Văn mẫu lớp 11: Phân tích nhân vật cô Hiền trong Một người Hà Nội | Cánh diều
Văn mẫu lớp 11: Phân tích nhân vật cô Hiền trong Một người Hà Nội | Cánh diều được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.
Chủ đề: Bài 5: Truyện ngắn
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Cánh diều
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Dàn ý phân tích nhân vật cô Hiền
- Vị trí: nhân vật trung tâm.
- Vai trò: kết tinh cho giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.
- Mô tả khái quát về nhân vật: Nhân vật cô Hiền được miêu tả ở nhiều thời điểm lịch
sử khác nhau của dân tộc. Trải qua thời gian nhiều biến động, phẩm chất và nét đẹp
của một người Hà Nội vẫn tỏa sáng, như nhất, không hề phôi pha trong con người này. + Phân tích:
- Nếp sống thanh lịch dù thời cuộc có đầy biến động. • Cái ăn • Cái ở • Cái mặc
- Thông minh, tỉnh táo và thức thời:
• Năm 1956, bán một trong hai ngôi nhà cho người kháng chiến ở.
• “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ
phải nuôi một lũ ăn bám, dù họ có đủ tài để không phải sống ăn bám”.
* Ứng xử với chính sách cải tạo tư sản của nhà nước.
• Chồng muốn mua máy in => ngăn cản vì nhận rõ việc làm này sẽ vi phạm chính sách.
• Mở cửa hàng đồ lưu niệm để đảm bảo “đủ ăn” mà không bóc lột bất kì ai.
• Có đầu óc thực tế, sự trung thực, thẳng thắn:
* Không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng, không có cái lãng mạn hay mơ mộng viển vông.
* Đã tính là làm, đã làm là không để ý đến lời đàm tiếu của thiên hạ => bản lĩnh, có lập trường.
* Đi lấy chồng: dù giao du rộng nhưng chọn làm vợ một ông giáo cấp Tiểu học hiền
lành, chăm chỉ => cả Hà Nội “kinh ngạc”.
* Tính toán cả chuyện sinh đẻ sao cho hợp lí, đảm bảo tương lai con cái.
* Khi cháu là cán bộ cách mạng về chơi, chồng và con gọi là "đồng chí", bà nhắc nhở
phải gọi là "anh Khải" => biết nhìn nhận mọi việc theo đúng bản chất, thức thời nhưng không xu thời.
* Khi cháu-người cách mạng hỏi về cuộc sống mới khi giải phóng, bà nhận xét thẳng
thắn, sắc sảo, không giấu diếm.
- Trân trọng, nâng niu, gìn giữ truyền thống văn hoá người Hà Nội:
* Dặn dò bọn trẻ: “Là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không
được sống tuỳ tiện, buông tuồng”
* Coi việc giữ gìn nếp sống là một cách “tự trọng, biết xấu hổ”.
=> Là hạt bụi vàng của Hà Nội: Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà
Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng => biểu tượng
của vẻ đẹp tinh tế, sức sống bất diệt của văn hoá Hà Thành.
Lưu ý: em có thể chọn thêm dẫn chứng để chứng minh. + Đánh giá:
• Nhân vật "một người Hà Nội" được soi chiếu ở nhiều thời điểm lịch sử. Mỗi
thời điểm đầy biến thiên ấy như thứ nước rửa ảnh làm hiện hình nổi sắc những
nét đẹp bất diệt: sự thanh lịch, sang trọng trong nếp sống, cách nói năng; trí
thông minh, sự tỉnh táo, thức thời; đầu óc thực tế, trung thực, thẳng thắn...
• Đặt cô Hiền trong những biến động của lịch sử, nhà văn đã soi chiếu số phận
của một dân tộc qua cuộc đời của một cá nhân => thể hiện:
* Cái nhìn hiện thực mới mẻ
* Quan niệm về con người, niềm tin vào sự bất tử của những nét đẹp văn hóa truyền thống.
• Nghệ thuật xây dựng nhân vật: ngôn ngữ cá thể hóa (Lời nói của cô Hiền logic,
rõ ràng thể hiện sự sắc sảo, thông minh, tự tin, am tường nhân thế).
• Liên hệ ngắn gọn với "chân dung người Hà Nội" hiện nay (ý mở rộng)
Phân tích nhân vật cô Hiền - Mẫu 1
Truyện Một người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải, in trong tập truyện cùng tên xuất
bản năm 1990, thời kì đổi mới của nền văn học Việt Nam.
Cô Hiền là nhân vật chính của truyện. Qua nhân vật cô Hiền, tác giả phát hiện ra bao
vẻ đẹp trong chiều sâu tầm hồn, tính cách con người Hà Nội, tiêu biểu cho người phụ
nữ Việt Nam trước bao biến động, thăng trầm và phát triển của đất nước.
Nhân vật “tôi” giới thiệu về cô Hiền, nói lên về những suy nghĩ và tình cảm quý mến
đối với cô Hiền — “Chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi”.
Tác giả không nói về ngoại hình của cô Hiền mà chỉ kể, chi giới thiệu về ngôn ngữ,
cách sống, cách ứng xử của cô Hiền trong các quan hệ gia đình chồng con với người
thân, với bạn bè, với thời cuộc.
Khi đứa cháu, anh bộ đội Cụ Hồ thân mật và tò mò hỏi cô về thành phần giai cấp, về
chuyện “tại sao cô không phải học tập cải tạo...” thì cô cười rất tươi: “Tại sao chưa đủ
tiêu chuẩn”, và thản nhiên nói: “Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản,
nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được”.
Khi nhiều bè bạn ngờ vực: “Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhỉ?”,
thì cô nhẹ nhàng trả lời: “Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”. Đúng là có
khôn hơn các bà bạn, và “thức thời’’ hơn ông chồng. Trước đây, nhà cô cũng thuê một
anh bếp và một chị vú. Chị vú trông coi con cho cô từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi.
Trong suốt 26 năm trời đó, cô coi anh bếp cô vú “tình nghĩa như người trong họ”, đối
xử rất tử tế, nên sau này khi đã về quê, đã làm chủ nghiệm hợp tác xã. hai vợ chồng
vẫn qua lại thân tình, “ngàv giỗ ông chú và ngày Tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và
rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em”.
Chuyện làm ăn cũng cho thấy cô “khôn hơn" các bà bạn và “thức thời hơn” ông chồng.
Chồng cô dạy học, nhờ viết sách mà có được một ít tiền nên tậu được hai dinh cơ. một
nhà đang ở và một nhà ở Hàng Bún cho thuê. Tháng 10 năm 1954. Hà Nội được giải
phóng thì năm 1956, cô bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới ở kháng
chiến về. Chỉ một năm sau, cái thời “cải tạo...". một cán bộ tới hỏi về nhà cửa, nhắc tới
ngôi nhà ở Hàng Bún, cô Hiền trả lời rất lịch thiệp:”Xin mời anh tới ngôi nhà anh vừa
nói, hỏi thẳng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin mời anh trở lại”.
Khi ông chồng không được phép mở trường tư thục muốn mua một máy in nhỏ đế
kinh doanh, cô Hiền đã hỏi chồng: “Ông có đứng máy được không? Ông có sắp chữ
được không?”. Ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à?”, ông chồng “tính vốn
nhát, rút lui ngay” trước những câu hỏi rất thức thời của người vợ.
Cô Hiền cũng kinh doanh, cũng buôn bán, cũng có cửa hàng cửa hiệu. Nhưng cô chi
bán một thứ hoa giấy. Các loại hoa giấy, lẵng hoa đan băng tre...rất đẹp do tự tay cô
làm ra, bán rất đắt, nhưng “chịu thuế rất nhẹ”, chăng mang tiếng tư sản, tiểu chủ gì cả
giữa cái thời “cải tạo và đấu tranh giai cấp.. Cô Hiền thật khôn ngoan, cô biết sống hợp
lí, ứng xử theo thời thế. Phải là con người chín chắn và từng trải mới có cách sống,
cách làm ăn như thế, có “đầu óc rất thực tế” như thế.
Cô Hiền rất mẫn cảm, sắc sảo và tế nhị. Nghe con kêu ầm lên: ‘Mẹ ơi! Đồng chí Khải
đến!” thì cô gắt lên: “Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa”. Khi thấy người chồng nắm tay
đứa cháu, hỏi hồn nhiên: “Tại sao chủ nhật trước đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ
cơm mãi”, thì cô “thở dài, quay người đi”. Khi đứa cháu hỏi về dân tình, thời thế, cô
trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?”. Khi nghe chị
vú kể lại cho cả nhà nghe có anh cán bộ bám theo “xui”, cô Hiền bình luận: “Cách
mạng gì toàn để ý những chuyện lặt vặt”.
“Cô Hiền bên ngoại, chị Đại bên nội” là những phụ nữ Hà thành giỏi giang, giàu bản
lĩnh, tất cả mọi việc đều được các bà ấy “tính toán trước cả”, và luôn luôn “tính đúng”.
Các bà ấy “không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô”. Các bà ấy
“không có sự lãng mạn hay mộng mơ vớ vẫn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm đế
ý đến những đàm tiếu của thiên hạ”. Đó là lời nhận xét của người cháu - đồng chí Khải.
Cô Hiền tuvên bô thẳng thừng với đứa cháu: “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể
cả chế độ”. Vốn là gái Hà Nội, con nhà giàu sang, nhưng gần ba chục tuổi cô mới đi
lấy chồng. Không lấy một ông quan nào hết. Chẳng hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ văn
nhân. Cô chỉ chọn một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành kết bạn trăm năm, để làm vợ,
làm mẹ, “khiến cả Hà Nội kinh ngạc”.
Sau khi sinh đứa con thứ năm, cô nói với chồng: “Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ,
bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục tuổi thì con út đã hai mươi, có thể
tự lập được khỏi phải sống bám vào các anh chị".
Cô Hiền đặc biệt coi trọng vai trò người phụ nữ gia đình: người vợ không chi là nội trợ
mà là “nội tướng”. Cô phê bình người cháu - đồng chí Khải: “Mày bắt nạt vợ mày quá,
không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng". Người đàn bà không là “nội
tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”.
Là người mẹ cô săn sóc và quan tâm dạy bảo các con phải “biết tự trọng, biết xấu hổ",
nghĩa là biết giữ lấy nhân cách. Ngay từ khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn, cô
thường chú ý “sửa cách ngồi, cách cầm bát đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện
trong bữa ăn”. Cô khuyên con cháu: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng,
nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”.
Gia huấn ca tương truyền là của Nguyễn Trãi có đoạn:
Khi còn bé tại gia hầu hạ,
Dưới hai thân vâng dạ theo lời.
Khi đi, khi đứng, khi ngồi,
Vào trong khuôn phép, ra ngoài đoan trang...
Phái chăng cô Hiền đã dạy con cháu cách sống theo nền nếp của người xưa? Cô đã nói
rõ với người cháu về '‘nghĩa vụ” của người mẹ là dạy con cái: “biết tự trọng, biết xấu
hổ, còn sau này muốn ra sao là tùy”.
Giữa thời chống Mỉ. cô Hiền đã thể hiện tình mẹ con và ý thức công dân rất rõ. Năm
1965, Hà Nội có đợt tuyển quân vào chiến đấu trong Nam, đợt đầu được tuyên chọn
rất kĩ càng, có khoáng 660 người, “là những chàng trai ưu tú của Hà Nội”. Dũng là con
đầu của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học, tình nguyện xin đi đánh Mĩ lần ấy. Khi đứa
cháu hỏi: “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?” Cô trả lời: “Tao đau đớn mà bằng
lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng là biết
tự trọng”. Suốt ba năm trời, cô không hề nhận được một tin tức gì của đứa con đã ra di.
Nhưng khi đứa em kêu làm đơn đi đánh Mĩ, cô đã trả lời khi người cháu hỏi: “Tao
không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để
các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”.
Cô Hiền nhắc lại: “Nhiều người tới Hà Nội đã sống lại”. Người cháu kể lại một số hiện
tượng chưa đẹp, chưa vui mà mình phải chứng kiến “không mấy vui vẻ...” giữa thủ đô.
Cô Hiền than thở về tuổi già hay nghĩ ngợi mọi chuyện một cách duy tâm y hệt một bà
già nhà quê”. Cô kể chuyện về gió bão làm cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn đổ nghiêng,
tán đè lên hậu cung... lúc đầu cô nghĩ đó là “sự dời đổi, điềm xấu là sự ra đi của một
thời”. Nhưng cây si không bị chết, bị bổ ra làm củi mà rồi nó lại được cứu sống, sau
một tháng, lại trổ ra lá non. Cô Hiền suy ngầm: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của
tạo vật không thể lường trước được”.
Người cháu cảm phục, khẽ thốt lên ở trong lòng: “Bà già giỏi quá, bà khiêm tốn và
rộng lượng quá". Cô Hiền là “một hạt bụi vàng”, nhỏ bé, nhưng rất đẹp. Tâm hồn cô,
tính cách của cô cùng với bao người khác là biểu tượng tuyệt đẹp cho vẻ đẹp thanh
lịch trong sáng và phẩm chất cao quý của con người Hà Nội.
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,
Dẫu không thanh lịch cũng ngườiTràng An. Ca dao
Tình cảm của đứa cháu, của nhân vật “tôi” cũng như của mỗi chúng ta là “thật tiếc"
khi một người như cô Hiền phải chết đi, “một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm
sâu vào lớp đất cổ”. Chúng ta hi vọng và ước mong vẻ đẹp thanh lịch, cốt cách của
người Tràng An “Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy
mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những áng vàng!”.
Những suy ngẫm của cô Hiền, của người cháu ở phần cuối truyện Một người Hà Nội
làm cho giọng kể thấm đượm chất trữ tình triết lí, vẻ đẹp thanh lịch, nếp sống văn hóa
của con người kinh kì được thể hiện đầy ấn tượng qua nhân vật cô Hiền; ta cảm thấy
bức chân dung nghệ thuật ấy được Nguyễn Khải phủ bằng những lớp áng vàng chói sáng.
Năm 2010 , đồng bào cả nước ta tưng bừng kỉ niệm một nghìn năm Thăng Long
(1910-2010). Nhân vật cô Hiền, một hạt bụi vàng, trong tập Một người Hà Nội của
Nguyễn Khải đã và đang tỏa sáng tâm hồn mỗi chúng ta.
Phân tích nhân vật cô Hiền - Mẫu 2
Nguyễn Khải (1930 – 2008), tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải, ông là một cây bút
tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến. Nhà văn sống chiến đấu và trưởng
thành trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nên những trải
nghiệm thực tiễn của cuộc sống nơi chiến trường cũng được nhà văn khắc họa khá rõ
nét trong các tác phẩm thơ văn của mình. Trong toàn bộ sáng tác của mình, Nguyễn
Khải cũng có nhiều tác phẩm viết về đề tài nông thôn trong xây dựng cuộc sống mới,
ông đặc biệt quan tâm đến tính cách, tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước
những biến động phức tạp của đời sống. Và một trong số tác phẩm đó, tiêu biểu nhất
có thể kể đến truyện ngắn “Một người Hà Nội”.
Truyện ngắn “Một người Hà Nội” xoay quanh nhân vật trung tâm là cô Hiền, một
người gốc Hà Nội và được nhà văn Nguyễn Khải ví như “Hạt bụi vàng” của Hà Nội.
Trong truyện ngắn này, nhà văn Nguyễn Khải đã phát hiện ra vẻ đẹp trong chiều sâu
tâm hồn, tính cách con người Việt Nam qua những biến động, thăng trầm của đất nước,
mà cụ thể là xã hội Việt Nam những năm giải phóng và tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc. Trong bối cảnh xây dựng xã hội mới ấy, bên cạnh những mặt tích
cực thì vẫn còn tồn tại những mặt tiêu cực, những mặt hạn chế tiêu cực. Nhân vật cô
Hiền được nhà văn Nguyễn Khải xây dựng trong bối cảnh đầy biến động, đổi thay đó,
nhưng những tác động khách quan không hề làm thế giới nội tâm cũng như con người
của cô bị tác động, ngược lại người đàn bà ấy vẫn hiện lên với bao phẩm chất, tính
cách đáng quý, đặc trưng cho nếp sống, tính cách của con người Hà Nội.
Sau khi giải phóng, đất nước ta bắt đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, đảng và nhà nước chủ trương xóa bỏ tư sản, xây dựng công hữu.
Đáp ứng lời kêu gọi của Đảng, cũng là hòa mình vào cuộc sống mới, nên chế độ tư sản
cũng như những người tư sản bị tẩy chay, tiến tới xóa bỏ, dọn đường cho xã hội chủ
nghĩa. Và trong không khí ấy, cô Hiền, một người dân gốc Hà Nội lại đi đầu trong
phong trào, lối sống mới “Cô Hiền vào những năm ấy đã cạo răng và uốn tóc, mặc
quần áo đồng màu, hoặc đen hoặc trắng. Còn nữ trang đã biết dùng đồ ngọc, bạch kim
và hạt xoàn”. Cũng vì vậy mà trong cái nhìn của nhiều người, và trong đó có cả nhà
văn thì cô Hiền có cách sống như một nhà tư sản thực thụ. Và điều này cũng được
chính cô thừa nhận “Tao có bộ mặt tư sản, một cách sống tư sản….”.
Ngay ấn tượng đầu tiên, dù không biết cô Hiền có thực sự là tư sản hay không, nhưng
người đọc đã cảm nhận được ở nhân vật này một cá tính khá mạnh mẽ, thậm chí là bản
lĩnh hơn người. Bởi ở thời kì bấy giờ, dù có là tư sản thì người ta cũng có xu hướng
che đậy, ngụy trang cho bản chất thật của mình, vì một khi bị lộ thì có thể bị tẩy chay,
tịch thu tài sản. Nhưng, cô Hiền không làm điều đó, cô sống đúng với con người, tính
cách của con người mình. Tuy sống như một người tư sản, mọi người có thể thấy và
đánh giá nhưng cô Hiền rất tự tin vào mình, cũng như tự tin vào cuộc sống trong sạch,
chính trực của mình. Cô khẳng định cuộc sống của mình là tự lực, không hề bóc lột
của ai, vì vậy không thể thành tư sản được “….tao có bộ mặt tư sản, một cách sống tư
sản, nhưng lại không bóc lột của ai cả thì làm sao thành tư sản được”.
Qua câu nói của cô Hiền, ta có thể thấy được cô là một người ý thức rất cao về mình,
những lời đàm tiếu, cách nhìn nhận, đánh giá của mọi người đối với cô không phải cô
không biết, ngược lại cô nhận thức được khá tường tận, nhưng “cây ngay không sợ
chết đứng", cô Hiền vẫn mạnh mẽ sống đúng với con người, không vì sự tác động
khách quan đó mà thay đổi hay bó buộc cuộc sống của mình. Cô Hiền cũng là một
người thức thời, những thay đổi hay bản chất thật sự của thời đại cô đều nắm bắt rõ, từ
đó cô định hướng cho công việc, cuộc sống mình “Chế độ này không thích cá nhân
làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không
nhục, nên tao chỉ cần đủ ăn…”, ta có thể thấy cô nhận thức được cả mặt hạn chế của
xã hội thời kì đổi mới, nhận thức được đấy nhưng cô không chạy theo xu hướng,
không uốn mình theo phong trào, cố tỏ ra nghèo khổ để thể hiện mình là người “công
dân tốt của xã hội”.
Cô sống trước hết là vì mình, vì cuộc sống của cả gia đình mình, và cuộc sống ấy là
hoàn toàn tự chủ“…Làm hoa giấy không thể làm giàu được nhưng rất đủ ăn, lại nhàn,
không phải lo sợ gì…”. Cô Hiền là con người thức thời, nhạy bén nhưng cũng rất thực
tế, ngay thẳng. Và sự ngay thẳng của cô còn thể hiện ra ngay trong lời góp ý với nhà
văn Nguyễn Khải: “Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì,
vậy là hỏng….”, chỉ cần một câu nói thôi nhưng ta nhận thức được ở cô Hiền một tư
tưởng dân chủ, lối sống của những con người hiện đại, theo cô thì công việc trong gia
đình bên cạnh trụ cột chính là người chồng thì những người vợ vẫn có quyền đóng góp,
có quyền quyết định trước những vấn đề liên quan đến gia đình của mình, lời nói của
cô là sự góp ý chân thành nhưng cũng là lời phê bình đối với sự gia trưởng của nhà
văn “…người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”.
Cô Hiền là người đề cao những nguyên tắc, những chuẩn mực về đạo đức, và sự coi
trọng, đề cao đó thể hiện ra ngay trong cách dạy dỗ của cô với những đứa nhỏ, khi
chúng ngồi vào bàn ăn thì cô sửa cho từ cách ngồi, cách cầm bát cầm đũa, cách múc
canh và cả cách nói chuyện trong bàn ăn. Và cô cũng răn lũ nhỏ “Chúng mày là người
Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông
tuồng”. Cô Hiền tuy không phải là người sống quá nguyên tắc, gia giáo nhưng những
truyền thống lâu đời của người Hà Nội thì cô cũng nghiêm khắc dạy dỗ, vì đó là nét
đẹp văn hóa song đồng thời cũng là phép tắc, cách ứng xử cơ bản của con người, mà
theo cô thì dạy để chúng biết tự trọng, biết ý thức về bản thân để sau này có thể trở
thành người có ích “…Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ còn sau này
muốn sống ra sao là tùy…”
Tính cách, con người của cô Hiền được bộc lộ rõ nét qua tình huống người con trai của
cô xung phong đi lính. Năm 1965, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam
đang diễn ra căng thẳng, Đảng và nhà nước huy động sức người cũng như sức của để
chi viện cho miền Nam ruột thịt. Trước bối cảnh đó, người con trai cả của cô Hiền đã
xung phong vào miền Nam làm nhiệm vụ, cô Hiền không hề chần chừ, lưỡng lự mà
quyết định cho con đi ngay. Sự quyết đoán này không phải vì cô Hiền không thương
con hay coi nhẹ những hi sinh nơi chiến trường mà đều xuất phát từ chính ý thức của
một người công dân, một người mẹ mẫu mực. Cô cho đứa con đi lính là muốn nó có ý
thức trước đất nước, biết sống tự trọng và là một người công dân sống có ích: “Tao
đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó
dám đi cũng là biết tự trọng”.
Từ khi đi lính thì không có bất kì tin tức gì thì người con thứ hai của cô cũng làm đơn
xin tòng quân, nối tiếp chí hướng của người anh. Với tư cách của một người mẹ, cô
Hiền không khỏi đau xót, thương tâm nhưng càng thương con thì cô càng muốn chúng
sống đúng với bổn phận, với trách nhiệm của mình. Cô cũng ý thức được đất nước
đang cần những sự hi sinh và bao thế hệ của con trai cô cũng đã đi lính, đã dâng hiến
cho đất nước. Cô không ngăn cản chúng ra đi, vì như thế là ích kỉ khi bảo con mình
tìm đường sống cho mình còn phó thác mọi trách nhiệm, hi sinh cho bạn bè cùng trang
lứa “…Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm con
đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết nó”.
Như vậy, ta có thể thấy nhân vật cô Hiền là một người thức thời, sâu sắc nhiều trải
nghiệm. Qua những tình huống truyện đã làm nổi bật lên những phẩm chất đáng quý ở
cô. Đó là một con người ngay thẳng, không sống giả dối, vụ lợi; là một con người
đúng chuẩn của người Hà Nội – chuẩn mực, nề nếp. Với tư cách là một người công
dân cô là một người công dân có trách nhiệm, còn với tư cách của một người mẹ cô
thương con, biết cách dạy dỗ, giáo dục, không vì những tình cảm cá nhân và ngăn cản
để con mình trở thành những người không có trách nhiệm, ý thức với đất nước.
Phân tích nhân vật cô Hiền - Mẫu 3
Nếu như Nguyễn Minh Châu viết lên số phận người đàn bà hàng chài trong thời kì đổi
mới để qua đó thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ hàng chài cam chịu, hi sinh vì gia
đình thì Nguyễn Khải cũng góp vào hình tượng người phụ nữ trong thời kì đổi mới với
nhân vật cô Hiền trong tác phẩm Một người Hà Nội. Tuy cùng một giai đoạn thời kì
đổi mới nhưng chúng ta thấy được sự khác nhau giữa số phận của hai nhân vật này.
Nhân vật cô Hiền có cuộc sống hạnh phúc hơn và cái mới trong hình tượng người phụ
nữ mà Nguyễn Khải đã mang đến chính là những vẻ đẹp của cô Hiền - người phụ nữ
trong giai đoạn mới. Cô được ví như “hạt bụi vàng” của Hà Nội.
Cô đại diện cho phẩm chất và đẹp của những người phụ nữ thức thời mà vẫn mang
đậm vẻ đẹp truyền thống. Những vẻ đẹp ấy được tác giả thể hiện rất rõ trong tác phẩm
của mình. Vẻ đẹp mà một người phụ nữ thời hiện đại ngày nay cần phải học tập, cái
đáng học tập là truyền thống mà vẫn hiện đại, hiện đại nhưng không mất đi sự truyền
thống. Nói cách khác đó chính là hội nhập mà không hòa tan, phát triển đồng thời đi
liền với chống lại những cái xấu. Tác giả không dùng một lời nào để nói về ngoại hình
của cô Hiền mà tác giả đi sâu vào việc khai thác chiều sâu tâm hồn và tính cách của cô.
Hoàn cảnh sống của cô là khi miền Bắc đang đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, nền
kinh tế thị trường phát triển. Bên cạnh những mặt tích cực của cuộc sống thì cũng có
những mặt tiêu cực. Vẻ đẹp của cô Hiền được tác giả ví như “hạt bụi vàng” của Hà Nội.
Cách sống của cô khiến cho người ta nghĩ cô là tư sản nhưng cô không chú ý đến. Khi
đứa cháu, anh bộ đội Cụ Hồ thân mật và tò mò hỏi cô về thành phần giai cấp, về
chuyện “tại sao cô không phải học tập cải tạo. . . ” thì cô cười rất tươi: “Tại sao chưa
đủ tiêu chuẩn”, và thản nhiên nói: “Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản,
nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được”. Như vậy có thể thấy cô
rất kiên trực, cô sống theo cách của cô mà không sợ ai nói gì miễn sao cô không làm hại ai.
Khi nhiều bè bạn ngờ vực: “Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhỉ?”,
thì cô nhẹ nhàng trả lời: “Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”. Đúng là có
khôn hơn các bà bạn, và “thức thời’’ hơn ông chồng. Trước đây, nhà cô cũng thuê một
anh bếp và một chị vú. Chị vú trông coi con cho cô từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi.
Trong suốt 26 năm trời đó, cô coi anh bếp cô vú “tình nghĩa như người trong họ”, đối
xử rất tử tế, nên sau này khi đã về quê, đã làm chủ nghiệm hợp tác xã. Hai vợ chồng
vẫn qua lại thân tình, “ngày giỗ ông chú và ngày Tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và
rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em”.
Cô Hiền là một người phụ nữ thức thời bởi vì nhiều cái cô rất thực tế, cô có hai nhà thì
một nhà để ở. Chồng cô đòi mua máy in thì cô hỏi ông có đứng may được không. Ông
chồng lại đành thôi. Như vậy không phải vì cô tiếc tiền hay hống dịch mà là vị khi
đang khó khăn cô biết nên dành tiền cho việc gì và không dùng cho việc gì.
Cô hiện lên là một người vợ đảm đang dẫu nền kinh tế khó khăn những cô vẫn có thể
nuôi sống gia đình. Đó là một vẻ đẹp đảm đang của người Việt Nam nói chung và của
người Hà Nội nói riêng. Không chỉ thế cô lo toan mọi việc trong gia đình kiếm sống
nuôi gia đình còn thể hiện sự giỏi giang, cần cù, chăm chỉ của người phụ nữ. Công
việc của cô là làm ở một cửa hàng hoa các loại hoa giấy, lẵng hoa đan băng tre. . . rất
đẹp do tự tay cô làm ra, bán rất đắt, nhưng “chịu thuế rất nhẹ”, chăng mang tiếng tư
sản, tiểu chủ gì cả giữa cái thời “cải tạo và đấu tranh giai cấp. . Cô Hiền thật khôn
ngoan, cô biết sống hợp lí, ứng xử theo thời thế. Phải là con người chín chắn và từng
trải mới có cách sống, cách làm ăn như thế, có “đầu óc rất thực tế” như thế.
Không chỉ vậy cô Hiền còn biết dạy con mình thành một người có trách nhiệm với tổ
quốc và một người trưởng thành. Cô khuyên con của cô đi tòng quân vào miền Nam
đánh giặc, có người thân ai mà chẳng sợ mất đi họ nhưng vì tổ quốc cần vì miền Nam
ruột thịt cô khích lệ con mình nên đi. Như vậy không phải cô đẩy con mình vào chỗ
chết mà cô đang dạy con mình yêu nước thương dân, dạy con mình biết vì người khác.
Đó chẳng phải là một vẻ đẹp của người phụ nữ Việt nam hay sao, một người mẹ hay
sao?. Cô còn là một người chuẩn Hà Nội không pha trộn, có những cái mới du nhập
vào nhưng cô thì vẫn vậy vẫn giữ y nguyên cái phẩm chất và tính cách của người Hà
Nội. Đó là vẻ đẹp của truyền thống giống câu:
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”
Không những thế cô Hiền tỏ ra là một người rất sắc sảo và tế nhị, khi gọi là đồng chí
Khải thì cô mắng đứa con là phải gọi là “anh Khải”. Ngày thường cô ăn mặc rất bình
dân nhưng có những buổi liên hoan thì cô lại rất trang trọng.
Và đặc biệt cô rất biết giữ lời ăn tiếng nói của mình, với những người bình dân thân
thiết thì ăn nói thô tục sao cũng được nhưng trước những người quý phái thì phải tế nhị.
Qua đây ta thấy cô Hiền mà nhà văn Nguyễn Khải cất công xây dựng lên thật đẹp. Một
người phụ nữ không chỉ giỏi viêc nhà mà lo được cả việc cho xã hội. Cô đúng là hạt
bụi vàng của Hà Nội. Hạt bụi vốn để người ta chỉ những cái vô cùng bẩn và nhỏ bé
nhưng ở đây tác giả lại nói là hạt bụi vàng. Nó thể hiện sự nhỏ bé của cô Hiền nhưng
lại làm nên một vẻ đẹp đại diện cho những người phụ nữ đương thời.
Phân tích nhân vật cô Hiền - Mẫu 4
Nét đẹp của văn hóa kinh kì xưa và nay đã và đang làm rung động bao trái tim người
nghệ sĩ, trở thành nguồn cảm hứng nghệ thuật của thơ văn, họa và nhạc... Nguyễn
Khải cũng là một nhà văn nhiều duyên nợ với mảnh đất nghìn năm văn hiến ấy. Nhà
văn từng tâm sự, ông đã sống với Hà Nội qua nhiều thời đoạn, nhiều chặng đường của
hiện thực đất nước, "thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mỗi lứa tuổi...". Đặc
biệt, với Nguyễn Khải, Hà Nội đẹp nhất ở những con người hào hoa, có bản lĩnh, tinh
tế trong ứng xử, nhưng cũng đầy nghị lực kiên cường, thiết tha yêu Thủ đô, đất nước
thân thương. Cảm nhận đó của nhà văn được thể hiện tập trung trong nhân vật bà Hiền - một người Hà Nội.
Cũng như những người Hà Nội bình thường khác, bà Hiền đã cùng Hà Nội, cùng đất
nước trải qua nhiều biến động thăng trầm nhưng vẫn giữ được cái cốt cách người Hà
Nội, cái bản lĩnh văn hóa của người Hà Nội. Bà sống thẳng thắn, chân thành, giàu tự
trọng. Nét đẹp của người Hà Nội ấy như bản chất tự nhiên bộc lộ ngay trong chính
cuộc sống đời thường của một người vợ, người mẹ.
Là người phụ nữ có nhan sắc, yêu văn chương, thời con gái giao du với nhiều văn
nhân nghệ sĩ nhưng không chạy theo những tình cảm lãng mạn viển vông, bà Hiền
"chọn bạn trăm năm là một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội
phải kinh ngạc". Người ta kinh ngạc vì nghĩ theo thói thường, còn bà Hiền không ham
danh lợi, sự tính toán. Ông giáo tiểu học - mẫu người mô phạm, khiêm nhường - là
mẫu người phù hợp với quan niệm của cô về tổ ấm gia đình - quan niệm chỉ có ở một
người nghiêm túc với hôn nhân, đặt trách nhiệm "làm vợ", "làm mẹ" lên trên mọi thú
vui khác. Tình yêu của bà Hiền cũng là một tình yêu sáng suốt của người mẹ giàu tự
trọng, biết nhìn xa trông rộng. Cái thời người Việt Nam thích đẻ nhiều con thì bà Hiền
lại có cái quan niệm khác người - bà không tin "trời sinh voi sinh cỏ", mà cho rằng con
cái phải được nuôi dạy chu đáo để chúng có thể "sống tự lập". Trong gia đình, bà Hiền
luôn là người chủ động, tự tin vì bà hiểu rõ vai trò quan trọng của người vợ, người mẹ.
Trước ứng xử của một người cháu đối với vợ mà theo bà là sự "bắt nạt quá đáng", bà
thẳng thắn phê bình và bảo: "Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng
chả ra sao". Trong cách dạy con, bà dạy từ những cái nhỏ nhất. Chuyện ngồi ăn, cách
cầm bát, cầm đũa, múc canh... chỉ là những chuyện vặt vãnh, nhỏ nhặt đối với nhiều
người. Bà Hiền thì khác, bà coi đấy là văn hóa sống, văn hóa người, hơn thế, đấy là
văn hóa của người Hà Nội. Bà nhỏ nhẹ nhắc nhở: "Chúng mày là người Hà Nội thì
cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng". Cái
"chuẩn" trong suy nghĩ của bà Hiền là "lòng tự trọng". Lòng tự trọng không cho phép
con người ta sống hèn nhát, ích kỉ. Khi được hỏi: "Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu
chứ?". Bà Hiền trả lời: "Tao đau đớn mà bằng lòng vì tao không muốn nó sống bám
vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng là biết tự trọng". Và bà cũng lại chấp nhận khi
em Dũng - con trai thứ hai của bà cũng muốn tiếp bước anh: "bảo nó đi tìm đường
sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó". Với bà Hiền, con người
đánh mất lòng tự trọng thì chỉ còn cái chết - cái chết tâm hồn. Bà Hiền tôn trọng danh
dự của con, hiểu con nên chấp nhận để con ra chiến trường nhưng bà không che giấu
nỗi đau lòng, không vờ vui vẻ ồn ào. Với bà, đấy là quyết định thật khó khăn nhưng
hợp lí. Đó cũng là một quyết định của "một người Hà Nội" thiết tha yêu đất nước.
Đặt tên truyện là Một người Hà Nội, có lẽ nhà văn Nguyễn Khải như muốn khắc đậm
cái bản lĩnh, cốt cách của người Hà Nội. Người đọc nhận ra "chất Hà Nội" ở bà Hiền
còn bởi cái nét văn hóa lịch lãm, sang trọng trong cách bài trí phòng khách cùa bà: vừa
cổ kính, quý phái và tinh tế, "suốt mấy chục năm không hề thay đổi" - một không gian
hẹp nhưng lưu giữ cái hồn của mảnh đất kinh kì. Cuộc sống biến động từng ngày, khó
khăn theo những đổi thay khôn lường. Lối sống của một số người Hà Nội trong thời
"kinh tế thị trường" khiến người ta - nhất là với những người yêu Hà Nội, không khỏi
thất vọng (như những người mà nhân vật "tôi" quên đường phải hỏi thăm, anh chàng
đi xe đạp, cô ca, gái anh bạn...). Nhưng với bà Hiền, không chỉ làm ấm lòng người
được bởi chính nét đẹp mang cốt cách người Hà Nội cùa mình, bà còn xua đi cái ấn
tượng "hơi nghiệt" của người cháu - của người đọc bằng thái độ ung dung, tự tại, bằng
sự khôn ngoan sâu sắc của trí tuệ. Bà nói về luật tự nhiên, về niềm tin: Hà Nội "thời
nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi", bà "khiêm tốn và rộng lượng",
hòa mình với cảnh sắc Hà Nội "trời rét, mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ẩm áo chứ không
làm ướt", bà đang lau chùi cái bát cổ để cắm hoa thủy tinh. Sự hài hòa đó là cái duyên
riêng Hà Nội, nét quyến rũ cua Hà Nội khiến người xa Hà Nội phải kêu thầm "thấy Tết
quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội".
Tác giả gọi bà Hiền là "một hạt bụi vàng" của Hà Nội. Nói đến hạt bụi - người ta liên
tưởng tới sự bé nhỏ, tầm thường, ít ai nhận thấy và cũng chẳng có giá trị gì. Nhưng là
hạt bụi vàng thì dù rất nhỏ bé, khiêm nhường nhưng lại mang giá trị quí báu - là tinh
túy của giá trị cuộc sống. Bao nhiêu hạt bụi vàng sẽ hợp lại thành những "ánh vàng"
chói sáng. Bà Hiền là một người Hà Nội bình thường, vô danh nhưng ở bà thấm sâu
cái tinh hoa trong bản chất người Hà Nội. Những người Hà Nội như bà đã là "những
hạt bụi vàng lấp lánh đâu đỏ ở mỗi góc phố Hà Nội", tất cả đang "bay lên cho đất kinh
kì chói sáng những ánh vàng".
Văn chương khắc họa lịch sử qua số phận cá nhân, trọng tâm phản ánh là con người, là
đặc điểm, bản chất, cách ứng xử của con người trong những tình thế lịch sử nhất định.
Một người Hà Nội là tác phẩm văn chương như thế. Nhân vật trung tâm là bà Hiền với
những chặng đường đời song hành cùng những biến động lớn lao của đất nước. Nhà
văn đã có những khám phá sâu sắc về bản chất của nhân vật trên dòng lưu chuyển của
hiện thực lịch sử. Là một con người, bà Hiền luôn giữ gìn phẩm giá, nhân cách là một
công dân, bà chỉ làm những gì có lợi cho đất nước. Là một người Hà Nội, bà đà góp
phần làm rạng rỡ thêm cái cốt cách, cái truyền thống của một Hà Nội anh hùng và hào
hoa - tôn thêm vẻ đẹp thanh lịch của "người Tràng An". Chất nhân văn sâu sắc của
ngòi bút Nguyễn Khải chính là ở đó.
"Muốn hiểu con người thời đại với tất cả những cái hay, cái dở của họ, nhất là muốn
hiểu cách nghĩ của họ, cuộc sống tinh thần của họ, phải đọc Nguyễn Khải". Nhận xét
này của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn thật xác đáng, nhất là đối với truyện ngắn
Một người Hà Nội của Nguyễn Khải.
Phân tích nhân vật cô Hiền - Mẫu 5
Nguyễn Khải là nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm “Mùa lạc”,“Một chặng
đường”,“Tầm nhìn xa”. Trước năm 1978, tác phẩm của Nguyễn Khải là cái nhìn tỉnh
táo, sắc lạnh, luôn khai thác hiện thực trong thế xung đột, đối lập cũ – mới, tốt – xấu,
ta – địch. Từ năm 1978 trở về sau, tác phẩm của ông là cái nhìn trăn trở, chiêm nghiệm,
cảm nhận cái hiện thực xô bồ, hối hả, đổi thay nhưng cũng đầy hương sắc. Chuyển
mạnh từ hướng ngoại sang hướng nội. Nhà văn nhìn con người trong mối quan hệ chặt
chẽ với lịch sử, quá khứ dân tộc, gia đình và sự tiếp nối thế hệ. Từ đó nhà văn khẳng
định những giá trị nhân văn cao đẹp của cuộc sống và con người hôm nay. Nhân vật bà
Hiền trong tác phẩm tiêu biểu cho hướng tiếp cận ấy của nhà văn.
Tác phẩm “Một người Hà Nội” tiêu biểu cho các tác phẩm của Nguyễn Khải sau giai
đoạn 1978, vẻ đẹp của hình tượng của cô Hiền tiêu biểu cho nét đẹp và sức sống bất
diệt của Hà thành. Qua nhân vật này, nhà văn Nguyễn Khải đã nói lên biết bao nhiêu
điều có tính triết lý về sự thay đổi của thời gian, không gian nhưng vẻ đẹp của con
người và vốn văn hóa cùng tính cách người Hà Nội mãi là giá trị tinh thần không thay đổi.
Nhân vật cô Hiền vốn xuất thân trong một gia đình giàu có, lương thiện, được dạy dỗ
theo khuôn phép nhà quan, thời trẻ là một thiếu nữ xinh đẹp, thông minh, mở xalông
văn chương để giao lưu rộng rãi với giới văn nghệ sĩ Hà thành. Cô là con người trí
thức, hiểu biết rộng, là con người có “bộ mặt tư sản”, một cách sống rất tư sản: “Ở
trong một tòa nhà rộng, tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra
cây si cổ thụ và hậu cung đền Ngọc Sơn”. Cái mặc cũng sang trọng quá: “Mùa đông
ông mặc áo Ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo Măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt
cườm”. Cái ăn cũng không giống với số đông: “Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có
một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản, và từng người ngồi đúng chỗ
quy định”. Đây là một lối sống nền nếp, lịch lãm, nhìn thì cứ ngỡ là tư sản nhưng thực
chất cô Hiền không phải là tư sản bởi vì “Cô không bóc lột ai cả thì làm sao gọi là tư
sản”. Cô làm ăn lương thiện với cửa hàng hoa giấy do chính tay tự làm và các con phụ
giúp. Trong quan hệ với người làm, chủ và tớ “dựa vào nhau mà sống”. Tình nghĩa
như người trong họ. Đây chính là vẻ đẹp của người lao động chân chính, có nhân có nghĩa.
Vẻ đẹp của cô Hiền được miêu tả trong nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử. Nhân
vật lại có những biểu hiện ứng xử thể hiện cá tính đặc biệt nhất quán.
Khi hòa bình lập lại 1955, nhân vật “Tôi” từ kháng chiến trở về. “Hà Nội nhỏ hơn
trước, vắng hơn trước”. Người thì tìm những vùng đất mới để làm ăn, sinh sống. Riêng
gia đình cô Hiền vẫn ở lại Hà Nội “Họ không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập
nghiệp ở vùng đất khác”. Đây chính là sự gắn bó máu thịt, tình yêu của cô đối với Hà
Nội. Hay sau kháng chiến chống Mỹ, mỗi bận nhân vật “tôi” từ Sài Gòn trở về Hà Nội,
bà băn khoăn hỏi “Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá như thế nào, dân tình thế nào ?”.
Cứ ngỡ đó chỉ là câu hỏi xã giao nhưng thực chất là chứa đựng tất cả những đau đáu,
phấp phỏng và hi vọng về tương lai Hà Nội.
Nhân vật bà Hiền mang vẻ đẹp thanh lịch của người đất kinh kỳ. Đó là vẻ đẹp có trong
bản thân nhân vật và được nhân vật không ngừng ý thức vun đắp. Đúng như câu ca
xưa viết về con người Hà Nội:
“Chẳng thơm cũng thể hoa lài
Chẳng lịch cũng thể con người Tràng An”
Vẻ đẹp thanh lịch đó được thể hiện ở cách bà nuôi dạy con, uốn nắn cho chúng từ thói
quen nhỏ nhất như cách cầm bát đũa, cách múc canh, cách nói chuyện trong bữa ăn,
cách đi đứng… Điều này thật khác với cách sinh hoạt của gia đình nhân vật xưng tôi
“Cứ việc sục muôi, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát mắng con cái, nhồm nhoàm, hả hê,
không phải theo một quy tắc nào cả”. Với bà Hiền đây không phải là chuyện sinh hoạt
vặt vãnh mà là văn hóa sống, văn hóa ứng xử của người Hà Nội: “Là người Hà Nội thì
cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện buông tuồng”. Bà còn
nói làm người Hà Nội thì phải “biết lòng tự trọng, biết xấu hổ”. Đây không phải là
biểu hiện của sự kỹ tính mà thể hiện nét tinh tế của một người có văn hóa.
Vẻ đẹp thanh lịch ấy còn thể hiện qua lối sống, qua những thói quen lịch lãm rất Hà
Nội. Dường như sự lịch lãm ấy như dòng máu chảy trong huyết quản của bà qua bao
thời gian. Thời thiếu nữ thì mở xalông văn chương, khi về già thì tĩnh tâm hưởng
ngoạn cái đẹp, trang trọng giữa nhịp sống xô bồ, náo nhiệt với hình ảnh ngồi “Tỉa thủy
tiên mỗi khi xuân về”, qua không khí căn phòng khách cổ kính, trang trọng với “Bình
phong bằng gỗ chạm… Cái sập gụ chân quỳ … Cái lư hương đời Hán”. Tất cả đều tinh
tế và quý phái đậm hồn Hà Nội.
Sau chiến tranh, giữa đời thường là vẻ đẹp của một bà Hiền bình dân như bao con
người khác “Áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc đi guốc, khăn len buộc đầu”.
Nhưng điều đáng quý ở bà là quan niệm sống “Xã hội lúc nào cũng phải có một gia
tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị”. Đây là một quan niệm đẹp về
cái chuẩn thanh lịch. Khác với kiểu buông tuồng. Bữa tiệc chiêu đãi hai anh lính từ
chiến trường miền Nam trở về đã giúp tác giả nói lên được vẻ đẹp ấy, đó là vẻ đẹp
thanh lịch đúng chuẩn của con người Hà Nội. “Các ông mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, cổ thắt
caravat, các bà lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc, đeo dây
đi lại uyển chuyển”. Vẻ đẹp này không chỉ là vẻ đẹp một thời mà là cả một đời, nó sẽ
là vẻ đẹp trầm tích văn hóa cho một thời vàng son của lịch sử.
Ngoài vẻ đẹp thanh lịch quý phái, ở bà còn toát lên vẻ đẹp của bản lĩnh cá nhân, bản
lĩnh sống của người Hà Nội, hiểu biết, nhận thức về cuộc sống hết sức thực tế. Là
người phụ nữ nhưng bà mạnh mẽ, chủ động, tự tin, dám là chính mình. Trong hôn
nhân bà chủ động lấy một ông giáo tiểu học hiền lành chăm chỉ. Bà nào chọn ai trong
số đám văn nhân một thời vui chơi ? Sự kiện ấy làm cả Hà Nội “kinh ngạc”. Bà tính
toán việc sinh con đẻ cái sao cho hợp lý, đảm bảo tương lai con cái. Nếu trong thời kỳ
phong kiến vai trò của người phụ nữ bị xem nhẹ thì trong xã hội hôm nay, bà Hiền
luôn đề cao người phụ nữ “Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng
chả ra sao”. Bà cũng quyết định luôn cái kinh tế gia đình trong cái buổi giao thời đầy
phức tạp. Ông chồng định mở tiệm máy in trong khi nhà nước đang có ý “không thích
cá nhân làm giàu”. Bà nhanh chóng cản ngăn “Ông muốn làm ông chủ ở cái chế độ
này à?”. Đây chính là cái nhìn tỉnh táo, sáng suốt của con người biết nhìn xa trông rộng.
Bản lĩnh ở bà còn là tính thẳng thắn. Bà bày tỏ rất thẳng nhận xét của mình về cuộc
sống với bao vấn đề. Theo bà “Chính phủ can thiệp quá nhiều vào việc của dân quá,
nào là phải tập thể dục mỗi sáng, sinh hoạt văn nghệ mỗi tối”. Bà cũng nhận ra cái gì
đó không phù hợp trong cách nghĩ “không thích cá nhân làm giàu”. Đây chính là thái
độ nói thẳng nói thật của con người trung thực, có cái nhìn sâu sắc với thời cuộc.
Vẻ đẹp của bà Hiền còn là vẻ đẹp của một nhân cách sống cao thượng, vẻ đẹp của con
người Hà Nội luôn coi lòng tự trọng là thước đo phẩm giá của mình. Lòng tự trọng ấy
được thể hiện rõ nét nhất qua câu chuyện của bà về hai người con đi bộ đội. Khi anh
Dũng xin đi bộ đội vào Nam chiến đấu, bà nói với nhân vật “tôi”: “Tao đau đớn mà
bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng
là biết tự trọng”. Đến lượt thằng con thứ hai lên đường bà cũng nói “Tao không
khuyến khích cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm con đường sống để các
bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Bà muốn sự công bằng như bao bà
mẹ khác “Tao cũng muốn sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết
cả, vui lẻ có hay hớm gì”. Là người mẹ ai mà không yêu con, không muốn con gặp
gian nguy, bất trắc nhưng ở đây bà Hiền muốn dạy con đừng bao giờ sống đớn hèn,
sống bám vào sự hi sinh của người khác là sống đáng hổ thẹn. Lòng tự trọng không
cho phép con bà sống hèn nhát, ích kỷ. Ở đây bà còn hiện lên vẻ đẹp của người mẹ
thời chiến có ý thức trách nhiệm với đất nước với dân tộc, biết sẻ chia trước đau
thương mất mát của biết bao người mẹ khác. Lòng tự trọng giúp con người ta sống có
trách nhiệm với cộng đồng. Ở bà Hiền, lòng tự trọng của cá nhân đã hòa vào lòng tự
trọng của dân tộc. Đây là một cách ứng xử rất nhân bản.
Bà còn là con người luôn lưu giữ những niềm tin vào cuộc sống. Dù sống trong cơn
lốc thị trường làm xói mòn đi nếp sống của người Hà Nội ngàn năm văn vật nhưng nó
không làm lay chuyển được ý thức của con người luôn tin vào giá trị văn hóa bền vững
của Hà Nội không thể mất đi. Bà quan niệm rằng “Với người già, bất kể ai, cái thời đã
qua luôn là thời vàng son, mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không
thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi”. Đấy chính là niềm tin
mãnh liệt vào những giá trị cổ truyền. Nhà văn còn đem hình ảnh cây si cổ thụ vào
phần cuối của truyện với thái độ ngợi ca nhân vật với sự trân trọng những giá trị tâm
linh. Cây si bật gốc đổ lên mái đền Ngọc Sơn nhưng nhờ vào tình yêu và niềm tin của
con người mà nó đã sống lại. Sự sống lại cây cổ thụ là niềm lạc quan tin tưởng của tác
giả vào sự phục hồi những giá trị tinh thần của Hà Nội. Những giá trị văn hóa bền
vững sẽ không mất đi, nhà văn ao ước những giá trị ấy sẽ hóa thân vào hiện tại “Một
người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu
vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn
gió mà bay lên cho đất kinh kỳ lung linh chói sáng những ánh vàng”.
Làm nên thành công của tác phẩm nói chung và xây dựng nhân vật bà Hiền nói riêng
là nhờ vào ngôn ngữ kể chuyện đặc sắc, có tính cá thể hóa. Nhà văn ít miêu tả, chủ yếu
là kể, kể bằng quan sát, phân tích và bình luận sắc sảo giàu ý nghĩa. Giọng điệu trần
thuật mang tính trải đời, tự nhiên, trĩu nặng suy tư, giàu chất khái quát, đa thanh, mang
đậm yếu tố tự truyện qua “cái tôi”, (giọng kể tự tin xen lẫn hoài nghi, tự hào xen lẫn tự
nhiên tăng tính chân thật, khách quan.)
Qua nhân vật bà Hiền, nhà văn khẳng định sức sống bền bỉ của các giá trị văn hóa
mang nét đẹp Hà Nội. Qua đó tác giả gửi gắm niềm thiết tha gìn giữ các giá trị ấy cho
hôm nay và cho cả mai sau. Từ đó chúng ta thêm yêu quý, tự hào về văn hoá, đất nuớc,
con người Việt Nam trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, với quá khứ dân tộc, với
quan hệ gia đình và nối tiếp thế hệ. Nhân vật bà Hiền là “Một người Hà Nội” mãi mãi
là hạt bụi vàng trong bể vàng trầm tích của văn hóa xứ sở.
Phân tích nhân vật cô Hiền - Mẫu 6
Một người Hà Nội là tác phẩm rút từ tập truyện Hà Nội trong mắt tôi, tác phẩm tiêu
biểu cho ngòi bút Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Trong truyện Một người
Hà Nội Nguyễn Khải đã xây dựng khá thành công hình tượng nhân vật cô Hiền, một
nhân vật khá tiêu biểu cho người Hà Nội.
Cô Hiền, một nhân vật xuyên suốt cả tác phẩm, cô đại diện cho phẩm chất và đẹp của
những người phụ nữ thức thời mà vẫn mang đậm vẻ đẹp truyền thống. Những vẻ đẹp
ấy được tác giả thể hiện rất rõ trong tác phẩm của mình. Vẻ đẹp mà một người phụ nữ
thời hiện đại ngày nay cần phải học tập, cái đáng học tập là truyền thống mà vẫn hiện
đại, hiện đại nhưng không mất đi sự truyền thống. Nói cách khác đó chính là hội nhập
mà không hòa tan, phát triển đồng thời đi liền với chống lại những cái xấu. Tác giả
không dùng một lời nào để nói về ngoại hình của cô Hiền mà tác giả đi sâu vào việc
khai thác chiều sâu tâm hồn và tính cách của cô.
Vẻ đẹp của cô Hiền được miêu tả trong nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử. Cô
Hiền vốn xuất thân trong một gia đình giàu có, lương thiện, được dạy dỗ theo khuôn
phép nhà quan, thời trẻ là một thiếu nữ xinh đẹp, thông minh, mở salon văn chương để
giao lưu rộng rãi với giới văn nghệ sĩ Hà thành. Cô là con người trí thức, hiểu biết
rộng, là con người có “bộ mặt tư sản”, một cách sống rất tư sản: “Ở trong một tòa nhà
rộng, tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu
cung đền Ngọc Sơn”. Cô làm ăn lương thiện với cửa hàng hoa giấy do chính tay tự
làm và các con phụ giúp. Trong quan hệ với người làm, chủ và tớ “dựa vào nhau mà
sống”. Tình nghĩa như người trong họ. Đây chính là vẻ đẹp của người lao động chân chính, có nhân có nghĩa.
Vẻ đẹp thanh lịch của cô được thể hiện ở cách nuôi dạy con, uốn nắn cho chúng từ thói
quen nhỏ nhất như cách cầm bát đũa, cách múc canh, cách nói chuyện trong bữa ăn,
cách đi đứng. Với cô Hiền đây không phải là chuyện sinh hoạt vặt vãnh mà là văn hóa
sống, văn hóa ứng xử của người Hà Nội: “Là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng
phải có chuẩn, không được sống tùy tiện buông tuồng”. Cô còn nói làm người Hà Nội
thì phải “biết lòng tự trọng, biết xấu hổ”. Đây không phải là biểu hiện của sự kỹ tính
mà thể hiện nét tinh tế của một người có văn hóa.
Vẻ đẹp của cô Hiền còn là vẻ đẹp của một nhân cách sống cao thượng luôn coi lòng tự
trọng là thước đo phẩm giá của mình. Lòng tự trọng ấy được thể hiện rõ nét nhất qua
câu chuyện của cô về hai người con đi bộ đội. Là người mẹ ai mà không yêu con,
không muốn con gặp gian nguy, bất trắc nhưng ở đây cô Hiền muốn dạy con đừng bao
giờ sống đớn hèn, sống bám vào sự hi sinh của người khác là sống đáng hổ thẹn. Lòng
tự trọng không cho phép con cô sống hèn nhát, ích kỷ. Ở đây cô còn hiện lên vẻ đẹp
của người mẹ thời chiến có ý thức trách nhiệm với đất nước với dân tộc, biết sẻ chia
trước đau thương mất mát của biết bao người mẹ khác. Lòng tự trọng giúp con người
ta sống có trách nhiệm với cộng đồng. Ở cô Hiền, lòng tự trọng của cá nhân đã hòa
vào lòng tự trọng của dân tộc. Đây là một cách ứng xử rất nhân bản.
Cô còn là con người luôn lưu giữ những niềm tin vào cuộc sống. Dù sống trong cơn
lốc thị trường làm xói mòn đi nếp sống của người Hà Nội ngàn năm văn vật nhưng nó
không làm lay chuyển được ý thức của con người luôn tin vào giá trị văn hóa bền vững
của Hà Nội không thể mất đi. Cô quan niệm rằng với người già, bất kể ai, cái thời đã
qua luôn là thời vàng son, mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không
thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi. Đấy chính là niềm tin
mãnh liệt vào những giá trị cổ truyền.
Qua đây ta thấy cô Hiền mà nhà văn Nguyễn Khải xây dựng lên thật đẹp. Một người
phụ nữ không chỉ giỏi việc nhà mà lo được cả việc cho xã hội. Nó thể hiện sự nhỏ bé
của cô Hiền nhưng lại làm nên một vẻ đẹp đại diện cho những người phụ nữ đương thời.