Văn hóa dân gian - Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Văn hóa dân gian - Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống
Môn: Cơ sở văn hóa Việt Nam (PHIL177)
Trường: Đại học Sư Phạm Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHOA VIỆT NAM HỌC BÀI TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: VĂN HOÁ DÂN GIAN VIỆT NAM
Học kỳ 1 năm học 2022-2023
CHỦ ĐỀ: CHUYỆN LÀNG NGHỀ CÓI KIM SƠN
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thuỳ Linh
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Hà MSV: 715606031 HÀ NỘI-2022
Số phách (để trống):
Số phách (để trống):…………… ………………… TÊN HỌC PHẦN:
=====CẮT PHÁCH =========== CẮT PHÁCH====
Thông tin cá nhân sinh viên: VĂN HOÁ DÂN GIAN VIỆT NAM
Họ tên sinh viên: Nguyễn Thị
Điểm bài thi sau thống nhất: Thu Hà
Bằng số:………………………… Ngày sinh: 27/11/2003
Bằng chữ: ..…………………….. Mã sinh viên: 715606031
Lớp tín chỉ: VNSS 124 SBD: 28 Cán bộ chấm thi 1 Chủ đề: CHUYỆN LÀNG
(ký ghi rõ họ tên) NGHỀ CÓI KIM SƠN
…………………………………….. = Cán bộ chấm thi 2
(ký ghi rõ họ tên)
…………………………………… … M C L C Ụ Ụ
I. MỞ ĐẦU........................................................................................................ 3
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 3
2. Phạm vi nghiên cứu..................................................................................... 3
3. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................3 II.
NỘI DUNG.................................................................................................. 4
1. Giới thiệu về làng cói Kim Sơn...................................................................4
2. Chiếu cói Kim Sơn......................................................................................5
2.1. Nguyên liệu - Cây cói và văn hoá nước lợ.............................................5
2.2. Quy trình làm chiếu – quá trình lao động đầy sáng tạo.........................6
2.3. Thực trạng nghề làm chiếu cói truyền thống ở Kim Sơn hiện nay.........7
3. Các sản phẩm mỹ nghệ khác từ Cói.............................................................8
4. Giá trị lưu giữ, bảo tồn và phát triển của chiếu cói Kim Sơn nói riêng và
nghề Cói Kim Sơn nói chung............................................................................8
III. KẾT LUẬN (Nhận xét, đánh giá)................................................................9 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một đất nước nhiệt đới khí hậu ôn hòa, con người chất phác, thiên nhiên
ưu đãi với nhiều loài động thực vật quý đa dạng về chủng loại, phong phú về số lượng.
Nền kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, cư dân Việt Nam có nhiều thời gian
rảnh rỗi ngoài thời vụ chính. Vốn cần cù chịu thương chịu khó và có đôi bàn tay tài hoa,
ngay từ xa xưa người việt cổ đã biết tận dụng những nguyên liệu sẵn có ấy để tạo ra nhiều
sản phẩm thủ công có giá trị sử dụng cao, mang đậm tính nghệ thuật phục vục cho đời sống hàng ngày.
Khi đến với Ninh Bình du khách không chỉ biết đến những khu di tích lịch sử như:
đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng, đền Thái Vi; những khu danh kam thắng cảnh như: Tam
Cốc – Bích Động, nhà thờ đá Phát Diệm, khi du lịch sinh thái Tràng An. Mà du khách
còn biết đến các làng nghề thủ công truyền thống như: thêu ren Văn Lâm, chạm khắc đá
Ninh Vân, nghề mộc Phúc Lộc và đặc biệt là làng chế tác mỹ nghệ cói Kim Sơn.
Kim Sơn là cái tên được nhà doanh điền tài ba Nguyễn Công Trứ đặt cho. Bằng những
kinh nghiệm và hiểu biết của mình, ông đã chuyển biến tiềm năng của mảnh đất duyên
hải Tổ quốc ngày càng phát triển bằng trồng trọt, kinh tế biển và đặc biệt là cây cói. Cây
cói đã ở vùng đất Kim Sơn gần hai thế kỷ và trải qua hàng trăm năm quai đê lấn biển,
người dân nơi đây đã tạo nên những cánh đồng cói mênh mông trên những bãi bồi. Sống
trong cái nôi của làng nghề cói truyền thống cùng với đôi bàn tay khéo léo, tài hoa của
những người thợ cói Kim Sơn đã tạo ra rất nhiều sản phẩm từ cói như chiếu cói, thảm,
hộp,... đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của người tiêu dùng trong nước và ngoài nước.
Là một sinh viên ngành Việt Nam học đang học môn Văn hóa dân gian Việt Nam em
đã chọn đề tài “Chuyện làng nghề cói Kim Sơn” nhằm tôn vinh những giá trị văn hóa đặc
sắc của chiếu cói Kim Sơn và vai trò của làng nghề cũng như những việc bảo tồn và gìn
giữ nét văn hóa đặc sắc này.
2.Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu những nét về Cói Kim Sơn (lịch sử, nguyên liệu, quy trình…)
- Nghiên cứu thực trạng làng nghề chiếu cói Kim Sơn
- Khảo sát, nêu thuật, phân tích sản phẩm
3.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát thực địa và thu thập tài liệu
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp phân tích, tổng hợp II. NỘI DUNG
1. Giới thiệu về làng cói Kim Sơn Vị trí địa lý
Cách Hà Nội chưa đầy 100 cây số, Ninh Bình là điểm đến được nhiều du khách
lựa chọn bởi những danh thắng đẹp cả về cảnh quan và ý nghĩa lịch sử: Nhà thờ Đá
Phát Diệm, di tích thờ Triệu Quang Phục, Bãi Ngang - Cồn Nổi, rừng ngập mặn Kim
Sơn... Trong đó, làng cói Kim Sơn là một trong những điểm du lịch mới được du
khách trong và ngoài nước ưa thích bởi tới đây du khách được tham quan, tìm hiểu và
trải nghiệm những điều thú vị của một làng nghề thủ công truyền thống lâu đời ở Ninh Bình.
Vốn là một làng nghề làm cói truyền thống từ hơn 200 năm qua, Làng nghề cói
Kim Sơn nằm yên bình bên cạnh Nhà thờ đá Phát Diệm, đồng thời là một trong
những điểm tham quan tại Ninh Bình được nhiều người yêu thích.
Lịch sử hình thành và phát triển
Năm 1829, doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ theo lệnh của Vua Minh Mạng tổ
chức khai hoang vùng đất hoang hóa ven biển và đặt tên là Kim Sơn, huyện “Núi
Vàng”. Bằng chính kinh nghiệm của mình, ông đã nhận thấy tiềm năng của vùng đất
ven biển này, từ đó biến những lợi thế ấy trở thành một ‘mỏ vàng’ thật sự với nào cây
cối, lúa, cói và cả kinh tế biển nữa. Cũng chính từ dạo ấy, vùng đất hoang ngày nào đã
thật sự lột xác, vươn mình trở thành một trong những làng nghề truyền thống nổi bật
bậc nhất chốn Ninh Bình này. Trải qua cả trăm năm quai đê lấn biển, người dân vùng
Kim Sơn đã cùng nhau tạo nên những bãi bồi mênh mông để trồng cói – nguyên liệu
chính của nghề dệt, đồng thời là người bạn đồng hành với người trồng, người thợ suốt
cả cuộc đời cần lao. Kể từ đó đến nay, người Kim Sơn cùng với bao nhiêu thế hệ kế
tiếp nhau, bảy lần mở đất, lấn biển và đã tạo nên những bãi bồi mênh mông để trồng cói.
Ở vùng đất Kim Sơn sóng gió, bão biển, nước mặn, chỉ cây cói là luôn trụ vững
trước những thách thức của tự nhiên. Cây cói mềm mại, óng ả, có vai trò là sợi nối
giữa biển với bờ, giữa những con người cần cù, khoẻ mạnh với thiên nhiên trù phú,
bao la và còn là biểu tượng của những con người lấn biển.
Cây cói ở Kim Sơn mới gần hai thế kỷ nhưng đã có một vị trí rất quan trọng trong
nền kinh tế của huyện. Người dân Kim Sơn đã dùng cây cói làm nhiều sản phẩm như:
chiếu, thảm, làn, khay, hộp, đĩa, cốc, tách, túi xách, mũ,…
Nhìn lại quá khứ nghề chế tác mỹ nghệ cói Kim Sơn đã có từ lâu đời, cũng chịu
bao thăng trầm của lịch sử, biến cố thời đại. Nhưng các lớp nghệ nhân, thợ giỏi vẫn
say mê tâm huyết với nghề, thời đại nào có lớp nghệ nhân đó, từng lớp nghệ nhân đều
đã làm rạng danh như một thương hiệu cho nghề của làng.
2. Chiếu cói Kim Sơn
Đặc biệt tại Kim Sơn nổi bật hơn hết là nghề làm chiếu cói truyền thống. Mặc
dù trải qua nhiều thăng trầm nhưng vẫn có những con người tâm huyết miệt mài
giữ lửa cho nghề nên nghề làm chiếu cói vẫn được lưu giữ và phát triển. Nghệ nhân
Trần Thị Kính năm nay dù đã ngoài 80 tuổi nhưng vẫn gắn bó với nghề làm chiếu
“Nghề dệt chiếu này cũng là nghề truyền thống của gia đình bà, từ thời ông của bà
đã làm nghề này rồi và tính đến đời của con gái bà thì cũng được 4 đời rồi. Bà theo
nghề này từ năm 12 tuổi cho đến bây giờ”.
Chiếu cói Kim Sơn và những sản phẩm được làm từ cây cói là truyền thống
trăm năm của biết bao hộ gia đình ở mảnh đất Kim Sơn. Những sản phẩm này đã
trở nên nổi tiếng cả trong nước và ngoài nước với chất lượng tốt, độc đáo, gần gũi
với cuộc sống và thiên nhiên.
2.1. Nguyên liệu - Cây cói và văn hoá nước lợ
Là vùng đất ven biển, từ lâu cây cói cùng với cây lúa đã gắn bó bao đời với
người dân vùng đất Kim Sơn. Cói luôn có liên quan mật thiết tới cuộc đời mưu
sinh của người dân nơi đây. Cói không nhiều lá, nhiều cành. Là nguyên liệu chính
của nghề dệt chiếu, đối với những người làm nghề, cây cói gắn bó với nghề, với
người thợ suốt cả cuộc đời cần lao.
Cây cói có chu kỳ sinh trưởng và được chăm sóc như cây lúa. Người trồng cói
cũng phải làm đất, nhổ cỏ, bón phân... Cói chiêm thu hoạch vào dịp tháng 5, cói
mùa thu hoạch vào dịp tháng 10 âm lịch. Chất lượng cói trồng phụ thuộc vào việc
điều phối để nước mặn và nước ngọt vào ruộng theo tỷ lên thích hợp cho cây phát
triển. Nổi tiếng nhất trong các sản phẩm của Kim Sơn là chiếu cói.
Quy trình trồng cói cũng giống như cây lúa: cày, xới, phơi ải, tháo nước, cấy
cói, rồi làm cỏ, sục bùn, bón phân. Chất lượng cói trồng phụ thuộc đáng kể vào
việc điều phối nước mặn và nước ngọt theo tỷ lệ thích hợp, hài hoà. Hệ thống thuỷ
lợi cho canh tác cây cói quan trọng không kém gì cây lúa. Cói tươi thu hoạch về
được chẻ nhỏ, phơi khô và đem ra chợ bán, rồi từ đó dệt thành chiếu hoa và các sản phẩm từ cói.
Với khẩu hiệu “lúa lấn cói”, “cói lấn sú vẹt”, “sú vẹt lấn biển” cây cói đã theo
bước chân những người lấn biển trở thành cây công nghiệp tiên phong, mang đến
giá trị kinh tế cao trên mảnh đất này. Ở Kim Sơn, cây cói mềm mại, óng ả, có vai
trò là sợi nối giữa biển với bờ; giữa những con người cần cù, khoẻ mạnh với thiên
nhiên trù phú, bao la. Cây cói còn là sợi nối Kim Sơn với các miền trong nước và
trên thế giới, góp một phần không nhỏ để phát triển kinh tế, văn hoá và du lịch.
Ông Đoàn Lan cho biết thêm: “Người dân chúng tôi đặc biệt rất yêu nghề. Bản
thân mình sinh ra trên mảnh đất này nên càng thấy mến trọng và yêu nghề. Đồng
thời mình đóng góp xây dựng cho quê hương thì mình càng phải cố gắng cùng với
bà con để giữ và phát triển nghề truyền thống”.
Cây cói là biểu tượng của những con người lấn biển. Theo bước chân của
những người lấn biển, cây cói luôn trụ vững trước mọi thách thức nghiệt ngã của
nước mặn, của sóng gió bão biển. Cây cói mềm mại, óng ả như sợi dây kết nối giữa
biển với bờ, giữa những con người cần cù, khỏe mạnh với thiên nhiên trù phù, bao
la. Không chỉ thế, cây cói còn là biểu tượng của những người dân lấn biển, làm chủ
trời đất, làm chủ thiên nhiên.
Hơn thế nữa cói còn là sợi nối Kim Sơn với các miền trong nước và trên thế
giới, góp một phần không nhỏ để phát triển kinh tế, văn hoá và du lịch, tạo nên
thương hiệu riêng của vùng đất này. Thế mạnh của nghề trồng cói và dệt cói ở Kim
Sơn là sản xuất ra những sản phẩm tiêu dùng thiết yếu của nhân dân. Do vậy, nghề
này tuy cực nhọc mà không hề mai một vì cây cói ở đây cũng chính là “quân tiên
phong” lấn biển, chinh phục tự nhiên. Khẩu hiệu “lúa lấn cói, cói lấn biển” là
phương châm chinh phục thiên nhiên của hàng vạn người dân Kim Sơn.
2.2. Quy trình làm chiếu – quá trình lao động đầy sáng tạo
Để làm nên một chiếc chiếu cói đẹp, bền, đủ kích thước quả thật người thợ
cũng phải dành nhiều thời gian để chăm chút, tỉ mẩn trong từng khâu từ lúc mới
trồng cói cho đến khi thu hoạch, chọn cói, chẻ, phơi, nhuộm và khâu cuối cùng là
đan, dệt, hoàn thiện sản phẩm. Đặc biệt nhất là khâu dệt cải hoa của chiếu. Người
cải hoa phải nhanh, uyển chuyển, mềm mại, mắt phải tinh, tay cải phải chính xác,
thuộc từng nét cải để không đan lỗi.
Việc dệt chiếu bao giờ cũng do hai người thực hiện với những thao tác ăn ý trên
một dàn mắc sẵn sợi đay, người dân Kim Sơn còn gọi là cầu đay, một thanh gỗ dài
được gọi là go, một ngời dập co bắt mép chiếu, người còn lại văng cói vào đường
dệt. Người văng sợi cói cần phải phối hợp nhịp nhàng với thợ giật để đảm bảo việc
dệt chiếu hiệu quả nhất.
Chiếu sau khi dệt xong phải đem phơi nắng cho trắng, sau đó mới đem đi in
hoa văn và cuối cùng sẽ được đem đi hấp trong lò để đảm bảo chất lượng, màu sắc
hoa văn không bị phai màu theo thời gian.
Người dân nơi đây vốn có đặc thù sống trong cái nôi làng nghề cói từ cách đây
hơn 200 năm, thế nên ở nơi họ, hội tụ đầy đủ những tố chất của một người thợ thủ
công chân chính. Ngoài ra, chính những đôi tay khéo léo cùng sự nhạy bén với tính
linh hoạt cao, sự nhanh nhay cùng lòng nhiệt thành, đam mê với nghề, họ đã đáp
ứng được những đòi hỏi khắt khe nhất của nghề làm sản phẩm thủ công, đặc biệt là
sản phẩm mỹ nghệ từ cói.
2.3. Thực trạng nghề làm chiếu cói truyền thống ở Kim Sơn hiện nay
Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều loại chiếu như: chiếu trúc, chiếu tre, chiếu
nhựa... nhưng chiếu cói vẫn là lựa chọn hàng đầu của nhiều hộ gia đình. Với tôn
chỉ chất lượng phải đặt lên hàng đầu, cho nên chiếu Kim Sơn nổi tiếng khắp khu
vực miền bắc. Chiếu cói Kim Sơn và những sản phẩm được làm từ cây cói là
truyền thống trăm năm của mảnh đất Kim Sơn, những sản phẩm này đã trở nên nổi
tiếng cả trong nước và nước ngoài với chất lượng tốt, độc đáo, gần gũi với cuộc
sống và thiên nhiên. Người dân Kim Sơn có đặc thù sống trong cái nôi làng nghề
cói từ cách đây hàng trăm năm nên có đầy đủ tố chất của một người thợ thủ công
chân chính, một bàn tay khéo léo, sự nhạy bén, tính linh hoạt cao, sự nhanh nhạy
và đam mê nghề nghiệp. Những tố chất này giúp cho họ đáp ứng được những đòi
hỏi dù là khắt khe của nghề, tạo dựng nên nghề trồng, chế biến cói ở huyện Kim
Sơn, tỉnh Ninh Bình, được người tiêu dùng trong và ngoài nước rất ưa chuộng.
Xã Kim Chính hiện có 3 làng nghề truyền thống chế biến cói được UBND tỉnh
công nhận, đó là làng nghề Thủ Trung, Kiến Thái, Trì Chính. Phát triển làng nghề
truyền thống đã và đang là hướng đi đúng đắn, thúc đẩy kinh tế của địa phương.
Những năm qua, làng nghề truyền thống của xã đã tạo việc làm thường xuyên trên
1.500 lao động với mức thu nhập ổn định từ 100 – 160.000 đồng/người/ngày, từ
làm nghề truyền thống đã giúp nhiều hộ thoát nghèo, vươn lên khá giả. Năm 2018,
tỷ lệ hộ nghèo của xã còn 4,9% (theo tiêu chí mới), thu nhâ •p bình quân đầu người đạt 37 triê •u đồng.
Tuy nhiên, hiện nay với tốc độ kinh tế ngày càng phát triển, nền kinh tế bước
vào thời kỳ đổi mới và hội nhập, trong điều kiện các mặt hàng truyền thống phải
đối mặt với sức ép cạnh tranh với các mặt hàng công nghệ cao, thị trường đầu ra
cho các sản phẩm truyền thống chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, thế mạnh.
những người trong độ tuổi lao động trẻ hầu hết đi làm việc tại các công ty, các khu
công nghiệp. Theo như lời nghệ nhân Đỗ Văn Tấn, xã Kim Chính, huyện Kim Sơn
chia sẻ “Hiện nay trên địa bàn huyện không còn nhiều nghệ nhân tiếp tục duy trì
nghề dệt chiếu cói thủ công truyền thống. Được biết vì một số nguyên nhân nên
nhiều người đã lựa chọn hướng đi khác cho bản thân nhất là trong thời điểm dịch
covid 19 diễn biết phức tạp việc sản xuất và buôn bán sản phẩm của bà con hết sức khó khăn.”
Thêm vào đó khi chiếu cói truyền thống ngày một khó cạnh tranh với các sản
phẩm chiếu công nghiệp thì làng nghề cũng có những thay đổi nhất định để thích nghi với thị trường.
3. Các sản phẩm mỹ nghệ khác từ Cói
Bằng sự thông minh cùng bàn tay sáng tạo khéo léo của mình, không còn gói
gọn trong tấm chiếu manh, giờ đây các sản phẩm làm từ cói Kim Sơn đã đa dạng
hơn về mẫu mã người dân Kim Sơn đã tạo ra nhiều sản phẩm khác từ cói với mẫu
mã và công năng đa dạng để duy trì, phát triển cũng như khẳng định vị thế làng
nghề cói của mình. Hiện nay, trên địa bàn huyện đã hình thành nhiều doanh nghiệp
sản xuất các sản phẩm từ cói mang cói Kim Sơn xuất rộng rãi đi các tỉnh và xuất
khẩu ra nước ngoài. Góp phần bảo tồn làng nghề cũng như tạo ra một nguồn thu nhập
ổn định cho người dân nơi đây.
Quy trình tạo lên một sản phẩm cói mỹ nghệ người thợ cũng phải dành nhiều
thời gian để chăm chút, tỉ mẩn trong từng khâu từ lúc mới trồng cói cho đến khi thu
hoạch, chọn cói, chẻ, phơi, nhuộm và khâu cuối cùng là đan, dệt, hoàn thiện sản
phẩm. Ngoài ra, để có thể làm ra được những sản phẩm đẹp, phù hợp với thị hiếu
của mọi người, những người nghệ nhân làm cói còn phải trải qua những công đoạn
khác như lên ý tưởng, thiết kế mẫu mã và không ngừng nâng cao chất lượng sản
phẩm. Đặc biệt hơn, ngày nay, họ còn ứng dụng cả kỹ thuật sử dụng keo
polyascera để phun phủ lên bề mặt sản phẩm cói, giúp định hình ổn định và nâng
cao khả năng chống mốc, ẩm cho sản phẩm.
4. Giá trị lưu giữ, bảo tồn và phát triển của chiếu cói Kim Sơn nói riêng và
nghề Cói Kim Sơn nói chung.
Khi nền kinh tế bước vào thời kỳ hội nhập thì những làng nghề thủ công truyền
thống như nghề dệt, đan cói cũng ít nhiều bị mai một. Với đầu ra cho các sản phẩm
ấy bị thu hẹp thì rất nhiều nghệ nhân đã không thể tiếp tục duy trì nghề truyền
thống của dòng tộc và họ chuyển sang nhiều ngành nghề khác để kiếm kế sinh
nhai. Nhưng may thay, ở Kim Sơn vẫn còn giữ được làng nghề truyền thống đã có
từ gần 2 thế kỷ này. Dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử, làng nghề chiếu cói
Kim Sơn vẫn ngày càng thể hiện được vị thế của mình, tồn tại và phát triển cho tới
ngày nay. Các sản phẩm nơi đây rất đa dạng về mẫu mã, màu sắc hoa văn lại vô cùng bắt mắt.
Nói đến chiếu cói Kim Sơn là nói tới sự hội tụ những tuyệt kỹ tinh xảo nhất của
một chiếc chiếu, từ sự cầu kỳ về nguyên liệu đến việc lên khung dệt. Ngay khi
bước chân đến cổng làng, du khách đã nghe thấy thanh âm đặc trưng của làng
nghề. Đó là lúc những người thợ thủ công nơi đây đang dệt những chiếc chiếu đẹp
về hình thức, tốt về chất lượng và chứa đựng cả tâm tình của mình trong mỗi sản phẩm.
Từ cây cói tròn mảnh mai, với bàn tay khéo léo và sức sáng tạo không ngừng
theo năm tháng, người dân Kim Sơn đã tạo ra không biết bao nhiêu mặt hàng mỹ
nghệ, gửi gắm trong đó tình cảm mặn mà, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo
để đến với mọi miền đất nước, đến với bạn bè các châu lục.
Sở dĩ sản phẩm cói mỹ nghệ của Kim Sơn được thị trường, nhất là thị trường
nước ngoài ưa chuộng là vì sản phẩm được làm bằng nguyên liệu thiên nhiên, thân
thiện với môi trường, bền đẹp, đa dạng về kiểu dáng và màu sắc mà giá thành lại
rẻ. Từ những sợi cói dài loằng ngoằng tưởng như không có nhiều giá trị, nhưng chỉ
qua bàn tay khéo léo và sự sáng tạo của người dân nơi đây đã tạo ra những sản
phẩm hữu dụng độc, lạ và có giá trị mà nơi khác không có được như: chiếu, mũ,
dép, túi sách, hộp, cốc...
Ngoài ra, để có được những mẫu mã đẹp, đáp ứng thị hiếu khách hàng, các
doanh nghiệp sản xuất cói đã phối hợp chặt chẽ với phía đối tác để lên ý tưởng,
thiết kế mẫu mã và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Điển hình như kỹ
thuật sử dụng keo polyascera phun phủ lên bề mặt sản phẩm cói, vừa giúp định
hình ổn định kiểu dáng công nghiệp, vừa nâng cao khả năng chống mốc, ẩm cho
sản phẩm, nhất là trong quá trình xuất khẩu ra nước ngoài. Nhờ đó mà sản phẩm
cói mỹ nghệ của Kim Sơn luôn đảm bảo chất lượng khi tới tay người tiêu dùng,
góp phần rất lớn trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Để duy trì, phát triển làng nghề theo hướng bền vững, trong thời gian tới cần tập
trung quy hoạch phát triển làng nghề và quy hoạch vùng nguyên liệu cho làng
nghề. Trong quy hoạch vùng nguyên liệu cói, tập trung hoàn chỉnh quy hoạch vùng
sản xuất cói nguyên liệu phía tây đường 481, trước mắt tập trung phát triển vùng
nguyên liệu cói hiện có của Công ty Nông nghiệp Bình Minh đảm bảo sản lượng ít
nhất đạt 5.000 tấn cung cấp nguyên liệu cho sản xuất.
Hiện nay, trên địa bàn huyện Kim Sơn đã hình thành nhiều cơ sở chế biến cói,
đó là: Xí nghiệp Đại Đồng, các HTX thủ công của các xã, thị trấn; Xí nghiệp chiếu
cói Cồn Cỏ; các xí nghiệp: Năng Động, Đổi Mới, Quang Minh, Xuân Hòa… với
tổng doanh thu mỗi năm đạt khoảng 250 tỷ đồng.
Đã xuất khẩu nhiều lô hàng tới các nước xã hội chủ nghĩa và Liên Xô thời kỳ
trước năm 1990 và châu Âu, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…trong giai đoạn
hiện nay. Từ đôi chiếu cải, chiếu hoa cho các gia đình đến chiếc làn, chiếc giỏ cho
người đi chợ; rồi cốc, khay, đệm, đĩa… tất cả đã trở thành đồ dùng quen thuộc gắn
bó với đời sống con người, trở thành nguồn sống của những người thợ thủ công Kim Sơn III.
KẾT LUẬN (Nhận xét, đánh giá)
Có thể thấy nghề làm chiếu cói truyền thống ở Kim Sơn hiện nay tuy không
còn được phổ biến như trước nhưng người dân đã gìn giữ những nét văn hoá đặc
sắc từ cây cói để tạo nên các sản phẩm mỹ nghệ tạo nên thu nhập ổn định cho người dân.
Quan trọng hơn hết chúng ta cần lưu giữ và bảo tồn những giá trị văn hoá
truyền thống tốt đẹp bằng cách tuyên truyền rộng rãi hơn đến mọi người. Mặc cho
có những khó khăn về phát triển diện tích trồng cói cũng như nghề chế biến cói vẫn
được một số địa phương cũng như người dân huyện Kim Sơn gắn bó và đang nỗ lực duy trì. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Khám phá làng nghề dệt cói Kim Sơn, Báo Thái Nguyên, đăng tải ngày 19/08/2017
https://baothainguyen.vn/que-huong-dat-nuoc/201708/kham-pha-lang-nghe-det- coi-kim-son-367A8C8/
2. Làng dệt cói Kim Sơn, Trang Về làng, đăng tải ngày 08/09/2021
https://velang.vn/lang-que-viet/ninh-binh/lang-det-coi-kim-son/
3. Khám phá nghề dệt cói Kim Sơn, Báo Dân Vận, đăng tải ngày 31/08/2017
http://danvan.vn/Home/Van-hoa-van-nghe/5569/Kham-pha-nghe-det-coi-Kim- Son
4. Trường Sinh, Ninh Bình: Cây cói và nghề dệt cói ở Kim Sơn, Tạp chí điện tử
Làng nghề Việt Nam, đăng tải ngày 04/09/2020.
https://langngheviet.com.vn/lang-nghe-nghe-nhan/ninh-binh-cay-coi-va-nghe-
det-coi-o-kim-son.html22623