối 
- Độ mặn, nhiệt độ và dòng chảy hải lưu của biển làm ảnh hưáng trực tiếp đến  nguyên liệu cá  • 
Biển có độ mặn từ 1-34%  • 
Dòng chảy ấm vận chuyển nước giàu dinh dưỡng từ vùng Đông Nam Bộ 
lên. Dòng chảy lạnh vận chuyển nước có nhiệt độ thấp hơn và có độ muối 
cao hơn. Từ tháng 5 đến tháng 10 với gió mùa Tây Nam, hai dòng chảy giao 
nhau tạo ra vùng (frony) có nhiệt độ, môi trưßng thích nghi với các loại 
phanton phát triển, là nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng cho các loại cá nổi  • 
Biển Phan Thiết là vùng biển cát, ít phù sa nên cá sạch, không có mùi bùn. 
Khu vực sản xuất nước mắm nằm ven biển, khi cá được đánh bắt đưa vào là 
sử dụng để sản xuất ngay. Do vậy cá dùng để sản xuất đảm bảo đc độ tươi  nguyên 
2. Lịch sÿ hình thành và phát triển 
Nhắc đến nghề sản xuất mắm tại Việt Nam, là nhắc đến cả một thßi kỳ vàng son 
của làng nghề nước mắm Phan Thiết. Nghề làm mắm á đã hình thành và phát triển 
được 300 năm rồi. Hoàn cảnh để ra đßi nghề sản xuất nước mắm truyền thống 
Phan Thiết có lẽ được bắt đầu từ cuối thế kỷ 17, khi mà đạo quân của ông Nguyễn 
Hữu Cảnh lãnh đạo tiến sâu vào vùng đất Phương Nam, khi đó thì nhiều ngư dân 
từ các tỉnh miền ngoài bao gồm Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên đã 
thực hiện cuộc di cư vượt biển rồi lần lượt đi đến vùng đất mới Phan Thiết, cốt chỉ 
mong tìm kiếm được nơi á mới để an cư lạc nghiệp. 
Sự vụ dẫn đến việc làm ra nước mắm ban đầu chỉ là do ngư dân Chăm Pa trước 
đây sinh sống á vùng đất này đánh bắt được quá nhiều cá tôm nhưng không đem 
bán được hết, nên mới phải sử dụng muối để ủ chượp bảo quản, từ gốc tiếng Chăm Pa. Về sau này họ quan sát và rồi sáng tạo ra phương pháp kéo rút 
sống để lấy nước mắm từ mắm nước thô cho đến thành phẩm hoàn chỉnh. 
Không chỉ có vậy, sử sách còn ghi lại theo <Địa chí Bình Thuận= rằng: thßi gian từ 
cuối thế kỷ 19 cho đến năm 1930, thì nghề sản xuất nước mắm của Phan Thiết đã 
được công nhận là một ngành công nghiệp độc đáo, tính chung với cả nước thì 
nghề này cũng là ngành công nghiệp duy nhất của nền kinh tế địa phương lúc bấy 
giß. Đến năm 1904, một lần nữa Phan Thiết được Công sứ Pháp á Bình Thuận đã 
đánh giá là vùng đất trung tâm quan trọng bậc nhất của Trung Kỳ về việc phát triển 
vượt bậc nền thương mại cũng như nền công nghiệp chế biến nước mắm ngon và  sạch. 
Ông Trần Ngọc Dũng- Giám đốc Bảo tàng nước mắm Làng chài xưa, chia sẻ: nghề nước mắm tại vùng đất Phan Thiết thì có sự giao thoa rất lớn giữa 2 dân tộc   
Chăm và Kinh, cách đây 06 năm tôi về lại Phan Thiết và bắt tay thực hiện dự án 
này, với những ý tưởng đã phác thảo trong đầu thì tôi bắt tay vào làm để kết nối 
những mảnh ghép đó thành những câu chuyện mà nó có nguồn gốc, có hồn cốt của   
vùng đất này, đặc biệt là kể về lịch sử 2.000 năm từ La Mã Ý, rồi dân tộc Đại Việt  -
tiếp thu và ở vùng đất này 300 năm=.    •  Nguyßn Hà 
3. Tổng quan vÁ quy trình sản xuất mÁm     • 
Lý do nghÁ mÁm đ°ợc ra đời 
Ban đầu do lượng cá đánh bắt được khá lớn, mỗi đợt tàu thuyền đem về từ 10 đến 
20 tấn. Vì không thể tiêu thụ hết nên ngư dân đã dùng cách lấy muối ướp cá để bảo 
quản được lâu hơn. Nhưng không ngß lại phát hiện ra rằng, việc ủ cá với muối lại 
tạo thành một thứ nước đậm đà mà ngưßi ta còn gọi là nước mắm. 
Trong đầu bạn khi nghĩ tới nước mắm chắc hẳn sẽ nghĩ đến việc đơn giản như chỉ 
cần cá và muối, ủ đủ ngày tháng là sẽ được thành phẩm phải không? Thật ra thì 
không hề dễ dàng như thế, ngưßi làm nghề cần phải rất kĩ lượng trong từng khâu 
chuẩn bị, ủ chượp, ra thành phẩm. Quy trình chọn lọc nguyên liệu cũng là một điều 
rất gắt gao để có thể quyết định việc nước mắm có ngon và đủ dinh dưỡng, chất  lượng hay không đó.   
3.1. Nguyên liáu n°ác mÁm Phan Thi¿t 
Nước mắm Phan Thiết chủ yếu được làm từ cá cơm và muối hạt. Có nhiều loại cá 
cơm như cá cơm sọc tiêu, cơm than, cơm đỏ, sọc phấn, phấn chì, cơm lép… nhưng 
ngon nhất là cá cơm than và sọc tiêu. Cá cơm, xuất hiện từ tháng tư cho đến tháng 
tám âm lịch, là loại cá nhỏ, con to chỉ bằng ngón tay út hay bằng chiếc đũa, nhưng 
phân rã thành mắm nhanh, nên thßi gian thành nước mắm cũng ngắn. Tuy nhiên, 
nhiều nhà làm nước mắm lâu năm cho biết chất lượng còn phụ thuộc vào thßi gian 
đánh bắt cá, nhất là cá tháng tám, con nào cũng đều béo mập thì nước mắm mới ngon 
và đạt độ đạm cao nhất. 
Cá cơm đánh bắt về được chọn lựa kỹ, bỏ những con to hay nhỏ quá hoặc không 
tươi. Khi muối, không rửa lại vì trước khi đem lên bß, cá đã được rửa bằng nước 
biển. Nước mắm Phan Thiết có hương vị đặc trưng bái có thêm quá trình ủ dưới trßi 
nắng và gió của vùng cực Nam Trung Bộ.  3.2. Đß đ¿m 
Vì nguyên liệu làm ra nước mắm Phan Thiết là loại cá cơm cao đạm, nhất là các loại 
cá cơm than, cơm phấn, cá cơm sọc tiêu…á quanh vùng biển Phan Thiết. Loại cá 
cơm này cho ra lượng đạm tự nhiên cao, đạt đến 40-45 độ, đó cũng là độ đạm cao 
nhất có thể tạo được bằng phương pháp tự nhiên. Nhiều cơ sá sản xuất nước mắm 
lâu năm cho biết rằng chất lượng còn phụ thuộc vào thßi gian đánh bắt cá. Nhất là 
cá tháng tám, con nào cũng đều béo mập thì nước mắm mới ngon và đạt độ đạm cao  nhất. 
Ngoài ra, quá trình thuỷ phân của chượp thưßng đi song song với quá trình phân huỷ 
của các vi khuẩn gây thối, vì thế, thành phần đạm của nước mắm bao gồm 2 sản 
phẩm của 2 quá trình đó, tức là đạm dinh dưỡng và đạm urê (tức đạm thối). Tỷ lệ 
đạm dinh dưỡng trong nước mắm càng cao, thì nước mắm càng ngon. Tỷ lệ trung 
bình á các loại nước mắm ngon chiếm khoảng 60-70% đạm tổng.  •  Đoàn huyÁn 
3.3.  Ph°¡ng pháp ch¿ bi¿n  3.3.1. Ch¿ bi¿n trong lÁu 
Dụng cụ sản xuất nước mắm rất đơn giản. Ngưßi ta dùng 3 loại thùng gỗ: thùng 
trổ, thùng phơi, thùng chứa. Các loại thùng này có kích thước khác nhau. Thùng 
nhỏ hơn gọi là thùng ba có sức chứa khoảng 4 tấn cá, thùng lớn hơn gọi là thùng tư 
có sức chứa từ 5 đến 6 tấn cá, đưßng kính thùng khoảng 2,5m, chiều cao từ 2,5m 
đến hơn 3m. Thùng muối cá, xuống ngang mặt đáy thùng có một lỗ lù để rút nước  mắm. 
Trước khi muối cá phải dọn thùng thật sạch để khô ráo, lấy vỏ ốc, vỏ ken ken hay 
đá bạc để phía trong lỗ lù, đặt lên trên một chổi dành dành hình quạt, đắp sau là 
một lớp trấu đựng trong bao tải, sau cùng đắp một lớp muối hạt lên trên. Công việc  này gọi là đắp lù. 
Nước mắm có thể phân loại thành nước bổi, nước đục và nước nhỉ. Nước bổi là 
nước muối, rửa cá lúc cá còn tươi. Nước đục là nước bổi đã đi qua lớp cá đã muối, 
màu nước đục nhưng vị đã ngon. Nước nhỉ hay nước ép là nước đục đưa vào thùng 
mắm cái, đóng lù lại vài ba hôm rồi cho mắm rỉ ra từng giọt, phải mất mươi hôm  mới lấy hết nước. 
Một thùng cá 4 tấn cho trung bình 800 đến 1000 lít nước mắm này, sau khi lấy hết 
nước mắm nhất, lại qua một quá trình kéo nước long hay còn gọi là đổ nước bổi 
vào thùng cá muối để lấy nước nước mắm trong cá đã muối. Rút nước trong lần 
đầu gọi là long 1, rồi đổ nước long vào, rút nước long ra, cứ thế kéo đến lần thứ 4 
gọi là long tư. Lần này nếu nước bổi không đủ, thì ngưßi ta cho một lượng muối đổ 
vào thùng chứa, pha trộn để chế biến thành một loại nước mắm ăn 110 đạm.  3.3.2. Ch¿ bi¿n trong lu 
Ngoài cách chế biến trong lều thì nước mắm Phan Thiết còn có một cách ủ nước 
mắm rất độc đáo là ủ bằng lu. Ngưßi làm nước mắm phải nhập muối trước một 
năm rồi phơi lại cẩn thận sau đó ủ trong chum, vại sành để cho muối thật già. Cá 
và muối được trộn theo tỷ lệ 10 trên 3. 
Không phơi, ủ các vại mắm dưới nắng trßi, ngưßi làm nước mắm để chum to dưới 
bóng râm. Hỗn hợp cá muối sẽ được làm chín tự nhiên sau khoảng 12 tháng. Các 
chum mắm sẽ được đánh dấu theo ký tự thßi gian để tiện căn chỉnh thßi gian mắm 
chín. Khi đạt độ ngấu, dậy mùi thơm, ngưßi dân sẽ tiến hành công đoạn lọc qua 
dụng cụ chuyên biệt được gọi là chuột mắm. Nhß phương pháp chế biến thủ công 
truyền thống, từ bao đßi nay, ngưßi dân Phan Thiết vẫn bảo tồn nguyên vẹn hương 
vị thơm ngon đặc trưng có loại nước mắm bản xứ.   
3.4. Quy trình sản xuất ( lấy h¿t ) 
- Giai đoạn 1: Tiếp nhận nguyên liệu 
- Giai đoạn 2: Muối mắm (chượp cá) 
+ Công đoạn này chủ yếu là trộn cá với muối theo tỷ lệ nhất định. Cá nục: 4 phần 
cá, 1 phần muối; cá tạp: 6 phần cá, 1 phần muối; còn theo công thức sinh hóa: 25 –  30kg NaCL/100kg cá 
+ Cá đổ lần đầu vào thùng theo tỷ lệ: 1 lớp cá + 1 lớp muối (gọi là muối lớp), đồng 
thßi đổ đầy ngọn (ngọn 1). Sau đó, ngưßi ta ém cá (biện pháp cơ học) bằng gài vỉ, 
đậy chặt, chống ruồi nhặng. Vài ngày sau thì gạn ém, để lâu dễ bị dòi ăn. Gạn ém 
là cách rút lù cho nước thßi lớp cá tầng dưới từ từ xẹp dần xuống, lại tiếp tục đổ thêm cá vào thùng theo 
thể thức trên (ngọn 2). Sau thßi gian vài ba ngày đợi cho cá thấm muối, từ thùng cá 
muối được rút lù để nước bổi theo vòi chảy hết ra, rồi đổ muối lên đầy thùng, 
không cho cá nổi lên, dễ hôi sinh dòi bọ. Cá nục trương nhanh, nổi lên sớm hơn cá 
cơm. Nếu có côn trùng phát sinh phải hớt bỏ ngay. Sau đó, mua cá thêm ngọn, 
đồng thßi để làm cuốn chiếu (tức làm ngọn liên tục), các công đoạn làm gối lên 
nhau (gọi là kéo rút), nhằm tránh <đứt cá=. Bái vậy, phía trên thùng hoàn toàn gồm 
muối. Xong đâu đấy, dùng lá dừa hoặc vỉ tre lót lên mặt trên, ém muối xuống, nêm 
thật cứng trước khi đổ nước bổi trá lại đầy thùng để hoàn tất công đoạn muối cá. 
- Giai đoạn 3: Chăm sóc cá 
+ Công đoạn này lặp đi lặp lại trong một thßi gian khá dài gồm xáo trộn đều nồng 
độ cá và muối, ủ lại rồi làm + Long là loại nước cốt lấy ra từ thùng cá. Nước long sau khi đã lấy ra, phải đổ 
thêm nước muối vào cho đầy thùng. Lấy 1 thùng trổ nước cốt mỗi ngày, <đánh= 
nước muối đổ lên thùng cá và cho chảy xuống từ từ đến khi nước trong mới đổ qua 
thùng chứa. à thùng nước long, ngưßi ta bắt đầu cho chảy xuống thùng trổ, đổ lên 
thùng cá gọi là tháo trộn cho ra chất đạm. Nước trong thùng trổ của thùng cá – 
không phải á thùng long – được lấy ra đổ qua thùng chứa, rồi lấy thùng trổ của 
thùng long 1 đổ qua thùng cá và thùng long 2 đổ qua thùng long 1. Làm liên tục 
như vậy cho đến thùng long 6 thì lấy xác. Xác cá dùng làm phân bón. 
- Giai đoạn 4: Kéo rút nước mắm  + Tháo tiêm lớn  + Tháo tiêm nhỏ  + Lấy giá 
- Giai đoạn 5: Lắng lọc 
- Giai đoạn 6: Đóng chai, dãn nhãn  - Giai đoạn 7: Vào thùng  •  Đoàn Thị Hạnh 
3.5. Să khác biát giāa n°ác mÁm Phan Thi¿t vái các lo¿i khác  
Khác biệt chung nhất, dễ nhận thấy nhất của nước mắm Phan Thiết so với nước mắm 
Phú Quốc và các vùng khác là màu vàng rơm (nếu nguyên liệu là cá cơm) hay màu 
nâu nhạt (cá nục), trong sánh, có mùi thơm nồng và vị ngọt đậm do đạm cao. Khác 
biệt đó của nước mắm Phan Thiết được giải thích vì quá trình ủ chượp dưới trßi nắng 
và gió – nhiệt độ trung bình cao, độ ẩm thấp tác động tích cực đến cơ chế lên men – 
điều mà khó có địa phương nào được ưu đãi như vùng cực Nam Trung Bộ. 
4. Giá trị của làng nghÁ làm mÁm truyÁn thßng 
4.1. Vài nét vÁ Bảo tàng n°ác mÁm Làng Chài X°a – bảo tàng đßc đáo duy nhất  t¿i VN  
- Được xây dựng tại địa chỉ 360 Nguyễn Thông, Phú Hải, Phan Thiết, tỉnh Bình  Thuận 
- Với tổng diện tích lên đến 1600m2 đủ cho 14 không gian vừa và nhỏ với từng 
chủ đề riêng biệt nhau nhằm tái hiện trọn vẹn lịch sử hình thành và phát triển trong 
suốt 300 năm qua của làng chài Phan Thiết 
- Không gian bên trong: đc thiết kế với phong cách đương đại, dạng phim trưßng  tương tác nhập vai 
+ Các bức tranh có chủ đề làng chài từ xưa đc bố trí và sắp xếp theo một trật tự nhất  định 
+ Bảo tàng là nơi trưng bày và lưu giữ của 2 tấm sắc phong của vua Đồng Khánh đã 
ban tặng cho ngưßi dân làng biển Phan Thiết. Tấm còn lại do vua Khải Định ban 
tặng cho thần Ông Nam Hải vì đã có công cứu giúp nhiều ngư dân làng chài thoát  nạn 
+ Kế đến là không gian tái hiện các khung cảnh đồng muối, đồi cát, làng Rạng, tiệm  khâu băng ngày xưa,… 
- Hoạt động nếm thử nước mắm Rin với hương vị gia truyền 300 năm từ xưa 
- Là nơi lưu giữ toàn bộ các bằng chứng để xác định rằng: Phan Thiết mới chính là 
cái nôi của nước mắm VN chứ không phải Phú Quốc   
4.2. Giá trị văn hóa của làng nghÁ n°ác mÁm ở Phan Thi¿t   
Giá trị cố kết cộng đồng  •  ( Nguyễn Hà) 
Sự tồn tại của làng nghề tác động tích cực đến cơ cấu xã hội của làng. Đó là yếu tố 
nghề được duy trì theo kiểu cha truyền con nối, thợ cũ truyền dạy cho thợ mới trong 
làng, góp phần làm tăng tính cố kết gia đình, cố kết cộng đồng vững chắc, là động 
lực và là nền tảng cho truyền thống đạo đức của dân tộc. 
Giá trị cố kết cộng đồng được hình thành và thể hiện từ trong hiện thực của nhu cầu 
lao động, hoạt động sản xuất, trong sinh hoạt hằng ngày và các yếu tố tinh thần của 
cộng đồng. Với đặc điểm là làng chài ven biển, việc cố kết cộng đồng tạo nên sức 
mạnh trong đánh bắt thủy hải sản, kéo chài lưới và hỗ trợ khi gặp các biến cố về thßi 
tiết trên biển…; trong hoạt động sản xuất, việc chia sẻ về nguyên liệu đầu vào, hỗ 
trợ kỹ thuật sản xuất, vốn, tiêu thụ sản phẩm… là cần thiết cho quá trình sản xuất và 
hoạt động sống, góp phần tăng thêm tình làng nghĩa xóm, tinh thần tương trợ, cách 
ứng xử của những ngưßi cùng chung làng. 
Giá trị cố kết cộng đồng còn thể hiện trong tín ngưỡng thß cá Ông và lễ hội lăng 
Ông. Việc tổ chức lễ hội và các hoạt động gắn với lăng/ miếu…đều mang tính cộng 
đồng, thể hiện trách nhiệm của cả làng với việc làng, việc nước thông qua sự chung 
tay, góp sức của từng gia đình. Đó vừa là trách nhiệm, vừa là tinh thần đoàn kết trên 
cơ sá tín ngưỡng chung của làng. Các hoạt động từ phần lễ tới phần hội của lễ hội 
đều đề cao tính cộng đồng (phân chia công việc làng giữa các ban, thành phần, các 
hội cho đến sinh hoạt cộng đồng như hội đua thuyền, cả làng cùng hát… thể hiện sự 
gắn bó, liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong cộng đồng hướng tới giáo dục 
con ngưßi lòng biết ơn đối với tiền nhân).   
Với nghề làm nước mắm Phan Thiết, giá trị cố kết cộng đồng thể hiện á việc gắn kết 
các hộ gia đình làm mắm vào Hội làng nghề nước mắm để cùng sinh hoạt, chia sẻ 
kinh nghiệm, khó khăn, hỗ trợ trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và hơn hết là truyền 
dạy nghề cho các thế hệ kế cận. Đây là điều kiện cần thiết cho việc bảo tồn và phát 
huy giá trị văn hóa làng nghề. Hơn nữa, tính cố kết cộng đồng trong nghề làm mắm 
còn thể hiện á sự phân chia trách nhiệm, phần công việc trong từng khâu của quá 
trình làm mắm như đàn ông, thanh niên thì kéo chài, đi biển, đàn bà lựa cá, chọn 
muối, muối cá, phụ nữ chiết mắm, đóng chai… cho thấy công việc được chia sẻ với 
từng thành viên phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và hơn hết tạo sự liên kết với các 
thành viên, tính kế thừa và tiếp cận với nghề truyền thống đảm bảo sự trao truyền 
nghề, tạo dựng niềm đam mê, gắn bó với nghề trong các thế hệ của một gia đình nói 
riêng, một cộng đồng làng nghề nói chung. 
Như vậy, làng nghề, ngoài phạm vi là đơn vị sản xuất và khái niệm đơn vị hành 
chính còn có đặc trưng riêng biệt là tính cộng đồng cư trú, cộng đồng lợi ích và cộng 
cảm rất cao thể hiện cho sức mạnh cộng đồng trong quá trình tồn tại và phát triển.  •   T¾ THU HÂNG 
Bảo lưu giá trị văn hóa đặc sắc 
Nghề làm nước mắm Phan Thiết đã được gìn giữ và trao truyền qua nhiều thế hệ, 
trong đó sản phẩm làng nghề không chỉ lưu giữ những giá trị văn hóa biển, tinh hoa 
văn hóa dân tộc trong những tri thức, kinh nghiệm bản địa mà còn thể hiện á sự tiếp 
biến, giao thoa về văn hóa của nghề, làng nghề. Đó là sự giao thoa văn hóa Việt - 
Chăm thể hiện trong nền văn hóa biển đa dạng và độc đáo. Kể từ khi những lưu dân 
ngưßi Việt từ đồng bằng Bắc Bộ trên bước đưßng Nam tiến đã vào đây định cư, họ 
là ngưßi Chăm - một dân tộc nổi tiếng trong lịch sử với nghề buôn bán, khai thác, 
đánh bắt thủy hải sản trên biển. Trong quá trình chung sống, ngưßi Việt đã giao lưu 
học hỏi cách làm thuyền buồm, cách chế tác ngư cụ để đánh bắt xa bß của ngưßi 
Chăm, dần dần họ trá thành chủ nhân của vùng đất mới. Kỹ thuật sản xuất nước 
mắm tại Phan Thiết ngày nay mang đậm dấu ấn giao thoa văn hóa Việt - Chăm qua 
kỹ thuật ủ chượp độc đáo, công thức muối mắm 3 muối 1 cá và cách thức tạo ra các 
loại mắm: mắm nước, mắm nêm, mắm cá cơm… Từ những giá trị văn hóa biển độc 
đáo của ngưßi Chăm, được kế thừa và phát triển, cải tiến, sáng tạo nghề phù hợp với 
nhu cầu, hoàn cảnh và thực tế cuộc sống tạo nên bản sắc văn hóa riêng có của cư 
dân làng biển trong tiến trình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc. 
Tục thß cúng cá Ông tại và lễ hội Cầu ngư cũng mang những dấu ấn giao thoa văn 
hóa vốn được xem là tín ngưỡng của cư dân Chăm pa mà những lưu dân ngưßi Việt 
trên bước đưßng Nam tiến đã tiếp thu được trong quá trình giao lưu văn hóa giữa hai  tộc ngưßi. 
Những dấu ấn lịch sử, văn hóa, tri thức dân gian…thể hiện đậm nét cốt cách, đặc 
trưng văn hóa vùng miền, dấu ấn văn hóa riêng có của cư dân địa phương cùng với 
sự tiếp biến, giao thoa văn hóa Việt - Chăm tạo nên bức tranh văn hóa đặc sắc với 
những gam màu độc đáo trong bức tranh toàn cảnh của Bình Thuận.   
 Lưu giữ di sản văn hóa phi vật thể 
Thông qua sản phẩm nước mắm Phan Thiết, những tri thức bản địa (kho tàng kinh 
nghiệm, kỹ thuật, bí quyết nghề nghiệp, sử dụng nguyên vật liệu…) từ khâu chọn 
nguyên liệu cá, muối, kỹ thuật thêm bớt muối, cá tùy theo mùa, kỹ thuật khuấy, đảo 
mắm… cho đến những kiêng kỵ trong lúc muối cá… được lưu giữ để cho ra đßi 
những chai mắm đẹp về màu sắc, ngon về chất lượng, cho thấy đó là phần tồn tại vô 
hình cần được bảo tồn của làng nghề và sản phẩm của làng nghề. 
Trong tâm thức ngưßi dân làng nghề, biển cả và cá Ông luôn che chá, độ trì cho dân 
làng được mùa, ấm no, cá về đầy khoang để làm mắm, cho ra những hũ mắm mang 
hương hồn biển cả. Vì vậy, ngoài các hình thức thß cúng tổ tiên, tiền hiền, nhân thần, 
thiên thần… thì tục thß cá Ông được đặc biệt chú trọng và lễ hội Cầu ngư thể hiện 
sự biết ơn của dân làng đối với cá Ông và cầu mong một mùa biển bình an, tôm cá 
đầy khoang, mắm cá tươi ngon. Gắn với nghi thức thß cá Ông là phần hội cũng chứa 
đựng những yếu tố mang đậm dấu ấn văn hóa biển, thể hiện màu sắc văn hóa dân 
gian, nét độc đáo của địa phương tạo nên đặc trưng riêng biệt về tính cộng đồng cư 
trú, cộng đồng lợi ích và cộng cảm rất cao. 
Làng nghề nước mắm Phan Thiết cũng có những quy ước, luật lệ để giữ gìn bí quyết 
nghề nghiệp và bảo tồn nghề truyền thống của cộng đồng. Việc giữ bí quyết nghề á 
làng không chỉ mang tính giữ nghề, mà còn chi phối các quan hệ xã hội khác trong 
cộng đồng. Vì vậy, truyền nghề tại làng nghề nước mắm Phan Thiết , ngoài những 
kỹ thuật cơ bản có thể trao truyền rộng rãi cho cộng đồng thì được trao truyền trong gia đình theo kiểu cha truyền con nối và cho đến nay, tất cả 
các bí quyết nghề nghiệp đó vẫn duy trì trong từng gia đình theo kiểu truyền miệng. 
à làng còn có những ngưßi dân, mặc dù chưa được công nhận là nghệ nhân nhưng 
với tuổi đßi, tuổi nghề trên 50 năm luôn được xem là tài sản vô giá của cộng đồng, 
đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn, trao truyền và phát huy giá trị văn hóa 
làng nghề thông qua việc truyền dạy cho các thế hệ con cháu. Mỗi gia đình, mỗi 
nghệ nhân đều có những bí quyết nghề nghiệp riêng vì thế sản phẩm làm ra sẽ khác 
nhau về màu sắc, mùi vị cũng như chất lượng sản phẩm. Những đã và đang nắm giữ các di sản văn hóa phi vật thể, góp phần gìn giữ giá trị văn hóa, 
tiếp tục duy trì, truyền dạy, lan tỏa nghề cho các lớp kế cận.   
 Lưu giữ di sản văn hóa vật thể  •  ( Đoàn Thị Hạnh ) 
Từ những sản phẩm nước mắm, chúng ta dễ dàng nhận thấy gốc tích nông nghiệp 
trong từng công đoạn, thể hiện qua các khâu của quá trình làm nghề: đó là dụng cụ 
sản xuất nước mắm, giá trị sử dụng, tính chuyên dụng và sinh hoạt cộng đồng của 
cư dân trên những sản phẩm của làng. Cụ thể: dụng cụ để muối cá ngon nhất phải là 
lu sành - nét đặc trưng văn hóa nông nghiệp, chứa đựng những yếu tố truyền thống, 
triết lý âm dương và giá trị sử dụng giúp mắm không bị biến chất và đảm bảo an 
toàn tuyệt đối cho ngưßi sử dụng; các sản phẩm từ nông nghiệp như vỉ tre để gài 
nén, phễu tre và vải mịn để lọc mắm không chỉ thể hiện sự hài hòa, linh hoạt trong 
ứng xử với thiên nhiên mà những vật dụng truyền thống đó còn giúp cho sản phẩm 
được tối ưu dưỡng chất và mùi vị. Cho đến ngày nay, kỹ thuật sản xuất hiện đại đã 
được thay thế á một số khâu của quá trình, nhưng các vật dụng truyền thống trong 
sản xuất nước mắm vẫn được gìn giữ và duy trì để tạo nên hương vị riêng biệt của 
mắm Phan Thiết cùng với những khác biệt khác trong kỹ thuật chọn cá, con nước,  nguồn muối...   
5. Đời sßng của ng°ời dân làm MÁm t¿i Phan Thi¿t (làng Phú Hài)  •  Đặng Mai Chi 
Cũng như nhiều làng chài khác á Bình Thuận, làng biển Phú Hài có một ngôi vạn 
chài nằm sát biển. Vạn có tên là Phú Bình, trong vạn thß Cá ông cùng với đó là các 
vị thủy thần và ông tổ nghề cá. Trong thßi chiến tranh ngôi vạn cũ bị phá hủy, ngôi 
vạn hiện tại được trùng tu, tôn trang vào năm 1997. Hiện nay trong vạn còn giữ 16 
sắc phong, ngoài ra còn có các đồ thß cúng và chu cổ đc đúc từ thßi xa xưa. Điều đó 
chứng tỏ ngôi vạn chài này cũng đã tồn tại lâu đßi trên vùng đất Phú Hài. Ngư dân 
địa phương cho biết hằng năm vạn Phú Bình đều duy trì tổ chức các nghi lễ lớn nhằm 
cầu mong cho mùa đánh bắt cá được bội thu, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Đó cũng 
là nét tín ngưỡng văn hóa đặc trưng của các làng chài ven biển Bình Thuận. 
Trước biển cả bao la, nghề đi biển luôn đối diện với biết bao hiểm nguy, gian khổ. 
Trước sóng to gió lớn họ đặt niềm tin vào các vị thần linh. Trong đó tín ngưỡng thß 
cá ông và khấn vái cầu xin các vị thần linh trên biển phù hộ là điều thưßng thấy trong 
quan niệm của ngưßi đi biển. Ai cũng mong có chuyến hải trình an lành trá về thuyền  đầy tôm cá. 
Đến với Phú Hài vào buổi sớm mai chúng ta có thể nhận thấy nét yên bình của một 
làng chài ven sông. Nơi cửa biển các ghe thuyền đánh cá lần lượt vào neo đậu. Họ 
trá về sau chuyến đi biển đầy hứng khái. Những chiếc ghe lớn tiến vào sâu trong 
bến cá nằm bên con đưßng biển thông. Còn những chiếc thuyền, thúng nhỏ gần bß 
thì tấp ào làng chài để bán hải sản. Hơn 3 thế kỉ trước Phú Hài đc biết đến là nơi có 
cửa biển rộng phù hợp cho ghe thuyền ra vào đánh bắt hải sản. Hằng năm một lượng 
lớn phù sa ra sông cá đổ về cửa biển mang theo nguồn thức ăn dồi dào cho sinh vật 
biển. Nhß vậy mà biển Phú Hài – Phan Thiết trá nên lắm nguồn hải sản. Lần giá 
những trang sử cũ chúng ta có thể nhận thấy vai trò của cửa biển này đối với quá 
trình phát triển của Phan Thiết xưa. Đối với ngưßi dân vạn chài cửa biển có vị trí 
quan trọng bái đó không chỉ là nơi neo đậu tàu thuyền mà còn là nơi diễn ra các hoạt 
động mua bán, trao đổi hàng hóa, nhất là những loại sản phẩm do chính ngưßi dân  địa phương làm ra.   
Khẩu vị ăn ußng của ng°ời dân : Từ khi làm ra nước mắm phát triển nó thành nghề 
truyền thống và rồi lưu truyền , giữ gìn nghề làm mắm đến ngày hôm nay , nước mắm 
đã gắn bó với ngưßi dân nơi đây khoảng 300 năm lịch sử . Nó trá thành hương vị không 
thể thiếu trong mỗi bữa cơm của ngưßi dân nơi đây . Một bữa cơm thiếu nước mắm như 
thiếu một cái gì da diết, thân thương , làm cho bữa cơm vốn đậm đà nay trá nên nhạt 
nhẽo và không còn mang hương vị đậm đà , chân chất của quê hương .  •  Mai ngọc ánh 
7. SO SÁNH SĂ KHÁC BIàT GIĀA N¯àC MÀM TRUYÀN THÞNG VÀ  HIàN Đ¾I 
Nước mắm truyền thống có thành phần chính là cá và muối biển. Được 
sản xuất nhờ phương pháp ủ thủ công trong các dụng cụ sản xuất nước 
mắm chuyên dụng như: lu, bể,… Nghĩa là những giọt nước mắm được chiết 
ra từ việc ủ trên. Thời gian ủ thường từ 12 đến 15 tháng. 
Quá trình ủ cá và muối biển làm cho cá ngấm dần trong muối và phân giải 
protein, cùng các axit amin. Đây đều là các chất cần thiết cho sức khỏe của  chúng ta. 
Nước mắm công nghiệp cũng có thành phần chính từ cá và muối. Tuy 
nhiên, nhà sản xuất thêm vào đó các nguyên liệu, phụ liệu khác như: tạo 
màu, tạo sánh,.. để bảo quản nước mắm được lâu hơn. 
Nước mắm công nghiệp được sản xuất theo các quy trình hiện đại cùng với 
những công nghệ pha chế tiên tiến. Được sản xuất nhanh hơn so với nước 
mắm truyền thống. Nước mắm công nghiệp đảm bảo hơn về độ an toàn và  được kiểm định.  VÁ thành phần   • 
Nước mắm truyền thống: Chỉ có cá và muối ủ chượp phương pháp thủ công 
từ 12-15 tháng. Không sử dụng các chất bảo quản. Tuy nhiên có sự điều chỉnh 
của nước mắm bằng cách thêm mì chính, chất tạo ngọt,..  • 
Nước mắm công nghiệp: Là sự pha loãng của nước mắm truyền thống, sau đó 
trộn các chất tạo màu, bảo quản, điều vị,.. Có thể tạo ra từ 1 đến 2 ngày.  VÁ mùi h°¡ng  • 
Nước mắm truyền thống: Hương thơm tự nhiên, dịu nhẹ, ngậy bùi,… Tùy vào 
từng loại cá, theo vùng miền với cách ủ khác nhau sẽ tạo ra từng mùi thơm  đặc trưng khác nhau.  • 
Nước mắm công nghiệp: Dùng một số hương thơm nhân tạo để làm cho mùi 
nước mắm thơm hơn. Nhưng mùi không đặc như nước mắm truyền thống.  VÁ h°¡ng vị   • 
Nước mắm truyền thống: Đậm đà, ngọt tự nhiên của các axit amin có trong  nước mắm.  • 
Nước mắm công nghiệp: Vị ngọt nhẹ của đưßng hóa học và vị ngọt tan nhanh 
Hiện nay, nước mắm Phan Thiết đang đối mặt với những khó khăn và thách thức to 
lớn. Có thể kể ngay đến những sản phẩm đang làm mưa làm gió tại Việt Nam mà 
ngưßi làm nước mắm truyền thống gọi là 2009, các nhãn hàng nước mắm công nghiệp đóng chai giá rẻ Chinsu và Nam Ngư 
của Công ty cổ phần Hàng tiêu dùng Masan ổn định chất lượng, được ngưßi tiêu 
dùng chấp nhận. Thị phần nước mắm Chinsu và Nam Ngư gia tăng nhanh chóng nhß 
quy mô sản xuất, lợi thế sản phẩm vị ít mặn, chất lượng ổn định, hương thơm dịu, 
chậm trá màu sau khi má nắp chai. Masan kết hợp các phương thức quảng bá, phát 
sản phẩm miễn phí đến tận hộ dân. Giá bán lẻ sản phẩm chỉ bằng khoảng 1/2 giá 
nước mắm truyền thống chính hiệu của Phan Thiết, Phú Quốc dùng cho nhu cầu làm 
nước mắm chấm trực tiếp . 
Với sự tăng trưáng mạnh mẽ của nước mắm công nghiệp trong gần 20 năm qua cùng 
với sự giảm sút nghiêm trọng của nguồn cá cơm trong tự nhiên, làm cho nước mắm 
truyền thống hoạt động khá manh mún, điêu đứng. Ông Trương Quang Hiến - Chủ 
tịch Hội nước mắm Phan Thiết thông tin, từ 200 đơn vị sản xuất nước mắm năm 
2005, đến nay trên địa bàn Phan Thiết chỉ còn 150 đơn vị sản xuất 25 đến 38 triệu 
lít/năm. Cũng như á Phú Quốc, một số nhà lều tại Phan Thiết đã từng trực tiếp đưa 
sản phẩm ra các miền Bắc, Trung, Nam nay đã chuyển đổi sang nghề khác. Lý do, 
ngoài lượng cá nguyên liệu giảm sút, nguyên nhân chính vẫn là khó cạnh tranh với 
nước mắm công nghiệp. Chỉ có một số doanh nghiệp vốn có uy tín trong cộng đồng 
sản xuất nước mắm truyền thống đã định vị lại thương hiệu, thay đổi mẫu mã, đa 
dạng hóa sản phẩm để giữ chân khách hàng truyền thống và tiếp cận các kênh phân 
phối hiện đại như thâm nhập vào các siêu thị... còn tồn tại được á Phan Thiết ; còn 
những cơ sá nhỏ chủ yếu bán nguyên liệu cho Masan hoặc bán sỉ theo thùng nên 
doanh thu không cao. Đến năm 2018, Việt Nam có sản lượng khoảng 380 triệu lít 
nước mắm, nước nắm truyền thống vẫn khiêm tốn với sản lượng 120 lít (trong đó 
nước mắm Phan Thiết đạt khoảng 40 triệu lít bao gồm cả sản lượng nước mắm do 
Công ty CP Hồng Phú sản xuất theo quy trình và tính đặc thù về chất lượng của nước 
mắm mang thương hiệu Phan Thiết).  T¿ Thu HÃng 
8. Nhāng ti¿n bß trong sản xuất n°ác mÁm truyÁn thßng ở Bình  Thu¿n  
Bình Thuận là cái nôi của sản xuất nước mắm truyền thống của Nam miền Trung 
nói riêng và của cả nước nói chung. Nghề làm nước mắm á đây được hình thành từ 
Thế kỷ XVII và được bảo tồn lưu truyền và phát triển cho đến ngày nay. 
Sản lượng nước mắm tại đây rất lớn, cung cấp cho thị trưßng cả nước từ trong Nam 
đến ngoài Bắc. Năm 1925, tỉnh Bình Thuận đã có 638 nhà lều nước mắm với 1.525 
thùng lớn[1] (mỗi thùng chứa 7-10 tấn cá trá lên), 7.759 thùng nhỏ và trung bình, 
cùng nhiều hộ sản xuất ủ chượp bằng lu, khạp (mỗi lu chứa 100-200 kg cá). Theo số 
liệu từ Sá Thuế Phan Thiết, năm 1925, nước mắm bán ra khỏi tỉnh đạt gần 41 triệu 
lít và đến năm 1928 sản lượng nước mắm Bình Thuận đạt sản lượng 50 triệu 
lít/năm[2]. Những năm bao cấp, Bình Thuận, mà chủ yếu là thành phố Phan Thiết là 
nơi cung cấp nguyên liệu nước mắm chủ yếu cho khu vực Tương Mai để pha đấu và 
cung cấp sản phẩm nước mắm các loại cho thị trưßng Hà Nội và một số tỉnh phía 
Bắc. Mặc dù vậy, trong con mắt của một số ngưßi, nước mắm Phan Thiết trước đây 
thưßng đi liền với một số đặc trưng như mùi nồng, vị mặn và có vẻ như hơi… mất 
vệ sinh, an toàn thực phẩm do sản xuất bằng thủ công, sử dụng sức ngưßi là chủ yếu. 
Tuy nhiên, đấy là cái thßi xa xưa, nay đã thành dĩ vãng. 
Đến Phan Thiết, Bình Thuận hôm nay có thể thấy nghề làm nước mắm truyền thống 
nơi đây đã có những cải tiến, tiến bộ vượt bậc. Thành phố Phan Thiết đã dành ra một 
khu vực rộng lớn của phưßng Phú Hài, ven sông Cà Ty (nơi phát tích của nghề làm 
nước mắm Tĩn ngày xưa) cho các doanh nghiệp sản xuất nước mắm truyền thống 
triển khai các hoạt động sản xuất của mình. Hơn 40 doanh nghiệp của Hiệp hội nước 
mắm truyền thống Phan Thiết đều có cơ sá sản xuất rộng rãi, khang trang và rất đảm 
bảo an toàn thực phẩm tại khu vực này. Hầu hết các cơ sá sản xuất nước mắm truyền 
thống á đây đều được cấp giấy phép quan có thẩm quyền. 
Khác với khi xưa, các cơ sá sản xuất nước mắm truyền thống á đây đã có rất nhiều 
cải tiến cả về công nghệ lẫn hệ thống sản xuất nước mắm truyền thống. Hầu hết các 
lều mắm á Phan Thiết đều đã thay thế các thùng gỗ (dù là thùng bằng gỗ quý có tuổi 
đßi hàng trăm năm) bằng các bể xi măng để ủ chượp. Mỗi dãy bể có thể chứa được 
hàng chục đến cả trăm tấn cá, vừa đảm bảo an toàn thực phẩm, vừa dễ dàng cơ giới 
hóa các công đoạn sản xuất. Mặt bằng sản xuất được lát bằng gạch bông hoặc các 
vật liệu chống thấm khác với các đưßng gom nước thải hợp lý, đảm bảo cho khu vực 
sản xuất luôn sạch sẽ. Hầu hết các cơ sá sản xuất đều trang bị bơm hút để thuận tiện, 
dễ dàng cho việc kéo rút nước khi ủ chượp… Đặc biệt, một số cơ sá sản xuất đã và 
đang cơ giới hóa công đoạn trộn muối với cá trước khi ủ chượp 
Thực hiện cải tiến này, thay vì trộn cá với muối bằng tay, các nhà lều xây dựng một 
phễu trộn với các cánh trộn quay tròn. Công nhân chỉ việc đổ cá và muối theo tỷ lệ 
định sẵn của cơ sá sản xuất xuống đó. sau một thßi gian nhất định, hỗn hợp cá, muối 
được vít tải đưa lên đổ vào các thùng chứa hỗn hợp cá, muối. Các thùng này khi đầy 
được cầu trục vận chuyển lên cao, đưa đến vị trí các bể chượp và tự động đổ cá muối 
xuống. Sử dụng dây chuyền trộn cá này á Phan Thiết, các cơ sá sản xuất nước mắm 
truyền thống chẳng những tiết kiệm được công sức lao động, mà còn nâng cao được 
chất lượng cá đưa vào ủ chượp, qua đó làm tăng chất lượng và bảo đảm an toàn thực 
phẩm của cả cơ sá sản xuất lẫn sản phẩm nước mắm truyền thống của họ do mặt 
bằng sản xuất được thu gọn, giảm đáng kể thßi gian cá phải chß vào muối, tăng độ 
tươi của cá, và vì vậy giảm mạnh hàm lượng histamine có trong nước mắm truyền  thống của họ. 
Nhß chịu khó cải tiến công nghệ và dây chuyền sản xuất, các cơ sá sản xuất nước 
mắm truyền thống á Phan Thiết nói riêng và á Bình Thuận nói chung đã cải thiện 
đáng kể hình ảnh, chất lượng sản phẩm của mình. Dù giữa trưa hè nóng bức, nhưng 
khi đến khu sản xuất tập trung, dù đang đi trong khu vực sản xuất nước mắm truyền 
thống của thành phố Phan Thiết tại phưßng Phú Hài, du khách đều cảm thấy rất dễ 
chịu với mùi hương nước mắm truyền thống dìu dịu nhẹ nhàng và cảm nhận được 
sự thơm ngon của những giọt nước mắm truyền thống màu nâu nhạt, trong vắt đang 
chảy ra từ những chiếc bể khổng lồ.  ( Đặng Mai Chi)  8. Tổ chức sản xuất 
Hiện tại, mô hình sản xuất phố biến là cá thể và công ty cổ phần. Các hộ cá thể có 
quy mô nhỏ, gọi là Hàm hộ. Đối với hộ cá thể, vì gọn nhẹ về bộ máy sản xuất, nên 
thuận lợi hơn trong việc cải tiến sản phẩm. Mặc dù, so với nhiều thực phẩm thông 
thưßng khác, nước mắm là một mặt hàng đòi hỏi nhiều thßi gian cho quy trình chế 
biến, từ khâu thu mua nguyên vật liệu, chượp cá, chăm sóc quá trình thủy phân, rút 
mắm… tất cả diễn ra trong khoảng thßi gian 1 năm. 
Các Hàm hộ nói chung thưßng sử dụng thùng lều và thùng mái để sản xuất nước 
mắm. Mỗi loại thùng có ưu điểm riêng, tuy nhiên đối với thùng lều, số vốn đầu tư 
cho nhà xưáng, các vật dụng sản xuất tương đối lớn, không phải hộ nào cũng tận 
dụng được khả năng này. Trước đây, Hàm hộ nhằm chỉ những gia đình khá giả. Họ 
không những có tiềm năng về nhà xưáng, thùng lều mà còn có nhiều vốn trả lương 
cho công nhân. Trải qua thßi gian dài thực tế đã thay đổi. Các hộ cá thể giß đây 
(hiểu tương đương với Hàm hộ trước đây) thưßng tập trung vào thùng mái, ít làm 
thùng lều, vì số vốn đầu tư bị thu hẹp, đồng thßi tránh rủi ro trong điều kiện cạnh 
tranh khốc liệt như hiện nay. 
Đối với mô hình công ty cổ phần, như Công ty Nước mắm Phan Thiết Con cá vàng 
chẳng hạn. Nó cũng hình thành từ nhiều Hàm hộ và đi lên từ xí nghiệp liên doanh 
nước mắm. Vì vậy, công ty đã quy tụ được một lực lượng đông đảo, gồm cả số 
Hàm hộ trước đây phân tách ra và nhiều kỹ sư thừa hưáng tri thức từ hai nguồn 
dân gian và đào tạo trưßng lớp, phương thức sản xuất về cơ bản vẫn duy trì phương  pháp truyền thống. 
Nhìn chung Nước mắm Phan Thiết cho đến tận ngày nay vẫn luôn làm 
tròn được nhiệm vụ gìn giữ cái truyền thống vốn có trong từng giọt nước 
mắm ngon sạch nguyên chất, dù đã trải qua rất nhiều thăng trầm của 300 
năm làng nghề nhưng sự phát triển đó luôn được công nhận bái sự nổi 
tiếng của nước mắm Phan Thiết, sự có mặt của nước mắm trong mọi gian 
bếp của gia đình Việt, ai cũng trân trọng cũng cảm nhận được giá trị của  nước mắm mang lại.