Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử | Cánh diều
Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử | Cánh diều được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.
Preview text:
Dàn ý phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ DÀN Ý SỐ 1 I. Mở bài
● Giới thiệu tác giả: Hàn Mặc Tử (1912 – 1940), quê tỉnh Quảng Bình, là nhà thơ
có nhiều đóng góp lớn cho phong trào Thơ mới 1932 – 1940.
● Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được rút ra từ tập Thơ điên. Bài thơ được gợi cảm
hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở Vĩ Dạ - Hoàng Thị
Kim Cúc. Bài thơ là bức tranh đẹp và thơ mộng về thôn Vĩ Dạ. Thông qua bài
thơ, tác giả muốn bộc lộ khát khao được sống, được yêu và được giao hòa với thiên nhiên. II. Thân bài
1. Phân tích khổ 1:
- Câu thơ mở đầu: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” vừa là lời mời mọc ân cần, tha
thiết, vừa là lời trách cứ nhẹ nhàng ⇒ sự phân thân của tác giả.
- Cảnh vật và con người xứ Huế hiện lên một cách nhẹ nhàng, tinh khiết, đầy sức sống.
Nắng mới lên, hàng cau, vườn xanh như ngọc.
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
- Nghệ thuật cách điệu hóa tạo nên hình ảnh của thôn Vĩ và con người xứ Huế thật dịu
dàng, phúc hậu ⇒ cảnh đẹp, người đôn hậu.
2. Phân tích khổ 2:
● Miêu tả cảnh: gió, mây, dòng nước, hoa bắp lay ⇒ cảnh vật chia lìa
● Không gian mờ ảo đầy hình ảnh của trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền chở trăng.
● Tâm trạng khắc khoải, đợi chờ của nhân vật trữ tình.
3. Phân tích khổ 3:
● Sự ảo mộng của cảnh và người
● Câu hỏi tu từ: là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình,
vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc.
● Đại từ phiếm chỉ “ai” ⇒ làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn
khát khao được sống, được yêu. III. Kết bài - Nội dung:
● Bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ êm đềm, thơ mộng
● Bức tranh tâm cảnh của nhân vật trữ tình. - Nghệ thuật:
● Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, câu hỏi tu từ,…
● Hình ảnh thơ sáng tạo, độc đáo
● Kết hợp giữa bút pháp thơ tả thực và lãng mạn, tượng trưng. DÀN Ý SỐ 2 I. Mở bài:
Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
Hàn Mặc Tử có lẽ là một cái tên mà không ai có thể quên khi nhắc đến phong trào thơ
mới. Một trong những thi phẩm mang dấu ấn sâu đậm nhất của thi sĩ đã để lại trong
lòng bao thế hệ bạn đọc biết bao niềm khơi gợi sâu sắc chính là bài thơ Đây thôn vĩ dạ.
bài thơ cũng giống như một bức tâm thư bộc lộ những tình cảm thầm kín và khao khát cháy bỏng của thi sĩ II. Thân bài:
1. Phân tích khổ thơ thứ nhất:
- Bài thơ mở đầu và một câu hỏi "sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
- Ta có cảm giác như đây là một lời trách yêu của một người con gái, trong đó ẩn dấu
sự dỗi hờn cả sự ngóng trông da diết
- Thực tế thì không có một người con gái nào đang trực tiếp đối mặt với Hàn Mặc Tử,
bởi vậy có lẽ lời trách yêu này là cất lên từ những bức ảnh những bức tâm thư, nó xôn
xao, nó rạo rực sống dậy trong lòng nhà thơ, hướng trái tim người thi sĩ về với quê
hương xứ Huế thân yêu ngày tiếp đó câu thơ thứ hai khiến chúng ta bất ngờ vì ngay
lập tức cảnh thiên nhiên xứ Huế, cảnh vật nơi thôn Vĩ Dạ được mở ra
- Rõ ràng câu hỏi một cách lên thì trước mắt nhà thơ đã là không gian của thôn Vĩ Dạ
đây chắc chắn là một cuộc hành trình trong tâm thức
- Cái nắng hiện lên trong quan sát của nhà thơ, một cái nắng hiện lên trong vẻ tinh
khôi, tươi mới, chẳng phải là cái nắng rực rỡ của mùa hè cũng chẳng phải cái nắng dịu
nhẹ của mùa thu mà nó là "nắng mới lên" tức là nắng của buổi bình minh
- Câu thơ có hai từ nắng làm cho không gian như tràn ngập ánh sáng, chẳng từ ngữ
miêu tả màu sắc, nhưng ánh nắng hiện ra cứ trong trẻo và tinh khôi biết nhường nào
- Điểm nhìn của Hàn Mặc Tử dường như là từ trên cao nhìn xuống từ xa lại gần, đôi
mắt của Hàn Mặc Tử trong cuộc hành trình như xé toạc bầu trời để nhìn thấy ánh bình
minh cùng ánh nắng diệu kỳ thắp lên từ những ngọn cau cao vút, để có một cái nhìn
bao quát thấy được với màu xanh bao trùm lên khu vườn
- "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc", câu thơ là một lời cảm thán thốt lên trước vẻ đẹp của khu vườn
- Tính từ lướt ra hình ảnh so sánh xanh như ngọc đã làm hiện lên vẻ đẹp tuyệt diệu của khu vườn thôn Vĩ
- Câu thơ không chỉ đem lại cho ta cảm nhận về thị giác mà còn gợi lên cái cảm giác
như được chạm vào những lá xanh mượt mà, đi chính là một trong những nét đặc
trưng của các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng bởi thơ tượng trưng siêu thực Pháp khi cảm
nhận vạn vật bằng nhiều giác quan.
- Hình ảnh so sánh "xanh như ngọc" là một hình ảnh so sánh độc đáo, màu xanh của lá
cây được ví với màu xanh ngọc mang lại cho ta một cảm giác thật dễ chịu tươi mới,
tất cả mọi thứ đều non tươi mơn mởn và tràn đầy sức sống
- Đến câu thơ thứ tư thì hình ảnh con người mới xuất hiện "Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
- Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng
"mặt chữ điền" chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi
thôn Vĩ. Bời vì "vườn ai" chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong
khu vườn ấy thì rất hợp lí
- Nhưng cũng có người cho rằng đó chính là tác giả trong cuộc hành hương tâm tưởng,
Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài
hoa nổi danh trên đất Huế
- Dường như, nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải
trở lại là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế.
Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu
- Hình tượng "lá trúc che ngang" càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét
ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông bởi lá trúc trong quan niệm
xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.
2. Phân tích khổ thơ thứ hai:
- Bốn câu thơ buồn khổ thứ hai như vẽ xe trước mắt chúng ta không cảnh của quê
hương xứ Huế trong buổi chiều tối với những gam màu trầm lắng mỗi câu thơ gợi
dám hình ảnh làm đầy thêm bức tranh phong cảnh nhưng nếu như nhìn thật kỹ ta sẽ
thấy những nghịch lý những điều trái tự nhiên ẩn trong từng sự vật
- "Gió theo lối gió mây đường mây", câu thơ có lẽ không chỉ còn là nghịch lý mà lại
còn chứa đựng cả sự trớ trêu, chưa được sự biệt ly chia cắt
- "Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay", theo lẽ thường gió gió thổi làm hoa bắp lai thì
sóng nước cũng phải theo đó mà gợn mà lay động, ấy thế nhưng dòng nước lại đứng
im, chẳng khác nào lứa đôi dù ở gần kề nhau nhưng lại chẳng thể đồng điệu, trong gần
gũi lại có mùi gì của sự chia phôi
- Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là
mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt
đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác
- Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ
sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi.
- Phải chăng, thông qua cách nói hình tượng Hàn Mặc Tử đã chua chát phủ định người
mời mình về thăm thôn Vĩ. "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?"
- Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu
tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai
câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.
- Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con
thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng.
- Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh
tình yêu chưa bị phôi pha.
- Câu hỏi làm nhịp thơ chùng xuống biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai.
- Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn
ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc
đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.
3. Phân tích khổ thơ thứ ba:
- Thi sĩ buồn cho cái số phận ngắn ngủi, cho ước mơ vẫn còn dở dang, nhưng rồi
người nghệ sĩ lại tiếp tục sống trong khao khát của mình
- Hình ảnh "khách đường xa" nhấn mạnh hai lần đã nói lên phần nào nỗi trông ngóng,
nhớ thương của tác giả dành cho người thương.
- Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp,
thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu
"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh / Ai biết tình ai có đậm đà?"
- Câu thơ đã tả thực cảnh Huế - kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con
người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhoà đi
- Câu hỏi tu từ cuối cùng cất lên như một tiếng ngậm ngùi, tự vấn qua một trái tim
khao khát với tình yêu nhưng trước mắt lại có quá nhiều gian truân trở ngại
- Hai đại từ "ai" ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được
chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình
yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh
có biết tình em có đậm đà không?
- Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi
càng thấy "mờ nhân ảnh", càng tuyệt vọng.
- Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với
tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của "Đây thôn Vĩ Dạ" chính là cảm hứng đau
xót về một tình yêu tuyệt vọng. III. Kết bài:
Mọi sự tuyệt vọng đều làm cho ta bi quan nhưng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử
lại khơi lên trong ta ánh sáng của khao khát mãnh liệt da diết. Chính tình yêu đã tiếp
thêm nghị lực cho người thi sĩ trong hoàn cảnh khó khăn trong những giây phút đớn
đau chiến đấu với bệnh tật. Cũng giá trị nhân văn ấy đã khẳng định tên tuổi của Hàn
Mặc Tử trên bầu trời thơ ca Việt Nam và giúp cho thi phẩm mãi xanh trong lòng bao thế hệ bạn đọc.
Xem thêm: Phân tích khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Phân tích đánh giá bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 1
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có sức sáng tạo nhất trong phong trào thơ mới. Ông để lại
cho nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị. Đặc sắc và gây xúc động nhất là
bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và tiếng
lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Bài thơ mở đầu bằng một hoài niệm mênh mang về cảnh và người thôn Vĩ. Bức tranh
thơ đẹp, còn tình người thì tha thiết nhớ mong.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Mở đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng, lời mời gọi chân thành và là lời tự hỏi
chính mình của nhân vật trữ tình. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi tu từ nổi
bật nhiều màu sắc, thể hiện niềm đau xót, tiếc nuối ngọt ngào. Nhà thơ sử dụng từ
“chơi” mà không sử dụng từ “thăm”, từ “chơi” gợi nên sự thân mật, gần gũi thắm thiết,
thâm tình. Đó cũng chính là một câu hỏi đau đớn vì trở về Huế là điều không thể bởi
nhà thơ đang trong giai đoạn cuối của cơn bệnh.
Ba câu thơ tiếp theo là hình ảnh thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết, mang vẻ đẹp
của “hàng cau”, “nắng mới”. Câu thơ với điệp từ “nắng” và cách ngắt nhịp 4/3 gợi ra
trong mắt người đọc một không gian đầy ánh sáng. Một vẻ đẹp mượt mà, tươi tốt, đầy
sức sống, “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Tác giả dùng màu xanh ngọc để diễn tả
sức sống, vẻ đẹp thiên nhiên nơi thôn Vĩ, một màu sắc cao quý, trong trẻo. Nếu không
có một tình yêu sâu lắng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được
những vần thơ trong trẻo như vậy.
Và cảnh đẹp thôn Vĩ càng đẹp hơn trước bởi sự xuất hiện hình bóng con người “lá
trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ
điền sao lại có mối liên quan bất ngờ và đẹp thế: những lá trúc thanh mảnh, thon thả
che ngang mặt chữ điền, khuôn mặt ấy chỉ hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng,
hư hư thực thực. Trong tâm trí người thi nhân vì thế mà bất chợt hiện về khuôn mặt
chữ điền ấy lấp ló sau hàng trúc. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp hài hòa giữa con người và
cảnh vật và đồng thời thông qua đó, tác giả cho người đọc nhìn thấy được vẻ đẹp phúc
hậu, duyên dáng của con người xứ Huế.
Nếu như khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng niềm lạc quan yêu đời thì sang
khổ hai, tâm trạng thi nhân dần có sự đổi khác, từ cảm xúc niềm vui chuyển đổi đột
ngột sang lo âu đau buồn khi tác giả mặc cảm với thân phận ở đó ta thấy được khát
khao chờ đợi một cách tuyệt vọng.
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Thôn Vĩ Dạ nằm ngay bờ sông Hương êm đềm. So với tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu
hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ sầu mong.
Hàn Mặc Tử đã sử dụng phép nhân hóa làm dòng sông như chở nặng nỗi buồn sầu của
nhà thơ. Nỗi buồn của thi nhân nhường như phủ khắp cả cảnh vật, “Dòng nước buồn
thiu, hoa bắp lay”. Gió và mây là hai sự vật luôn sánh đôi như cá với nước nhưng ở
đây Hàn Mặc Tử đã diễn tả gió mây chia lìa, xa cách: “gió theo lối gió, mây đường
mây”. Hình ảnh thiên nhiên không hòa hợp do mặc cảm về thân phận.
Hai câu thơ tiếp theo, thi nhân đưa người đọc vào cõi mộng mơ, đưa người đọc vào
không gian ngập đầy ánh trăng. Hình ảnh “bến sông trăng” gợi vẻ đẹp lãng mạn huyền ảo không thực.
Câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?” đó là hiện thân cho nỗi lo sợ của tác giả, sợ
quỷ thời gian ít ỏi của mình mà khát vọng giao cảm với cuộc sống vẫn đong đầy, thiết tha.
Mặc dù sống trong mơ nhưng thi nhân không mất hy vọng mà vẫn mong ước:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu thơ “mơ khách đường xa, khách đường xa” thể hiện sự xa xôi, cách trở về thời
gian và cả không gian. Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng, tinh khôi của cô
gái Huế, màu trắng ở đây cũng đã hóa thành màu của ảo ảnh “áo em trắng quá nhìn
không ra” thể hiện sự hư ảo, mơ hồ về hình ảnh người xưa nên tác giả rơi vào trạng thái hụt hẫng, xót xa.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, nơi mà Hàn Mặc Tử dưỡng bệnh, ông luôn xem là
tù ngục giam lỏng mình. Bởi thế câu thơ như vừa mơ, còn kỉ niệm cứ chìm vào nơi xứ
Huế nơi đó giai nhân trong mộng đang lẫn trong màu khói xường của kỉ niệm.
Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vô vọng:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”, đây là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết. Nhà thơ
bộc lộ nỗi cô đơn, trống vắng khi hoài niệm về quá khứ hay ước vọng không thể, nhà
thơ càng thêm đau đơn, điều đó chứng tỏ tình yêu tha thiết cuộc sống của một con
người, khát khao yêu thương và gắn bó cuộc đời.
Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả ngôn ngữ tinh tế, giàu liên
tưởng. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là bức tranh vẽ đẹp về miền quê đất nước, là một tác
phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng nhưng cũng rất đỗi thiết tha, yêu đời.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ ngắn gọn - Mẫu 2
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”.
Ai đã từng sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết đến “lời rao trăng” của
Hàn Mặc Tử - một tên tuổi đã in thật sâu trong lòng độc giả. Tử được biết đến là “một
hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và
giằng xé dữ dội giữa linh hồn và xác thịt”. Tử “đã tạo ra cho thơ mình một thế giới
nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với cuộc đời thực. Có lẽ vì thế mà trong “Thi
nhân Việt Nam”, Hoài Thanh và Hoài Chân đã xếp Hàn Mặc Tử vào nhóm thơ “kì dị”
cùng với Chế Lan Viên. Tuy vậy, bên những dòng thơ điên loạn ấy, vẫn có những vần
thơ trong trẻo đến lạ thường. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ như thế! Vĩ Dạ được ví
như lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn
sâu bên trong đó lại là cả một khối u hoài của tác giả.
Theo thi sĩ Quách Tấn – bạn thơ của Hàn Mặc Tử thì bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được
gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh của người con gái có tên Hoàng Cúc - một người con
gái dịu dàng thướt tha của xứ Huế. Một kiệt tác của đời thơ Hàn, một bài thơ trong
trẻo hiếm hoi được Hàn làm trong chuỗi ngày đau thương, tăm tối nhất của đời mình.
Đó là ngày tháng Hàn đang phải tự cách li cộng đồng, sống đơn côi trong một xóm
vắng Bình Định để chữa căn bệnh “quái ác” như người đời xưa vẫn gọi.
Xứ Huế không biết từ khi nào đã là nơi khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho nghệ sĩ. Từ
âm nhạc, hội họa, đến kí... thể loại nào cũng để lại “dấu” riêng. Không ít người đã
phải thốt lên rằng: “Đã bao lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu
ngọt” hay “Trở lại Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng
bờ sông... ”, Huế có trong câu hát vần thơ, có trong lòng mọi người và nay lại có trong
thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ mở đầu là một câu hỏi mang nhiều sắc thái:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Như vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc nhưng đó còn là một lời giới thiệu và mời
gọi mọi người. Câu thơ có bảy chữ nhưng chứa tới sáu thanh bằng đi liền nhau làm
cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, trách đấy mà sao tha thiết, bâng khuâng thế!
Nhưng ai trách, ai hỏi? Phải chăng là Hoàng Cúc - người con gái thôn Vĩ mà Tử đã
thầm yêu trộm nhớ bấy lâu. Không! Không phải Hoàng Cúc. Câu hỏi ấy chính là của
chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết với Huế để rồi vút lên câu hỏi tự vấn
khắc khoải ấy. Tử phân thân để hỏi chính mình về một việc cần làm, đáng ra phải làm
từ lâu - đó là về lại thôn Vĩ, thăm lại cảnh cũ người xưa nhưng lại chưa làm được mà
giờ đây Tử không biết mình còn có cơ hội đó nữa hay không. Nhớ lắm, thương lắm,
khao khát lắm nhưng cũng đầy mặc cảm và hoài nghi về khả năng thực hiện ao ước
của mình. Vậy có còn cách nào cho thỏa ước ao? Cơ hội về lại Vĩ Dạ cơ hồ không còn
nữa. Tử đã chủ động cách ly, tuyệt giao với cuộc đời nhưng tuyệt giao mà không tuyệt
tình, thi sĩ đã trở về Vĩ Dạ bằng con đường hoài niệm và nhờ tưởng tượng chắp cánh
cho tình yêu. Những hình ảnh đẹp đẽ nhất về Vĩ Dạ, về Huế lập tức sống dậy trong ký ức nhà thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Vĩ Dạ hiện lên trong kí ức Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng tình yêu
thiên nhiên của mình, Tử đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.
Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được đặc tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và
một vườn cây quen thuộc. Đây là ánh nắng mà ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân chín ” của tác giả:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”.
Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử thường lạ, đầy ấn tượng với những “nắng tươi”, “nắng
ửng”, còn ở thôn Vĩ là “nắng mới lên”. Đó là thứ nắng mai tinh khôi, tươi tắn, trong
trẻo khiến cho thiên nhiên thêm ấm áp, tràn đầy sự sống. Ai đã từng sống với cau, dễ
thấy cau là một thứ cây cao, thậm chí ở mảnh vườn nào đó, có thể là cao nhất. Vì thế
cau là cây đầu tiên nhận được những tia nắng sớm mai đầu tiên. Nắng mai rót vào
vườn cứ đầy dần lên theo từng đốt, từng đốt của thân cau. Đến khi tràn trề thì nó biến
cả khu vườn xanh thành viên ngọc lớn. Khu vườn với vẻ xanh mướt, tốt tươi, mượt
mà, đầy sức sống như được bàn tay ai đó chăm sóc cẩn thận, tỉ mỉ đến từng chiếc lá.
Chẳng những thế, khu vườn ấy còn vừa được gội sương đêm giờ ánh lên màu xanh
ngọc long lanh dưới ánh mặt trời khiến thi sĩ không khỏi trầm trồ, ngưỡng mộ. Giữa
khung cảnh đó, con người xuất hiện làm cho thiên nhiên đã đẹp lại trở nên có linh hồn.
Đó là hình ảnh con người xứ Huế với gương mặt “chữ điền” thấp thoáng sau lá trúc.
Nhà thơ không tả thực mà gợi bằng ấn tượng cốt để lộ thần thái của con người nơi đây
với vẻ đẹp phúc hậu mà ý nhị, kín đáo. Vẫn là khu vườn đó hàng ngày, quen thuộc
trong cấu trúc nhà vườn đặc trưng của xứ Huế ai chẳng biết, vẫn là con người đó mà
sao qua ngòi bút của Hàn Mặc Tử trở nên mới lạ, có hồn và hấp dẫn đến vậy! Có lẽ, ở
đây không phải chỉ là vấn đề góc nhìn, kỹ thuật tả cảnh, tả người điêu luyện mà hơn
hết là ở cái tình, ở lòng yêu tha thiết của thi nhân đối với cảnh và người xứ Huế.
Vẫn là tình yêu đời đó, nhưng đến khổ thơ thứ hai, đã bộc lộ thành dạng thức khác với
những thi ảnh không còn đẹp đẽ, ấm áp mà tan tán, chia lìa:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Hai câu thơ nói tới một thực tại phiêu tán. Tất cả dường như đang bỏ đi, gió bay đi
một lối, mây trôi đi một đường … Hình ảnh thơ chứa đựng sự phi lý nếu đem quy luật
tự nhiên ra mà xem xét bởi lẽ thường thì gió thổi mây bay, gió và mây cùng đường, ở
đây bỗng tan tác, chia lìa. “Gió” và “mây” bị đẩy về hai phía tận cùng của câu thơ, gợi
lên sự cách xa vời vợi mà theo xu thế chuyển động thì càng lúc càng xa, cảm giác
trống vắng dâng đầy cả câu thơ. Mượn hình ảnh mây và gió, tác giả mụốn nói lên tâm
trạng của chính mình, về sự xa cách của mình với cuộc sống trần gian tươi đẹp và
cũng có thể sự xa cách đó là vĩnh viễn bởi Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một phế nhân,
đang nằm chờ cái chết. Còn dòng sông (xưa nay vẫn được hiểu là sông Hương) thì
mang một gương mặt ủ ê, “buồn thiu”, chừng như không một gợn sóng. Tử đã khéo
léo khoác lên dòng sông biện pháp nhân hóa, khiến “dòng nước buồn thiu”. “Dòng
nước buồn” vì tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió
- mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Chẳng riêng dòng sông mà hình ảnh “hoa bắp lay”
cũng gợi trong ta một nỗi buồn hiu hắt - một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất.
Và phía sau mây, gió, đất, nước chính là tâm trạng của một con người mang nặng một
nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ còn lại trong mộng tưởng.
Trên cái xu thế đang trôi đi, bay đi, chảy đi, phiêu tán ấy, Hàn Mặc Tử mong có một
thứ có thể ngược dòng “về” vớí mình, ấy là trăng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Xưa nay, con thuyền và dòng sông là những hình ảnh quen thuộc trong thi ca, nhất là
dòng thi ca về Huế. Nhưng cái lạ, cái hay trong thơ Hàn ấy là hình ảnh con thuyền
“chở trăng” trôi trên dòng “sông trăng”. Liên tưởng phong phú, tinh tế của thi nhân đã
tạo ra những hình ảnh trôi giữa đôi bờ thực - ảo. Không biết dòng nước đang hoá mình
thành dòng trăng hay ánh trăng đang tan mình thành nước, chỉ biết rằng dòng sông đã
trở thành một dòng ánh sáng tự lúc nào, bến sông trở thành “bến trăng” và con thuyền
cũng chở đầy trăng. Hình ảnh thực biến thành hình ảnh mộng tưởng, đẹp lung linh, hư
thực huyền hồ. Nhưng Hàn Mặc Tử vẫn khao khát có được trăng, mong con thuyền
chở trăng kia có thể về “kịp” với mình trong “tối nay”. Toàn bộ hi vọng của Hàn đặt
cả vào con thuyền chở trăng đó, hi vọng mà sao vẫn có gì phấp phỏng, âu lo. Sức nặng
của câu thơ nằm trong từ “kịp”, giản dị, khiêm nhường, không bóng bẩy, không cầu
kỳ mà sâu sắc. Nó gợi cảm giác âu lo, phấp phỏng. Nó chứa đựng nỗi ám ảnh lớn về
thời gian. Nó hé mở mặc cảm về một hiện tại ngắn ngủi. Hình như Hàn Mặc Tử đã
chờ trăng từ lâu lắm, và đã cảm nhận được sắp đến lúc không thể chờ được nữa, con
người có thể bị bứt lìa khỏi đời sống bất cứ lúc nào, ngay cả khi chưa kịp tận hưởng
vẻ đẹp của trăng, sự thơ mộng của cuộc đời. Cho nên cùng với mặc cảm cuộc đời
ngắn ngủi, từ “kịp” còn hé mở cho người đọc thấy một tâm thế sống của Hàn Mặc Tử:
sống là chạy đua với thời gian, tranh thủ từng giây từng phút trong cái quỹ thời gian
đang vơi đi từng khắc, từng ngày của mình vì một cuộc chia lìa vĩnh viễn đang đến rất
gần… Sống là hối hả chạy đua với thời gian, điều này Hàn Mặc Tử gặp gỡ Xuân Diệu,
bởi cả hai nhà thơ đều yêu cuộc sống đến thiết tha, cháy bỏng, đều trân trọng, quý giá
từng khoảnh khắc sống ở trần gian. Nhưng tâm thế sống của mỗi người một khác. Cái
tôi Xuân Diệu cảm nhận về “cái chết” luôn chờ mỗi người ở “cuối con đường”, nên
tranh thủ sống mà tận hưởng “tối đa” hạnh phúc trần thế. Còn cái tôi Hàn Mặc Tử,
cảm nhận về “cái chết” đã “cận kề” nên “được sống” không thôi đã là hạnh phúc.
Tiếp nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân
trong cái mênh mông, bao la của đất trời. Đó là sự hi vọng, chờ đợi, mong mỏi và một
niềm khắc khoải khôn nguôi.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Nếu tình yêu đời ở hai khổ thơ trên chủ yếu hướng tới cảnh, thì khổ thơ cuối bài thơ
khép lại bài thơ bằng tình yêu hướng tới con người, nếu ở trên là vườn đẹp, trăng đẹp
thì ở đây là người đẹp. Dễ dàng thừa nhận hình ảnh “khách đường xa” ở đây chính là
đối tượng mà cái tôi chủ thể hướng tới. Có thể là Hoàng Cúc (người gửi bưu ảnh,
người Hàn thầm thương trộm nhớ), là cô gái xứ Huế (nữ sinh Đồng Khánh với sắc áo
trắng tinh khôi), mà cũng có thể là người đời nói chung. Dù hiểu con người là ai đi
nữa thì ta vẫn thấy giữa thi nhân và họ khoảng cách xa xôi vời vợi. Xa vì là “khách”,
xa hơn chút nữa vì ở trên “đường xa”, lại xa hơn nữa vì sắc áo “trắng quá”, trắng đến
không thực, đến hư ảo, đến nao lòng, và xa xôi vời vợi đến mức không thể nắm bắt,
không thể với tới khi lẫn vào “sương khói”. Những hình ảnh ấy lại không phải là thực, lại chỉ là “mơ”.
Tất cả lúc này chỉ còn lại mờ mờ, ảo ảo. Tử cố níu kéo, cố bám víu nhưng nhưng
không được vì cảnh và đời chỉ toàn là “sương” với “khói”. Cảm giác như chới với, hụt
hẫng nên có lúc thi sĩ rơi vào hoài nghi:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Hai đại từ phiếm chỉ “ai” hướng tới hai đối tượng: chủ thể trữ tình và đối tượng mà
chủ thể trữ tình muốn giãi bày, dù hiểu thế nào, dù “ai” có là “ai” đi nữa thì cuối cùng
vẫn chỉ là cái tình ấy, của cái tôi ấy – Hàn Mặc Tử, trên chuyến hành trình bất đắc dĩ
đã gần đến cõi “thượng thanh khí”, vẫn cứ đau đáu, tha thiết, khắc khoải ngoảnh lại
cuộc đời để mà yêu, mà gắn bó. Yêu đời đã là quý, yêu trong tuyệt vọng, càng tuyệt
vọng lại càng yêu, một thứ tình yêu được thử thách và vượt lên trên cái chết, tình yêu
đó chẳng đáng quý bội phần sao?
“Đây thôn Vì Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước
qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà thơ đa
tình đa cảm. Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên
suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ,
đầy sức sống và ẩn trong đó là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô
đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Dù vậy ta vẫn thấy sau
nỗi niềm ấy là một Hàn Mặc Tử với tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, nồng cháy và một
khát vọng về cuộc sống ấm tình bởi Tử mang trong mình một trái tim suốt cuộc đời
luôn thổn thức tình yêu.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử ngưng mình, lắng đọng trong tập “Thơ
Điên” và khép lại trên giá sách bạn đọc. Nhưng dư ba về cảm xúc có lẽ cứ nhói lên mà
sống dậy trong lòng độc giả. Cái khắc khoải, khôn nguôi đến khó tả bởi ta nhận ra một
niềm yêu trong nỗi đau. Đó là tình yêu say đắm của một người thi sĩ với cuộc đời
trong tấn bi kịch đau đớn khi sắp phải chia lìa, cách biệt với cuộc đời.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ học sinh giỏi - Mẫu 3
Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử là một trong những cái tên nổi bật nhất với
lối thơ đặc biệt vừa lãng mạn tươi trẻ, vừa bi thương day dứt, tất cả đều đến từ cuộc
đời có quá nhiều đớn đau, chua xót của người nghệ sĩ trẻ bạc mệnh. Đây thôn Vĩ Dạ là
một trong những sáng tác nổi bật và xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn
Mặc Tử, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của phong trào
thơ Mới. Bài thơ mang đậm dấu ấn sáng tác của tác giả khi vừa chứa đựng những nội
dung trong sáng, thanh khiết vô ngần, bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời
tha thiết, đồng thời cũng bộc lộ những nỗi ám ảnh, tiếc nuối của tác giả trước số phận
nghiệt ngã của bản thân thông qua những vần thơ kỳ dị, phức tạp đan xen giữa cảnh thực và cảnh mơ.
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài năng nhưng có cuộc đời nhiều bất hạnh đắng cay, khi
ông không may mắc phải căn bệnh phong quái ác khi tuổi đời còn trẻ, sự nghiệp đang
thời kỳ nở rộ nhất, đặc biệt trong tình yêu Hàn Mặc Tử cũng lại là người kém may
mắn khi phải chịu nhiều thương tổn, day dứt. Trong giai đoạn cuối đời, ông trở về
mảnh đất Quy Nhơn để chữa trị thì bỗng nhận được tấm bưu thiếp có in hình phong
cảnh Huế, trên bức thiếp ấy là những dòng chữ nhắn gửi của nàng Kim Cúc, cô gái mà
Hàn Mặc Tử vẫn thường nhung nhớ. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đã dấy lên trong cõi
lòng cô độc của người nghệ sĩ những xúc cảm hạnh phúc, vui tươi, lòng ông dào dạt
những tình cảm nhớ mong Huế, nhớ về một xứ Huế đẹp tươi, đồng thời bộc lộ tấm
lòng khao khát sống, khao khát hạnh phúc đến tột cùng thông qua những vần thơ đầu
thật tươi sáng, trong trẻo.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Mở đầu bài thơ là một lời hỏi ngỏ rất dễ thương, đậm chất xứ Huế “Sao anh không về
chơi thôn Vĩ?”, đó có thể là lời hờn trách vu vơ của một người con gái mong ngóng
mãi người thương về thăm Huế, thăm mình cho thỏa nỗi nhớ mong, rồi ấy cũng có thể
là một lời mời mọc thân tình của một người bạn xa, muốn tác giả một lần về lại Huế,
thăm lại chốn cố đô yên bình. Rồi sau thẳm trong lời hỏi ngỏ ấy, ta cũng dường như
nhìn thấu lòng tác giả, Hàn Mặc Tử phải chăng cũng đang hỏi chính bản thân sao
không về thăm lại chốn quê cũ, thể hiện sự bất lực trước bệnh tật, trước hoàn cảnh éo le của bản thân.
Trong dòng hồi tưởng, thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử đã hiện ra với một hình ảnh đặc trưng,
ấy là những khu vườn với hàng cau thẳng tắp đón nắng lên. Hình ảnh “nắng hàng cau”
là một hình ảnh đặc biệt, có tính khái quát và ấn tượng, nắng hàng cau tức là nắng
buổi sớm, mặt trời đã lên khá cao, đương độ ấm áp nhất, và cũng không nóng gắt như
buổi ban trưa. Giữa khung cảnh ấy, ánh nắng bao trùm không gian, phủ lên những
ngọn cau xanh một màu vàng nhạt, mở ra một không gian trong trẻo, tràn đầy sức
sống, cũng như sự thanh bình, yên tĩnh nơi làng quê. “Vườn ai mướt quá xanh như
ngọc”, từ phiếm chỉ “vườn ai” đã đem vào cho bức tranh thiên nhiên thêm sự ấm áp
của tình người, bên cạnh cái ấm áp của nắng sớm, khung cảnh càng trở nên hài hòa
khi có sự giao hòa giữa con người với thiên nhiên.
Những tính từ “mướt quá”, “xanh như ngọc” đều là những nét vẽ thật tài tình và đầy
tinh tế của Hàn Mặc Tử khi nhớ về thôn Vĩ Dạ, chúng đã khéo léo, mở ra một bức
tranh thiên nhiên dịu dàng, sinh động, trong trẻo, tinh khiết và tràn đầy sức sống. Ấy
là cái non tươi mỡ màng của cây lá, là sự trong lành mát mẻ của những giọt sương
sớm còn đọng lại sau một đêm dài, mà dưới cái nắng ấm áp chúng ánh lên thật đẹp
như những ngọc ngà châu báu, khiến người ta không khỏi suýt xoa ngỡ ngàng. Đến
câu thơ cuối, bút pháp thi trung hữu họa đã thực sự làm rõ và nổi bật vẻ đẹp của con
người xứ Huế trong bức tranh quê, “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, lấy cái sự mảnh
nhỏ, vắt ngang của lá trúc để làm nổi bật lên khuôn mặt chữ điền, phúc hậu, dịu dàng
và thông minh của người con gái Huế, đó có thể cũng là bóng hình mà Hàn Mặc Tử
vẫn thường nhung nhớ, một con người với những vẻ đẹp cổ điển và tâm hồn đáng quý,
đại diện cho cả một vùng đất với những con người thân thương mà tác giả ngày đêm hướng về.
Nếu như ở khổ thơ đầu tiên, Hàn Mặc Tử nhìn đời, nhìn người với tinh thần tích cực,
lạc quan, tràn đầy hy vọng, bằng bức tranh thiên nhiên tươi sáng, trong trẻo, thì đến
khổ thơ tiếp theo, mạch cảm xúc của tác giả đã nhanh chóng thay đổi theo sự thay đổi
giữa ngày và đêm, giữa hai bức tranh thiên nhiên hoàn toàn khác biệt với những gam màu mới.
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Từ bức tranh thiên nhiên tươi sáng, với những gam màu ấm áp, thanh mát, giản dị,
Hàn Mặc Tử đã chuyển ngay sang khung cảnh đêm tối với bức tranh sông nước mênh
mông lạnh lẽo, sâu kín thể hiện sự trống trải, cô độc đang len lỏi trong lòng tác giả.
Hình ảnh “Gió theo lối gió mây đường mây” là hình ảnh buồn, lạc lõng, gợi sự chia ly,
tan rã không ngày gặp lại. Rõ ràng gió và mây là hai thực thể luôn gắn liền, gió thổi
kéo mây bay, dường như gắn bó như hình với bóng, ấy thế mà trong thơ Hàn Mặc Tử
gió và mây lại tách biệt, hai thứ hai nơi dường như chẳng chút liên hệ. Phải chăng đây
là ẩn ý cho mối tình của ông với nàng Kim Cúc, hai người giờ đây đã dường như cách
biệt phương trời, và rồi mai đây nữa chính là âm dương chia cắt. Rồi cảnh mây gió ấy
cũng lại gợi liên tưởng đến sự liên quan của tác giả với thế gian, dường như giây phút
này, ông cũng đã bắt đầu cảm nhận được bản thân không còn nhiều thời gian, dường
như sự sống đối với ông ngày càng xa cách, cuộc đời trần thế của ông có lẽ cũng
chẳng còn nhiều nữa. Chính những suy nghĩ và hiện thực đã càng dày vò thêm trái tim
mới vừa được thắp lên hy vọng của Hàn Mặc Tử. Một tấm thiếp đã khiến ông vui,
tưởng chừng đã thoát khỏi cái u mê, tăm tối của cuộc đời, thế nhưng nó vẫn không thể
chiến thắng được sự nghiệt ngã của số phận và bản thân ông bị buộc phải tỉnh mộng
quay trở về với thực tại đau thương.
Đến câu thơ tiếp theo “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”, thực đúng với câu “Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ” của Nguyễn Du, trước nỗi buồn số phận, Hàn Mặc Tử
nghĩ về dòng sông Hương hiền hòa, đã trải qua bao thăng trầm lịch sử, ông dường như
thấy dòng nước ấy cũng như đang hiểu được nỗi buồn của mình, lặng lẽ buồn thiu,
một nỗi buồn âm thầm không biết tỏ bày cùng ai, cô độc, lạc lõng không một người
bầu bạn. Hình ảnh “hoa bắp lay” là một hình ảnh có ý nghĩa đặc biệt, hoa bắp vốn là
loài hoa không sắc, không hương, mờ nhạt lại nhanh héo tàn. Nó dường như chính là
hình ảnh cuộc đời của Hàn Mặc Tử lúc cuối đời, tàn úa chỉ mặc cho gió lung lay mà
không thể chống đỡ lại số phận, điều đó khiến cho người ta không khỏi xót xa cho
cuộc đời người nghệ sĩ bạc mệnh, cũng như những nỗi đau mà ông đã phải chịu đựng trong suốt cuộc đời.
Đang trong lúc buồn khổ, tuyệt vọng và cô đơn nhất Hàn Mặc Tử lại nhớ đến trăng,
người bạn tri kỷ duy nhất ông có thể tâm tình và thấu hiểu ông. Cảnh bến thuyền, ánh
trăng sáng là một trong những hình ảnh thường thấy xuất hiện trong thơ ca cổ điển,
miêu tả cảnh sông nước thanh vắng, êm đềm, và có đôi chút hiu quạnh. Đến trong thơ
của Hàn Mặc Tử cảnh tượng này độc đáo và sáng tạo hơn với câu hỏi “Thuyền ai đậu
bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?”, ấy là một câu hỏi đầy tâm sự, giữa
cảnh sông nước mênh mông, ánh trăng loang vàng khắp mặt nước, có một chiếc
thuyền lặng lẽ nằm yên, thật thơ mộng trữ tình biết mấy. Lòng Hàn Mặc Tử lại không
được yên bình như thế, người vội hỏi thuyền ai neo bến, người vội hỏi có mang trăng
về kịp không, có mang người bạn tâm giao về kịp không. Dường như ta thấy Hàn Mặc
Tử đang vội vã, lo lắng, lòng ngập tràn nỗi hoang mang, sợ rằng bản thân không còn
nhiều thời gian nữa, không còn có thể chờ kịp ánh trăng về chiếu rọi lòng ông. Càng
đọc, càng hiểu sâu tấm lòng người thi sĩ, càng biết được những mối lo, những nỗi cô
đơn, bất lực của ông ta lại càng thương cho một kiếp người nhiều đớn đau, khi cả tình
yêu, cả sự sống đều nằm ngoài tầm tay với. Tất cả những nỗi đau trong thơ, những
tuyệt vọng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử đều bộc lộ thực rõ tấm lòng khao khát sự
sống, khao khát tình yêu đến quằn quại, dù rằng trong thâm tâm tác giả đã nhiều lần
buông bỏ, chấp nhận số phận, thế nhưng chỉ cần có một chút niềm tin, thì tấm lòng ấy
lại rạo rực, vui sướng hơn bao giờ hết. Dù rằng tất cả cũng như pháo hoa rực rỡ, đẹp,
nhưng chóng nở chóng tàn.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Đang từ cõi thực, Hàn Mặc Tử chuyển bước vào cõi mơ, thể hiện rất rõ cái hông thơ
phức tạp và khó hiểu bậc nhất của mình trong làng thơ ca Việt Nam đương đại. “Mơ
khách đường xa khách đường xa”, đó cũng là một câu thơ mập mờ, không rõ ý,
“khách đường xa” được lặp lại hai lần, như nhấn mạnh sự xuất hiện của nhân vật này,
tuy nhiên càng nêu bật lại càng mờ mịt. Vị khách ấy là từ trong mơ, không rõ mặt,
không rõ diện mạo, chỉ biết là họ đang ngày càng xa tầm với, xa mãi không trở lại, ám
chỉ sự vô vọng của Hàn Mặc Tử trong mối tình với nàng Kim Cúc xứ Huế, cũng như
sự tồn tại của ông trên cõi đời ngày càng trở nên mong manh, mờ mịt. Tác giả đã cách
nhân thế rất xa, dần trở thành một vị khách xa lạ, đi một chặng đường ngắn ngủi
chừng 28 năm, rồi rời đi vô thanh, vô sắc, liên tưởng ấy khiến người ta vừa ám ảnh,
vừa xót xa cho cuộc đời người thi sĩ.
Đến câu thơ tiếp “Áo em trắng quá nhìn không ra”, là bóng dáng chập chờn của người
con gái ông yêu trong tiềm thức, bộc lộ khoảng cách ngày một xa xôi giữa ông và
nàng, đó không chỉ là khoảng cách về địa lý, mà còn là khoảng cách tâm hồn, khoảng
cách sinh ly tử biệt không thể vãn hồi. Chính những khoảng cách ấy, đã khiến Hàn
Mặc Tử ngày càng tuyệt vọng, và bóng dáng cô gái năm xưa ngày càng trở nên mờ
mịt, ông nhìn không rõ, sờ không được, muốn mà không thể chạm tới đầy xót xa. Để
giải thích cho cái sự mờ nhạt, không rõ của nhân vật “em”, tác giả đã viết “Ở đây
sương khói mờ nhân ảnh”, nhằm xóa bớt khoảng cách, vịn vào lý do sương khói mờ
mịt xứ Huế làm ông không thể thấy rõ, thế nhưng nó lại càng nhấn mạnh vào cái sự
mờ mịt, bế tắc và tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử trước cuộc đời, khi chính bàn tay ông
cũng chẳng thể nào vén lớp sương mù để tìm thấy bóng hình yêu thương, cũng chẳng
thể chống lại số mệnh từ chối cái chết.
Sự đớn đau, mặc cảm số phận đã khiến tác giả không thể mở lòng mình để hiểu rõ tình
cảm của nàng Kim Cúc, cũng như chẳng thể đưa bản thân thoát khỏi những mộng
tưởng dày đặc, trước tình cảnh ấy ông chỉ còn có thể thốt lên “Ai biết tình ai có đậm
đà?”, đó như là lời gửi đến người con gái phương xa liệu có còn nhớ mong kẻ tội
nghiệp này, rồi cũng là lời trách móc nhiều đau thương khi lòng ông lo sợ Kim Cúc
vốn đã không còn mặn mà với đoạn tình cảm này từ lâu. Cuối cùng ấy còn có thể là
lời yêu ông muốn nhắn gửi một cách thật ý nhị, kín đáo vì biết mình không còn sống
được bao lâu đến cô gái xứ Huế, ông muốn nàng biết tình cảm của mình, lại cũng
muốn nàng không biết, sự phức tạp và mâu thuẫn ấy chính là xuất phát bởi một tâm
hồn có quá nhiều thương tổn, đồng thời đang tiến dần những ngày cuối của cuộc đời
trần thế, chính lẽ đó người ta không thể có quá nhiều tự tin, hay là gieo rắc hy vọng,
tình yêu cho một ai khác. Chi bằng tự ôm lấy nỗi đau, tình yêu tuyệt vọng ấy một
mình cho đến hết cuộc đời ngắn ngủi.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm xuất sắc và đặc biệt nhất trong suốt đời
thơ của Hàn Mặc Tử khi chứa đựng đầy đủ phong cách sáng tác của ông, đồng thời
nội dung thơ ấn tượng với nhiều xúc cảm phong phú được thể hiện trong các bức tranh
thiên nhiên từ sáng sớm đến tối muộn, từ cảnh thực đến cảnh mơ. Bộc lộ được tài
năng sáng tác, cũng như một tâm hồn dù có chịu nhiều đau thương, bất hạnh, thế
nhưng Hàn Mặc Tử vẫn giữ gìn vẹn nguyên được tấm lòng yêu cuộc sống, những
khao khát hạnh phúc, tình yêu thực giản dị, dù rằng điều đó đối với người nghệ sĩ đã là quá xa tầm với.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ ngắn nhất - Mẫu 4
Nhắc đến Hàn Mặc Tử không thể không nhắc đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- một trong
những tuyệt phẩm bất hủ của ông. Bài thơ được bắt nguồn cảm hứng từ bức bưu ảnh
của Hoàng Thị Kim Cúc- người con gái ông từng thầm yêu. “Đây thôn Vĩ Dạ” được
sáng tác trong thời gian ông đang điều trị bệnh ở Quy Hòa nên mỗi tứ thơ trong câu từ
của tác phẩm đều mang một nỗi niềm khát khao được giao cảm của nhà thơ.
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
Câu hỏi tu từ được sử dụng mở đầu bài thơ thể hiện sự trông ngóng, nỗi mong chờ của
người con gái đang thôn Vĩ. Câu hỏi vừa như lời trách móc kèm chút hờn dỗi, lại vừa
như lời mời gọi, mong đợi. Lời thơ nhẹ nhàng như tiếng lòng của người xứ Huế, vừa
da diết lại quá đỗi dịu dàng.
Sau câu hỏi từ từ là bức tranh tươi đẹp của thôn Vĩ hiện lên đầy sống động, tươi mắt, tinh khôi:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Phải chăng vì lời mời gọi thiết tha ấy, mà dù đôi chân không thể bước về Huế, Hàn
Mặc Tử vẫn quyết trở về trong tâm thức để ngắm nhìn và tận hưởng vẻ đẹp của chốn
cũ, người thương. Hình ảnh đầu tiên ta là “nắng hàng cau”- một màu nắng thật đặc
biệt trong thơ ca. Đó là cái nắng đầy mới mẻ, trong trẻo của buổi sớm bình minh xứ
Huế- “nắng mới lên”, những hàng cau vừa thức giấc sương còn đọng trên lá long lanh
dưới nắng ban mai. Từ xa ngắm nhìn nắng hàng cau, khi tới gần, được cảm nhận rõ
hơn về vẻ đẹp của cảnh vật. Màu xanh ngọc bích vừa tươi tắn vừa sang trọng được gợi
lên từ vẻ đẹp khu vườn. Tính từ “mướt” càng gợi lên vẻ non tơ, mềm mại, mỡ màng
nhựa sống của cây lá. Phải chăng, mảnh vườn được tưới tắm bởi hương vị của tạo hoá,
được chăm sóc bởi bàn tay khéo léo của con người mà đẹp càng thêm đẹp, tươi càng
thêm tươi. Bóng dáng người con gái kín đáo, e ấp bước ra từ khu vườn cổ tích, ẩn hiện
dưới lá trúc xanh lại càng tôn lên vẻ đẹp của không gian và con người đất Huế. Ẩn sâu
trong từng lời thơ trong sáng, thanh thoát và tươi tắn ấy là một tâm hồn với khát khao
mãnh liệt được giao cảm, được trở về chốn cũ, gặp lại người xưa sau những tháng
ngày xa cách. Nhưng có lẽ điều đó thật khó có thể có được.
Nếu khổ thơ đầu gợi cho ta ấn tượng về buổi sáng trong ngần thì khổ thơ thứ hai cho
dẫn chúng ta về với không gian thuyền nước, sông trăng vào buổi xế chiều- đêm tối:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Gió và mây gợi sự trôi nổi, lang thang, biện pháp đối “gió theo lối gió, mây đường
mây” càng nhấn mạnh sự chia lìa đôi ngả. Phải chăng, đó là hình ảnh ẩn dụ cho sự xa
cách của nhà thơ với người mình thầm thương mến, dù yêu nhưng không thể cùng là
bạn đồng hành trong quãng đời ngắn ngủi còn lại của kiếp người. Nghệ thuật nhân hóa
“Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” càng khẳng định nỗi sầu giăng trong lòng người
thi sĩ, nỗi buồn thấm vào cảnh vật, hay chính tâm hồn nhà thơ đang sầu muộn, mà cảm
nhận thiên nhiên cũng sầu thương, buồn bã đến nặng lòng, bởi vốn dĩ:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Nếu khổ thơ đầu, nỗi buồn nhẹ nhàng, cảnh vật còn mang sự tươi tắn thì đến với khổ
thơ hai, cảnh vật nhuốm màu buồn hơn, nỗi buồn và cô đơn cũng vì thế mà thấm đẫm hơn:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Chữ "kịp" được đặt trong câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” cho thấy được
nỗi hoài vọng của tác giả về một hạnh phúc, về một người có thể cùng thi nhân giao
cảm. Trong câu thơ, ta thấy được sự bất lực trước thời gian của tác giả. Dường như,
nhà thơ đã đem nỗi mặc cảm về căn bệnh quái ác của bản thân vào trong cả tứ thơ của mình.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.”
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.”
Từ “mơ” được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh giấc mộng của tác giả về một điều đẹp
đẽ, có vị khách đường xa tới thăm, cùng đồng điệu, tâm sự với kẻ cô đơn trong cảnh
bệnh tật. Điệp từ “khách đường xa” được lặp lại càng khẳng định khao khát được gặp
gỡ của Hàn Mặc Tử nhưng có lẽ giấc mộng ấy chẳng thể nào thành bởi vị khách đã xa lại càng xa.
Bằng ngòi bút đầy tài năng và nội tâm phong phú của mình, Hàn Mặc Tử đã mang đến
cho độc giả những vần thơ đẹp đẽ. Trong chữ có tình, trong tình có chữ, những cảm
quan đầy tinh tế gợi cho người đọc bao dư vị về tình đời qua bài thơ.
Đây thôn Vĩ Dạ phân tích - Mẫu 5
Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút tài năng xuất sắc. Những tác phẩm của ông
thường ít tả và kể mà thương hướng tâm, hướng nội. “ Đây thôn Vĩ Dạ” – một trong
những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong trái tim của
độc giả. Bài thơ được sáng tác trong thời gian Hàn Mặc Tử đang nằm trên giường
bệnh. Bài thơ không chỉ thể hiện nỗi nhớ, tình yêu đối với người con gái xứ Huế ông
thầm thương, với mảnh đất đẹp nơi thôn Vĩ mà ẩn sâu trong đó còn có cả sự cô đơn,
nuối tiếc và nỗi buồn chất chứa trong trái tim tác giả.
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ ẩn chứa nhiều ý nghĩa, đã tốn không ít giấy mực
của các nhà các phê bình văn học:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”
Có ý kiến cho rằng, nhà thơ Hàn Mặc Tử khi đang nằm điều trị căn bệnh nan y, người
con gái tên Hoàng Thị Kim Cúc mà ông thầm thương trộm nhớ đã gửi cho nhà thơ
một tấm bưu ảnh với vài lời thăm hỏi trong đó có hỏi nhà thơ sao bấy lâu không về
thăm thôn Vĩ. Nếu hiểu theo hoàn cảnh này, có lẽ nhà thơ đã mượn lời hỏi thăm ấy để
mở đầu cho bài thơ của mình. Câu hỏi tu từ đầu tiên thể hiện một sự trách móc nhẹ
nhàng của người con gái. Cũng có thể do nhà thơ tự phân thân hoặc tự vấn bản thân
mình đã bấy lâu rồi không về thăm mảnh đất ấy với một niềm mong ước một lần được quay trở lại nơi đây.
Trong khổ thơ đầu, bài thơ cũng đã mang người đọc đến với một quê hương thôn Vĩ đẹp đẽ, thơ mộng:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Những hình ảnh thân thuộc bình dị và đặc trưng của thôn Vĩ như “hàng cau”, “vườn
ai” đã được nhà thơ khéo léo tái hiện trong ba câu thơ. Trước mắt người đọc hiện lên
là hình ảnh của những hàng cau tăm tắp vươn lên trước “nắng mới”, với khu vườn đã
“mướt” lại “ xanh như ngọc”. Với cách sử dụng ngôn ngữ tài tình trong hai từ “ nắng
mới”, “mướt” , câu thơ thể hiện một khung cảnh thật tươi đẹp và đầy sức sống. Biện
pháp tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng khéo léo trong câu thơ thứ ba “xanh như
ngọc” cho thấy thôn Vĩ không chỉ hữu tình, nên thơ mà còn rất trù phú. Cảnh vật thiên
nhiên trong bài thơ thì tuyệt vời đến thế, còn con người thì rất thật thà và đôn hậu qua
hình ảnh “lá trúc” với “mặt chữ điền”. Chỉ hai hình ảnh ấy thôi cũng đủ để người đọc
cảm nhận được điều đó bởi người xưa thường ví cây trúc với người quân tử, còn
gương mặt chữ điền thường là những người có tấm lòng nhân hậu. Không chỉ khắc
họa hình ảnh tươi đẹp, con người đáng yêu của thôn Vĩ, bài thơ còn cho người đọc
nhận thấy được sự ngợi ca, lòng yêu mến của tác giả đối với con người và cảnh vật vùng đất yên bình đó.
Nếu như khổ thơ đầu mang đến một hình ảnh tươi vui, đẹp đẽ thì ở khổ thơ thứ hai lại
mang ta đến với những hình ảnh chia lìa, một nỗi buồn trống trải chất chứa của nhà thơ:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Người ta thường nói “gió thổi, mây bay” bởi gió và mây thường đi liền với nhau, gắn
bó, hòa quyện với nhau. Tuy nhiên trong câu thơ trên thì gió đi một lối, mây đi một
đường. Kết hợp với nhịp thơ dứt khoát 4-3, câu thơ thể hiện một sự chia lìa, xa cách.
Nhà thơ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa tài tình trong câu thơ tiếp theo với hình
ảnh “dòng nước buồn thiu” kết hợp với hình ảnh “hoa bắp lay”. Điều đó dường như hé
lộ một nỗi buồn mang mác của người thi sĩ lúc này bởi lẽ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Càng đọc những câu thơ tiếp, người đọc càng dần thấy được một Hàn Mặc Tử cô đơn, u sầu và hướng nội:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Trong thơ ca xưa nay, người ta thường thấy hình ảnh của trăng được rất nhiều thi nhân
đưa vào trang viết của mình. Nếu nhà thơ Lý Bạch có “Ngẩng đầu ngắm trăng sang –
Cúi đầu nhớ cố hương”, Bác Hồ có “trăng vào cửa sổ đòi thơ” thì Hàn Mặc Tử cũng
góp vào nguồn cảm hứng vô tận ấy hình ấy một “bến sông trăng” và con thuyền “chở
trăng”. Có lẽ hình ảnh ẩn dụ “sông trăng” và thuyền “chở trăng” là hai hình ảnh cực
kỳ đắt giá và mang nhiều ý nghĩa nhất trong khổ thơ này. “Trăng” ở đây có thể hiểu
như một người bạn tri kỷ mà lúc cô đơn này nhà thơ rất cần để giãi bày tâm sự. Nếu
đặt vào hoàn cảnh sáng tác và kết hợp với nội dung khổ thơ đầu, người đọc cũng có
thể hiểu rằng trăng chính là nhà thơ. Bởi lẽ ở khổ thơ đầu hình ảnh thôn Vĩ và con
người đáng yêu đến thế thì hình ảnh thuyền “chở trăng về” chính là hình ảnh ẩn dụ
một mong ước của thi nhân được trở về mảnh đất ấy. Hai từ “thuyền ai” cùng câu hỏi
tu từ cuối khổ thơ dù thể hiện nỗi niềm đau đáu nhớ về thôn Vỹ, mong muốn về thăm
nhưng dường như lại chất chứa cả một nỗi khác khoải, cô đơn của nhà thơ khi biết
mình đang mang bệnh khó có thể trờ về.
Sau những hình ảnh buồn man mác và sự cô đơn trong nỗi lòng người thi sĩ thì bài thơ
lại tiếp tục đưa ta đến với một cõi mộng ảo, hư hư thực thực với một sự chới với, vô
vọng trong trái tim tác giả:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Aó em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Với điệp từ “khách đường xa” được nhấn mạnh hai lần, câu thơ thể hiện một sự xa
cách vô cùng. Vậy vị ‘khách đường xa” ấy là ai? Có thể đó chính là nhà thơ – một vị
khách đường xa muốn trở về thăm xứ Huế. Khổ thơ không chỉ có vị khách mà còn có
hình ảnh người em áo trắng. Trong một số tài liệu có viết rằng bà Hoàng Thị Kim Cúc
gửi cho ông một tấm bưu ảnh phong cảnh đẹp đẽ, một số tài liệu lại cho rằng đó là bức
hình của bà mặc một chiếc áo dài. Và dù theo tài liệu nào thì người ta cũng vẫn ngầm
hiểu rằng hình ảnh cô gái áo trắng trong bài thơ chính là Hoàng Cúc – người mà thi sĩ
thầm thương bấy lâu. Hình ảnh “trắng” “ nhìn không ra” cùng “sương khói mờ nhân
ảnh” đã đưa độc giả đến một cõi xa xôi nào đó, mờ mờ ảo ảo. Dường như niềm
thương, nỗi nhớ và mong ước trở về thăm lại người xưa chốn cũ của nhà thơ với con
thuyền chở trăng khó kịp nên ông đã vào tận trong cõi mơ để tìm kiếm. Nhưng có lẽ
cuộc tìm kiếm ấy vẫn chới với, vô vọng khi thi sĩ thốt lên “Ai biết tình ai có đậm đà?”.
Lại một lần nữa nhà thơ tự hỏi lòng mình – một câu hỏi không biết có lời giải đáp ấy
lại càng cho thấy rõ sự khắc khoải vô cùng của nhà thơ. Nếu khổ thơ đầu có “vườn ai”,
khổ thơ thứ có “thuyền ai” thì khổ thơ thứ ba lại có “tình ai” nằm trong những câu hỏi
tu từ ở mỗi khổ đều có sức truyền cảm lớn đến trái tim của người đọc và thể hiện tài
năng sử dụng ngôn từ tài tình bậc thầy với lời ít nhưng ý nhiều của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Gấp lại trang thơ, hình ảnh miền quê tươi đẹp, trù phú và con người xứ Huế cùng tình
yêu của nhà thơ với mảnh đất yên bình thôn Vĩ vẫn khắc sâu trong tâm trí độc giả.
Bằng cách sử dụng ngôn ngữ tài tình và các biện pháp tu từ một cách khéo léo, bài thơ
cũng mang cho người đọc một sự thấu hiểu về sự cô đơn khắc khoải và mong ước trở
về với mảnh đất đẹp đẽ cũng như mong ước trở về với cuộc sống đời thường của nhà
thơ Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” sẽ mãi ghi dấu ấn trong trái tim bạn đọc, đóng góp
một tác phẩm xuất sắc cho nền thi ca nước nhà.
Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11 - Mẫu 6
Hàn Mặc Tử một trong những “cây bút” tài năng bậc nhất của phong trào thơ mới
những năm 1932-1945 với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, tác phẩm để lại nhiều
ấn tượng nhất trong lòng người đọc có lẽ là "Đây thôn Vĩ Dạ"- một bài thơ đặc sắc
trong sự nghiệp văn chương của ông. Bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh
thiên nhiên trong trẻo, tinh khôi xứ Huế với bức tranh tâm cảnh của một cái tôi tha
thiết yêu đời, khát khao giao cảm với cuộc sống, con người nhưng đầy những âu lo, trăn trở.
Câu hỏi tu từ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" như hờn trách nhẹ nhàng lại như lời
mời đầy tha thiết của người con gái xứ Huế. Một lời hờn trách đầy dịu dàng nhưng
đằng sau đó là lời mời ân cần và đầy chân thành: "Sao anh không về chơi". Ở đây tác
giả không dùng từ "thăm" mà lại dùng từ "chơi" đủ để thấy sự thân thiết, chân thành,
mộc mạc, gợi lên được tình cảm thân mật, gần gũi. Và dường như, đó cũng là câu hỏi
mà nhà thơ đang tự hỏi chính mình, tự trách chính mình sao bấy lâu chẳng trở về với
chốn cũ, người xưa để giờ đây trong cơn bạo bệnh lại chỉ còn những tiếc nuối, băn
khoăn. Trong câu thơ chất chứa cả mỗi nỗi khát khao được trở về với Vĩ Dạ thân yêu.
Từ nỗi nhớ, bức tranh thôn Vĩ dần hiện ra trước mắt người đọc qua từng lời thơ, một
bức tranh Vĩ Dạ đầy lung linh, tươi đẹp và căng tràn sức sống:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên"
Cau là loài cây dân dã cũng là linh hồn của làng quê Việt Nam. Trong truyện cổ tích,
trầu- cau gắn với tình yêu đôi lứa. Trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu gắn với nỗi
nhớ, với vẻ đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh "nắng hàng cau" là một hình ảnh đẹp gợi vẻ
tinh khôi, trong trẻo của những tia nắng sớm mai. Màu nắng hàng cau là màu nắng vô
cùng mới mẻ mà trước Hàn Mặc tử chưa có thi nhân nào gợi ra được màu nắng ấy.
Những tàu cau được nắng mới bao trùm, nắng hòa vào hạt sương đọng trên phiến lá
tạo nên vẻ long lanh đến kiều diễm. Thiên nhiên trở nên thanh thoát, trong trẻo đến lạ
lùng, không gian trở nên cao ráo và đầy khoáng đạt. Ánh nắng hàng cau làm sáng
bừng lên cả một khu vườn thơ mộng, hữu tình.
Xa xa là bóng hàng cau, khi lại gần, khu vườn càng thêm đẹp, thêm tươi. Có cây ngời
ngợi màu xanh sáng, xanh trong, xanh mỡ màng, mượt mà:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Câu thơ cất lên như sự ngỡ ngàng đến xuýt xoa của tác giả trước vẻ đẹp của tạo hoá
được tưới tắm bởi bàn tay khéo léo của người làm vườn. Tính từ “mướt” gợi lên sắc
xanh ngời ngợi, ngọc ngà, xuân sắc đầy sức sống của khu vườn. Có thể thấy qua
những hình ảnh thơ gần gũi, bình dị mà bằng cách sử dụng ngôn từ độc đáo, bức tranh
thôn Vĩ đầy đẹp đẽ, sống động và cao quý được gợi lên.
Cảnh thôn Vĩ ngày càng trở nên hài hòa hơn khi có sự xuất hiện của con người:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Lối nói cách điệu thể hiện vẻ đẹp e ấp, kín đáo, dịu dàng và rất Huế của người con gái.
Sự xuất hiện của khuôn mặt chữ điền phúc hậu, dịu dàng đã làm cho bức tranh Vĩ Dạ
trở nên sinh động hơn khi có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.
Khổ thơ thứ hai gợi ra cảnh sông nước êm đềm, mang nỗi niềm bâng khuâng, nỗi mong cầu hư ảo:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ? “
Không gian có gió, mây, sông nước, có thơ mộng, có êm đêm những gợi buồn, gợi
chia ly. Cảnh chia đôi ngả “gió theo lối gió, mây đường mây” phải chăng chính là sự
mặc cảm của nhà thơ về tình yêu xa cách, không thể đồng hành cùng người thương
của mình. Vì lòng người mang sau bi nên thiên nhiên cũng vương buồn. Dòng sông
nước vẫn chảy mà “buồn thiu”, gió xao động, hoa bắp lay trôi vô định trên làn nước.
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” cảnh vật gợi vẽ quạnh quẽ, thê lương, u sầu. Dòng
sông buồn như chính tâm trạng thi nhân.
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Tứ thơ “Có chở trăng về kịp tối nay?” gửi gắm cả một nỗi niềm của thi nhân, một
khao khát vào tình yêu cập bến, để được cùng người tâm sự, tỏ bày. Nỗi ngóng trông,
mong chờ, khát khao mãnh liệt được tâm giao được cất lên trong tiếng thơ bình dị. Có
chăng, lúc này đây, tác giả đang lo sợ vì vận mệnh ngắn ngủi của cuộc đời mình. Sợ
rằng thời gian ngày một ngắn thêm mà lòng người vẫn chưa thể được khỏa lấp nỗi
trống vắng, cô đơn, sầu muộn. Liệu con thuyền kia có chở kịp vầng trăng hạnh phúc
ấy về với kẻ mệnh bạc này không?
Thực tại phũ phàng, cô đơn ngập lối, tác giả đành tìm đến giấc mơ, nơi đó có thể nhìn
thấy người con gái mình yêu, dẫu đó chỉ là chút hạnh phúc trong ảo ảnh:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Trong giấc mơ mang màu hy vọng, thi nhân thấy vị khách đường xa trong tà áo trắng
tinh khôi, ẩn hiện trong sương khói. Bóng hình như nhoè đi rồi biến mất trong phút
chốc. Sự thanh khiết, cao quý của người con gái trong ảo ảnh khiến thi nhân không khỏi không lo sợ:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
Trong lời thơ, tác giả phân vân, lo sợ về một tình cảm không chắc chắn. Một trái tim
khao khát yêu và được yêu nhưng không bao giờ có được tình yêu trọn vẹn khiến tác
giả hoài nghi về tình cảm, về tình yêu của đối phương. Không biết tình người có đậm
đà như chính lòng ta chăng?
Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi tư từ chất chứa nỗi niềm hoài nghi và thất vọng. Vĩ
Dạ đẹp nhưng buồn, lòng người buồn mà đẹp, tất cả tạo nên sự hòa quyện giữa cảnh và tình.
Đây thôn Vĩ Dạ qua bao thế hệ người đọc vẫn mang một sức sống dạt dào. Bài thơ
không chỉ là một bức tranh êm đềm và tươi đẹp của Vĩ Dạ mà còn là bức tranh đẹp
của một tấm lòng tha thiết với thiên nhiên và khát khao được sống, được yêu của Hàn Mặc Tử.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 7
Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử
lâm bệnh nặng chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy
Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng
Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước đêm
trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này
đang mang căn bệnh hiểm nghèo.
Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau
nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người
trong mộng với một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế mà, kiệt tác "Đây thôn Vĩ Dạ" đã ra đời.
Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn thể hiện nỗi trông ngóng da diết của
cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì không có người con gái nào đang trực tiếp
đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa đầy yêu thương ấy chính là những
dòng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xôn xao, sống dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.
Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức Hàn
Mặc Tử đã có mặt ngay ở không gian thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành trình trong tâm thức.
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên"
Câu thơ này xuất hiện hai từ "nắng". Một cái nắng được phát hiện được miêu tả "nhìn
nắng hàng cau" và một cái nắng tinh khôi mới mẻ, nó khiến nhà thơ phải xuýt xoa reo
lên như trẻ con "nắng mới lên". Đây không phải là thứ nắng của mặt trời mà ngày nào
chúng ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng rất mới vì nó xuất hiện trong buổi bình minh.
Nó thắp nên trên những hàng cau.
Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần.
Người du khách thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy màu
xanh ngọc của là cây. Thực ra ông trở về bằng tâm thức thì không nhất thiết phải có
một cuộc dạo chơi như vậy. Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn
thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé toạc vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì
thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Không gian nơi có người mình yêu là một khu vườn địa đàng,
là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi phiền muộn
đớn đau. Vì thế nên tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn Vĩ.
"Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, kinh ngạc. Đã
"vườn ai mướt quá" lại còn phát hiện ra cái "mướt quá" ấy là "xanh như ngọc". Tất cả
đều non tơ, tất cả đều xanh tươi, mỗi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ
cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của những chiếc lá ngọc.
"Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng
"mặt chữ điền" chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi
thôn Vĩ. Bời vì "vườn ai" chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong
khu vườn ấy thì rất hợp lí. Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên - bạn của Hàn Mặc Tử đã rất
bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền có thể không xấu nhưng nhất
định đó là gương mặt không theo chuẩn mực cái đẹp của người Việt Nam khi đánh giá
phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là "mặt chữ điền" là viên gạch có bốn ô vuông thường
được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.
Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng, thế giới kì lạ.
Việc nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất phổ biến. Vì thế
dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ
điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế. Nhà thơ muốn yêu một tình
yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là
một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên
mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu. Hình tượng "lá trúc che
ngang" càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng
khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.
Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho
chúng ta ấn tượng vè buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và sau
đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu thơ
phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình tượng đều
tồn tại trong những quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên.
"Gió theo lối gió, mây đường mây"
Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lí mà còn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp
lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng
giò để dòng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây
còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.
Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ
sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi. Thông qua cách nói nóng gió, Hàn
Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. Đó là một kẻ phụ
tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của kẻ yêu thương tin tường dại khờ.
Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời đón dành sẵn một thế giới yêu
thương chờ đợi, khi thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất
ngờ con người ấy bỗng dưng hiện ra thật nhân từ và độ lượng.
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu
tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai
câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.
Nhân vật "ai" ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người ấy
đang cắm thuyền ở bến sông để chờ đợi lấy được nhiều ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở
trăng về cho nhà thơ tối nay. Đó là sự yêu thương cao cả, là sự thấu hiểu đến tường
tận những khao khát của Hàn Mặc Tử. Thế nhưng chữ "kịp" ở đây lững lờ một câu hỏi:
liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm nay? Có thể kip và cũng có thể không còn kịp
nữa... Tối nay là một khái niệm thời gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng sự sống
của mình chỉ còn lại những giây phút ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh phúc
đến cho nhà thơ nhưng nếu đến trễ thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.
"Mơ khách đường xa, khách đường xa"
Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc biệt. Khách vốn đã xa lạ mà nhà thơ
còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy "khách đường xa, khách đường xa". Thế mà, lại có một
giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử về
thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ngoài tầm tay với của mình. Con
người đó càng lúc càng trở nên xa lạ và càng không níu kéo được nên Hàn lại càng
gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm sự này qua những vần thơ khác của Hàn:
"Người đã đi rồi khôn níu lại
Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi đến dại khờ".
Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa trong những giây
phút cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. Ban đầu là hi
vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ
thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền
đợi chờ mong ánh trăng hạnh phúc đến cho mình. Tiếp theo, Hàn Mặc Tử tuyệt vọng
nhìn người yêu mình như "khách đường xa". Nhưng cũng liền sau đó, nhà thơ thấy
người ấy quay trở lại với mình, cô gái ấy hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ
"em" thật giản dị, gần gũi biết bao:
"Áo em trắng quá nhìn không ra"
Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hi vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự
tuyệt vọng. Đáng lẽ "áo em trắng quá" thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em
càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh không
dám nhìn bởi vì em quá trong trắng, thanh cao... Mặc cảm khi yêu thương là một quy
luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do có nguyên nhân từ cuộc
đời riêng. Nhà thơ hiểu hoàn cảnh thực tại của mình, vì thế mà dù nhân vật "em" trở
lại với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của mình.
Câu thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi quan của một triết lí nhân sinh:
"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh"
Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:
"Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm"
Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng không thể điều khiển
được số phận của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt được "nhân
ảnh" chứ không thể là chính người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình
không chủ động được với chính mình, mình không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của
người yêu. Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhòa "nhân ảnh" của
nhân vật "em"... Đó là một nhận thức thật chua chát, ngậm ngùi, nó để lại sự trống
vắng như một trong hoang mạc trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Đây chính là nguyên nhân
khiến cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi bơ vơ tuyệt vọng không có chỗ nào để bám víu:
"Ai biết tình ai có đậm đà?"
Hai đại từ "ai" ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được
chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình
yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh
có biết tình em có đậm đà không? Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu
câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy "mờ nhân ảnh", càng tuyệt vọng. Càng tha
thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với tình yêu. Vì
thế mà cảm hứng chủ đạo của "Đây thôn Vĩ Dạ" chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu tuyệt vọng.
Mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc
Tử lại dạy cho ta giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu,
dù đó là một tình yêu tuyệt vọng. Chúng ta không gặp hoàn cảnh bi đát như Hàn Mặc
Tử, nên chúng ta cần phải biết sống như thế nào, yêu như
Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 8
Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mạc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:
Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi..." (Bẽn lẽn)
"Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu" (Hãy nhập hồn em)
"Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn". (Đêm không ngủ)
Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, sông trăng... Cả một thế giới trăng mộng
ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mạc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện một tâm hồn "say
trăng" với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà
thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941). Với 28 tuổi đời (1912-1940),
ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ đặc sắc. Thơ
của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai
biết hay về mùa xuân và thiếu nữ ("Mùa xuân chín"), về Huế đẹp và thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" như Hàn Mạc Tử.
"Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong "Tập thơ Điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ đã qua
đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ
Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mạc Tử đã viết về một tình
yêu - tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng đến huyền ảo. Bài
thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình,
có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.
Câu đầu của khổ thơ thứ nhất "dịu ngọt" như một lời chào mời vừa mừng vui hội ngộ,
vừa nhẹ nhàng trách người thương xiết bao thương nhớ, đợi chờ. Giọng thơ êm dịu,
đằm thắm và tình tứ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Có mấy xa xôi. Cảnh cũ
người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong
một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới. lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?"
Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ xa, thi nhân say
mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, "nắng mới lên"
rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng
cau như chào mời, như vẫy gọi.
Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một
màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Sương đêm ướt đẫm
cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng
trông "mướt quá" một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hòa, con
người cần cù chăm bón mới có màu sắc "xanh như ngọc" ấy. Thiên nhiên như rạo rực,
trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân
Diệu đã từng viết: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá..." ("Thơ duyên"). Hai chữ "vườn
ai" gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác bâng khuâng. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ với
khóm trúc vườn xuân: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da
phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ đẹp của giai nhân. Mặt chữ điền là gương mặt đầy đặn,
vuông vắn, phúc hậu. "Lá trúc che ngang" là một nét vẽ thần tình đã tô đậm một nét
đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mạc Tử hơn
một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho một
mối tình đẹp đang nảy nở:
"Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây" (Mùa xuân chín)
Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam
màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh
như ngọc... mặt chữ điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.
Vĩ Dạ một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp
với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái.
Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây
thường dìu dặt câu hát Nam ai, Nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền
diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mạc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp
nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm
tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong
lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm
cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách tài hoa bức tranh
thôn Vĩ hữu tình nên thơ.
Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng
đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa
bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bên phiên cảnh hài
hòa, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy
mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm đềm trôi lững lờ, trong tâm tưởng thi
nhân trở nên "buồn thiu", nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp lay, nhè nhẹ đung
đưa trong gió thoáng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự
được diễn tả rất tinh tế! Các điệp ngữ luyến láy gợi nhiều vương vấn mộng mơ. Ngoại
cảnh mênh mang chia lìa như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân vậy;
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay".
Hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ tới hình ảnh
con đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành "sông trăng". Hàn
Mạc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với
những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: "Gió trăng chứa một
thuyền đầy". Hàn Mạc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay
"thuyền ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo trong "Đây thôn Vĩ Dạ" là ở
những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng
của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng
buồn. ở đây bức tranh tâm cảnh tràn ngập ánh trăng, thấm thía một nỗi buồn cô đơn li
biệt của khách đa tình.
Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, nhà thơ Nguyễn
Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: "Những nàng thiếu nữ sông
Hương - Da thơm là phấn, má hường là son...". Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm
mai và chiều tà lắm sương khói. "Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với
tình cố hương, ở đây sương khói đã làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi
vẫn không nhận ra dáng hình em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng
trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, trắng
trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng
khuâng. Ta đã biết Hàn Mạc Tử từng có một mối tình đẹp đơn phương với một thiếu
nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ nói về mối tình này?
"Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
"Mơ khách đường xa, khách đường xa... ai biết... ai có..." các điệp ngữ và luyến láy ấy
tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi buồn xa vắng
chia li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc thêm cảm thương
cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình đơn phương
nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn và bệnh tật.
Cũng cần nói một đôi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ "ai" xuất hiện
đều mơ hồ, ám ảnh: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" - "Thuyền ai đậu bến sông
trăng đó?" - "Ai biết tình ai có đậm đà?''. Con người mà nhà thơ nói đến là con người
xa vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. Nhà thơ luôn luôn cảm thấy mình hụt hẫng,
chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà
tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ ảo cùng sương khói?.
Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay và cảm động. Cảnh và người,
mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ... bao hình ảnh và
cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. "Đây thôn
Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, cọn thuyền
ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như dẫn hồn ta đi về miền sương
khói Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng giai nhân, thương nhớ nhà thơ tài hoa,
đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong "Đây thôn Vĩ Dạ" vương vấn mãi
lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng ta.
"Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô".
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 9
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hoài niệm. Theo tư liệu về Hàn Mạc Tử, khi còn làm
việc ở Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã đem lòng yêu Hoàng Thị Kim Cúc –
con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Tất cả tình cảm của
mình Hàn Mạc Tử gửi gắm vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở
Huế – Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử xem như nàng đã đi lấy chồng.
Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi, hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng,
Ngồi lên đó thả cái hồn thơ.
Hàn Mặc Tử khi lâm bệnh hủi năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của
Kim Cúc gửi tặng, đó là một bức ảnh chụp phong cảnh xứ Huế, có sông nước, có
thuyền, có bến có trăng, cùng những hàng cau cao vút kèm theo dòng chữ của Hoàng
Cúc để an ủi nhà thơ. Bức bưu thiếp đã đánh thức cảm xúc của thi sĩ, nên có bài thơ tuyệt bút này.
Khổ thứ nhất mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ thoáng như một lời trách móc
nhẹ nhàng có pha chút tiếc nuối của ai đó, nhưng đằng sau đó là lời chào mời tha thiết
khách đến thăm để được thưởng thức cảnh đẹp của “thôn Vĩ”.
Về thôn Vĩ để được “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Nhà thơ nói đến cây cau
trước tiên vì cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân thẳng tắp, tán lá xanh tươi,
gợi sự ngay thẳng thủy chung. Hình ảnh hàng cau ở đây còn có một chi tiết khó quên,
ấy là “Nắng hàng cau, nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” gợi cho ta ánh nắng ban mai,
biểu tượng cho sức sống, niềm vui đang lan tỏa tràn đầy mặt đất. Trong ánh nắng ban
mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lên lấp lánh như đang vươn lên hút lấy những ánh vàng rực rỡ
Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba cất lên như một tiếng reo thích
thú biểu hiện sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ. Khung cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái được sự chăm
sóc bởi bàn tay khéo léo, lại được tắm gội mưa gió thường xuyên, nên mượt mà và
dưới ánh nắng ban mai lấp lánh như những viên ngọc bích. Hình ảnh so sánh của tác
giả trong câu thơ vừa chính xác, vừa gợi cảm. Có thể nói, tả vườn của Hàn Mặc Tử đã
đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài hoa.
Chỉ bằng vài nét vẽ chấm phá, Hàn Mạc Tử đã phác họa được khung cảnh khu vườn
một làng quê xứ Huế vừa quen thuộc, bình dị, vừa thi vị độc đáo. Ngắm vườn xứ Huế
trong cái “nắng mới lên” thật thanh thản. Nhưng cảnh vật Vĩ Dạ bổng sinh động hẳn
lên, khi bóng dáng con người xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ
điền thường gợi về vẻ đẹp phúc hậu. trang trọng, quý phái, còn lá trúc gợi cái dáng vẻ
mảnh mai, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa tả thực: thấp thoáng sau khóm
trúc có khuôn mặt rất phúc hậu của ai đó hình như đang dõi theo khách đường xa, còn
có ý nghĩa tượng trưng, cách điệu hóa.
Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh xinh xắn, thơ mộng, người phúc hậu quý phái.
Tất cả tạo nên một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Nhờ thế câu thơ đã làm bật được cái linh
hồn vườn cây xứ Huế mà khổ thơ tập trung biểu hiện.
Tóm lại, bằng những chi tiết rất quen thuộc và bình dị, Hàn Mạc Tử đã khắc họa một
bức tranh quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, có sự hài hòa giữa cảnh và
người. Đoạn thơ làm khơi dậy trong tâm hồn người đọc biết bao nỗi niềm quê hương làng mạc Việt Nam.
Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của Huế: Dòng sông Hương và vẻ đẹp êm
đềm trầm tư của Vĩ Dạ nói riêng và Huế nói chung.
Về với Vĩ Dạ, về với Huế, với núi Ngự, sông Hương, Hàn Mạc Tử cũng cảm nhận
được cái linh hồn, cái nhịp điệu rất Huế ấy. Khung cảnh Huế dưới ngòi bút của Hàn
Mặc Tử có sông nước, bờ bài, có gió, có mây và con thuyền ai đó đậu dưới trăng nơi
bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh êm đềm, thơ mộng.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Hai câu thơ tả cảnh nhưng thấm đẫm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia ly
buồn vắng đến não nề. Phải chăng một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp
gỡ ngọt ngào đã sớm chia li nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà sầu tủi, phân li?
Bởi đang trong tâm trạng buồn như vậy nên nhìn vào đâu cũng thấy buồn. Gió thổi
mây bay thường là một chiều, nhưng đây lại đứt gãy, như là không có sự gặp gỡ. Điệp
từ “gió” và “mây” đã thể hiện ra điều đó. Và ngay đến dòng nước vô tri kia cũng trở
nên buồn hiu cùng với hoa bắp hiu hắt khẽ “lay”. Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và
tình trong cảnh, mà dường như còn muốn tả cái nhịp điệu của cảnh. Đó là cái nhịp
điệu êm đềm, lững lờ, nét trầm tư rất điển hình không nơi nào có được của Huế. Hai
câu thơ có cái nhịp khoan thai chậm rãi cũng đã diễn tả rất thành công cái cảm xúc trên.
Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mạc Tử huyền ảo,
tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực, nửa hư như trong mộng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng và thuyền mới chở trăng. Ở đây Hàn
Mặc Tử là con người có con mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật thì sự thật thành
chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy sẽ sang địa hạc huyền diệu. Lời thơ của Tử
thanh tao quá! Ngọt lịm cả người” (Bích Khê).
Trăng là biểu tượng cho cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên. Trăng cũng tượng trưng
cho hạnh phúc thanh bình. Vì vậy, hình ảnh thơ của Hàn Mặc Tử đã khơi dậy trong
trái tim người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mỹ
và thánh thiện. Những lời thơ lại cất lên như một câu hỏi vô vọng. Hai câu thơ sau của
khổ thơ thể hiện tâm trạng khát khao gặp gỡ đồng thời cũng thể hiện nỗi niềm lo âu.
phấp phỏng về sự muộn màng. Chỉ một chữ “kịp” câu thơ cuối cùng đã nói lên điều đó.
Đến với khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình người tình đời
thiết tha mà xa xăm vô vọng của tác giả.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
Điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng khắc khoải nhớ mong tha thiết vừa
diễn tả cái khoảng cách xa vời của mối tình đơn phương vô vọng. Vì vậy, “mơ khách
đường xa” tác giả chỉ thấy “áo’’ nhưng “nhìn không ra”. Cô gái này là ai? Một cô gái
Huế nào đó hay chính là cô gái thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của nhà thơ khiến
cho tác giả có cảm giác bâng khuâng hư thực? Chỉ biết đây là một hình ảnh vừa rất đỗi
gần gũi tha thiết vừa xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực, xa
vời vì khoảng cách thời gian, không gian và làn khói sương của một mối tình chưa có
lời ước hẹn “Áo em trắng quá nhìn không ra” là một câu thơ khá đặc sắc. Màu trắng là
màu áo dài của nữ sinh xứ Huế và cũng là màu gợi về sự thanh khiết trắng trong rất
phù hợp với cô gái trong mộng tưởng. Cái màu trắng cả không gian, làm nhập nhòe cả
thị giác của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra khi lẩn vào sương khói hư
ảo của Huế lắm nắng, nhiều mưa và sương khói của mối tình chưa có ước hẹn. Vì vậy,
tình cảm của người con gái thôn Vĩ hôm nào có bền chặt cho chăng? “Ai biết tình ai có đậm đà?”.
Trong đau thương tột cùng mà nhà thơ vẫn có những phút giây thả hồn trong trẻo để
hướng về một miền quê thân thiết và một mối tình đây mộng ảo để tạo nên một “viên
ngọc thơ tuyệt vời, chói lọi nghìn năm” Chế Lan Viên .
Bài thơ cố nhiên có một xuất xứ, có một nguồn cảm hứng cụ thể, nhưng qua việc phân
tích, ta thấy, tác phẩm đã vượt xa ranh giới của những gì cụ thể, đạt tới sự khái quát
hóa nghệ thuật cao độ để đến với cuộc đời bao la.
Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử không chỉ là một bài thơ thể hiện tình yêu với một
người con gái xứ Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn
là lời tâm sự thiết tha, là lời trăng trối của thi sĩ Hàn Mặc Tử về tình yêu day dứt và
quá đỗi sâu nặng đối với cuộc đời này.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 10
Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài hoa của văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, chúng ta lại
nhắc tới một người nghệ sĩ tài hoa, bạc mệnh. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta càng
cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử.
Bài thơ về xứ Huế mộng mơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, là tiếng lòng tha thiết về quê hương,
nhưng cũng đượm vẻ u buồn, man mác như dòng sông Hương hiền hòa với những câu
hò đượm chút tình của Huế:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Mở đầu bài thơ bằng một câu hỏi tu từ, như lời trách nhẹ nhàng, không có chút giận
hờn nào của một cô gái Huế với chàng trai mà cô thầm thương trộm nhớ. Câu thơ còn
chứa đựng sự mong đợi, sự trách móc nhẹ nhàng, sao lâu rồi anh không về thăm thôn
Vĩ. Đó còn là một lời mời “dịu ngọt”, thôn Vĩ hiện lên, vẻ đẹp không mang nét hùng
vĩ như cảnh “Đèo Ngang” hay mang trong mình sự huyền bí hư không, dưới ngòi bút
của chính tác giả, hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, đúng chất Huế.
Cái đẹp được tả từ ánh nắng ban mai “nắng mới”, ánh sáng tinh khiết nhẹ nhàng buổi
sớm soi rọi xuống những “hàng cau” xanh mướt như đón lấy những tia nắng đầu tiên
đó. Tất cả như được phủ kín với ánh sáng, một thử ánh sáng tinh khôi, dưới ánh sáng
đó tất cả vạn vật như rực lên sức sống đang tuôn trào.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Một khoảng vườn hiện lên trước mắt chúng ta, ta có thể cảm nhận được dù có nhắm
mắt cũng có thể cảm thấy cái màu xanh mượt mà, ngời lên dưới ánh ban mai. Nhà thơ
đã dùng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để diễn tả sức sống tươi mát, nhựa sống
của cây cối đang đâm chồi nảy lộc.
Giữa khung cảnh thiên nhiên trữ tình đó, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu đây
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Chúng ta thường nhắc đến mặt tròn, mặt trái
xoan… hiếm ai nhắc đến “mặt chữ điền”, chỉ một khuôn mặt hiền lành, phúc hậu.
Con người thấp thoáng, ẩn hiện sau “lá trúc” mơ màng, hình ảnh hư thực. Đây có phải
là người ghé thăm thôn Vĩ, là người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, một cô
gái Huế dịu dàng, duyên dáng. Thôn Vĩ nằm cạnh dòng sông Hương hiền hòa, xinh
đẹp, những thửa vườn xanh mát, nằm cạnh đôi bờ sông Hương, vẻ đẹp hiện lên bâng khuâng:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng chứa đựng nỗi lòng của người thi sĩ. Chúng ta
thường nói “gió thổi mây bay”, gió và mây cùng đi chung một hướng. Vậy mà trong
thơ của Hàn Mặc Tử “gió theo lối gió, mây đường mây”. Có một sự chia lìa đến não
lòng. Dòng nước sông Hương cũng đượm vẻ buồn hiu hắt với “hoa bắp lay” hai bên
bờ. Cảnh vật như có sự chia lìa, lay động.
Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ người mà mình
thương yêu, sự nuối tiếc khi không gặp được người trong mộng. Hình ảnh “thuyền và
trăng” thường hay xuất hiện trong thơ ca “gió trăng chưa một thuyền đầy” – Nguyễn
Công Trứ. Và trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử cũng mượn hình ảnh đầy chất trữ tình
đó để nói lên nỗi lòng của mình “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”.
Ánh trăng soi bóng dưới dòng sông Hương, dòng sông của thi nhân không còn mang
hình ảnh đơn thuần mà trở thành “sông trăng”, làm cho cả dòng sông và cảnh vật trở
nên lung linh, huyền ảo. Có ai ngờ được rằng “dòng nước buồn thiu” vì “hoa bắp” bay
theo ánh chiều tà lại có thể trở thành một dòng “sông trăng” nên thơ như thế.
“Thuyền ai” là thuyền của một người xa lạ, hay phải chăng là con thuyền mang theo
người mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa thân quen, vừa xa lạ. Câu hỏi
tu từ hiện lên day dứt, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay”. Câu hỏi nhưng không
có câu trả lời, là sự nuối tiếc, hay là sự lỡ dở trong tình yêu, “kịp” khiến cho câu thơ
trở nên vội vàng, gấp gáp hơn, dường như đang cố gắng chạy đua để bắt kịp với
những chờ mong, hay với tình yêu mà nhà thơ hằng ấp ủ?
Nhưng tất cả những khắc khoải, nhớ thương ấy chỉ là trong tiềm thức, dễ dàng tan
biến như chính ánh trăng dưới dòng sông Hương kia. Hiện thực chỉ một giấc mơ đến phũ phàng:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Nhà thơ đã sử dụng những điệp ngữ “khách đường xa... khách đường xa” làm cho
giọng thơ trở nên sâu lắng, nỗi nhớ trong ký ức, nỗi buồn ở hiện tại. Tất cả như mờ đi
bởi màu áo trắng, màu sáng tinh khôi ấy hiện lên dưới ánh sáng của mặt trời, là màu
tượng trưng cho màu đồng phục của những nữ sinh Huế.
Và trong bài thơ này nó còn là màu nhớ nhung của chính tác giả. Dưới làn sương mờ
buổi sớm mai “sương khói mờ nhân ảnh” hình ảnh màu trắng ấy như nhạt nhòa, như
ẩn, như hiện, trở nên xa vời, khó nắm bắt. Giữa cái hư không ấy, câu thơ cuối như một
sự thất vọng của chính tác giả “Ai biết tình ai có đậm đà?”.
Sự thất vọng của một tình yêu không bao giờ được đáp lại, lời thơ như phảng phất sự
u sầu. Bài thơ kết thúc bằng sự ngậm ngùi. Nhà thơ không nói với ai mà chỉ nói với
chính lòng mình, sự băn khoăn không biết tình cảm kia có “đậm đà” hay chỉ hư ảo
như màu áo trắng trong không rõ ràng trong làn sương mờ buổi sớm.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự kết hợp tuyệt đối giữa cảnh và tình. Qua đó, ta càng
khâm phục hơn nghị lực sống của chính tác giả, cùng sự tài hoa của một nghệ sĩ giàu tình yêu thương.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 11
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tuyệt phẩm mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã để
lại cho nhân gian. Đó là những áng thơ bay bổng và ngọt ngào. Trước khi viết bài thơ
thì thi sĩ đã mắc bệnh phong nhưng vẫn mang trong mình nỗi nhớ thương, đau đáu
nhớ về quê hương Vĩ Dạ đó là nơi chứa biết bao nhiêu thời gian đẹp đẽ mà nhà thơ đã gắn bó ở đây.
Xứ Huế chính là quê hương thứ hai của nhà thơ Hàn Mặc Tử khi ông đang còn làm
nhân viên sau đó mới chuyển vào Sài Gòn và viết báo. Cố đô Huế hiện lên trong tác
phẩm của nhà thơ có biết bao cảnh đẹp trữ tình mà con người nơi đây cũng đẹp đẽ.
Huế cũng chính là mảnh đất có đặc trưng trồng rất nhiều cây cau ấy vậy mà trong thơ
Hàn Mặc Tử có nói đến:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Đó là lời trách mắng dịu dàng và nhẹ nhàng mà khi ai đọc đến cũng có thể đoán được
đó chính là lời trách của một cô gái đối với một chàng trai. Nhưng nghe câu nói sao
thấy mượt mà nửa dỗi hơn đáng yêu đến vậy! Cô gái trách cứ với chàng trai rằng sao
không về chơi thôn vĩ để xem những hàng cau mới mọc lên và được những ánh nắng “rót” vào.
Những cây cau mọc cao và có lá màu xanh mướt nhìn đã rất đẹp nay lại còn được phủ
trên mình những ánh nắng màu vàng óng ả nữa! Ôi chao thật đẹp đúng là một bức
tranh thiên nhiên tươi đẹp chan hòa ánh sáng. Chưa dừng lại ở đó mà khi đọc đến hai
câu thơ tiếp theo ta lại được chiêm ngưỡng cảnh đẹp hoàn mỹ đến khó tưởng:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Nếu các bạn đã từng đi tham quan ở Huế thì sẽ thấy những mảnh vườn xinh xắn có cỏ
và những cây cau mọc bên vườn. Người Huế đơn giản lắm họ chỉ cần sống gần gũi
với thiên nhiên mộc mạc mà trữ tình vậy thôi cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của họ
thật nên thơ và tuyệt đẹp khi họ không cần những tòa nhà cao tầng chọc trời hay
những chiếc xe ô tô to lớn, khi vào đến Huế chúng ta mới cảm nhận hết được vẻ đẹp
của ngày xưa được hiện diện như thế nào.
Đường phố thì đông đúc người qua lại người đi bộ người đi xe đạp không hề ồn ào
cũng không hề hấp tấp. Tác giả miêu tả: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” chính là
vẻ đẹp của những cây cỏ xanh mướt được những giọt sương sớm đọng lại. Khoảnh
khắc ấy đã tuyệt đẹp nay còn đẹp hơn khi có những tia nắng chiếu vào.
Cảnh vật như hoa lệ và mỹ miều hơn bao giờ hết. Mướt quá chỉ sự vật cỏ cây mọc tốt
mà xanh non quá đến nỗi xanh như ngọc. Mà ngọc có màu xanh thể hiện cho màu
xanh biếc. Tác giả thật khéo liên tưởng giữa màu xanh của cỏ cây và màu xanh của
ngọc. Qua đây ta mới thấy được sự tinh tế cũng như khéo quan sát của nhà thơ Hàn Mặc Tử biết bao.
Người xứ Huế hiện lên vẻ đẹp trung thực và hiền lành biết bao qua câu thơ: “Lá trúc
che ngang mặt chữ điền”. Khuôn mặt hình chữ điền chính là sự thể hiện cho phúc hậu,
vuông vắn mà toát lên sự hiền lành và đôn hậu của những con người nơi đây. Đến khổ
thơ thứ hai thì tác giả đã đặc biệt khắc họa rõ nét hơn về nhịp sống của những con
người nơi xứ Huế chậm rãi mà êm ả:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng nước chảy chậm đến nỗi mà “buồn thiu” hoa bắp lay động cũng rất chậm. Câu
thơ khiến ta cũng liên tưởng tới sự xa cách giữa lối gió một hướng , hướng mấy một
hướng. Phải chăng đó chính là sự ly biệt, là đường thẳng song song không bao giờ có
điểm chung của mối tình giữa chàng trai Hàn Mặc Tử và cô gái Hoàng Thị Kim Cúc -
một cô gái mà ngày xưa nhà thơ đã thầm thương trộm nhớ.
Và khi đọc đến câu thơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối
nay?” khiến người đọc có thể liên tưởng được một thuyền nằm trên mặt sông và nơi
đó có cả vầng trăng sáng. Thuyền đi đến đâu như thể chở trăng đi theo đến đó. Liệu
thuyền có chở trăng kịp về hay không?
Khổ thơ cuối chính là tình cảm của tác giả Hàn Mặc Tử dành cho cô gái xứ Huế mà
ông vẫn luôn thương thầm được miêu tả cụ thể qua 4 câu thơ cuối:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Tác giả mơ đến một giấc mơ ở đó có người khách lạ mà đó chính là cô gái mà tác giả
đang yêu. Áo trắng quá khiến nhà thơ không còn nhận ra được cô gái nữa rồi. Màu áo
trắng cũng làm chúng ta dễ dàng liên tưởng đến màu áo trắng của tà dài nữ sinh Huế.
Câu thơ lặp từ khách đường xa đến 2 lần càng thể hiện sự sâu lắng và xa lạ giữa nhà
thơ với nhân vật mà tác giả nhắc đến.
Sương và khói đã làm mờ đi hình ảnh của người con gái khiến cho tác giả cảm giác xa
xôi, khó gần. Tác giả tự hỏi bản thân mình: “Ai biết tình ai có đậm đà?” không biết
liệu rằng cô nàng đó còn nhớ và còn thương Mặc Tử hay không? Đọc xong câu thơ
cảm thấy phảng phất nỗi buồn, đó là tình yêu dạt dào của tác giả đơn phương gửi gắm
đến một cô gái mà không được đáp trả lại.
Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 12
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò. ”
Nhắc đến những dòng thơ này, người đọc chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với hình ảnh
“bán trăng” của Hàn Mặc Tử. Một sự nghịch lí, lạ đời vì trăng cũng là chung cũng là
của riêng mọi người, hà cớ sao lại “bán”. Thế nhưng, từ hình ảnh này người ta mới
thấy tấm lòng thủy chung, son sắt của nhà thơ. Và một lần nữa sự thủy chung ấy lại
được tái hiện qua “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm không những là bức tranh thủy mặc về
một vùng của cố đô Huế mà nó còn là nỗi lòng gửi tới phương xa của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Mở đầu bài thơ, không phải là lời chào mà là lời trách móc: “Sao anh không về chơi
thôn Vĩ?”. Giọng điệu mang tính hỏi han, trách móc nhân vật trữ tình sao không về
với thôn Vĩ, về với những kỉ niệm. Câu thơ còn nói lên sự tiếc nuối khi nhân vật trữ
tình không thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp thôn Vĩ.
Sự tiếc nuối của người con gái đã nhắc đến âu cũng có căn cứ vì với một loạt “vẻ đẹp"
sau đây thì dù ai bỏ lỡ chuyến về đều phải luyến tiếc.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Ba câu thơ này đã bước đầu khắc họa bức tranh quê hương thôn Vĩ với vẻ đẹp trong
sáng, thanh khiết. Ở câu thơ thứ hai tác giả khéo léo dùng biện pháp điệp từ “nắng".
Nếu như “nắng" ở vế đầu chỉ vị trí nó xuất hiện (nắng trên hàng cau) thì “nắng" ở vế
sau lại nói về tính chất (nắng mới). Khung cảnh ở thôn Vĩ xuất hiện trước mắt người
đọc là vẻ đẹp vườn tược, vẻ đẹp vùng nông thôn ngoại ô thành phố.
Hàng cau chính là hình ảnh điển hình nhất cho vườn tược chốn Thừa Thiên, nhưng tác
giả khéo léo hơn khi lồng vào hình ảnh này là một “gia vị" đậm chất Huế. Cái nắng ở
đây xuất hiện với tính chất - mới. “Nắng mới" có thể hiểu là nắng buổi sáng, ánh nắng bắt đầu cho ngày mới.
Nhưng ánh nắng này không chỉ bắt đầu cho một ngày mà còn khởi đầu cho một mùa
xuân tươi trẻ. “Nắng mới" đi kèm với động từ “lên" tạo cảm giác tươi trẻ, tràn đầy sức
sống và thi sĩ chính là người may mắn khi được chiêm ngưỡng khoảnh khắc này. Từ
đó cho thấy sức sống căng tràn đang lan tỏa khắp miền quê thôn Vĩ.
Từ ánh nhìn “nắng hàng cau", tác giả đã chuyển qua quan sát “đối tượng" khác là
vườn thôn Vĩ. Có thể thấy từ câu thơ này, góc nhìn của tác giả đã có sự dịch chuyển.
“Vườn” hiện lên gần hơn, tầm nhìn của nhà thơ rất gần. Nghệ thuật tu từ “vườn ai" gợi
lên sự tò mò, hiếu kì vì không xác định chủ nhân khu vườn này là ai. Nhưng cái người
ta quan tâm không phải là danh tính người chủ khu vườn, mà quan trọng mà sự trong xanh của nó.
Tác giả so sánh vườn với ngọc để cho thấy sự trong xanh, tinh khiết của khu vườn vào
buổi sáng ban mai. Nhìn vào hình ảnh này người đọc tự nhiên có cảm giác nhẹ nhàng,
thoải mái, cơ mắt cũng thực sự được thư giãn. Tuy nhiên, tài năng của Hàn Mặc Tử
không đơn thuần chỉ có thế. Tác giả khéo “tặng" chữ “mướt" khi miêu tả màu sắc khu
vườn. Từ này tạo cho người đọc cảm giác về sự trơn tru, tròn trịa và thêm phần mịn màng.
Đã thế nó còn đi kèm với thán từ “quá" làm cho vườn tược của thôn Vĩ thêm phần
thanh tao. Làm người đọc tò mò muốn được nhìn thấy một lần. Nếu như câu hai, câu
ba giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về thiên nhiên xứ Huế thì tới câu thứ tư nhà thơ
đã giới thiệu về con người nơi đây.
Hình ảnh “mặt chữ điền" chỉ về khuôn mặt phúc hậu, hiền từ và đây cũng là cách tác
giả giới thiệu về tính cách con gái Huế. Ẩn mình sau nét đẹp ấy là chi tiết “lá trúc che
ngang" gợi lên sự e ấp, ngại ngùng của cô gái xứ mộng mơ. Như vậy chỉ với khổ thơ
đầu người đọc đã có cái nhìn đầu tiên về khung cảnh thôn Vĩ. Mảnh đất ở đây không
chỉ hiện lên với vẻ đẹp tinh túy mà con người cũng rực rỡ muôn phần.
Đến với khổ thơ hai, độc giả tiếp tục chứng kiến những đường nét mà “thi sĩ" vẽ nên.
Bức tranh ấy đã mở rộng cả về không gian lẫn thời gian.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mở đầu khổ hai, Hàn Mạc Tử mở rộng không gian thôn Vĩ bằng hình ảnh từ trên cao.
Ở đây tác giả rất tinh tế khi sử dụng biện pháp điệp cấu trúc câu và điệp từ đồng thời
với nhau. “Gió" và “mây" được nhấn mạnh hai lần nhưng không phải cảm giác gắn bó,
khăng khít mà là sự chia lìa. Vì gió đi lối riêng, mây lại có đường khác.
Nếu như câu đầu tác giả nói về sự chia lìa nhưng bằng cách gián tiếp thì câu tiếp theo
nhà thơ đã nhấn mạnh cảnh vật với tâm trạng sầu thảm bằng động từ “buồn thiu”.
“Buồn thiu" là tâm trạng sầu thảm pha chút cô đơn. Và nhân vật mang tâm trạng này
là “dòng nước". Bằng thủ thuật nhân hóa, tác giả đã ví dòng nước thôn Vĩ như một
sinh vật có suy nghĩ, có tâm trạng. Cảnh vật chuyển mình mạnh mẽ từ tươi tắn lúc ban
mai và lại mang nét hoài cổ vào thời điểm này.
“Hoa bắp lay" có thể là một sự rung rinh khi có đợt gió đi qua làm rõ hơn sự buồn bã,
đơn côi. Không gian đang ở trên cao liền được kéo xuống dưới thấp làm cho hình ảnh
thêm phần sinh động . Ý đồ của tác giả thực sự xuất sắc khi để cho cái buồn của thiên
nhiên hiện ra trước, làm người đọc tò mò, suy nghĩ rồi tác giả mới đưa ra cái trầm tư của con người.
“Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Nếu như câu hỏi tu từ ở khổ thơ đầu tiên mang nét trách móc thì ở khổ này lại đượm
buồn và có chút xót xa. Xuất hiện hình ảnh ẩn dụ “thuyền", “bến" cùng với hình ảnh
“sông Trăng". Sông Hương bây giờ đã nhuốm đầy ánh trăng, làm cho cả một vùng
sông tràn ngập ánh vàng.
Câu hỏi cuối khổ thơ như thể chính tác giả đang hỏi bản thân. Câu thơ đã bộc lộ nỗi
niềm lo lắng khi trong hoàn cảnh này tác giả đang mang trong mình căn bệnh quái ác.
Và liệu nhà thơ có đủ thời gian để chờ vầng trăng ấy về kịp. Câu hỏi khiến cho cả khổ
thơ chùng xuống hẳn! Thi sĩ buồn cho cái số phận ngắn ngủi, cho ước mơ vẫn còn dở
dang. Đành là vậy! Như khi đến khổ thơ thứ ba tác giả tiếp tục sống cho mộng ước của mình
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Lần này tác giả sống trong mộng tưởng của mình. Hình ảnh khách đường xa nhấn
mạnh hai lần đã nói lên phần nào nỗi trông ngóng, nhớ thương của tác giả dành cho
người thương. Theo một số tư liệu thì lúc làm nhân viên ở Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử có
thầm thương trộm nhớ cô gái Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở.
Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì gia đình cô
Cúc đã về lại Vĩ Dạ (Huế). Trong thời gian nhà thơ bạo bệnh, được sự gợi ý của người
bạn, cô Cúc đã gửi cho nhà thơ bức ảnh chụp cảnh cô mặc áo dài trắng cùng với đó là
hình ảnh sông, nước, bến, thuyền.
Nhận được bức ảnh ấy, nhà thơ đã rất vui. Cũng chính vì thế mà hình ảnh “áo em
trắng quá" có thể bắt nguồn từ tà áo trắng mà cô Hoàng Thị Kim Cúc đã chụp. Tuy
nhiên, cái màu trắng ấy lại “nhìn không ra". Có một số giả thiết cho rằng lúc tác giả
mắc bệnh thì con mắt đã kém đi nên nhìn mọi vật có thể không rõ. Vậy nên màu trắng
này có phải là sự lạ lẫm hay cái nhìn đã phần giảm xuống?
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Câu thơ thứ ba của khổ cuối đã miêu tả đúng cái không gian của xứ Huế. Với vùng
quê được bao quanh bởi sương và khói, màu trắng ấy đã làm mờ đi mọi thứ kể cả
“nhân ảnh". Con người dường như cũng bị khuất lấp sau màn sương ấy. Cảm giác vừa
thực vừa ảo, như thể tác giả đang lạc vào thế giới thần bí mà ở đó mọi vật đều khó
hiện rõ nét sau “tấm rèm trắng".
Và có lẽ ý tứ, tình cảm của tác giả lại được gói ghém ở câu thơ cuối cùng. Tiếp tục là
một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Nhà thơ hỏi người mà cũng giống như
hỏi mình liệu tình cảm ấy còn “đậm đà", son sắt như ngày xưa. Liệu cố nhân có còn
giữ tình cảm xưa cũ. Đọc câu thơ này, độc giả sẽ không biết nhân vật hỏi và được hỏi
sẽ là ai. Thế nhưng cái người ta để tâm là tình cảm ấy có trường tồn, và lòng người có
còn giữ chút niềm riêng.
Tất cả đều là một ẩn số!Bằng cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật một cách xuất
sắc và linh hoạt như biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ… người đọc đã có
dịp chứng kiến cây bút tài hoa vẽ nên những đường nét mềm mại của bức tranh chốn
Thừa Thiên một cách sinh động và có hồn nhất.Với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ" Hàn
Mặc Tử đã đưa độc giả đến với không gian xứ Huế mộng mơ mà cụ thể là cảnh thôn Vĩ Dạ.
Với một khung cảnh trữ tình, nên thơ cùng với tình yêu tha thiết, nhớ mong tác giả đã
giãi bày tình cảm của mình với người con gái Huế mà tác giả thầm đơn phương. Tình
cảm ấy son sắt, thủy chung nhưng lại bồn chồn, lo lắng về “người cũ” có còn giữ nỗi
niềm xưa. Tình cảm ấy còn đọng mãi và trở thành một câu hỏi không nguôi trong lòng
tác giả và cho cả người đọc.
Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 13
Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử
lâm bệnh nặng chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy
Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng
Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước đêm
trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này
đang mang căn bệnh hiểm nghèo.
Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau
nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người
trong mộng với một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế mà, kiệt tác "Đây thôn Vĩ Dạ" đã
ra đời. Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn
thể hiện nỗi trông ngóng da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì không
có người con gái nào đang trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa
đầy yêu thương ấy chính là những dòng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xôn xao, sống
dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.
Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức Hàn
Mặc Tử đã có mặt ngay ở không gian thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành trình
trong tâm thức. "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên"
Câu thơ này xuất hiện hai từ "nắng". Một cái nắng được phát hiện được miêu tả "nhìn
nắng hàng cau" và một cái nắng tinh khôi mới mẻ, nó khiến nhà thơ phải xuýt xoa reo
lên như trẻ con "nắng mới lên". Đây không phải là thứ nắng của mặt trời mà ngày nào
chúng ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng rất mới vì nó xuất hiện trong buổi bình minh.
Nó thắp nên trên những hàng cau.
Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần.
Người du khách thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy màu
xanh ngọc của là cây. Thực ra ông trở về bằng tâm thức thì không nhất thiết phải có
một cuộc dạo chơi như vậy.
Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé
toạc vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ.
Không gian nơi có người mình yêu là một khu vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép
màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi phiền muộn đớn đau. Vì thế nên
tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn vĩ.
"Vườn ai mướt qua xanh như ngọc" Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, kinh ngạc. Đã
"vườn ai mướt quá" lại còn phát hiện ra cái "mướt quá" ấy là "xanh như ngọc". Tất cả
đều non tơ, tất cả đều xanh tươi, mọi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ
cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của những chiếc
lá ngọc. "Lá trúc che ngang mặt chữ điền".
Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng
"mặt chữ điền" chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi
thôn Vĩ. Bời vì "vườn ai" chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong
khu vườn ấy thì rất hợp lí.
Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên - bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này,
ông cho rằng mặt chữ điền có thể không xấu nhưng nhất định đó là gương mặt không
theo chuẩn mực cái đẹp của người Việt Nam khi đánh giá phụ nữ. Cũng có ý kiến lại
nói là "mặt chữ điền" là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình
phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.
Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng, thế giới kì lạ.
Việc nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất phổ biến. Vì thế
dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ
điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế.
Nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con
người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra
là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu. Hình
tượng "lá trúc che ngang" càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang
tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa chính
là biểu hiện cho người quân tử.
Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho
chúng ta ấn tượng vè buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và sau
đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu thơ
phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình tượng đều
tồn tại trong những quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên. "Gió theo lối gió, mây đường mây".
Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lí mà còn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp
lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng
giò để dòng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây
còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.
Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ
sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi. Thông qua cách nói bóng gió, Hàn
Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. Đó là một kẻ phụ
tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của kẻ yêu thương tin tường dại khờ.
Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời đón dành sẵn một thế giới yêu
thương chờ đợi, khi thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất
ngờ con người ấy bỗng dưng hiện ra thật nhân từ và độ lượng.
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu
tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai
câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.
Nhân vật "ai" ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người ấy
đang cắm thuyền ở bến sông để chờ đợi lấy được nhiều ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở
trăng về cho nhà thơ tối nay. Đó là sự yêu thương cao cả, là sự thấu hiểu đến tường
tận những khao khát của Hàn Mặc Tử.
Thế nhưng chữ "kịp" ở đây lững lờ một câu hỏi: liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm
nay? Có thể kip và cũng có thể không còn kịp nữa... Tối nay là một khái niệm thời
gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng sự sống của mình chỉ còn lại những giây phút
ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh phúc đến cho nhà thơ nhưng nếu đến trễ
thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.
"Mơ khách đường xa, khách đường xa" Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc
biệt. Khách vốn đã xa lạ mà nhà thơ còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy "khách đường xa,
khách đường xa". Thế mà, lại có một giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra
đây là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy
ngoài tầm tay với của mình. Con người đó càng lúc càng trở nên xa lạ và càng không
níu kéo được nên Hàn lại càng gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm sự này qua
những vần thơ khác của Hàn:
"Người đã đi rồi không níu lại
Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi đến dại khờ".
Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa trong những giây
phút cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. Ban đầu là hi
vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ
thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền
đợi chờ mong ánh trăng hạnh phúc đến cho mình.
Tiếp theo, Hàn Mặc Tử tuyệt vọng nhìn người yêu mình như "khách đường xa".
Nhưng cũng liền sau đó, nhà thơ thấy người ấy quay trở lại với mình, cô gái ấy hoàn
toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ "em" thật giản dị, gần gũi biết bao: "Áo em
trắng quá nhìn không ra".
Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hi vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự
tuyệt vọng. Đáng lẽ "áo em trắng quá" thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em
càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh không
dám nhìn bởi vì em quá trong trắng, thanh cao...
Mặc cảm khi yêu thương là một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như Hàn
Mặc Tử là do có nguyên nhân từ cuộc đời riêng. Nhà thơ hiểu hoàn cảnh thực tại của
mình, vì thế mà dù nhân vật "em" trở lại với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. Hàn
Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của mình. Câu thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi
quan của một triết lí nhân sinh: "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh". Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:
"Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm"
Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng không thể điều khiển
được số phận của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt được "nhân
ảnh" chứ không thể là chính người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình
không chủ động được với chính mình, mình không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu.
Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhòa "nhân ảnh" của nhân vật
"em"... Đó là một nhận thức thật chua chát, ngậm ngùi, nó để lại sự trống vắng như
một trong hoang mạc trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Đây chính là nguyên nhân khiến
cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi bơ vơ tuyệt vọng không có chỗ nào để bám víu: "Ai biết tình ai có đậm đà?".
Hai đại từ "ai" ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được
chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình
yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh
có biết tình em có đậm đà không?
Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi
càng thấy "mờ nhân ảnh", càng tuyệt vọng. Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn
Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của
"Đây thôn Vĩ Dạ" chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu tuyệt vọng.
Mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc
Tử lại dạy cho ta giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu,
dù đó là một tình yêu tuyệt vọng. Chúng ta không gặp hoàn cảnh bi đát như Hàn Mặc
Tử, nên chúng ta cần phải biết sống như thế nào, yêu như thế nào trong cuộc đời tuyệt
đẹp ở trần thế đáng sống này.
Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 14
Khi được gọi tên cho Phong trào thơ mới, Đỗ Lai Thúy đã gọi đó là một "Cây nấm lạ
trên gia hệ của văn mạch dân tộc". Cái "lạ" của thơ mới, có người biết, có người chưa
biết, nhưng cái "lạ" mà người thi sĩ Hàn Mặc Tử mang theo khi bước vào làng thơ, thì hẳn ai cũng rõ.
Những vần thơ điên loạn với ngập tràn ý tưởng của hồn, trăng, và máu đã không thôi
ám ảnh những ai yêu thơ Hàn, đọc thơ Hàn. Nhưng chẳng ai có thể tưởng đến giữa
một rừng thơ ma quái và kì dị ấy, lại mọc lên một bông hoa trong sáng tinh khôi, còn
vương bao hương sắc ở đời. Bông hoa ấy Hàn đặt tên "Đây thôn Vĩ Dạ", trong nó
chứa chở bao cảm xúc và hoài nhớ về một miền quê từng gắn bó biết bao...
Thi phẩm chỉ vỏn vẹn ba khổ, nhưng là sự kết đọng của bao nhiêu nỗi nhớ, bao nhiêu
khát khao, có cả bao nhiêu hoài nghi và tuyệt vọng. Bài thơ gắn với chuyện tình giữa
thi sĩ và người con gái Huế tên Hoàng Cúc. Giữa những ngày đau đớn nhất cuộc đời,
chàng lại nhận được bức ảnh sông nước xứ Huế đêm trăng, nhận thêm mấy dòng thư
tín từ người con gái chàng từng thầm thương. Bao cảm xúc ùa về, cuộc hành hương
trong tâm tưởng cũng từ đó, và những vần thơ hay nhất được gợi hứng từ xứ Huế
mộng mơ đã bật trào trong nỗi nhớ...
Thi phẩm bắt đầu bằng một câu hỏi mang đầy ý vị của Huế mộng và Huế thơ. Không
phải là hàng loạt câu hỏi tự vấn đầy quằn quại và đau đớn như ta từng gặp:
Tôi vẫn ở đây hay ở đâu
Ai đem bỏ tôi xuống trời sâu
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?
Câu hỏi cất lên ở đây vừa như một lời mời, một lời hỏi, lại như một lời trách móc, lời
thở than: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Là người con gái Huế hỏi chăng? Hay là
Hàn tự phân thân ra hỏi mình? Dù là gì thì cái điều cốt nhất ta thấy được ở đây cũng
chỉ là một niềm tha thiết, một nỗi xúc động của người thi sĩ khi được trở về với mảnh
đất nhiều kỉ niệm, dù chỉ là trong tâm tưởng.
Câu thơ chơi vơi trong sáu thanh bằng và vút lên ở thanh cuối đủ gieo vào lòng người
đọc những cảm xúc khó mờ. Là "không về" chứ không phải "chưa về", là "về chơi"
chứ không phải "về thăm". Nếu đọc cho kĩ, ngẫm cho sâu, ta sẽ thấy một câu thơ mà hàm ẩn bao ý niệm.
"Chưa về" nghĩa rằng sẽ còn về được nữa, "về thăm" nghe thật xa lạ biết bao. Đứng ở
tâm thế của một người con từng rất gắn bó với xứ Huế, Hàn đã dùng chính tâm thức
của mình để viết những câu thơ tiếp theo. Cảnh vườn thôn Vĩ hiện ra, ngời ngời sắc xanh, long lanh ánh sáng:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Ấn tượng sâu nhất vương lại từ câu thơ chính là không gian ngập tràn sắc nắng.
Không phải "nắng ửng" trong làn khói mơ tan, không phải "nắng chang chang" dọc
theo bờ sông trắng, nắng ở đây, là thứ "nắng mới", không huyền hồ ảo diệu, không
đậm màu đậm hương, nó tinh khôi và trong trẻo đến lạ.
Nắng đổ xuống hàng cau, cau hướng lên hứng nắng nhẹ nhàng, một khu vườn mướt
xanh được gội sạch bởi sương đêm, sáng sớm nay được đắm mình trong nắng mới.
Cái "mượt" mà Hàn gọi dậy ở khu vườn, cái "ngọc" mà Hàn ví với màu xanh, chúng
gợi ra bao nhiêu là sắc điệu. Vừa gợi màu mà vừa gợi ánh, vừa óng chuốt lại thật tinh
khôi. Người ta ngỡ ngàng về một cảnh vườn thôn từng quen nay trong trẻo đến lạ.
Nhớ về thôn Vĩ còn là nhớ về những nét dáng thân thương của con người nơi đây.
Không tả mà chỉ gợi, bằng bút pháp cách điệu hóa, thi sĩ đủ cho ta cảm nhận về con
người Huế chân thật, dịu dàng, về con gái Huế đằm thắm, nữ tính, thấp thoáng sau
một mành trúc che ngang là gương mặt chữ điền rất Huế. Ta từng gặp hình dáng ấy
trong câu thơ của Bích Khê:
Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc che cần trúc không buồn mà say.
Những nét vẽ thanh tao, những cảm nhận tinh tế, chúng gọi dậy một hồn thơ thánh
thiện, nặng tình nặng nỗi với một mảnh đất thân thương. Tìm đâu xa tình yêu quê
hương xứ sở, đôi khi niềm thương bắt đầu từ những ấn tượng ngọt ngào quá đỗi bình
thường như thế. Hóa ra, không chỉ Hoàng Phủ, không chỉ Trịnh Công Sơn mới viết
hay về Huế. Hàn cũng góp cho Huế mấy vần thơ thật chân tình đượm nồng những yêu thương...
Nhưng liệu có phải sẽ thật thiếu sót khi nhắc về Huế mà bỏ quên cảnh sông nước đêm
trăng vốn đã thành mảnh hồn riêng nơi đây? Bắt trọn được cái hồn riêng ấy, thi sĩ đã
kéo cái nhìn của người đọc sang một miền không gian khác, chơi vơi giữa gió mây,
lặng mình theo dòng nước:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Một bức tranh gợi buồn, gợi sầu. Gió nhẹ thổi, mây nhẹ trôi, hoa bắp nhẹ lay, dòng
Hương giang trầm mặc. Cái dáng Huế qua mấy mươi thế kỉ cơ hồ cũng chỉ có thế.
Không khí trầm tịch của đất cố đô được gợi lại chỉ qua mấy nét chấm phá. Nhưng hãy
thử đọc kĩ, và nhìn đằng sau câu thơ xem còn bao nhiêu nét nghĩa nữa.
Quả vậy, đây không chỉ là một bức tranh ngoại cảnh, nó là tranh tâm cảnh, là điệu tâm
hồn. Cứ nghe cái điều ngang trái trong câu thơ là rõ. Lẽ thường gió thổi mây bay, ở
đây gió mây đôi ngả, xa cách như chẳng thể chung đường. Cảnh đã được nội tâm hóa,
thấm đượm sự chia li. Đến nỗi mà, cái buồn đã được gọi thành tên: "buồn thiu". Hai
chữ "buồn thiu" đã gói trọn nỗi buồn đau của con người, của mối trần duyên tê tái.
Thấp thoáng nơi ấy câu dân ca thuở nào:
Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em?
Nhưng không biết vì nỗi buồn đã choán ngập tâm hồn, hay vì nhớ mong không thể
làm chủ, mà ngay hai câu thơ sau, cảnh trở nên thật hư ảo huyền hồ:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Thuyền, trăng, bờ bãi vốn không phải lần đầu đồng hiện. Thơ xưa từng có ai viết:
Nước biếc non xanh thành gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu.
Nhưng cái khác biệt ở đây là, thi sĩ không đứng đó mà ngắm trăng hay ngắm sông,
người đang chìm dần trong cảm giác ảo hóa. Trăng xuất hiện trở lại, nhưng không
phải "trăng vàng trăng ngọc", "trăng nằm sóng soãi", mà là trăng huyền hồ tan trên
mặt nước. Trong cảm giác mông lung của thi nhân, sông trở thành sông trăng, thuyền
trở thành thuyền trăng, bóng người cũng trở thành hình ai thấp thoáng, mờ nhòe trong trăng.
Tất cả ngập một màu trắng. Trăng ở đây mang chở nỗi niềm khắc khoải, lo âu, nuối
tiếc trước nỗi đau sắp phải xa lìa thực tại.Sự phấp phỏm âu lo và những mong được
níu giữ thời gian ấy hiện lên rõ nhất ở chữ "kịp" và câu hỏi đầy tội nghiệp kia.
Ta nhìn thấy ở đây một cuộc chạy đua với thời gian, thời gian đang dồn đuổi từng
bước, nhưng chạy đua không phải để tận hưởng tối đa thanh sắc cuộc đời như mong
muốn của Xuân Diệu, mà chỉ mong tận hưởng cái tối thiểu - đó là được sống. Được
sống không thôi đã thỏa nguyện rồi. Trong câu thơ là bao nhiêu sự âu lo, cũng là bấy
nhiêu niềm khao khát. Nhân văn của thi phẩm cũng là ở đó: Hãy luôn sống trọn từng
ngày khi còn đang được sống.
Niềm khao khát tình đời, tình người của thi nhân cất lên rõ nhất ở khổ thơ thứ ba, khi
mà thế giới đã về với thực tại, ngập chìm hoàn toàn ở cõi mơ:
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Chữ "mơ" đặt ở đầu, chơi vơi sau đó là tiếng gọi "khách đường xa" đầy khắc khoải,
mang theo sự chơ vơ hụt hẫng, bỏ lại bao ngẩn ngơ buồn tiếc. Hình ảnh khách thể
xuất hiện trở lại, ngỡ như cứ bước xa dần khỏi vòng tay Hàn, đi về một cõi xa xăm
không thể chạm đến. Người con gái mang sắc áo trắng tuyệt đối, trinh nguyên vô ngần,
suốt đời Hàn tôn sùng nay lại trở nên mờ nhạt, khó giữ. Tất cả như mờ ảo hơn: Ở đây
sương khói mờ nhân ảnh.
Không gian mông lung, lạnh lẽo, mịt mùng trong sương khói, huyền hồ trong ảo ảnh.
Nó choán trùm lên cả ý thức và tiềm thức, thắt buộc lòng người đến tê dại. Nghe câu
hỏi khắc khoải cuối cùng: "Ai biết tình ai có đậm đà?", ta thảng thốt nhận ra, hóa ra
bấy lâu người thi sĩ cũng chỉ mong chờ điều ấy, khao khát điều ấy, đó là tình người, tình đời.
Đời thi sĩ sống đã vốn chẳng được vui, đến cuối đời cũng chỉ mong tìm được mảnh
hồn tri ngộ. Hàn Mặc Tử của chúng ta, không "kì dị" như bao người nói. Chàng có trái
tim rất người, có những tình cảm rất người, mà có lẽ đến nhiều năm sau này vẫn có
không ít người ghi nhận điều ấy.
Bài thơ như một khúc đoản ca về tình yêu và niềm khao khát, hướng về một mảnh
vườn, cũng là hướng về một mảnh đời. Đặc sắc của thi phẩm còn được tạo nên ở
những nghệ thuật mang phong cách riêng của Hàn Mặc Tử. Với những hình ảnh tượng
trưng đầy hàm nghĩa, với những câu hỏi tu từ trải đều trên các khổ thơ mang theo ý
niệm riêng, cùng lối viết cách điệu hóa, pha lồng ảo thực, "Đây thôn Vĩ Dạ" xứng là
một thi phẩm có những thi từ đẹp nhất, trong sáng nhất.
"Mai sau, những thứ tầm thường mực thước sẽ biến mất đi, và còn lại của thời kì này
một chút gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử". Lời trân trọng mà người bạn thơ Chế Lan
Viên gửi cho Hàn đã nói thay về những gì Hàn để lại cho đời. Mãi mãi là như thế.
Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 15
Hàn Mặc Tử - một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên
những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót xa và
sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào trong thơ, những giây phút
ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ
tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt
diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi
đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình
yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hòa vào
lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau. Mở bài đầu thơ là
một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ. Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ
nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc
nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà,
ấm áp tình quê của thôn Vĩ - vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương
diện của cảnh Huế. Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Nét đặc sắc của thôn Vĩ - quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu tiên đã được tả
rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh
nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt
đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia,
và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao
lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới
những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng.
Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh
nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh. Nắng mới cũng
còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng
bừng lên rực rõ nồng nàn.
Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê mà trước nó chiếu vào những vườn
cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc
được đính vào chiếc choàng nhung xanh mịn: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến
thẫn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và
bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng
hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm
nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn.
Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải
xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả
được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh,
trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên.
Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch
nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét
màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu
nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong
trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm
thìa những vần thơ này: Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên
quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương
mặt chữ điền. Mặt chữ điền - khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.
Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng
quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng
khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi
theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng
hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh
viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng
là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống.
Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang
một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn
trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử - một tâm hồn đau buồn, u uất: Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt,
ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tr thì dòng sông trôi
lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ.
Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là
thái độ của những người sông trong vòng đời tối tăm, bế tắc.
Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bế bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt
lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui - thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn,
ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý
thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu,
thực đấy mà mộng đấy:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên
nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm
cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng
quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hóa thành dòng sông trăng lung
linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng.
Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con
thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật
là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng,
sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng.
Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh
tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ
khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:
Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa
Vờ tan thành vũng đọng vàng kho. Hay:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.
Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc
Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến
thành vô lượng trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:
Thuyền ai đậu đên sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tôi nay?
Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về
cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương
lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn
ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc
đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời. Nhưng hiện tại, con người đang sống và
đang tiếp tục giấc mơ:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả
vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng.
Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp,
thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu. Hình như
giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi
nhân không khỏi không nghi ngờ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Câu thơ đã tả thực cảnh Huế - kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con
người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả
tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn
hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác
giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói: Ai biết tình ai có đậm đà?
Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự
thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và
mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại
nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai
mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai
biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho "Đây thôn Vĩ Dạ" sương khói hơn, huyền bí hơn.
"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước
qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghệ thuật gợi liên
tưởng, hòa quyện thiên nhiên với lòng người. Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn
Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11 - Mẫu 16
Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một nhận định rất sâu sắc về phong
trào thơ Mới như sau: “Đời chúng ta nằm trong vòng một chữ tôi. Mất bề rộng ta đi
tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu
trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên,
ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên
cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
Nếu như Xuân Diệu luôn đắm say với những cảm xúc thiết tha, rạo rực băn khoăn thì
nhà thơ Hàn Mặc Tử lại gắn liền với sự kỳ dị, điên cuồng và trong thế giới kỳ dị điên
cuồng đó người ta vẫn tìm thấy một tình yêu đến đau đớn, khắc khoải hướng về cuộc
đời trần thế, dẫu nó đã để lại cho ông nhiều bất hạnh, bi ai. Đây thôn Vĩ Dạ là một
trong những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, được coi là một trong những bài
thơ tiêu biểu nhất và hay nhất của phong trào thơ Mới cũng như trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 trong một gia đình công giáo
nghèo tại Quảng Bình, nổi tiếng là thần đồng thơ từ những năm 15, 16 tuổi. Phong
cách thơ của ông có sự đan xen kết hợp giữa những hình ảnh thân thuộc, trong trẻo,
thanh khiết, thiêng liêng nhất với những thứ rùng rợn, ma quái, cuồng loạn đã tạo nên
một diện mạo thơ vô cùng kỳ dị và phức tạp.
Đây thôn Vĩ Dạ sáng tác năm 1938 in trong tập thơ Điên, sau đổi tên thành Đau
thương, bài thơ ra đời trong hoàn cảnh mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với cô
gái gốc Huế là Hoàng Thị Kim Cúc dường như đã trở nên vô vọng khi hai người vừa
cách biệt cả địa vị lẫn địa lý.
Trong sự hẫng hụt đến tột cùng ấy Hàn Mặc Tử đã viết rất nhiều thơ về sự kiện này,
trong đó khác biệt có bài Đây thôn Vĩ Dạ được viết trong lúc bệnh tình của Hàn Mạc
Tử trở nặng nhưng lại nhận được tấm bưu thiếp của người xưa, điều ấy đã khơi gợi lên
trong lòng ông sự vui sướng, niềm ham sống vô cùng, tất cả đều được thể hiện một
cách trọn vẹn trong bài thơ này.
Không chỉ vậy Đây thôn Vĩ Dạ còn là thông điệp mà Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm cho
cả cuộc đời này, là nỗi niềm khát khao, tha thiết với cuộc sống trần thế một cách mãnh liệt của nhà thơ.
“ Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Ở khổ thơ đầu của bài thơ phong cảnh thiên nhiên của thôn Vĩ Dạ, một góc của xứ
Huế mộng mơ đã được mở ra với dáng vẻ trong sáng thanh khiết dưới cái nắng mai
dịu dàng. Câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” mang một âm sắc đặc biệt
bởi đã số chữ đều mang thanh bằng đã đem đến một cảm giác rất Huế, rất ngọt ngào
êm ái tựa như bức rèm mỏng đã mở ra và khơi gợi nên mạch cảm xúc mộng và thơ cho toàn bộ tác phẩm.
Câu hỏi tu từ ấy cũng khiến ta có một mối băn khoăn không dứt về chủ thể “anh”, đó
là câu hỏi nhớ mong của một cô gái xứ Huế, mang ý trách móc, hờn dỗi một cách
duyên dáng chàng trai sao không chịu tỏ lòng mình, rồi cũng có ý nhắc nhở, mời mọc
người bạn cũ về thăm Huế.
Hoặc đó cũng có thể là tiếng lòng của Hàn Mặc Tử, vừa chất vấn, cũng vừa nhắc nhở
bản thân sao “không về chơi thôn Vĩ” và trong cái “không về” ấy là cả một dự cảm
đớn đau về cuộc đời bất hạnh, trước đó anh đã không về được thì có lẽ sau này cũng
không thể về được nữa, Hàn Mặc Tử đã chẳng còn nhiều thời gian, đành lỡ hẹn với Huế và người xưa.
Có thể nhận ra được rằng về Huế có lẽ là nỗi trăn trở, nuối tiếc vô cùng của thi sĩ, đó
không chỉ là nơi ông từng gắn bó một thời gian dài mà ở tại nơi ấy còn có người con
gái mà ông yêu thương tha thiết, chẳng biết nàng có đợi không, nhưng ông vẫn chỉ
hướng về người. Sau câu hỏi tu từ mang đậm nỗi khát khao cháy bỏng được về lại
Huế một lần, thì Hàn Mặc Tử đã dùng những câu thơ rất đẹp để tái hiện lại cảnh thôn
Vĩ Dạ đầy chất thơ và mộng ảo.
Đó là cảnh thôn quê trước buổi bình minh với những nét vẽ tươi tắn và đặc sắc, đó là
vẻ đẹp của nắng với hai từ “nắng” lặp lại trong một câu thơ “Nhìn nắng hàng cau nắng
mới lên”. Có thể nói rằng ngòi bút của Hàn Mặc Tử là một ngòi bút tài hoa trác tuyệt,
người sẵn sàng phá vỡ các quy tắc lặp từ tối kỵ của thi ca để tạo nên một bức tranh với
cái nền vàng nhàn nhạt, ánh nắng nhu hòa tràn ngập khắp không gian, khiến vần thơ
cũng như được thổi bừng sức sống ấm áp và tươi trẻ.
Và cái nắng ở đây cũng rất riêng ấy là “nắng hàng cau”, phải nói rằng cau là biểu
tượng của xứ Huế, loài cây có lợi thế về chiều cao, lúc nào cũng vươn lên thẳng tắp và
đón nhận một cách trọn vẹn nắng trời, toàn cây lấp lánh những ánh sáng xanh vàng,
khiến hồn người trở nên yêu đời hơn cả.
Rồi “nắng mới lên” lại cũng là những cảm tưởng mới về hình ảnh nắng của thôn Vĩ đó
không phải là cái nắng gay gắt đổ lửa giữa trưa hè mà đó là cái nắng trong trẻo, thanh
khiết, dịu dàng hoàn toàn tương khớp với “nắng hàng cau”, cũng mang một sức sống
mới, tựa như tâm hồn của thi nhân lúc nhận bưu thiếp của người cũ, có lẽ phải nói
rằng đó là biểu tượng của sự khởi đầu.
Dưới vẻ đẹp của nắng vàng bao phủ là vẻ đẹp của khu vườn xứ Huế với một màu
xanh rất “mướt” đầy sức gợi với màu “xanh như ngọc”. Chỉ một từ “mướt” thôi nhưng
đã gợi ra cái sự trù phú, non tươi, mỡ màng tràn đầy sinh khí của khu vườn thôn Vĩ,
rồi cũng gợi ra cảnh một khu vườn mới tắm sương đêm đang còn đọng nước, từng giọt
sương trong trẻo đang lung linh dưới ánh mặt trời, phản chiếu lại những tia nắng mới
khiến cho từng tán lá xanh phát sáng, khơi gợi liên tưởng về một màu xanh ngọc ngà, trong trẻo, tươi mát.
Câu thơ lại thêm một từ “ai” phiếm chỉ khiến cho toàn cảnh bức tranh trở nên có hồn
và tình tứ hơn cả, từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp của người thôn Vĩ trong câu “Lá trúc
che ngang mặt chữ điền”. Hàn Mặc Tử đã dùng bút pháp “thi trung hữu họa” của văn
học trung đại với những nét vẽ vừa thanh của lá trúc lòa xòa làm nổi bật lên cái nét
đậm của một khuôn mặt chữ điền duyên dáng, phúc hậu của người con gái. Đó là
gương mặt mang những nét đẹp phẩm chất mà người ta vẫn mong cầu ở người con gái,
nhân hậu, thủy chung, mang tướng hình có phúc phần về sau.
Hết tả cảnh ngày tươi tắn, trong trẻo, Hàn Mặc Tử lại đưa người đọc về với cảnh đêm
của xứ Huế, có nước có mây, có thuyền và đặc biệt là có cả ánh trăng, thi liệu quen
thuộc trong thơ của tác giả. Có thể thấy rằng giữa hai khổ thơ có sự chuyển đổi cảm
xúc rất rõ rệt từ tình yêu đời, lòng vui sống tựa như nắng mai thì Hàn Mặc Tử lại trở
về với cảm giác hoang mang, lo lắng với những cảm giác bất an, buồn rầu tựa như
cảnh sông nước mênh mông lạnh lẽo.
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay? ”
Hai câu thơ đầu tả thực cảnh mây trời, sông nước xứ Huế với lối ngắt nhịp 4/3 tựa như
bẻ đôi câu thơ làm hai nửa, tạo cảm giác hụt hẫng khó tả, điệp từ “mây”, “gió” lại
mang đến sự đóng khung trong việc tả cảnh. Như vậy dường như mây và gió chẳng hề
liên quan gì đến nhau, đường ai nấy đi trong khi từ xưa tới nay mây đi theo gió đã là
chuyện kinh thiên định nghĩa, điều này bộc lộ rõ nội tâm và dự cảm không lành của
Hàn Mặc Tử trước sự chia ly, cách biệt ghê gớm, đó là sinh tử, chứ chẳng còn là
khoảng cách hay tâm hồn nữa.
Từ điệu chảy lững lờ, ngập ngừng “buồn thiu” của dòng sông Hương nổi tiếng đi vào
thơ đã trở thành hình ảnh nhân hóa phản chiếu nỗi lòng sầu muộn của thi nhân trước
số phận. Mà có lẽ rằng “hoa bắp lay” chính là cuộc đời của tác giả, nhạt nhòa, buồn tẻ
và lặng lẽ chán chường.
Hai câu thơ tả cảnh sông nước dường như đã xóa tan đi cái mộng cảnh biêng biếc,
tươi trẻ tràn ngập sức sống và hơi ấm tình người trong khổ thơ đầu, là sự bừng tỉnh
của tác giả trước cảnh ngộ thê lương của bản thân, trước con đường tăm tối vô hương,
vô sắc hiện hiện tại.
Rồi dường như không chịu đựng được cái đau đớn của thực cảnh Hàn Mặc Tử lại tiếp
tục chìm vào cõi mộng với ánh trăng vàng, vốn là tri kỷ tri âm suốt đời của tác giả ở
chốn cô đơn này. Trăng xuất hiện rất diễm lệ là cả một dòng sông dát ánh trăng vàng,
cả một con thuyền chuyên chở trăng, trăng đã đem đến cho tác giả một hiện thân về
trần thế tươi đẹp, về cuộc đời mà tác khao khát được chiếm lĩnh hòa nhập.
Câu hỏi “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?” ẩn hiện sự lo
lắng của tác giả trước sự hữu hạn của đời mình, lo rằng liệu bản thân còn kịp tận
hưởng ánh trăng sáng, hay chính là cuộc đời vốn còn nhiều nuối tiếc.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Khao khát về cuộc sống trần thế của tác giả càng trở nên nổi bật trong khổ thơ cuối
khi đi vào cụ thể ấy là khao khát về hơi ấm tình người, Hàn Mặc Tử muốn thoát khỏi
cái cảm giác cô độc, lạnh lẽo muốn tận hưởng cuộc sống bằng tình yêu. Cõi đời đã
được chỉ rõ bằng hình bóng của giai nhân, là người trong mộng tưởng của tác giả thế
nhưng “Mơ khách đường xa, khách đường xa” ý thơ lặp lại đã diễn tả một cảm giác xa
lạ, hình bóng người con gái ấy đang dần khuất ra khỏi tầm với của tác giả, cứ xa mãi
mà dần vụt mất đến độ đôi mắt u sầu của người quá thi sĩ cũng phải xót xa “Áo em
trắng quá nhìn không ra”.
Có lẽ đời này đã định hai người không chung một điểm cuối, chỉ có thể bất lực nhìn
cái cõi trần thế, cái bóng hình giai nhân lần lượt trở nên vô tung vô ảnh, còn thi nhân
thì chết lặng trong nỗi sầu muộn cô đơn. Và khi thi nhân không thể hòa nhập vào với
thế giới mà mình khao khát ông lại phải quay về với thế giới của mình, một thế giới
mờ mịt “mờ nhân ảnh” thiếu vắng đi tình người, bị cách li, phải đối mặt với cái chết
cận kề, sắp xa rời đi cái trần thế mà ông vẫn khao khát nắm giữ, đó là nỗi đau đớn không tưởng.
Đặc biệt tâm hồn ấy của nhà thơ còn mãi luẩn quẩn trong một câu hỏi băn khoăn, băn
khoăn về tình cảm của người xưa, liệu rằng cô gái ấy có từng một lần có tình cảm với
ông, hay cô gái ấy có biết đến mối duyên thầm lặng mà ông chẳng dám ngỏ đã bao
năm. Rõ ràng rằng ta có thể cảm nhận được niềm hy vọng mong manh về mối duyên
tình đã lỡ dở, bởi vì một tấm bưu thiếp mà lại dấy lên trong lòng thi nhân nhiều cảm
xúc, thế nhưng kết lại vẫn là nỗi cô đơn, trống vắng và đau khổ của một con người còn
nhiều điều tiếc nuối với thế gian.
Có thể trích đôi lời Hoài Thanh về thơ Điên của Hàn Mặc Tử để nói về Đây thôn Vĩ
Dạ, đó là “Một nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu
tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện
ấy trong thơ ta không thiếu gì nhưng thường là một thứ buồn, dầu có thấm thía vẫn dịu
dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế.
Lời thơ như dính máu”. Đọc thơ ta yêu cái khát khao được sống được yêu, yêu cái ánh
mắt nhìn đời đầy tươi đẹp thế nhưng cũng xót xa cho số phận của người thi sĩ, một
cuộc đời đớn đau khiến Hàn Mặc Tử không thể mộng ước lâu được, nên cuối cùng
vẫn phải quay về cái chốn cô đơn lạnh lẽo, không người yêu, không hơi ấm tình người,
đợi chờ cái chết trong đau khổ và tuyệt vọng.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - Mẫu 17
Hàn Mặc Tử là hồn thơ đau thương nhưng là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ
nhất trong phong trào thơ mới. Ông để lại cho văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có
giá trị như: “Gái quê”, “Thơ điên”, “Chơi giữa mùa trăng”… Đặc sắc và gây xúc động
nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ” được trích trong tập “Thơ điên”. Bài thơ là bức tranh
tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? ….
Ai biết tình ai có đậm đà”
“Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940. Theo thi sĩ Quách Tấn
– bạn thơ của Hàn Mặc Tử thì bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh do cô gái
Huế có tên Hoàng Cúc gửi tặng. Đó là tấm bưu thiếp vẽ cảnh Huế với dòng sông, con
đò, bến trăng hay một buổi bình minh. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong
tại Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh cùng những lời thăm hỏi của cô gái xứ Huế,
ông đã xúc động viết bài thơ này.
Bài thơ mở đầu bằng một hoài niệm mênh mang về cảnh và người thôn Vĩ. Bức tranh
thơ đẹp còn tình người thì tha thiết nhớ mong:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Có lẽ, với bất cứ ai khi đọc bài thơ này, cũng đều bị cuốn hút ngay từ câu thơ đầu với
những băn khoăn, vừa như hờn dỗi, như trách yêu. Câu hỏi ấy chính là sự phân thân
của nhà thơ, sự hóa thân của nhà thơ vào cô gái Huế. Chỉ một câu thôi, câu hỏi nhưng
lại chan chứa yêu thương. Tại sao lâu rồi anh không về chơi thôn Vĩ bên bờ sông
Hương thơ mộng, có người con gái anh thương? Nhà thơ sử dụng từ “chơi” mà không sử dụng từ “thăm”.
Nếu sử dụng từ “thăm” thì cấu trúc câu thơ không thay đổi nhưng nó trở nên khách
sáo, từ “chơi” gợi nên sự thân mật, gần gũi thắm thiết, ân tình. Trong câu thơ, nhà thơ
đã hé lộ cho người đọc tình cảm của mình đối với cô gái Huế, xem cô gái Huế là một
người thân thương hay chính cô gái ấy xem nhà thơ như bạn tâm giao, tri kỷ.
Mặt khác, sắc thái tu từ trong câu thơ đầu còn là lời tự hỏi, tự trách mình: sao cảnh
Huế đẹp vậy mà mình không trở về ? Đó là một câu hỏi đớn đau, khắc khoải vì trở về
Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của cơn bạo bệnh. Nhưng
cũng chính câu hỏi tu từ ấy là nguyên cớ để khơi dậy khao khát, hoài niệm. Vì không
thể trở về nên nhà thơ đã làm một cuộc hành hương trong tâm tưởng. Ba câu thơ tiếp
theo là hình ảnh thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Cảnh sắc thôn Vĩ được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. Từ xa nhà thơ đã nhìn thấy
“nắng hàng cau nắng mới lên”. Câu thơ với điệp từ “nắng” và cách ngắt nhịp 4/3 gợi
ra trong mắt người đọc một không gian tràn đầy ánh sáng. Cảnh hiện lên rõ nét sống
động, đầu tiên là vẻ đẹp của “nắng hàng cau”. Cau là loài cây cao nên đón ánh nắng
đầu tiên của ngày mới.
Không gian thôn Vĩ vì thế như được đẩy lên cao, thoáng đãng, khoáng đạt. Đặc biệt
sau một đêm tắm gội dưới làn sương, những tàu cau trở nên xanh biếc hơn dưới ánh
mặt trời. Cụm từ “nắng mới lên” cho ta thấy đó là ánh nắng của buổi ban mai thật rực
rỡ, trong sáng. Câu thơ vẽ nên một hàng cau đầy sức sống đang vươn lên mãnh liệt
đón ánh nắng đầu tiên của buổi sớm.
Ánh nắng mới mẻ, tinh khôi như làm sáng bừng lên không gian khoáng đạt, rộng lớn.
Nhớ đến thôn Vĩ, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hàng cau là
hình ảnh quá đỗi thân thuộc với mỗi người dân thôn Vĩ. Hình ảnh tưởng chừng như
đơn sơ, bình dị ấy lại có sức gợi hình, gợi cảm lớn và có ý nghĩa sâu sắc trong trái tim nhà thơ.
Nhắc đến cau còn là nhắc đến loại cây rất thân thuộc với làng quê Việt Nam, nơi có
phong tục ăn trầu từ ngàn đời nay. Nguyễn Bính – một nhà thơ cảnh quê, hồn quê
cũng đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên cái nền phong cảnh có hình
ảnh thân cau quen thuộc ấy:
“Nhà anh có một hàng cau
Nhà em có một giàn trầu”
Trong bài thơ “Hoa Lư” nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết:
“Đường cỏ lơ mơ nắng
Mái tranh chìm chơi vơi
Vài tán cau mộc mạc
Thả hồn quê lên trời”
Ở khoảng cách gần, thôn Vĩ hiện lên bởi vẻ đẹp của khu vườn tràn đầy nhựa sống
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi”
(Lưu Trọng Lư). Quả đúng như vậy, câu thơ đã gợi ra một khoảng không gian xanh
của thiên nhiên Vĩ Dạ, cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của hàng cây khiến cho
người đọc cảm nhận được một sức sống tràn trề, mơn mởn.
Tác giả dùng màu xanh như ngọc để diễn tả sức sống, vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ,
một màu sắc cao quý, lấp lánh và trong trẻo. Nếu không có một tình yêu nồng nàn đối
với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ thi sĩ họ Hàn không thể gieo được những vần thơ trong trẻo đến như vậy.
“Vườn ai”? không xác định nhưng ngầm hiểu đó là khu vườn cô gái Huế. “Mướt” là
một tính từ khác với “mượt” bởi “mượt” chỉ gợi lên mịn màng mà “mướt” thì gợi sự
sáng lên, tươi mới của cảnh vật. Xuân Diệu viết:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”
Thủ pháp nghệ thuật so sánh “xanh như ngọc”. Xanh ngọc tức là xanh trong, màu
xanh đi liền với ánh sáng nhưng không chói chang mà lại rất dịu, người đọc có thể
hình dung vẻ đẹp của viên ngọc đính giữa bầu trời xứ Huế. Câu thơ với “vườn ai mướt
quá” như một lời trầm trồ, thán phục, ngợi ca cũng như lời thầm cảm ơn chủ nhân của
khu vườn đã dày công chăm bẵm cho khu vườn thêm đẹp.
Và cảnh vật thôn Vĩ càng đẹp hơn trước bởi sự xuất hiện hình bóng con người “Lá
trúc che ngang mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trúc – một loài cây
họ tre được trồng trước ngõ. Trong tâm tưởng thi nhân bất chợt hiện về khuôn mặt chữ
điền lấp ló sau hàng trúc.
Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi sự vuông vắn, phúc hậu. Tất cả tạo nên vẻ đẹp
hài hòa giữa con người và cảnh vật đồng thời qua đó người đọc nhìn thấy không chỉ
vẻ đẹp phúc hậu của người con gái Huế mà còn là vẻ đẹp của sự kín đáo, duyên dáng,
e ấp rất thiếu nữ, rất Huế. Cũng viết về thôn Vĩ, nhà thơ Bích Khê viết:
“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc tre cần trúc không buồn mà say”
Viết về trúc, Hàn Mặc Tử không chỉ là “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” mà còn là:
“Thầm thĩ hỡi ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Thiên nhiên và con người có sự gắn bó, hòa quyện hấp dẫn tạo xúc động mạnh trong
lòng nhà thơ. Nhà thơ đã ghi lại linh hồn của tạo vật với những gì đặc sắc, lắng đọng
trong ký ức hoài niệm, trong nỗi niềm nhớ thương. Bằng việc miêu tả vẻ đẹp thôn Vĩ,
Hàn Mặc Tử đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng thiết tha đằm thắm đối với cảnh và
người xứ Huế. Tất cả ẩn chứa một sự nuối tiếc, một niềm khát khao trở về thôn Vĩ yêu thương.
Nếu như ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng niềm lạc quan yêu đời thì sang
khổ thứ hai, tâm trạng thi nhân dần có sự đổi khác, đó chính là lúc mặc cảm chia lìa
hiện ra rõ nét dưới từng câu chữ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dòng sông Hương
luôn chảy lững lờ, chậm rãi – đó là “điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế” (Hoàng
Phủ Ngọc Tường). Hai bên bờ sông là những vườn bắp với những bông hoa nhẹ
nhàng lay động. Thế mà trong đôi mắt Hàn Mặc Tử thì cảnh vật hiện lên chia lìa
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay. Phép nhân hoá làm dòng sông như chở nặng nỗi
sầu thương chất ngất của nhà thơ.
Đó là lúc tâm cảnh đã nhuốm vào ngoại cảnh. Nỗi buồn của thi nhân dường như phủ
khắp cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa bắp… Gió và mây là hai sự vật luôn sánh đôi
với nhau như thuyền và nước nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử thì gió mây chia lìa. Gió
đóng khung trong gió, mây đóng khung trong mây “Gió theo lối gió, mây đường mây”.
Nhìn xuống dòng sông, thi nhân thấy dòng sông trở nên “buồn thiu”, còn hoa bắp chỉ
khẽ “lay” – một cử động rất nhỏ tạo cho bức tranh nỗi buồn hiu hắt vắng lặng. Chữ
“lay” ấy như từ trong ca dao bay về đậu vào thơ Hàn Mặc Tử :
Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em
Không gian sông nước xứ Huế nhuốm màu sắc hư ảo. Nỗi buồn phủ khắp cảnh vật từ
gió mây đến dòng nước và hoa bắp bên sông. Buồn đến não ruột, buồn đến mềm lòng.
Gió và mây vốn gắn kết cũng đã có sự chia lìa đôi ngả, dòng sông mang đầy tâm trạng
chảy về niềm tâm tưởng. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người
mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, đơn phương. Ths Phan Danh Hiếu
Hai câu thơ tiếp theo, thi nhân đưa người đọc vào cõi mộng. Vẫn là dòng sông Hương,
là Huế thơ mộng nhưng không còn nắng, còn xanh của Vĩ Dạ mà trước mắt người đọc
là không gian ngập đầy ánh trăng, con thuyền trở thành thuyền trăng, dòng sông thì
sông trăng, bến thì thành bến trăng.
Từ xưa đến nay, có thuyền trăng, bến trăng nhưng nay lại có sáng tạo sông trăng độc
đáo của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Đọc câu thơ, người đọc có cảm tưởng như đang trôi vào
cõi mộng, dường như đang sống trong khắc khoải hoài mong của thi nhân. Đây không
phải lần đầu Hàn Mặc Tử viết về trăng mà trong thế giới thơ ca của Hàn Mặc Tử,
trăng là một người bạn, một người tình không thể thiếu trong đời sống tâm hồn thi nhân:
“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
“Không gian đắm đuối toàn trăng cả
Anh cũng trăng mà em cũng trăng” Hay:
“Gió lùa ánh sáng vào trong bãi
Trăng ngập dòng sông chảy lãng lai”
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”
Thơ Hàn Mặc Tử ít nhiều nhuộm màu sắc trường phái tượng trưng siêu thực của
phương Tây vì thế nên có nhiều hình ảnh khó nắm bắt, ví như câu viết về trăng trong
tác phẩm này. “Thuyền ai” phải chăng đó là con thuyền của cô gái Huế, con thuyền
mà nhà thơ đang mơ ước chở trăng và phải chăng trăng chính là tình yêu mà nỗi chờ
mong của Hàn Mặc Tử. “Tối nay” là tối nào, phải chăng đây là giới hạn cuối cùng của
cuộc đời nhà thơ – khi mà cuộc sống của nhà thơ là cuộc chạy đua với thời gian.
“Tối nay” phải chăng chính là ranh giới của sự sống và cái chết. Có phải vì thế mà câu
hỏi tu từ vang lên khẩn thiết: “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu rồi con thuyền ấy
có cập bến bờ trước lúc Hàn Mặc Tử trở về với cõi vĩnh hằng hay không? Từ “kịp” vì
thế mà chất chứa tâm trạng hoài mong và cả tin yêu lẫn bi kịch và hoài nghi của con
người. Ths Phan Danh Hiếu
“Có chở trăng về kịp tối nay?” là câu hỏi ẩn chứa một sự day dứt, mong ước và lo sợ.
Một niềm hy vọng đầy khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi nhân. Hàn Mặc
Tử cảm nhận thời gian đang trôi chảy trong lúc mình bất lực. Chính vì vậy mà người
đọc càng thấu hiểu hơn cái giục giã trong lời mời gọi ở câu thơ đầu, càng đồng cảm
hơn với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết đang kề cận.
Mặc dù sống trong mơ nhưng thi nhân không mất hết hy vọng mà vẫn mong ước một cách riết róng:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Nhịp thơ 4/3 và điệp ngữ “Khách đường xa” được lặp lại hai lần thể hiện tâm trạng
khắc khoải chờ đợi và niềm khát khao đến mãnh liệt. Từ “mơ” nằm đầu câu đã thể
hiện rõ tâm trạng mong chờ ấy của thi nhân. “Mơ” chứ không phải là “mong”, vì
không mong được nên mơ, vì sống trong mơ có lẽ sẽ bớt đi nỗi cô đơn thì phải.
“Khách đường xa” có lẽ chính là cô gái Huế, và khách đường xa xuất hiện trong màu áo trắng.
Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng tinh khôi của cô gái Huế – nhất là
Hoàng Cúc từng là nữ sinh của trường Đồng Khánh. Trong sự đa nghĩa của câu thơ,
màu trắng còn là sắc màu chỉ sự trong trắng của mối tình đơn phương; màu trắng ở
đây vượt lên trên mức bình thường nên đã hóa thành màu của ảo ảnh và chính vì nhìn
vào ảo ảnh nên hình bóng của giai nhân cứ mờ nhoè, hư ảo.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. “Ở đây” – nơi nhà thơ dưỡng bệnh – nơi mà Hàn
Mặc Tử luôn xem là lãnh cung giam lỏng mình. “Ở đây” và “ngoài kia” có xa xôi mấy
đâu vậy mà một lần về thăm thôi cũng là điều không tưởng. Bởi thế câu thơ như vừa
thực vừa mơ, còn kỷ niệm cứ chìm dần vào Huế – nơi đó giai nhân trong mộng đang
lẫn trong màu khói sương của kỷ niệm. Hình bóng giai nhân ấy đã bao năm làm điên đảo mộng thi ca:
“ Trời hỡi làm sao cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp lỡ làng”
Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vô vọng:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”. Đây là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết. Nhà thơ
trong trạng thái bị dày vò vì khát khao tình yêu, vì trái tim đang rơi vào trống trải. Ths
Phan Danh Hiếu. Câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn, mang theo nỗi buồn vô vọng và
những uẩn khúc của Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau thương chới với, bất lực trong
mặc cảm chia lìa nhưng cũng hết lòng thiết tha với cuộc đời.
Bài thơ sử dụng một số biện pháp tu từ như: điệp từ, nhân hóa, so sánh, câu hỏi tu
từ… Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài
thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức
sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn
chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình.
Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều
đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng
vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng,
cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người
đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng
nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một thi phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng
nhưng cũng rất đỗi thiết tha yêu đời của thi nhân Hàn Mặc Tử. Nhắc đến Huế, ta
không thể quên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, và nhắc đến Hàn Mặc Tử ta càng không thể
quên vẻ đẹp của Huế, đặc biệt là không thể quên vẻ đẹp thôn Vĩ trong thi phẩm để đời
của ông. Huế đẹp, Huế thơ, xin được mượn bốn câu thơ của Thu Bồn thay cho lời kết
gửi đến tình yêu xứ Huế, với thi nhân Hàn Mặc Tử:
“Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với Cố Đô”
Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 18
Hàn Mặc Tử một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, trân trọng cuộc sống. Ông
cũng là người từng yêu và cảm giác giang dở trong tình yêu của mình. Nhưng ông lại
là một con người lạc quan, hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là những tâm sự của ông trước cảnh thiên nhiên thôn Vĩ cùng
với nỗi niềm tâm trạng của mình.Bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi
thôn Vĩ” câu hỏi vang lên như một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình
trong tâm trạng vời vợi nhớ mong.
Câu thơ bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu
như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối
vọng lên da diết khôn nguôi. Từ niềm nhớ thương được khơi nguồn như thế, hình ảnh
thôn Vĩ chợt sống dậy trong lòng nhà thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Chỉ ba câu thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đặc trưng của thiên nhiên xứ
Huế. Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa sống
động đẹp đẽ của thôn Vĩ trong hoài niệm. Trước tiên là vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của
buổi sớm mai: nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang chang dọc
bờ sông trắng mà là cái nắng trong trẻo tin khôi của một ngày.
Chỉ miêu tả nắng thôi mà đã gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu liên tưởng đẹp. .
Điệp từ “nắng” đã vẽ ra một bức tranh ánh nắng trong không gian nắng lan đến đâu
vạn vật bừng sáng đến đó từ trên cao tràn xuống thấp và tràn đầy cả khu vườn, thôn Vĩ
như được khoác lên một chiếc áo mới thanh tân, tươi tắn.
Đến câu thơ thứ ba là cảnh vườn tược được tắm đẫm trong nắng mai ngời sáng lên
như một viên ngọc xang diệu kì: “ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Câu thơ như
một tiếng reo đầy ngỡ ngàng thích thú, không phải xanh non xanh biếc mà là xanh
như ngọc. Cảnh giản dị mà thanh khiết cao sang vô cùng. Chữ “mướt” tác động mạnh
mẽ vào giác quan người đọc ấn tượng vẻ mượt mà loáng mướt của khu vườn.
Nhưng cái thần của câu thơ lại dồn cả vào chữ “ai” chỉ một chữ mà khiến cho cảnh
đang gần gũi bỗng bị đẩy ra xa, hư thực khó nắm bắt. Âm hưởng nhẹ bẫng của tiếng
này khiến hơi thở như thoáng xuôi về một cõi hư ảo mơ hồ. Và rất tự nhiên theo mạch
cảm xúc, nhắc đến “ai” lập tức nhà thơ nhớ đến hình bóng con người:“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất
cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo
tao nhã. Đó là vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đô nhưng ngay trong dòng cảm xúc
miên man ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người.Cảm giác về
cái đẹp mơ hồ mong manh ấy càng rõ hơn ở khổ 2 trong bức tranh mây trời sông nước:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hai câu đầu: Bức tranh có những nét rất đặc trưng của xứ Huế: gió thổi, mây nhẹ trôi,
dòng nước lặng lờ và hoa bắp khẽ lay động ven sông. Tả thực mà gợi lên cái hồn xứ
Huế: gió mây nhẹ nhẹ bay, dòng sông trôi lững lờ, cây cỏ khẽ đung đưa. Nhưng ngắm
kĩ sẽ thấy đường nét chia lìa, rời rạc của tạo vật,sự sống hiện lên lắt lay, mệt mỏi, âm
điệu câu thơ buồn bã, xa vắng.
Tả cảnh thực hay là cảnh đã được tâm trạng hoá, bộc lộ nỗi niềm thi nhân. Cái ngược
chiều của gió, mấy khơi gợi sự chia lìa đôi ngả của tình đời, tình người, như rạch vào
nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của chủ thể trữ tình khi viết bài thơ. Hai câu kết
đoạn cũng đem đến ấn tượng về bức tranh tâm cảnh như vậy.
Cảnh đẹp sông vẫn thoáng bâng khuâng gợi nên từ những hình ảnh: thuyền ai- sông
trăng.... Dòng sông dường như bị ảo hoá, không còn là sông nước mà là sông trăng,
lấp ánh ánh trăng vàng, là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian thơ trở nên hư ảo.
Đại từ phiếm chỉ " ai" nghe thật mơ hồ xa vắng; và con thuyền chở trăng trên dòng
sông kia thật mong manh như một ảo ảnh. Để rồi chỉ cần một chữ " kịp tối nay" là lập
tức đủ kéo thi nhân về với thực tại, đối diện với nỗi cô đơn của chính mình. Ba chữ
thôi nhưng gợi lên thật nhiều những khắc khoải, mong ngóng, hi vọng, lo âu, vừa mới
khao khát đấy rồi lại chợt vội vàng hoài nghi.
Tín hiệu mong chờ thật mong manh nhưng vô cùng da diết. Khao khát của thi nhân
hướng tới cái đẹp của tình đời tình người không tránh khỏi những nghi ngại băn
khoăn.Khổ cuối bài thơ là tiếng nói giúp nhà thơ hiểu thêm nỗi thiết tha dường như vô vọng đó:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Hình ảnh " khách đường xa" đã từng xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử? : khách xa gặp
lúc mùa xuân chín.hành trình của người khách từ xa xôi- em- là cả một giấc mộng dài
say đắm của Hàn Mặc Tử . Bản thân " khách" đã diệu vợi, khách đường xa càng diệu
vợi xa xăm hơn. Phải chăng vì hoàn cảnh đặc biệt của mình,vì mối quan hệ với cuộc
đời trong tâm trí nhà thơ trở nên xa xăm cách trở.
Nhà thơ cảm thấy mình chỉ đi song song với tình yêu, hạnh phúc mà không bao giờ
nắm bắt được. Phải chăng vì thế mà mọi hình bóng đều xa vời hư ảo: áo em trắng quá
nhìn không ra. Câu thơ đầy đam mê " áo em trắng quá" nhưng cũng thật hụt hẫng xót
xa " nhìn không ra". Sắc trắng thiên thần tinh khôi ấy sao cứ vượt khỏi tầm tay. Hai
câu kết là lời lí giải: Xuất hiện một lí do thật khách quan: ở đây sương khói mờ nhân ảnh.
Xưa nay xứ Huế vốn bảng lảng sương khói, nhưng còn lí do chủ quan : trái tim trong
tà áo trắng kia cung hư vô bí mật như sương khói. Đó là sương khói của thời gian, hay
sương khói của một mối tình mong manh chưa một lời ước hẹn, sương khói phủ lấy
một trái tim biết mình sắp từ giã cõi đời…sương khói ấy che phủ khiến nhà thơ không
thể nhận ra, không thể nắm bắt.
Câu kết bài đọng lại nỗi buồn khắc khoải băn khoăn " ai biết tình ai" có đậm đà không
hay chưa kịp nồng trên mà khác đã phôi pha". Câu thơ gợi lên nhiều cách hiểu; nhà
thơ sao có thể biết tình người xứ Huế có đậm đà hay không?; người xứ Huế có biết
chăng tình cảm của nhà thơ với cô rất đậm đà?
Đây thôn Vĩ Dạ hấp dẫn người đọc bởi vẻ đẹp bức tranh xứ Huế trầm mặc cổ kính mà
rất tao nhã quý phái. Nó gợi nên cái linh hồn của mảnh đất cố đô nhưng không thể nói
rằng bài thơ chỉ đơn thuần tả cảnh. Bài thơ đã làm chúng ta thêm yêu cuộc sống hơn.
Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 19
Đây thôn Vĩ Dạ được Hàn Mặc Tử sáng tác vào năm 1938, tại trại phong Tuy Hòa khi
chỉ còn ít thời gian nữa nhà thơ vĩnh biệt cuộc đời. Sự đau đớn về thân xác, sự cô đơn
đến chỉ có trăng, hồn và tiếng thở của tạo hóa làm bầu bạn đã làm cho thi sĩ điên
cuồng tìm lại những mảnh ghép đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Trong phút giây tưởng
chừng như giọt cảm xúc về tình yêu người, yêu đời trong ông bị vắt cạn kiệt bởi bệnh
tật thì tình cờ nhận được bức ảnh về xứ Huế vào đêm trăng và bức thư hỏi thăm của
người con gái năm xưa chàng thầm thương - Hoàng Cúc. Chính những điều đó đã gọi
cảm xúc những ngày xưa ùa về, để thi sĩ viết nên Đây Thôn Vĩ Dạ.
Bài thơ vẻn vẹn có 3 khổ thơ, nhưng chất chứa biết bao ký ức, nỗi nhớ, niềm đau,
niềm tuyệt vọng của thi sĩ.
Mở đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử đã dẫn lối người đọc về với bức tranh tươi đẹp của xứ
Huế mộng mơ - nơi một thời đong đầy những miền kỷ niệm đẹp đẽ nhất của thanh
Xuân nhà thơ bên mối tình đơn phương, không được ông tơ bà nguyệt se duyên.
Vượt lên những đau đớn của thực tại, dưới con mắt của kẻ đang yêu bồi hồi nhớ lại
nơi cũ, thi sĩ Hàn đã gửi vào bức tranh xứ Huế đầy đủ nét tinh khôi, thanh khiết nhất.
Tất cả được khắc họa qua hình ảnh những khu vườn nhỏ được chăm chút bởi bàn tay
khéo léo của những người con Vĩ Dạ, có sự pha trộn ánh sáng, màu sắc, trong trẻo của
buổi ban mai. Bao trùm lên bức tranh ngồn ngộn chất sống, rất Huế không thể nào tìm
thấy ở nơi nào khác, thi sĩ viết:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Tác giả đã dùng một câu hỏi tự vấn rất ý vị để làm điểm tựa mở ra bài thơ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Câu hỏi cất lên tựa như một lời mời mọc, một lời
chào ghé chơi thôn Vĩ nhưng cũng được hiểu nhẹ nhàng như một lời trách yêu người
thương không trở về để chiêm ngưỡng cảnh sắc tươi đẹp, thanh bình của làng quê Vĩ
Dạ vẫn luôn đón đợi. Đó lời tâm sự của cô gái mà thi sĩ từng thương hay lời tự vấn
được tác giả “phân thân” để tự hỏi chính mình?
Dù có hiểu theo ý nào đi chăng nữa, thì câu thơ đều tất thảy nỗi lòng xúc động của nhà
thơ khi được trở về thăm lại mảnh đất của kỷ niệm. Tác giả Hàn Mặc Tử đã chọn
không gian buổi sáng, khoảng thời gian đẹp nhất trong ngày để tái hiện lên vẻ đẹp
thiên nhiên tại đây. Nơi những khu vườn được nắng tưới lên mỗi sớm mai. Hình ảnh
"nắng" xuất hiện đến lần thứ hai trong một câu thơ đã giúp nhà thơ lột tả được thứ ánh
sáng ít gặp như đang lan ra khắp khu vườn theo nhịp bước của thời gian.
Cái nắng hàng cau tươi mơi rải đều trên cả khu vườn, phủ lên những thân cau trong
vườn sau một đêm yên giấc, không phải là cái nắng “chang chang cồn cát nắng trưa
Quảng Bình" trong thơ Tố Hữu, không phải là “Nắng quái chiều hôm” trong kho tàng
ca dao, tục ngữ Việt Nam, cũng không phải cái “nắng ửng khói mơ tan” trong khúc
Mùa Xuân Chín của chính Hàn Mặc Tử mà là nắng mới, tinh khôi thanh khiết.
Cau là loài cây cao nhất dường như trở thành cây thước của thiên nhiên để đo được
mức độ của nắng tăng dần. Nắng chiếu vào những giọt sương đọng lên thân, lên lá
cau...và biến khu vườn trở thành một viên ngọc lớn lấp lánh. Từ “mướt quá” diễn tả
rất chính xác trạng thái đầy nhựa sống của khu vườn, vừa lột tả được thái độ có vẻ ngỡ
ngàng của tâm tưởng nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế hay cũng chính là
bàn tay chăm sóc thơm thảo của con người Vĩ Dạ.
Và ngay dưới câu thơ sau “lá trúc che ngang mặt chữ điền” đã giúp thi sĩ Hàn thể hiện
được đầy đủ cung bậc cảm xúc thật của mình. Nếu như trong thi cổ, thiên nhiên là
hình tượng trung tâm của bức tranh, thì dưới con mắt của một nhà thơ mới, bức tranh
thiên nhiên xứ Huế tuyệt đẹp đích thị là phông nền để nhà thơ gửi gắm cảm xúc và tôn
lên vẻ đẹp con người. Không tả, chỉ điểm xuyết bằng hình ảnh khuôn mặt vuông vức”
mặt chữ điền” phúc hậu lại có phần gì đó e ấp “che ngang” là đủ để giúp người đọc
cảm nhận được nét nữ tính, đằm thắm của người con gái xứ Huế mộng, Huế thơ.
Chuyển sang khổ thơ hai, điệp khúc về tình yêu thiên nhiên xứ Huế vẫn tiếp tục được
tác tái hiện, nhưng âm thanh của sóng lòng thi nhân lại chuyển sang khung cảnh
Hương Giang vào đêm trăng. Lẽ vì, Vĩ Dạ nằm bên bờ sông Hương cho nên, mỗi khi
nhớ về vùng đất này, Hàn Mặc Tử cũng khó lòng cưỡng lại vẻ đẹp của dòng sông từng
làm nàng thơ trong “Ai đã đặt tên cho Dòng Sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường sau
này. Tuy vậy, nó không còn là bức tranh thiên nhiên tươi sáng, tràn nhựa sống như
khổ thứ nhất mà chất chứa nỗi niềm của nhà thơ khi pha trộn cảm xúc thức tại với
dòng cảm xúc hồi tưởng của chính mình:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước, buồn thiu, hoa bắp lay”
Không gian tươi đẹp ngồn ngộn chất sống biến mất, phủ đầy trên khổ thơ hai là nỗi
buồn mang mác trùm lên cảnh vật. Gió với mây vốn là hai hình tượng sóng đôi “Gió
thổi mây bay” thì giờ đây chia nửa phân đường. Vẻ đẹp trầm mặc của Hương Giang
muôn đời vẫn thế nhưng dường như lần này chuyên chở thêm tâm trạng của nhà thơ.
Trên cả nền bức tranh sông nước, chỉ có mỗi chuyển động của hoa bắp lay khẽ khàng.
Nhưng không rõ là nỗi buồn cơ hồ của nhà thơ quá lớn khi nghĩ lại cảnh xưa hay nỗi
đau thể xác thực tại trào dâng khiến con tim không thể làm chủ dòng cảm xúc của
chính mình đã biến dòng sông thật của xứ Huế trở nên hư ảo, huyền hồ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Trăng không phải là lần đầu xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử, thậm chí cùng với máu
và hồn, thì trăng là hình tượng bầu bạn giúp nhà thơ thoát ly khỏi những đau đớn thực
tại. Nhưng ở đây, không phải là “Trăng nằm sõng soãi trên cành liễu”, không phải là
“ con trăng mắc cỡ sau cành thông”... mà chiếc thuyền trăng chở bao khát khao, khắc
khoải của nhà thơ về dự cảm xa lìa hiện tại.
Dòng cảm xúc dồn tụ, tiếc nuối, khắc khoải ấy đã được từ “kịp” và câu hỏi tu từ đặt
cuối khổ thơ 2 diễn tả rất chính xác. “Có chở trăng về kịp tối nay”?
“Tối nay “là khoảng thời gian ngắn ngủi, nhưng có vẻ qua từ “kịp” và dấu chấm hỏi
cuối câu, người yêu thơ có thể cảm nhận được một cuộc chạy đua với thời gian trong
tâm trí của Hàn Mặc Tử.
Nhưng tiếc thay, đó không hề là cuộc chạy để vồ vập, tận hưởng phần thanh xuân
xanh tươi nhất của cuộc đời như Xuân Diệu từng thốt lên:
“Tôi muốn tắt nắng đi
cho màu đừng nhạt mất”
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Mà là cái tôi tội nghiệp đang ganh đua với thời gian về từng giây phút được tồn tại
trong cõi người của nhà thơ. Và niềm khao khát, tình yêu với cuộc đời, với con người
được nhà thơ tiếp tục cất lên và đạt cao trào trong khổ thơ thứ 3 khi cả người và cảnh đã chìm trong cõi mơ.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
Chữ mơ đặt ở đầu khổ thơ lại đứng liền với cụm “khách đường xa” được lặp lại lần
thứ hai như tiếng gọi “khách” đầy khắc khoải của tâm tưởng nhà thơ. Hình ảnh "khách
đường xa", xuất hiện, lại kết hợp với “nhìn không ra” lại càng khiến cho người đọc
như đang nhận ra mồn một cảnh tượng khách đang hằng ngày được mong đợi càng xa
khỏi vòng tay của Hàn. Màu trắng của ánh nắng ngập trời Vĩ Dạ hay là màu áo dài
trắng của những cô gái Huế thì cũng dần mờ ảo trong sương khói và xa vời với nhà thơ:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Ai là anh hay là em hay là cả hai - chủ thể trong mối tình của Hàn Mặc Tử? Không ai
khẳng định được điều này. Nhưng ai đọc lên câu thơ và hiểu rõ cuộc đời lúc này của
Hàn thì ắt hiểu được khát khao về cuộc sống trần thế, khát khao yêu thương của nhà
thơ như thế nào. Nhưng khát khao bao nhiêu thì tuyệt vọng bấy nhiêu. Mặc dù đã trốn
trong huyền hoặc để gặp lại người cũ, nhưng trả lời niềm khát khao của nhà thơ chỉ là
mối nghi ngờ “Ai có tình ai có đậm đà”.
Liệu rằng cô gái năm xưa có từng một lần cảm nhận được tình cảm của ông? Liệu
rằng, người con gái ấy có lấy một chút động lòng với với con tim thầm thương trộm
nhớ của thi sĩ Hàn đến tận cuối những năm tháng cuộc đời? Cảm xúc là vậy, những
kết lại vẫn chỉ là nỗi cô đơn, tuyệt vọng của nhà thơ khi khi không có hồi đáp. Rõ ràng,
lời thơ không gay gắt như:
“Trời hỡi làm sao cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phũ phàng”
Khép lại “Đây thôn Vĩ Dạ” - bức tranh đẹp về thiên nhiên và con người nơi xứ Huế
được khắc hoa qua sự liên tưởng, tưởng tượng thú vị, trái tim yêu thương, quặn thắt
của Hàn Mặc Tử, chúng ta vẫn còn cái cảm nhận được cái tình của thi nhân dành cho
người, cho cuộc đời trần thế. Dù đã ra đi mãi mãi, những chắc chắn rằng, “Đây thôn
Vĩ Dạ” - Đứa con đẻ được ra đời trong những giây phút đau đớn nhất về thể xác, tinh
thần của nhà thơ vẫn còn lại đây mãi với hậu thế.
Niềm khát khao được sống, được yêu của thi nhân chính là thứ gia vị đặc sắc giúp
người đọc yêu hơn những vần thơ ông và bồi dưỡng thêm tình yêu quê hương, yêu
cuộc đời trong mỗi người ngày thêm sâu đậm.
Đây thôn Vĩ Dạ phân tích - Mẫu 20
Nhắc đến Hàn Mặc Tử không thể không nhắc đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- một trong
những tuyệt phẩm bất hủ của ông. Bài thơ được bắt nguồn cảm hứng từ bức bưu ảnh
của Hoàng Thị Kim Cúc- người con gái ông từng thầm yêu. “Đây thôn Vĩ Dạ” được
sáng tác trong thời gian ông đang điều trị bệnh ở Quy Hòa nên mỗi tứ thơ trong câu từ
của tác phẩm đều mang một nỗi niềm khát khao được giao cảm của nhà thơ.
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
Câu hỏi tu từ được sử dụng mở đầu bài thơ thể hiện sự trông ngóng, nỗi mong chờ của
người con gái đang thôn Vĩ. Câu hỏi vừa như lời trách móc kèm chút hờn dỗi, lại vừa
như lời mời gọi, mong đợi. Lời thơ nhẹ nhàng như tiếng lòng của người xứ Huế, vừa
da diết lại quá đỗi dịu dàng.
Sau câu hỏi từ từ là bức tranh tươi đẹp của thôn Vĩ hiện lên đầy sống động, tươi mắt, tinh khôi:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Phải chăng vì lời mời gọi thiết tha ấy, mà dù đôi chân không thể bước về Huế, Hàn
Mặc Tử vẫn quyết trở về trong tâm thức để ngắm nhìn và tận hưởng vẻ đẹp của chốn
cũ, người thương. Hình ảnh đầu tiên ta là “nắng hàng cau”- một màu nắng thật đặc
biệt trong thơ ca. Đó là cái nắng đầy mới mẻ, trong trẻo của buổi sớm bình minh xứ
Huế- “nắng mới lên”, những hàng cau vừa thức giấc sương còn đọng trên lá long lanh
dưới nắng ban mai. Từ xa ngắm nhìn nắng hàng cau, khi tới gần, được cảm nhận rõ
hơn về vẻ đẹp của cảnh vật. Màu xanh ngọc bích vừa tươi tắn vừa sang trọng được gợi
lên từ vẻ đẹp khu vườn. Tính từ “mướt” càng gợi lên vẻ non tơ, mềm mại, mỡ màng
nhựa sống của cây lá. Phải chăng, mảnh vườn được tưới tắm bởi hương vị của tạo hoá,
được chăm sóc bởi bàn tay khéo léo của con người mà đẹp càng thêm đẹp, tươi càng
thêm tươi. Bóng dáng người con gái kín đáo, e ấp bước ra từ khu vườn cổ tích, ẩn hiện
dưới lá trúc xanh lại càng tôn lên vẻ đẹp của không gian và con người đất Huế. Ẩn sâu
trong từng lời thơ trong sáng, thanh thoát và tươi tắn ấy là một tâm hồn với khát khao
mãnh liệt được giao cảm, được trở về chốn cũ, gặp lại người xưa sau những tháng
ngày xa cách. Nhưng có lẽ điều đó thật khó có thể có được.
Nếu khổ thơ đầu gợi cho ta ấn tượng về buổi sáng trong ngần thì khổ thơ thứ hai cho
dẫn chúng ta về với không gian thuyền nước, sông trăng vào buổi xế chiều- đêm tối:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Gió và mây gợi sự trôi nổi, lang thang, biện pháp đối “gió theo lối gió, mây đường
mây” càng nhấn mạnh sự chia lìa đôi ngả. Phải chăng, đó là hình ảnh ẩn dụ cho sự xa
cách của nhà thơ với người mình thầm thương mến, dù yêu nhưng không thể cùng là
bạn đồng hành trong quãng đời ngắn ngủi còn lại của kiếp người. Nghệ thuật nhân hóa
“Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” càng khẳng định nỗi sầu giăng trong lòng người
thi sĩ, nỗi buồn thấm vào cảnh vật, hay chính tâm hồn nhà thơ đang sầu muộn, mà cảm
nhận thiên nhiên cũng sầu thương, buồn bã đến nặng lòng, bởi vốn dĩ:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Nếu khổ thơ đầu, nỗi buồn nhẹ nhàng, cảnh vật còn mang sự tươi tắn thì đến với khổ
thơ hai, cảnh vật nhuốm màu buồn hơn, nỗi buồn và cô đơn cũng vì thế mà thấm đẫm hơn:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Chữ "kịp" được đặt trong câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” cho thấy được
nỗi hoài vọng của tác giả về một hạnh phúc, về một người có thể cùng thi nhân giao
cảm. Trong câu thơ, ta thấy được sự bất lực trước thời gian của tác giả. Dường như,
nhà thơ đã đem nỗi mặc cảm về căn bệnh quái ác của bản thân vào trong cả tứ thơ của mình.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.”
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.”
Từ “mơ” được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh giấc mộng của tác giả về một điều đẹp
đẽ, có vị khách đường xa tới thăm, cùng đồng điệu, tâm sự với kẻ cô đơn trong cảnh
bệnh tật. Điệp từ “khách đường xa” được lặp lại càng khẳng định khao khát được gặp
gỡ của Hàn Mặc Tử nhưng có lẽ giấc mộng ấy chẳng thể nào thành bởi vị khách đã xa lại càng xa.
Bằng ngòi bút đầy tài năng và nội tâm phong phú của mình, Hàn Mặc Tử đã mang đến
cho độc giả những vần thơ đẹp đẽ. Trong chữ có tình, trong tình có chữ, những cảm
quan đầy tinh tế gợi cho người đọc bao dư vị về tình đời qua bài thơ.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 21
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chính là tác phẩm mà Hàn Mặc Tử đã dùng biết bao tâm
huyết của mình viết lên. Bài thơ thể hiện niềm yêu thương nhung nhớ về quê hương
xứ Huế nơi mà tác giả đã từng làm việc ở đây.
Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) ông được sinh ra tại Bình Định nhưng có 1 thời gian ông
được học tập tại Huế và làm việc tại đây. Đối với ông xứ Huế chính là quê hương thứ
2 và cũng là nơi để lại trong ông có nhiều dấu ấn và kỷ niệm nhất. Qua phân tích bài
thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp chúng ta có thể hình dung được cảnh vật cũng như con người xứ Huế nơi đây.
Mở đầu bài thơ là lời nói ngọt ngào nghe sao mà tha thiết của một cô gái dành cho 1
chàng trai: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Thôn Vĩ là một làng quê xinh đẹp nằm
gần bên con sống Huế thơ mộng. Làng Vĩ hay còn được gọi là làng Vĩ Dạ nơi tác giả
nhắc đến là một làng quê yên bình và xinh đẹp.
Đây cũng chính là nơi mà tác giả đã làm việc và học tập tại đây. Phải chăng đây chính
là những lời thì thầm nhắc nhở của cô gái dành cho chàng trai rằng hãy về làng Vĩ Dạ
chơi vì có biết bao nhiêu cảnh quan đẹp kỳ bí mà chàng trai đã lâu rồi không ghé thăm.
Cảnh vật ở đây đẹp đến lạ lùng khi tác giả đã miêu tả rõ nét từng hình ảnh dung dị nhất:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Ở đây cảnh vật có hai màu chủ đạo chính là màu xanh và màu nắng vàng. Cảnh vật ở
đây có những hàng cau mọc lên cao và mang màu sắc xanh. Hình ảnh những hàng cau
mọc theo hàng lối và đến mùa ra hoa cau thật đẹp. Hoa cau vừa đẹp lại vừa thơm đó
chính là lý do mà cây cau không thể thiếu ở Huế được. Nếu như bạn đã từng đi Huế
thì sẽ có dịp được chiêm ngưỡng những vườn cau đẹp đến mê hồn của những con người nơi đây.
Ở xứ Huế các bạn sẽ còn trông thấy những vườn cỏ rộng rãi bên trong là những cây
cau. Một không gian toàn màu xanh và được điểm sáng bởi những ánh nắng vàng
khiến cho không gian trở nên thơ mộng và trữ tình. Vườn nhà đã được tác giả phải
thốt lên: “mướt quá’’ một từ ngữ thể hiện được sự tươi tốt và màu mỡ của cảnh vật
nơi đây. Những giọt sương long lanh vẫn còn đọng lại ở những cây cỏ và khi ấy
những ánh nắng đã khẽ chiếu vào tạo nên những viên ngọc được tác giả miêu tả: “xanh như ngọc’’.
Biện pháp so sánh được sử dụng ở đây khiến cho người đọc liên tưởng được hay hình
dung được một bức tranh muôn màu sắc mà tác giả đã vẽ lên. Nhưng đến khổ thơ thứ
hai giọng thơ trở nên sâu lắng và pha một chút tâm trạng buồn bã:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?’’
Hai sự vật là gió và mây khi được nhắc đến luôn gợi cho chúng ta suy nghĩ về tình yêu
đôi lứa. Mây và gió vẫn luôn không rời thể hiện cho tình cảm khăng khít và gắn bó
của lứa đôi. Nhưng ở đây thì tác giả lại thể hiện ngược lại đó chính là sự chia ly và xa
cách giữa gió và mây mỗi vật lại đi một hướng. Phải chăng đây chính là lời nhắn nhủ
của nhà thơ đối với người con gái Hoàng Kim Cúc ấy. Họ đã bị xa cách nhau trong 1
thời gian dài khi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn viết báo và cô Cúc phụ cha làm việc.
Câu thơ thứ hai trong khổ chính là khắc họa về cuộc sống, nhịp sống đời thường của
những người xứ Huế chậm rãi và yên bình như sự miêu tả dòng nước thì buồn thiu
chảy nước chầm chậm, từ từ. Hoa bắp lay động một cách nhẹ nhàng khi có gió thổi.
Câu thơ tiếp theo là một câu nhớ khiến cho người đọc liên tưởng ra được cảnh vật
nhiều nhất có trăng và thuyền. Hai hình ảnh hiện lên thật trữ tình và tỏa sáng cả một
dòng sông khi có ánh trăng hiện lên soi tỏ cho cả một con thuyền. Liệu rằng thuyền có
chở trăng về kịp tối nay hay không hay lỡ làng? Đây chính là cách nói ẩn của tác giả
về chuyện tình yêu của mình có còn kịp để quay lại và yêu thương nữa hay không hay
là hai người sẽ mất nhau mãi mãi?
Khổ thơ cuối cùng là lời thốt lên từ đáy lòng tác giả và cũng là những suy tư của tác
giả về người con gái ấy:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu đầu tiên trong khổ thơ cuối tạo sự ấn tượng cho người đọc với sự lặp từ hai lần
khách đường xa càng gợi lên sự xa cách hơn. Áo của người con gái ấy trắng quá đến
nỗi mà tác giả không nhận ra nữa chính là vì người con gái ấy xinh đẹp mặc trên mình
chiếc áo tinh khôi khiến tác giả không thể nhận ra được người con gái mình đã yêu
năm nào. Sương khói dày đặc khiến làm mờ đi hình ảnh con người và tác giả tự hỏi
liệu rằng cô ấy còn yêu còn tình cảm đậm đà với mình nữa hay không? Câu thơ cuối
chính là tiếng lòng của tác giả muốn hỏi người con gái ấy.
Qua phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chúng ta sẽ biết được rằng đây chính là bài thơ
hay nhất mà Hàn Mặc Tử đã viết lên trước khi qua đời bởi căn bệnh phong. Thông
qua bài thơ chúng ta có thể tưởng tượng được cảnh đẹp của thiên nhiên cũng như con
người nơi xứ Huế xinh đẹp nơi mà đã từng là cố đô của nước ta năm nào. Bài thơ cũng
thể hiện khắc họa được tình yêu chân thành mà nhà thơ đã dành tặng cho một người
con gái xứ Huế thật đậm đà mà ngọt ngào xiết bao!
Xem thêm: Phân tích khổ cuối bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử