Văn mẫu lớp 11: Phân tích nhân vật cô Hiền trong Một người Hà Nội | Cánh diều

Văn mẫu lớp 11: Phân tích nhân vật cô Hiền trong Một người Hà Nội | Cánh diều được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.

Dàn ý phân tích nhân vt cô Hiền
- Vị trí: nhân vt trung tâm.
- Vai trò: kết tinh cho giá trtư tưng và nghthut ca tác phm.
- tkhái quát vnhân vt: Nhân vt Hin đưc miêu tnhiu thi đim lch
sử khác nhau ca dân tc. Tri qua thi gian nhiu biến đng, phm cht nét đp
của mt ngưi Hà Ni vn ta sáng, như nht, không hphôi pha trong con ngưi này.
+ Phân tích:
- Nếp sng thanh lch dù thi cuc có đy biến đng.
Cái ăn
Cái
Cái mặc
- Thông minh, tnh táo và thc thi:
Năm 1956, bán mt trong hai ngôi nhà cho ngưi kháng chiến ở.
“Chú tuy chưa già nhưng đành đngi chơi, các em sđi làm cán b, tao s
phi nuôi mt lũ ăn bám, dù hcó đtài đkhông phi sng ăn bám”.
* ng xử với chính sách ci to tư sn ca nhà nưc.
Chồng mun mua máy in => ngăn cn vì nhn rõ vic làm này svi phm chính
sách.
Mở cửa hàng đlưu nim để đảm bo “đăn” mà không bóc lt bt kì ai.
Có đu óc thc tế, strung thc, thng thn:
* Không lòng tái, sganh đua, thói thi thưng, không cái lãng mn hay
mộng vin vông.
* Đã tính làm, đã làm không đý đến li đàm tiếu ca thiên h=> bn lĩnh,
lập trưng.
* Đi ly chng: giao du rng nhưng chn làm vmột ông giáo cp Tiu hc hin
lành, chăm ch=> cHà Ni “kinh ngạc”.
* Tính toán cchuyn sinh đsao cho hp lí, đm bo tương lai con cái.
* Khi cháu cán b cách mng vchơi, chng con gi ng chí", nhc nh
phi gi là "anh Khi" => biết nhìn nhn mi vic theo đúng bn cht, thc thi nhưng
không xu thời.
* Khi cháu-ngưi cách mng hi vcuc sng mi khi gii phóng, nhn xét thng
thn, sc so, không giu diếm.
- Trân trng, nâng niu, gìn gitruyn thng văn hoá ngưi Hà Ni:
* Dn bn tr: “Là ni Ni thì cách đi đng nói năng phi chun, không
đưc sng tutin, buông tung”
* Coi vic gigìn nếp sng là mt cách “ttrng, biết xu h”.
=> Là ht bi vàng ca Hà Ni: Nhng ht bi vàng lp lánh đâu đó mỗi góc ph
Nội hãy mưn gió mà bay lên cho đt kinh kì chói sáng nhng ánh vàng => biu tưng
của vẻ đẹp tinh tế, sc sng bt dit ca văn hoá Hà Thành.
Lưu ý: em có thchn thêm dn chng đchng minh.
+ Đánh giá:
Nhân vt "mt ngưi Ni" đưc soi chiếu nhiu thi đim lch s. Mi
thi đim đy biến thiên y như thc ra nh làm hin hình ni sc nhng
nét đp bt dit: sthanh lch, sang trng trong nếp sng, cách nói năng; trí
thông minh, sự tỉnh táo, thc thi; đu óc thc tế, trung thc, thng thn...
Đặt Hin trong nhng biến đng ca lch s, nhà văn đã soi chiếu sphn
của mt dân tc qua cuc đi ca mt cá nhân => thhin:
* Cái nhìn hin thc mi m
* Quan nim vcon ngưi, nim tin vào sbất tcủa nhng nét đp văn hóa truyn
thng.
Nghthut xây dng nhân vt: ngôn ngthhóa (Li nói ca Hin logic,
rõ ràng thhin sự sắc so, thông minh, ttin, am tưng nhân thế).
Liên hngn gn vi "chân dung ngưi Hà Ni" hin nay (ý mở rộng)
Phân tích nhân vt cô Hin - Mẫu 1
Truyn Mt ni Hà Ni ca nhà văn Nguyn Khi, in trong tp truyn cùng tên xut
bản năm 1990, thi kì đi mi ca nn văn hc Vit Nam.
Hin nhân vt chính ca truyn. Qua nhân vt Hin, tác giphát hin ra bao
vẻ đẹp trong chiu sâu tm hn, tính cách con ngưi Ni, tiêu biu cho ngưi ph
nữ Vit Nam trưc bao biến đng, thăng trm và phát trin ca đt nưc.
Nhân vt “tôi” gii thiu vHin, nói lên vnhng suy nghĩ tình cm quý mến
đối vi cô Hin “Chem đôi con dì rut vi mgià tôi”.
Tác gikhông nói vngoi hình ca Hin chkể, chi gii thiu vngôn ng,
cách sng, cách ng xcủa Hin trong các quan hgia đình chng con vi ngưi
thân, vi bn bè, vi thi cuc.
Khi đa cháu, anh bđội CHồ thân mt hi vthành phn giai cp, v
chuyn “ti sao cô không phi hc tp ci to...” thì cô cưi rt tươi: “Ti sao chưa đ
tiêu chun”, thn nhiên nói: “Tao bmặt rt sn, mt ch sng rt sn,
nhưng li không bóc lt ai cthì làm sao thành tư sn đưc”.
Khi nhiu bn ngvực: “Trông như sn không bị học tp cũng lnh?”,
thì nhnhàng trlời: “Các không biết nhưng nhà c li rt biết”. Đúng
khôn hơn các bà bn, “thc thi’’ hơn ông chng. Trưc đây, nhà cô cũng thuê mt
anh bếp mt chvú. Chtrông coi con cho tnăm 19 tui đến năm 45 tui.
Trong sut 26 năm tri đó, coi anh bếp “tình nghĩa như ngưi trong h”, đi
xử rất ttế, nên sau này khi đã vquê, đã làm chnghim hp tác xã. hai vchng
vẫn qua li thân tình, “ngàv giông chú ngày Tết đu đem gạo, đu xanh, miến
u, toàn ca nhà làm c, lên biếu cô và các em”.
Chuyn làm ăn cũng cho thy cô “khôn hơn" các bà bn và “thc thi hơn” ông chng.
Chng cô dy hc, nhviết sách đưc mt ít tin nên tu đưc hai dinh cơ. mt
nhà đang một nhà Hàng Bún cho thuê. Tháng 10 năm 1954. Ni đưc gii
phóng thì năm 1956, bán ngôi nhà Hàng Bún cho mt ngưi bn mi kháng
chiến v. Chmột năm sau, cái thi “ci to...". mt cán btới hi vnhà ca, nhc ti
ngôi nhà Hàng Bún, Hin trả lời rt lch thip:”Xin mi anh ti ngôi nhà anh va
nói, hi thng chnhà xem htrả lời ra sao. Nếu còn thc mc xin mi anh trở lại”.
Khi ông chng không đưc phép mtrưng thc mun mua mt máy in nhđế
kinh doanh, Hin đã hi chng: “Ông đng máy đưc không? Ông sp ch
đưc không?”. Ông mun làm mt ông chi chế độ này à?”, ông chng “tính vn
nhát, rút lui ngay” trưc nhng câu hi rt thc thi ca ngưi vợ.
Hin cũng kinh doanh, cũng buôn bán, cũng ca hàng ca hiu. Nhưng chi
bán mt thhoa giy. Các loi hoa giy, lng hoa đan băng tre...rt đp do ttay
làm ra, bán rt đt, nhưng “chu thuế rất nh”, chăng mang tiếng tư sn, tiu chc
gia cái thi “ci to và đu tranh giai cp.. Cô Hin tht khôn ngoan, cô biết sng hp
lí, ng xtheo thi thế. Phi con ngưi chín chn tng tri mi có cách sng,
cách làm ăn như thế, có “đu óc rt thc tế” như thế.
Hin rt mn cm, sc so và tế nh. Nghe con kêu m lên: ‘Mơi! Đng chí Khi
đến!” thì cô gt lên: “Phi gi anh Khi, hiu chưa”. Khi thy ngưi chng nm tay
đứa cháu, hi hn nhiên: “Ti sao chnht trưc đng chí không ra chơi, cnhà ch
cơm mãi”, thì “thdài, quay ngưi đi”. Khi đa cháu hi vdân tình, thi thế,
trlời: “Vui hơi nhiu, nói cũng hơi nhiu, phi nghĩ đến làm ăn ch?”. Khi nghe ch
klại cho cnhà nghe anh cán bbám theo “xui”, Hin bình lun: “Cách
mạng gì toàn đý nhng chuyn lt vt”.
“Cô Hin bên ngoi, chĐại bên ni” nhng phnữ thành gii giang, giàu bn
lĩnh, tt cả mọi vic đu đưc các bà y “tính toán trưc c”, và luôn luôn “tính đúng”.
Các y “không lòng tái, sganh đua, thói thi thưng chen vô”. Các y
“không có slãng mn hay mng vvẫn. Đã tính là làm, đã làm không thèm đế
ý đến nhng đàm tiếu ca thiên h”. Đó là li nhn xét ca ngưi cháu - đồng chí Khi.
Hin tuvên thng thng vi đa cháu: “Mt đi tao chưa tng bai cám d, k
cả chế độ”. Vn gái Ni, con nhà giàu sang, nhưng gn ba chc tui mi đi
lấy chng. Không ly mt ông quan nào hết. Chng ha hn vi đám nghvăn
nhân. chchn mt ông giáo cp Tiu hc hin lành kết bn trăm năm, đlàm v,
làm m, “khiến cHà Ni kinh ngc”.
Sau khi sinh đa con thnăm, nói vi chng: “Tnay là chm dt chuyn sinh đ,
bốn mươi tui ri, nếu ông và tôi sng đến sáu chc tui thì con út đã hai mươi, th
tự lập đưc khi phi sng bám vào các anh ch".
Cô Hin đc bit coi trng vai trò ngưi phụ ngia đình: ngưi vkhông chi là ni tr
mà là “ni tưng”. Cô phê bình ngưi cháu - đồng chí Khi: “Mày bt nt vmày quá,
không đtquyết đnh bt cvic gì, vy hng". Ngưi đàn không “ni
ng thì cái gia đình y cũng chng ra sao”.
Là ngưi msăn sóc quan tâm dy bo các con phi “biết ttrng, biết xu h",
nghĩa biết gi lấy nhân cách. Ngay t khi các con còn nh, ngi vào bàn ăn,
thưng chú ý “sa cách ngi, cách cm bát đũa, cách múc canh, ccách nói chuyn
trong ba ăn”. khuyên con cháu: “Chúng mày ngưi Ni thì cách đi đng,
nói năng phi có chun, không đưc sng tùy tin, buông tung”.
Gia hun ca tương truyn là ca Nguyn Trãi có đon:
Khi còn bé ti gia hu hạ,
i hai thân vâng dtheo li.
Khi đi, khi đng, khi ngi,
Vào trong khuôn phép, ra ngoài đoan trang...
Phái chăng cô Hin đã dy con cháu cách sng theo nn nếp ca ngưi xưa? Cô đã nói
vi ngưi cháu v'‘nghĩa vca ngưi mdy con cái: “biết ttrng, biết xu
hổ, còn sau này mun ra sao là tùy”.
Gia thi chống M. Hin đã thhin tình mcon ý thc công dân rt rõ. Năm
1965, Ni đt tuyn quân vào chiến đu trong Nam, đt đu đưc tuyên chn
rất kĩ càng, có khoáng 660 ngưi, “là nhng chàng trai ưu tú ca Hà Ni”. Dũng là con
đầu ca cô Hin va tt nghip trung hc, tình nguyn xin đi đánh Mĩ ln y. Khi đa
cháu hi: “Cô bng lòng cho em đi chiến đu ch?” Cô trlời: “Tao đau đn mà bng
lòng, tao không mun sng bám vào shi sinh ca bn. dám đi cũng biết
tự trng”. Sut ba năm tri, cô không hnhn đưc mt tin tc gì ca đa con đã ra di.
Nhưng khi đa em kêu làm đơn đi đánh Mĩ, đã trlời khi ngưi cháu hi: “Tao
không khuyến khích, cũng không ngăn cn, ngăn cn tc là bo nó tìm đưng sng đ
các bn nó phi chết, cũng là mt cách giết chết nó”.
Cô Hin nhc li: “Nhiu ngưi ti Hà Ni đã sng li”. Ngưi cháu kể lại mt s hin
ng chưa đp, chưa vui mà mình phi chng kiến “không my vui v...” gia thđô.
Cô Hin than thở vtui già hay nghĩ ngi mi chuyn mt cách duy tâm y ht mt
già nhà quê”. kchuyn vgió bão làm cây si cthđền Ngc Sơn đnghiêng,
tán đè lên hu cung... lúc đu nghĩ đó “sdời đi, đim xu sra đi ca mt
thi”. Nhưng cây si không bchết, bbổ ra làm ci ri li đưc cu sng, sau
một tháng, li trra non. Hin suy ngm: “Thiên đa tun hoàn, cái vào ra ca
tạo vt không thng trưc đưc”.
Ngưi cháu cm phc, khtht lên trong lòng: “Bà già gii quá, khiêm tn
rộng ng quá". Hin “mt hạt bi vàng”, nhbé, nhưng rt đp. Tâm hn cô,
tính cách ca cùng vi bao ngưi khác biu ng tuyt đp cho vđp thanh
lịch trong sáng và phm cht cao quý ca con ngưi Hà Ni.
Chng thơm cũng thhoa nhài,
Dẫu không thanh lch cũng ngưiTràng An.
Ca dao
Tình cm ca đa cháu, ca nhân vt “tôi” cũng như ca mi chúng ta “tht tiếc"
khi mt ngưi như cô Hin phi chết đi, “mt ht bi vàng ca Ni rơi xung chìm
sâu vào lp đt c”. Chúng ta hi vng ưc mong vđẹp thanh lch, ct cách ca
ngưi Tràng An “Nhng ht bi vàng lp lánh đâu đó mỗi góc ph Ni hãy
n gió mà bay lên cho đt kinh kì chói sáng nhng áng vàng!”.
Nhng suy ngm ca Hin, ca ngưi cháu phn cui truyn Mt ngưi Ni
làm cho ging kthm đưm chất tr tình triết lí, vẻ đẹp thanh lch, nếp sng văn hóa
của con ngưi kinh đưc thhin đy n ng qua nhân vt Hin; ta cm thy
bức chân dung nghthut y đưc Nguyn Khi ph bằng nhng lp áng vàng chói
sáng.
Năm 2010 , đng bào c c ta ng bng k nim mt nghìn năm Thăng Long
(1910-2010). Nhân vt Hin, mt ht bi vàng, trong tp Mt ngưi Ni ca
Nguyn Khi đã và đang ta sáng tâm hn mi chúng ta.
Phân tích nhân vt cô Hin - Mẫu 2
Nguyn Khi (1930 2008), tên khai sinh Nguyn Mnh Khi, ông mt cây bút
tiêu biu ca văn hc Vit Nam thi kì kháng chiến. Nhà văn sng chiến đu và trưng
thành trong hai cuc kháng chiến chng thc dân Pháp đế quc Mnên nhng tri
nghim thc tin ca cuc sng nơi chiến trưng cũng được nhà văn khc ha khá
nét trong các tác phm thơ văn ca mình. Trong toàn bsáng tác ca mình, Nguyn
Khi cũng nhiu tác phm viết vđề tài nông thôn trong xây dng cuc sng mi,
ông đc bit quan tâm đến tính cách, ng, tinh thn ca con ngưi hin nay trưc
nhng biến đng phc tp ca đi sng. mt trong stác phm đó, tiêu biu nht
có thể kể đến truyn ngn “Mt ngưi Hà Ni”.
Truyn ngn “Mt ngưi Ni” xoay quanh nhân vt trung m Hin, mt
ngưi gc Ni đưc nhà văn Nguyn Khi như “Ht bi vàng” ca Ni.
Trong truyn ngn này, nhà văn Nguyn Khi đã phát hin ra vđẹp trong chiu sâu
tâm hn, tính cách con ngưi Vit Nam qua nhng biến đng, thăng trm ca đt c,
cthxã hi Vit Nam nhng năm gii phóng tiến hành xây dng chnghĩa
hi min Bc. Trong bi cnh xây dng hi mi y, bên cnh nhng mt tích
cực thì vn còn tn ti nhng mt tiêu cc, nhng mt hn chế tiêu cc. Nhân vt
Hin đưc nhà văn Nguyn Khi xây dng trong bi cnh đy biến đng, đi thay đó,
nhưng nhng tác đng khách quan không hlàm thế gii ni tâm ng như con ngưi
của btác đng, ngưc li ngưi đàn y vn hin lên vi bao phm cht, tính
cách đáng quý, đc trưng cho nếp sng, tính cách ca con ngưi Hà Ni.
Sau khi gii phóng, đt c ta bt đu xây dng hi chnghĩa, phát trin nn kinh
tế nhiu thành phn, đng nhà c chtrương xóa bsn, xây dng công hu.
Đáp ng li kêu gi ca Đng, cũng là hòa mình vào cuc sng mi, nên chế độ tư sn
cũng như nhng ngưi sn btẩy chay, tiến ti xóa b, dn đưng cho hi ch
nghĩa. trong không khí y, Hin, mt ngưi dân gc Ni li đi đu trong
phong trào, li sng mi “Cô Hin vào nhng năm y đã co răng un tóc, mc
quần áo đng màu, hoc đen hoc trng. Còn ntrang đã biết ng đngc, bch kim
ht xoàn”. Cũng vy trong cái nhìn ca nhiu ngưi, trong đó cnhà
văn thì Hin cách sng như mt nhà sn thc th. điu này cũng đưc
chính cô tha nhn “Tao có bộ mặt tư sn, mt cách sng tư sn….”.
Ngay n ng đu tiên, không biết Hin thc ssn hay không, nhưng
ngưi đc đã cm nhn đưc nhân vt này mt cá tính khá mnh m, thm chí là bn
lĩnh hơn ni. Bi thi bấy gi, sn thì ngưi ta cũng xu ng
che đy, ngy trang cho bn cht tht ca mình, vì mt khi blộ thì thbị tẩy chay,
tịch thu tài sn. Nhưng, Hin không làm điu đó, sng đúng vi con ngưi, tính
cách ca con ngưi mình. Tuy sng như mt ngưi sn, mi ngưi ththy
đánh giá nhưng Hin rt ttin o mình, cũng như ttin vào cuc sng trong sch,
chính trc ca mình. khng đnh cuc sng ca mình tlực, không hbóc lt
của ai, vì vy không ththành sản đưc “….tao bmt sn, mt cách sng
sản, nhưng li không bóc lt ca ai cthì làm sao thành tư sn đưc”.
Qua câu nói ca Hin, ta ththy đưc mt ngưi ý thc rt cao vmình,
nhng li đàm tiếu, cách nhìn nhn, đánh giá ca mọi ngưi đi vi không phi
không biết, ngưc li nhn thc đưc khá ng tn, nhưng “cây ngay không s
chết đng", Hin vn mnh m sống đúng vi con ngưi, không vì s c đng
khách quan đó thay đi hay buc cuc sng ca mình. Hin cũng mt
ngưi thc thi, nhng thay đi hay bn cht tht sự của thi đi cô đu nm bt rõ, t
đó đnh ng cho công vic, cuc sng mình “Chế độ này không thích nhân
làm giàu, chcần hđủ ăn, thiếu ăn mt chút càng hay, thiếu ăn vinh chkhông
nhc, nên tao chcần đăn…”, ta th thy nhn thc đưc cmặt hn chế của
hi thi đi mi, nhn thc đưc đy nhưng không chy theo xu ng,
không un mình theo phong trào, ctỏ ra nghèo khđể thhin mình ngưi “công
dân tt ca xã hi”.
sng trưc hết mình, cuc sng ca c gia đình mình, cuc sng y
hoàn toàn tch“…Làm hoa giy không thlàm giàu đưc nhưng rt đăn, li nhàn,
không phi lo sgì…”. Hin con ngưi thc thi, nhy bén nhưng cũng rất thc
tế, ngay thng. sngay thng ca còn thhin ra ngay trong li góp ý vi nhà
văn Nguyn Khi: “Mày bt nt vmày quá, không đnó tquyết đnh bt cvic gì,
vậy hng….”, chcần mt câu nói thôi nhưng ta nhn thc đưc Hin một
ng dân ch, li sng ca nhng con ngưi hin đi, theo thì công vic trong gia
đình bên cnh trụ cột chính là ngưi chng thì nhng ngưi vợ vẫn có quyn đóng góp,
quyn quyết đnh trưc nhng vn đliên quan đến gia đình ca mình, li nói ca
sgóp ý chân thành nhưng cũng li phê bình đi vi sgia trưng ca nhà
văn “…ngưi đàn bà không là ni tưng thì cái gia đình y cũng chng ra sao”.
Hin ngưi đcao nhng nguyên tc, nhng chun mc vđạo đc, scoi
trng, đ cao đó thhin ra ngay trong cách dy dcủa vi nhng đa nh, khi
chúng ngi vào bàn ăn thì sa cho tcách ngi, cách cm bát cm đũa, cách múc
canh ccách nói chuyn trong bàn ăn. cũng răn nh “Chúng mày ngưi
Ni thì cách đi đng nói năng phi chun, không đưc sng tùy tin, buông
tung”. Hin tuy không phi ngưi sng quá nguyên tc, gia giáo nhưng nhng
truyn thng lâu đi ca ngưi Ni thì cũng nghiêm khc dy d, đó nét
đẹp văn hóa song đng thi cũng phép tc, cách ng xbn ca con ngưi,
theo thì dy đchúng biết ttrng, biết ý thc vbản thân đsau này thtr
thành ngưi ích “…Tao chdạy chúng biết ttrng, biết xu hcòn sau này
mun sng ra sao là tùy…”
Tính cách, con ngưi ca cô Hin đưc bc lrõ nét qua tình hung ngưi con trai ca
xung phong đi lính. Năm 1965, cuc kháng chiến chng Mỹ cứu c min Nam
đang din ra căng thng, Đng nhà c huy đng sc ngưi cũng như sc ca đ
chi vin cho min Nam ruột tht. Trưc bi cnh đó, ngưi con trai ccủa Hin đã
xung phong vào min Nam làm nhim v, Hin không hchn ch, ng l
quyết đnh cho con đi ngay. Squyết đoán này không phi cô Hin không thương
con hay coi nh nhng hi sinh nơi chiến trưng đu xut phát tchính ý thc ca
một ngưi công dân, mt ngưi mmẫu mc. cho đa con đi lính mun ý
thc trưc đt c, biết sng ttrng mt ngưi công dân sng ích: “Tao
đau đn bng lòng, tao không mun sng bám vào shi sinh ca bn bè.
dám đi cũng là biết ttrng”.
Từ khi đi lính thì không có bt tin tc thì ngưi con thhai ca cũng làm đơn
xin tòng quân, ni tiếp chí ng ca ngưi anh. Vi cách ca mt ngưi m,
Hin không khi đau xót, thương tâm nhưng càng thương con thì càng mun chúng
sống đúng vi bn phn, vi trách nhim ca mình. cũng ý thc đưc đt c
đang cn nhng shi sinh bao thế hệ của con trai cũng đã đi lính, đã dâng hiến
cho đt c. không ngăn cản chúng ra đi, như thế ích kkhi bo con mình
tìm đưng sng cho mình còn phó thác mi trách nhim, hi sinh cho bn bè cùng trang
lứa “…Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cn, ngăn cn tc là bo nó tìm con
đưng sng đcác bn nó phi chết, cũng là mt cách giết nó”.
Như vy, ta ththy nhân vt Hin mt ngưi thc thi, sâu sc nhiu tri
nghim. Qua nhng tình hung truyn đã làm ni bt lên nhng phm cht đáng quý
cô. Đó mt con ngưi ngay thng, không sng gidối, vlợi; mt con ngưi
đúng chun ca ngưi Ni chun mc, nnếp. Vi cách mt ngưi công
dân mt ngưi công dân trách nhim, còn vi cách ca mt ngưi m
thương con, biết cách dy d, giáo dc, không nhng tình cm cá nhân ngăn cn
để con mình trthành nhng ngưi không có trách nhim, ý thc vi đt nưc.
Phân tích nhân vt cô Hin - Mẫu 3
Nếu như Nguyn Minh Châu viết lên sphn ngưi đàn hàng chài trong thi đi
mới đqua đó thy đưc vđẹp ca ngưi phnữ hàng chài cam chu, hi sinh gia
đình thì Nguyn Khi cũng góp vào hình ng ngưi phụ nữ trong thi kì đi mi vi
nhân vt Hin trong tác phm Mt ni Ni. Tuy cùng mt giai đon thi
đổi mi nhưng chúng ta thy đưc skhác nhau gia sphn ca hai nhân vt này.
Nhân vt Hin cuc sng hnh phúc hơn và cái mi trong hình ng ngưi ph
nữ Nguyn Khi đã mang đến chính nhng vđẹp ca Hin - ngưi phnữ
trong giai đon mi. Cô đưc ví như “ht bi vàng” ca Hà Ni.
đi din cho phm cht đp ca nhng ngưi phnữ thc thi vn mang
đậm vđẹp truyn thng. Nhng vđẹp y đưc tác gi thhin rt trong tác phm
của mình. Vđẹp mt ngưi phnthi hin đi ngày nay cn phi hc tp, cái
đáng hc tp truyn thng vn hin đi, hin đi nhưng không mt đi struyn
thng. Nói cách khác đó chính hi nhp không hòa tan, phát trin đng thi đi
lin vi chng li nhng cái xu. Tác gikhông dùng mt li nào đnói vngoi hình
của cô Hin mà tác giđi sâu vào vic khai thác chiu sâu tâm hn tính cách ca cô.
Hoàn cnh sng ca khi min Bc đang đi lên xây dng hi chnghĩa, nn
kinh tế thtrưng phát trin. Bên cnh nhng mt tích cc ca cuc sng thì cũng
nhng mt tiêu cc. V đẹp của Hin đưc tác ginhư “ht bi vàng” ca
Nội.
Cách sng ca cô khiến cho ngưi ta nghĩ cô là sn nhưng không chú ý đến. Khi
đứa cháu, anh b đội C Hồ thân mt mò hi v thành phn giai cp, v
chuyn “ti sao không phi hc tập ci to. . . thì i rt tươi: “Ti sao chưa
đủ tiêu chun”, thn nhiên nói: “Tao có bmặt rt tư sn, mt cách sng rt tư sn,
nhưng li không bóc lt ai cthì làm sao thành sn đưc”. Như vy ththy
rất kiên trc, sng theo cách ca không sai nói min sao không làm
hại ai.
Khi nhiu bn ngvực: “Trông như sn không bhọc tp cũng lnh?”,
thì nhnhàng trlời: “Các không biết nhưng nhà c li rt biết”. Đúng
khôn hơn các bà bn, “thc thi’’ hơn ông chng. Trưc đây, nhà cô cũng thuê mt
anh bếp mt chvú. Chtrông coi con cho tnăm 19 tui đến năm 45 tui.
Trong sut 26 năm tri đó, coi anh bếp “tình nghĩa như ngưi trong h”, đi
xử rất t tế, nên sau này khi đã vquê, đã làm chnghim hp tác xã. Hai vchng
vẫn qua li thân tình, “ngày giông chú ngày Tết đu đem go, đu xanh, miến
u, toàn ca nhà làm c, lên biếu cô và các em”.
Cô Hin là mt ngưi phnữ thc thi bi vì nhiu cái cô rt thc tế, côhai nhà thì
một nhà đ. Chng đòi mua máy in thì hi ông đng may đưc không. Ông
chng li đành thôi. Như vy không phi tiếc tin hay hng dch vkhi
đang khó khăn cô biết nên dành tin cho vic gì và không dùng cho vic gì.
hin lên mt ngưi vđảm đang du nn kinh tế khó khăn nhng vn th
nuôi sng gia đình. Đó mt vđẹp đm đang ca ngưi Vit Nam nói chung ca
ngưi Hà Ni nói riêng. Không chthế lo toan mi vic trong gia đình kiếm sng
nuôi gia đình còn th hin sgii giang, cn cù, chăm chcủa ngưi phn. Công
vic ca làm một ca hàng hoa các loi hoa giy, lng hoa đan băng tre. . . rt
đẹp do ttay làm ra, bán rt đt, nhưng “chu thuế rất nh”, chăng mang tiếng
sản, tiu chcgia cái thi “ci to đu tranh giai cp. . Hin tht khôn
ngoan, biết sng hp lí, ng xtheo thi thế. Phi con ngưi chín chn tng
tri mi có cách sng, cách làm ăn như thế, có “đu óc rt thc tế” như thế.
Không chvậy Hin còn biết dy con mình thành mt ngưi trách nhim vi t
quc mt ngưi trưng thành. khuyên con ca đi tòng quân vào min Nam
đánh gic, có ngưi thân ai chng smất đi hnhưng tquc cn min Nam
rut tht khích lcon mình nên đi. Như vy không phi đy con mình vào ch
chết mà đang dy con mình yêu c thương dân, dy con mình biết vì ngưi khác.
Đó chng phi mt vđẹp ca ngưi phnữ Vit nam hay sao, mt ngưi mhay
sao?. còn mt ngưi chun Hà Ni không pha trn, nhng cái mi du nhp
vào nhưng thì vn vy vn giy nguyên cái phm cht tính cách ca ngưi
Nội. Đó là vẻ đẹp ca truyn thng ging câu:
“Chng thơm cũng thhoa nhài
Dẫu không thanh lch cũng ngưi Tràng An”
Không nhng thế Hin tra mt ngưi rt sc so tế nh, khi gi đng chí
Khi thì mng đa con phi gi “anh Khi”. Ngày thưng ăn mc rt bình
dân nhưng có nhng bui liên hoan thì cô li rt trang trng.
đc bit rt biết gilời ăn tiếng nói ca mình, vi nhng ngưi bình dân thân
thiết thì ăn nói thô tc sao cũng đưc nhưng trưc nhng ngưi quý phái thì phi tế
nhị.
Qua đây ta thy cô Hin mà nhà văn Nguyn Khi ct công xây dng lên tht đp. Mt
ngưi phnữ không chgii viêc nhà lo đưc cvic cho hi. đúng ht
bụi vàng ca Ni. Ht bi vn đngưi ta chnhng cái cùng bn nh
nhưng đây tác gilại nói ht bi vàng. thhin snhca Hin nhưng
lại làm nên mt vẻ đẹp đi din cho những ngưi phụ nữ đương thi.
Phân tích nhân vt cô Hin - Mẫu 4
Nét đp ca văn hóa kinh xưa nay đã đang làm rung đng bao trái tim ngưi
ngh sĩ, tr thành ngun cm hng ngh thut ca thơ văn, ha nhc... Nguyn
Khi cũng mt nhà văn nhiu duyên nvới mnh đt nghìn năm văn hiến y. Nhà
văn tng tâm s, ông đã sng vi Ni qua nhiu thi đon, nhiu chng đưng ca
hin thc đt c, "thi nào cũng đp, mt vđẹp riêng cho mi la tui...". Đc
bit, vi Nguyn Khi, Ni đp nhất nhng con ngưi hào hoa, bn lĩnh, tinh
tế trong ng x, nhưng cũng đy nghlực kiên ng, thiết tha yêu Thđô, đt c
thân thương. Cm nhn đó ca nhà văn đưc thhin tp trung trong nhân vt Hin
- một ngưi Hà Ni.
Cũng như nhng ngưi Hà Ni bình thưng khác, Hin đã cùng Ni, cùng đt
c tri qua nhiu biến đng thăng trm nhưng vn giđưc cái ct ch ngưi
Nội, cái bn lĩnh văn hóa ca ngưi Ni. sng thng thn, chân thành, giàu t
trng. Nét đp ca ngưi Ni y như bn cht tnhiên bc lngay trong chính
cuc sng đi thưng ca mt ngưi v, ngưi mẹ.
ngưi phnữ nhan sc, yêu văn chương, thi con gái giao du vi nhiu văn
nhân nghnhưng không chy theo nhng tình cm lãng mn vin vông, Hin
"chn bn trăm năm là mt ông giáo cp tiu hc hin lành, chăm ch, khiến cHà Ni
phi kinh ngc". Ngưi ta kinh ngc vì nghĩ theo thói thưng, còn Hin không ham
danh li, stính toán. Ông giáo tiu hc - mu ngưi phm, khiêm nhưng -
mẫu ngưi phù hp vi quan nim ca vtổ m gia đình - quan nim chmột
ngưi nghiêm túc vi hôn nhân, đt trách nhim "làm v", "làm m" lên trên mi thú
vui khác. Tình yêu ca Hin cũng mt tình yêu sáng sut ca ngưi mgiàu t
trng, biết nn xa trông rng. Cái thi ngưi Vit Nam thích đnhiu con thì bà Hin
lại có cái quan nim khác ngưi - bà không tin "tri sinh voi sinh c", mà cho rng con
cái phi đưc nuôi dy chu đáo đchúng th"sng tlập". Trong gia đình, bà Hin
luôn là người chủ đng, ttin vì bà hiu rõ vai trò quan trng ca ngưi v, ngưi m.
Trưc ng xca mt ngưi cháu đi vi vtheo s"bt nt quá đáng",
thng thn phê bình bo: "Ngưi đàn không là ni ng thì cái gia đình y cũng
chra sao". Trong cách dy con, dy tnhng cái nhnht. Chuyn ngi ăn, cách
cầm bát, cm đũa, múc canh... chnhng chuyn vt vãnh, nhnht đi vi nhiu
ngưi. Hin thì khác, coi đy văn hóa sng, văn hóa ngưi, hơn thế, đy
văn hóa ca người Ni. nhnhnhc nh: "Chúng mày ngưi Ni thì
cách đi đng, nói năng phi chun, không đưc sng tùy tin, buông tung". Cái
"chun" trong suy nghĩ ca Hin "lòng ttrng". Lòng ttrng không cho phép
con ngưi ta sng hèn nhát, ích k. Khi đưc hi: "Cô bng lòng cho em đi chiến đu
ch?". Hin trlời: "Tao đau đn bng lòng tao không mun sng bám
vào shi sinh ca bn. dám đi cũng biết ttrng". cũng li chp nhn khi
em Dũng - con trai thhai ca cũng mun tiếp c anh: "bo đi tìm đưng
sống đcác bn phi chết, cũng mt cách giết chết nó". Vi Hin, con ngưi
đánh mt lòng ttrng thì chcòn cái chết - cái chết tâm hn. Hin tôn trng danh
dự của con, hiu con nên chp nhn để con ra chiến trưng nhưng không che giu
nỗi đau lòng, không vvui vn ào. Vi bà, đy quyết đnh tht khó khăn nhưng
hợp lí. Đó cũng là mt quyết đnh ca "mt ngưi Hà Ni" thiết tha yêu đt nưc.
Đặt tên truyn Mt ngưi Ni, lnhà văn Nguyn Khi như mun khc đm
cái bn lĩnh, ct cách ca ngưi Ni. Ngưi đc nhn ra "cht Ni" Hin
còn bi cái nét văn hóa lch lãm, sang trng trong cách bài trí phòng khách cùa bà: va
cổ kính, quý phái và tinh tế, "sut my chc năm không hthay đi" - một không gian
hẹp nhưng lưu gicái hn ca mnh đt kinh kì. Cuc sng biến đng tng ngày, khó
khăn theo nhng đi thay khôn ng. Li sng ca mt sngưi Ni trong thi
"kinh tế thtrưng" khiến ngưi ta - nht vi nhng ngưi yêu Ni, không khi
tht vng (như nhng ngưi nhân vt "tôi" quên đưng phi hi thăm, anh chàng
đi xe đp, ca, gái anh bn...). Nhưng vi Hin, không chlàm m lòng ngưi
đưc bi chính t đp mang ct cách ngưi Ni cùa mình, n xua đi cái n
ng "hơi nghit" ca ngưi cháu - của ngưi đc bng thái đung dung, ttại, bng
sự khôn ngoan sâu sc ca trí tu. nói vlut tnhiên, v nim tin: Ni "thi
nào cũng đp, mt vđẹp riêng cho mt la tui", "khiêm tn và rng ng",
hòa mình vi cnh sc Ni "tri rét, mưa rây lt chđủ làm m áo chkhông
làm ưt", đang lau chùi cái bát cổ để cắm hoa thy tinh. Shài hòa đó là cái duyên
riêng Hà Ni, nét quyến rũ cua Hà Ni khiến ngưi xa Hà Ni phi kêu thm "thy Tết
quá, Hà Ni quá, mun thêm ít ngày ăn li mt cái Tết Hà Ni".
Tác gigọi Hin "mt ht bi vàng" ca Ni. Nói đến ht bi - ngưi ta liên
ng ti snh, tm thưng, ít ai nhn thy cũng chng giá trgì. Nhưng
hạt bi vàng thì rt nhbé, khiêm nhưng nhưng li mang giá trquí báu - tinh
túy ca giá trcuc sng. Bao nhiêu ht bi vàng shợp li thành nhng "ánh vàng"
chói sáng. Hin mt ngưi Ni bình thưng, danh nhưng thm sâu
cái tinh hoa trong bn cht ngưi Ni. Nhng ngưi Hà Ni như đã "nhng
hạt bi vàng lp lánh đâu đmỗi c phHà Ni", tt cđang "bay lên cho đt kinh
kì chói sáng nhng ánh vàng".
Văn chương khc ha lch s qua sphn cá nhân, trng tâm phn ánh là con ngưi, là
đặc đim, bn cht, cách ng xử của con ngưi trong nhng tình thế lch snht đnh.
Một ngưi Hà Ni là tác phm văn chương như thế. Nhân vt trung tâmHin vi
nhng chng đưng đi song hành cùng nhng biến đng ln lao ca đt c. Nhà
văn đã nhng khám phá sâu sc vbản cht ca nhân vt trên dòng u chuyn ca
hin thc lch s. mt con ngưi, Hin luôn gigìn phm giá, nhân cách là mt
công dân, chm nhng li cho đt c. mt ngưi Ni, đà góp
phn làm rng rthêm i ct cách, cái truyn thng ca mt Ni anh hùng hào
hoa - tôn thêm vđẹp thanh lch ca "ngưi Tràng An". Cht nhân văn sâu sc ca
ngòi bút Nguyn Khi chính là đó.
"Mun hiu con ngưi thi đi vi tt cnhng cái hay, cái dcủa h, nht mun
hiu cách nghĩ ca h, cuc sng tinh thn ca h, phi đc Nguyn Khi". Nhn xét
này ca nhà nghiên cu Vương Trí Nhàn tht xác đáng, nht đi vi truyn ngn
Một ngưi Hà Ni ca Nguyn Khi.
Phân tích nhân vt cô Hin - Mẫu 5
Nguyn Khi nhà văn ni tiếng vi nhng tác phm “Mùa lc”,“Mt chng
đưng”,“Tm nhìn xa”. Trưc năm 1978, tác phm ca Nguyn Khi cái nhìn tnh
táo, sc lnh, luôn khai thác hin thc trong thế xung đt, đi lp mới, tt xu,
ta – địch. Tnăm 1978 trở về sau, tác phm ca ông là cái nhìn trăn tr, chiêm nghim,
cảm nhn cái hin thc b, hi h, đi thay nhưng cũng đy hương sc. Chuyn
mạnh tng ngoi sang ng ni. Nhà văn nhìn con ngưi trong mi quan hcht
chvới lch sử, quá khdân tc, gia đình stiếp ni thế hệ. Tđó nhà văn khng
định nhng giá trnhân văn cao đp ca cuc sng và con ngưi hôm nay. Nhân vt bà
Hin trong tác phm tiêu biu cho hưng tiếp cn y ca nhà văn.
Tác phm “Mt ngưi Ni” tiêu biểu cho các tác phm ca Nguyn Khi sau giai
đon 1978, vđẹp ca hình ng ca Hin tiêu biu cho nét đp sc sng bt
dit ca thành. Qua nhân vt này, nhà văn Nguyn Khi đã nói lên biết bao nhiêu
điu tính triết vsthay đi ca thi gian, không gian nhưng vđẹp ca con
ngưi vn văn hóa cùng tính cách ngưi Ni mãi giá trtinh thn không thay
đổi.
Nhân vt Hin vn xut thân trong mt gia đình giàu có, lương thin, đưc dy d
theo khuôn phép nhà quan, thi trmt thiếu nxinh đp, thông minh, mxalông
văn chương đgiao lưu rng rãi vi gii văn nghthành. con ngưi trí
thc, hiu biết rng, con ngưi “bmặt sn”, mt cách sng rt sn:
trong mt tòa nhà rng, ta lc ngay ti mt đưng phlớn, ng nhà nhìn thng ra
cây si cthhu cung đn Ngc Sơn”. Cái mc cũng sang trng quá: “Mùa đông
ông mc áo Baờ-xuy, đi giày da, mc áo Măng-clông, đi giày nhung đính ht
m”. Cái ăn cũng không ging vi sđông: “Bàn ăn trải khăn trng, gia bàn
một lhoa nh, bát úp trên đĩa, đũa bc trong giy bn, tng ngưi ngi đúng ch
quy đnh”. Đây mt li sng nn nếp, lch lãm, nhìn thì cngsn nhưng thc
cht Hin không phi sn bi “Cô không bóc lt ai cthì làm sao gi
sản”. Cô làm ăn lương thin vi ca hàng hoa giy do chính tay t làmc con ph
giúp. Trong quan hvới ngưi làm, cht“da vào nhau sng”. Tình nghĩa
như ngưi trong h. Đây chính vđẹp ca ngưi lao đng chân chính, nhân
nghĩa.
Vẻ đẹp ca Hin đưc miêu ttrong nhiu thi đim khác nhau ca lch s. Nhân
vật li có nhng biu hin ng xthhin cá tính đc bit nht quán.
Khi hòa bình lp li 1955, nhân vt “Tôi” tkháng chiến trvề. “Hà Ni nhhơn
trưc, vng hơn trưc”. Ngưi thì tìm nhng vùng đt mi đlàm ăn, sinh sng. Riêng
gia đình Hin vn lại Ni “Hkhông thrời xa Ni, không thsinh lp
nghip vùng đt khác”. Đây chính sgắn máu tht, tình yêu ca đi vi
Nội. Hay sau kháng chiến chng M, mi bn nhân vt “tôi” tSài Gòn trở về Hà Ni,
bà băn khoăn hi “Anh ra Hà Ni ln này thy phnhư thế nào, dân tình thế nào ?”.
Cứ ngđó chcâu hi giao nhưng thc cht cha đng tt cnhng đau đáu,
php phng và hi vng vtương lai Hà Ni.
Nhân vt bà Hin mang vẻ đẹp thanh lch ca ngưi đt kinh k. Đó là vđẹp có trong
bản thân nhân vt đưc nhân vt không ngng ý thc vun đp. Đúng như câu ca
xưa viết vcon ngưi Hà Ni:
“Chng thơm cũng thể hoa lài
Chng lch cũng thcon ngưi Tràng An”
Vẻ đẹp thanh lch đó đưc thhin cách nuôi dy con, un nn cho chúng tthói
quen nhnht như cách cm bát đũa, cách múc canh, cách nói chuyn trong ba ăn,
cách đi đng… Điu này tht khác vi ch sinh hot ca gia đình nhân vt xưng tôi
“Cvic sc muôi, sc đũa vào, va ăn va quát mng con cái, nhm nhoàm, hhê,
không phi theo mt quy tc nào c”. Vi Hin đây không phi chuyn sinh hot
vặt vãnh màvăn hóa sng, văn hóa ng xcủa ngưi Hà Ni: “Là ngưi Ni thì
cách đi đng nói năng phi có chun, không đưc sng tùy tin buông tung”. Bà còn
nói làm ngưi Ni thì phi “biết lòng ttrng, biết xu h”. Đây không phi
biu hin ca sự kỹ tính mà thhin nét tinh tế của mt ngưi có văn hóa.
Vẻ đẹp thanh lch y còn thhin qua li sng, qua nhng thói quen lch lãm rt
Nội. ng như slịch lãm y như dòng máu chy trong huyết qun ca qua bao
thi gian. Thi thiếu n thì m xalông văn chương, khi v già thì tĩnh tâm ng
ngon cái đp, trang trng gia nhp sng xô b, náo nhit vi hình nh ngi “Ta thy
tiên mi khi xuân v”, qua không khí căn phòng khách ckính, trang trng vi “Bình
phong bng gchm… Cái sp gchân qu… Cái lư hương đi Hán”. Tt cả đều tinh
tế và quý phái đm hn Hà Ni.
Sau chiến tranh, gia đi thưng vđẹp ca mt Hin bình dân như bao con
ngưi khác “Áo bông ngn, qun thâm, đi dép hoc đi guc, khăn len buc đu”.
Nhưng điu đáng quý quan nim sng “Xã hi lúc nào ng phi mt gia
tầng thưng lưu ca đlàm chun cho mi giá tr”. Đây mt quan nim đp v
cái chun thanh lch. Khác vi kiu buông tung. Ba tic chiêu đãi hai anh lính t
chiến trưng min Nam trvề đã giúp tác ginói lên đưc vđẹp y, đó vđẹp
thanh lch đúng chun ca con ngưi Ni. “Các ông mũ d, áo ba-đờ-xuy, ctht
caravat, các c git trâm cài hoa ht lp lánh, áo nhung, áo d, đeo ngc, đeo dây
đi li uyn chuyn”. Vđẹp này không chvđẹp mt thi cmột đi, s
là vẻ đẹp trm tích văn hóa cho mt thi vàng son ca lch sử.
Ngoài vđẹp thanh lch quý phái, còn toát lên vđẹp ca bn lĩnh nhân, bn
lĩnh sng ca ngưi Ni, hiu biết, nhn thc vcuc sng hết sc thc tế.
ngưi ph nữ nhưng mnh m, chđộng, t tin, m chính mình. Trong hôn
nhân chđộng ly mt ông giáo tiu hc hin lành chăm ch. nào chn ai trong
số đám văn nhân mt thi vui chơi ? Skin y làm cNi “kinh ngc”. tính
toán vic sinh con đcái sao cho hp lý, đm bo tương lai con cái. Nếu trong thi k
phong kiến vai trò ca ngưi phnữ bị xem nhthì trong hi hôm nay, Hin
luôn đcao ngưi phnữ “Ngưi đàn không ni ng thì cái gia đình y cũng
chra sao”. ng quyết đnh luôn cái kinh tế gia đình trong cái bui giao thi đy
phc tp. Ông chng đnh mtim máy in trong khi nhà nưc đang có ý “không thích
nhân làm giàu”. nhanh chóng cn ngăn “Ông mun làm ông chcái chế đ
này à?”. Đây chính cái nhìn tnh táo, sáng sut ca con ngưi biết nhìn xa trông
rộng.
Bản lĩnh còn tính thng thn. bày trất thng nhn xét ca mình vcuc
sống vi bao vn đ. Theo “Chính phcan thip quá nhiu vào vic ca dân quá,
nào phi tp thdục mi sáng, sinh hot văn nghmỗi ti”. cũng nhn ra cái
đó không phù hp trong cách nghĩ “không thích nhân làm giàu”. Đây chính thái
độ nói thng nói tht ca con ngưi trung thc, có cái nhìn sâu sc vi thi cuc.
Vẻ đẹp ca Hin còn vđẹp ca mt nhân cách sng cao thưng, vđẹp ca con
ngưi Ni luôn coi lòng ttrng là thưc đo phm giá ca mình. Lòng ttrng y
đưc thhin nét nht qua câu chuyn ca vhai ngưi con đi bđội. Khi anh
Dũng xin đi bđội vào Nam chiến đu, nói vi nhân vt “tôi”: “Tao đau đn
bằng lòng, vì tao không mun nó sng bám vào s hi sinh ca bn bè. Nó dám đi cũng
biết t trng”. Đến t thng con th hai lên đưng cũng nói “Tao không
khuyến khích cũng không ngăn cn, ngăn cn tc là bo nó tìm con đưng sng đcác
bạn phi chết, cũng mt cách giết chết nó”. mun scông bng như bao
mẹ khác “Tao cũng mun sng bình đng vi các bà mkhác, hoc sng c, hoc chết
cả, vui lhay hm gì”. ngưi mai không yêu con, không mun con gp
gian nguy, bt trc nhưng đây Hin mun dy con đng bao gisống đn hèn,
sống bám vào shi sinh ca ngưi khác sng đáng hthn. Lòng ttrng không
cho phép con sng hèn nhát, ích k. đây còn hin lên vđẹp ca ngưi m
thi chiến ý thc trách nhim vi đt c vi dân tc, biết s chia trưc đau
thương mt mát ca biết bao ngưi mkhác. Lòng ttrng giúp con ngưi ta sng
trách nhim vi cng đng. Hin, lòng ttrng ca nhân đã hòa vào lòng t
trng ca dân tc. Đây là mt cách ng xử rất nhân bn.
còn con ngưi luôn lưu ginhng nim tin vào cuc sng. sng trong cơn
lốc thtrưng làm xói mòn đi nếp sng ca ngưi Hà Ni ngàn năm văn vt nhưng
không làm lay chuyn đưc ý thc ca con ngưi luôn tin vào giá trvăn hóa bn vng
của Ni không thmất đi. Bà quan nim rng “Vi ngưi già, bt kai, cái thi đã
qua luôn thi vàng son, mi thế hệ đu thi vàng son ca h. Ni thì không
thế. Thi nào cũng đp, mt vđẹp riêng cho mi la tui”. Đy chính nim tin
mãnh lit o nhng giá trcổ truyn. Nhà văn còn đem hình nh cây si cthvào
phn cui ca truyn vi thái đngi ca nhân vt vi strân trng nhng giá trtâm
linh. Cây si bt gc đlên mái đn Ngc Sơn nhưng nhvào tình yêu nim tin ca
con ngưi đã sng li. Ssng li cây cthnim lc quan tin ng ca tác
givào sphc hi nhng giá trtinh thn ca Ni. Nhng giá trvăn hóa bn
vững skhông mt đi, nhà văn ao ưc nhng giá try shóa thân vào hin ti “Mt
ngưi như phi chết đi tht tiếc, mt ht bi vàng ca Ni rơi xung chìm sâu
vào lp đt c. Nhng ht bi vàng lp lánh đâu đó mỗi góc phNi hãy n
gió mà bay lên cho đt kinh klung linh chói sáng nhng ánh vàng”.
Làm nên thành công ca tác phm nói chung xây dng nhân vt Hin nói riêng
là nhvào ngôn ng kể chuyn đc sc, có tính cá thhóa. Nhà văn ít miêu t, chủ yếu
k, k bng quan sát, phân tích bình lun sc so giàu ý nghĩa. Ging điu trn
thut mang tính tri đi, tnhiên, trĩu nng suy tư, giàu cht khái quát, đa thanh, mang
đậm yếu ttự truyn qua “cái tôi”, (ging kể tự tin xen ln hoài nghi, thào xen ln t
nhiên tăng tính chân tht, khách quan.)
Qua nhân vt Hin, nhà văn khng đnh sc sng bn bcủa các giá trvăn hóa
mang nét đp Ni. Qua đó tác gigửi gm nim thiết tha gìn gicác giá trị ấy cho
hôm nay và cho cmai sau. Tđó chúng ta thêm yêu quý, thào vvăn hoá, đt nuc,
con ngưi Vit Nam trong mi quan hchặt chvới lch s, vi quá khdân tc, vi
quan hgia đình ni tiếp thế hệ. Nhân vt bà Hin là “Mt ngưi Ni” mãi mãi
là ht bi vàng trong bvàng trm tích ca văn hóa xứ sở.
Phân tích nhân vt cô Hin - Mẫu 6
Một ngưi Ni tác phm rút ttập truyn Ni trong mt tôi, tác phm tiêu
biu cho ngòi bút Nguyn Khi giai đon sáng tác thhai. Trong truyn Mt ngưi
Ni Nguyn Khi đã xây dng khá thành công hình ng nhân vt Hin, mt
nhân vt khá tiêu biu cho ngưi Hà Ni.
Hin, mt nhân vt xuyên sut ctác phm, đi din cho phm cht đp ca
nhng ngưi phnữ thc thi vn mang đm vđẹp truyn thng. Nhng vđẹp
y đưc tác gi thhin rt rõ trong tác phm ca mình. Vđẹp mà mt ngưi phnữ
thi hin đi ngày nay cn phi hc tp, cái đáng hc tp truyn thng vn hin
đại, hin đi nhưng không mt đi struyn thng. Nói cách khác đó chính hi nhp
không hòa tan, phát trin đng thi đi lin vi chng li nhng cái xu. Tác gi
không dùng mt li o đnói vngoi hình ca Hin tác giđi sâu vào vic
khai thác chiu sâu tâm hn và tính cách ca cô.
Vẻ đẹp ca Hin đưc miêu ttrong nhiu thi đim khác nhau ca lch s.
Hin vn xut thân trong mt gia đình giàu có, lương thin, đưc dy dtheo khuôn
phép nhà quan, thi trmt thiếu nxinh đp, thông minh, msalon văn chương đ
giao lưu rng rãi vi gii văn nghthành. con ngưi trí thc, hiu biết
rộng, con ngưi “bmặt sn”, mt cách sng rt sản: trong mt tòa nhà
rộng, ta lc ngay ti mt đưng phố lớn, hưng nhà nhìn thng ra cây si cthvà hu
cung đn Ngc Sơn”. làm ăn lương thin vi ca hàng hoa giy do chính tay t
làm các con phgiúp. Trong quan hvới ngưi làm, cht “da vào nhau
sống”. Tình nghĩa như ngưi trong h. Đây chính vđẹp ca ngưi lao đng chân
chính, có nhân có nghĩa.
Vẻ đẹp thanh lch ca cô đưc th hin cách nuôi dy con, un nn cho chúng tthói
quen nhnht như cách cm bát đũa, cách múc canh, cách nói chuyn trong ba ăn,
cách đi đng. Vi Hin đây không phi chuyn sinh hot vt vãnh mà là văn hóa
sống, văn hóa ng xcủa ngưi Hà Ni: “Là ngưi Hà Ni thì cách đi đng nói năng
phi chun, không đưc sng tùy tin buông tung”. còn nói làm ngưi Ni
thì phi “biết lòng ttrng, biết xu h”. Đây không phi biu hin ca skỹ tính
mà thhin nét tinh tế của mt ngưi có văn hóa.
Vẻ đp ca Hin còn vẻ đẹp ca mt nhân cách sng cao thưng luôn coi lòng t
trng thưc đo phm giá ca mình. Lòng ttrng y đưc thhin nét nht qua
câu chuyn ca vhai ngưi con đi b đội. ni m ai không yêu con,
không mun con gp gian nguy, bt trc nhưng đây Hin mun dy con đng bao
giờ sống đn hèn, sng bám vào shi sinh ca ngưi khác sng đáng hthn. Lòng
tự trng không cho phép con sng hèn nhát, ích k. đây còn hin lên vđẹp
của ngưi mthi chiến ý thc trách nhim vi đt c vi dân tc, biết schia
trưc đau thương mt mát ca biết bao ngưi mkhác. Lòng ttrng giúp con ngưi
ta sng trách nhim vi cng đng. Hin, lòng ttrng ca nhân đã hòa
vào lòng ttrng ca dân tc. Đây là mt cách ng xử rất nhân bn.
còn con ngưi luôn lưu ginhng nim tin o cuc sng. sng trong cơn
lốc thtrưng làm xói mòn đi nếp sng ca ngưi Hà Ni ngàn năm văn vt nhưng
không làm lay chuyn đưc ý thc ca con ngưi luôn tin vào giá trvăn hóa bn vng
của Ni không thmất đi. quan nim rng vi ngưi già, bt kai, cái thi đã
qua luôn thi vàng son, mi thế hệ đu thi vàng son ca h. Ni thì không
thế. Thi nào ng đp, mt vđẹp riêng cho mi la tui. Đy chính nim tin
mãnh lit vào nhng giá trị cổ truyn.
Qua đây ta thy Hin nhà văn Nguyn Khi xây dng lên tht đp. Mt ngưi
phnữ không chgii vic nhà lo đưc cvic cho hi. thhin snh
của Hin nhưng li làm nên mt vđẹp đi din cho nhng ngưi phnữ đương
thi.
| 1/23

Preview text:


Dàn ý phân tích nhân vật cô Hiền
- Vị trí: nhân vật trung tâm.
- Vai trò: kết tinh cho giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.
- Mô tả khái quát về nhân vật: Nhân vật cô Hiền được miêu tả ở nhiều thời điểm lịch
sử khác nhau của dân tộc. Trải qua thời gian nhiều biến động, phẩm chất và nét đẹp
của một người Hà Nội vẫn tỏa sáng, như nhất, không hề phôi pha trong con người này. + Phân tích:
- Nếp sống thanh lịch dù thời cuộc có đầy biến động. • Cái ăn • Cái ở • Cái mặc
- Thông minh, tỉnh táo và thức thời:
• Năm 1956, bán một trong hai ngôi nhà cho người kháng chiến ở.
• “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ
phải nuôi một lũ ăn bám, dù họ có đủ tài để không phải sống ăn bám”.
* Ứng xử với chính sách cải tạo tư sản của nhà nước.
• Chồng muốn mua máy in => ngăn cản vì nhận rõ việc làm này sẽ vi phạm chính sách.
• Mở cửa hàng đồ lưu niệm để đảm bảo “đủ ăn” mà không bóc lột bất kì ai.
• Có đầu óc thực tế, sự trung thực, thẳng thắn:
* Không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng, không có cái lãng mạn hay mơ mộng viển vông.
* Đã tính là làm, đã làm là không để ý đến lời đàm tiếu của thiên hạ => bản lĩnh, có lập trường.
* Đi lấy chồng: dù giao du rộng nhưng chọn làm vợ một ông giáo cấp Tiểu học hiền
lành, chăm chỉ => cả Hà Nội “kinh ngạc”.
* Tính toán cả chuyện sinh đẻ sao cho hợp lí, đảm bảo tương lai con cái.
* Khi cháu là cán bộ cách mạng về chơi, chồng và con gọi là "đồng chí", bà nhắc nhở
phải gọi là "anh Khải" => biết nhìn nhận mọi việc theo đúng bản chất, thức thời nhưng không xu thời.
* Khi cháu-người cách mạng hỏi về cuộc sống mới khi giải phóng, bà nhận xét thẳng
thắn, sắc sảo, không giấu diếm.
- Trân trọng, nâng niu, gìn giữ truyền thống văn hoá người Hà Nội:
* Dặn dò bọn trẻ: “Là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không
được sống tuỳ tiện, buông tuồng”
* Coi việc giữ gìn nếp sống là một cách “tự trọng, biết xấu hổ”.
=> Là hạt bụi vàng của Hà Nội: Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà
Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng => biểu tượng
của vẻ đẹp tinh tế, sức sống bất diệt của văn hoá Hà Thành.
Lưu ý: em có thể chọn thêm dẫn chứng để chứng minh. + Đánh giá:
• Nhân vật "một người Hà Nội" được soi chiếu ở nhiều thời điểm lịch sử. Mỗi
thời điểm đầy biến thiên ấy như thứ nước rửa ảnh làm hiện hình nổi sắc những
nét đẹp bất diệt: sự thanh lịch, sang trọng trong nếp sống, cách nói năng; trí
thông minh, sự tỉnh táo, thức thời; đầu óc thực tế, trung thực, thẳng thắn...
• Đặt cô Hiền trong những biến động của lịch sử, nhà văn đã soi chiếu số phận
của một dân tộc qua cuộc đời của một cá nhân => thể hiện:
* Cái nhìn hiện thực mới mẻ
* Quan niệm về con người, niềm tin vào sự bất tử của những nét đẹp văn hóa truyền thống.
• Nghệ thuật xây dựng nhân vật: ngôn ngữ cá thể hóa (Lời nói của cô Hiền logic,
rõ ràng thể hiện sự sắc sảo, thông minh, tự tin, am tường nhân thế).
• Liên hệ ngắn gọn với "chân dung người Hà Nội" hiện nay (ý mở rộng)
Phân tích nhân vật cô Hiền - Mẫu 1
Truyện Một người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải, in trong tập truyện cùng tên xuất
bản năm 1990, thời kì đổi mới của nền văn học Việt Nam.
Cô Hiền là nhân vật chính của truyện. Qua nhân vật cô Hiền, tác giả phát hiện ra bao
vẻ đẹp trong chiều sâu tầm hồn, tính cách con người Hà Nội, tiêu biểu cho người phụ
nữ Việt Nam trước bao biến động, thăng trầm và phát triển của đất nước.
Nhân vật “tôi” giới thiệu về cô Hiền, nói lên về những suy nghĩ và tình cảm quý mến
đối với cô Hiền — “Chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi”.
Tác giả không nói về ngoại hình của cô Hiền mà chỉ kể, chi giới thiệu về ngôn ngữ,
cách sống, cách ứng xử của cô Hiền trong các quan hệ gia đình chồng con với người
thân, với bạn bè, với thời cuộc.
Khi đứa cháu, anh bộ đội Cụ Hồ thân mật và tò mò hỏi cô về thành phần giai cấp, về
chuyện “tại sao cô không phải học tập cải tạo...” thì cô cười rất tươi: “Tại sao chưa đủ
tiêu chuẩn”, và thản nhiên nói: “Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản,
nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được”.
Khi nhiều bè bạn ngờ vực: “Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhỉ?”,
thì cô nhẹ nhàng trả lời: “Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”. Đúng là có
khôn hơn các bà bạn, và “thức thời’’ hơn ông chồng. Trước đây, nhà cô cũng thuê một
anh bếp và một chị vú. Chị vú trông coi con cho cô từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi.
Trong suốt 26 năm trời đó, cô coi anh bếp cô vú “tình nghĩa như người trong họ”, đối
xử rất tử tế, nên sau này khi đã về quê, đã làm chủ nghiệm hợp tác xã. hai vợ chồng
vẫn qua lại thân tình, “ngàv giỗ ông chú và ngày Tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và
rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em”.
Chuyện làm ăn cũng cho thấy cô “khôn hơn" các bà bạn và “thức thời hơn” ông chồng.
Chồng cô dạy học, nhờ viết sách mà có được một ít tiền nên tậu được hai dinh cơ. một
nhà đang ở và một nhà ở Hàng Bún cho thuê. Tháng 10 năm 1954. Hà Nội được giải
phóng thì năm 1956, cô bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới ở kháng
chiến về. Chỉ một năm sau, cái thời “cải tạo...". một cán bộ tới hỏi về nhà cửa, nhắc tới
ngôi nhà ở Hàng Bún, cô Hiền trả lời rất lịch thiệp:”Xin mời anh tới ngôi nhà anh vừa
nói, hỏi thẳng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin mời anh trở lại”.
Khi ông chồng không được phép mở trường tư thục muốn mua một máy in nhỏ đế
kinh doanh, cô Hiền đã hỏi chồng: “Ông có đứng máy được không? Ông có sắp chữ
được không?”. Ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à?”, ông chồng “tính vốn
nhát, rút lui ngay” trước những câu hỏi rất thức thời của người vợ.
Cô Hiền cũng kinh doanh, cũng buôn bán, cũng có cửa hàng cửa hiệu. Nhưng cô chi
bán một thứ hoa giấy. Các loại hoa giấy, lẵng hoa đan băng tre...rất đẹp do tự tay cô
làm ra, bán rất đắt, nhưng “chịu thuế rất nhẹ”, chăng mang tiếng tư sản, tiểu chủ gì cả
giữa cái thời “cải tạo và đấu tranh giai cấp.. Cô Hiền thật khôn ngoan, cô biết sống hợp
lí, ứng xử theo thời thế. Phải là con người chín chắn và từng trải mới có cách sống,
cách làm ăn như thế, có “đầu óc rất thực tế” như thế.
Cô Hiền rất mẫn cảm, sắc sảo và tế nhị. Nghe con kêu ầm lên: ‘Mẹ ơi! Đồng chí Khải
đến!” thì cô gắt lên: “Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa”. Khi thấy người chồng nắm tay
đứa cháu, hỏi hồn nhiên: “Tại sao chủ nhật trước đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ
cơm mãi”, thì cô “thở dài, quay người đi”. Khi đứa cháu hỏi về dân tình, thời thế, cô
trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?”. Khi nghe chị
vú kể lại cho cả nhà nghe có anh cán bộ bám theo “xui”, cô Hiền bình luận: “Cách
mạng gì toàn để ý những chuyện lặt vặt”.
“Cô Hiền bên ngoại, chị Đại bên nội” là những phụ nữ Hà thành giỏi giang, giàu bản
lĩnh, tất cả mọi việc đều được các bà ấy “tính toán trước cả”, và luôn luôn “tính đúng”.
Các bà ấy “không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô”. Các bà ấy
“không có sự lãng mạn hay mộng mơ vớ vẫn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm đế
ý đến những đàm tiếu của thiên hạ”. Đó là lời nhận xét của người cháu - đồng chí Khải.
Cô Hiền tuvên bô thẳng thừng với đứa cháu: “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể
cả chế độ”. Vốn là gái Hà Nội, con nhà giàu sang, nhưng gần ba chục tuổi cô mới đi
lấy chồng. Không lấy một ông quan nào hết. Chẳng hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ văn
nhân. Cô chỉ chọn một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành kết bạn trăm năm, để làm vợ,
làm mẹ, “khiến cả Hà Nội kinh ngạc”.
Sau khi sinh đứa con thứ năm, cô nói với chồng: “Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ,
bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục tuổi thì con út đã hai mươi, có thể
tự lập được khỏi phải sống bám vào các anh chị".
Cô Hiền đặc biệt coi trọng vai trò người phụ nữ gia đình: người vợ không chi là nội trợ
mà là “nội tướng”. Cô phê bình người cháu - đồng chí Khải: “Mày bắt nạt vợ mày quá,
không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng". Người đàn bà không là “nội
tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”.
Là người mẹ cô săn sóc và quan tâm dạy bảo các con phải “biết tự trọng, biết xấu hổ",
nghĩa là biết giữ lấy nhân cách. Ngay từ khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn, cô
thường chú ý “sửa cách ngồi, cách cầm bát đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện
trong bữa ăn”. Cô khuyên con cháu: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng,
nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”.
Gia huấn ca tương truyền là của Nguyễn Trãi có đoạn:
Khi còn bé tại gia hầu hạ,
Dưới hai thân vâng dạ theo lời.
Khi đi, khi đứng, khi ngồi,
Vào trong khuôn phép, ra ngoài đoan trang...
Phái chăng cô Hiền đã dạy con cháu cách sống theo nền nếp của người xưa? Cô đã nói
rõ với người cháu về '‘nghĩa vụ” của người mẹ là dạy con cái: “biết tự trọng, biết xấu
hổ, còn sau này muốn ra sao là tùy”.
Giữa thời chống Mỉ. cô Hiền đã thể hiện tình mẹ con và ý thức công dân rất rõ. Năm
1965, Hà Nội có đợt tuyển quân vào chiến đấu trong Nam, đợt đầu được tuyên chọn
rất kĩ càng, có khoáng 660 người, “là những chàng trai ưu tú của Hà Nội”. Dũng là con
đầu của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học, tình nguyện xin đi đánh Mĩ lần ấy. Khi đứa
cháu hỏi: “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?” Cô trả lời: “Tao đau đớn mà bằng
lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng là biết
tự trọng”. Suốt ba năm trời, cô không hề nhận được một tin tức gì của đứa con đã ra di.
Nhưng khi đứa em kêu làm đơn đi đánh Mĩ, cô đã trả lời khi người cháu hỏi: “Tao
không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để
các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”.
Cô Hiền nhắc lại: “Nhiều người tới Hà Nội đã sống lại”. Người cháu kể lại một số hiện
tượng chưa đẹp, chưa vui mà mình phải chứng kiến “không mấy vui vẻ...” giữa thủ đô.
Cô Hiền than thở về tuổi già hay nghĩ ngợi mọi chuyện một cách duy tâm y hệt một bà
già nhà quê”. Cô kể chuyện về gió bão làm cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn đổ nghiêng,
tán đè lên hậu cung... lúc đầu cô nghĩ đó là “sự dời đổi, điềm xấu là sự ra đi của một
thời”. Nhưng cây si không bị chết, bị bổ ra làm củi mà rồi nó lại được cứu sống, sau
một tháng, lại trổ ra lá non. Cô Hiền suy ngầm: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của
tạo vật không thể lường trước được”.
Người cháu cảm phục, khẽ thốt lên ở trong lòng: “Bà già giỏi quá, bà khiêm tốn và
rộng lượng quá". Cô Hiền là “một hạt bụi vàng”, nhỏ bé, nhưng rất đẹp. Tâm hồn cô,
tính cách của cô cùng với bao người khác là biểu tượng tuyệt đẹp cho vẻ đẹp thanh
lịch trong sáng và phẩm chất cao quý của con người Hà Nội.
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,
Dẫu không thanh lịch cũng ngườiTràng An. Ca dao
Tình cảm của đứa cháu, của nhân vật “tôi” cũng như của mỗi chúng ta là “thật tiếc"
khi một người như cô Hiền phải chết đi, “một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm
sâu vào lớp đất cổ”. Chúng ta hi vọng và ước mong vẻ đẹp thanh lịch, cốt cách của
người Tràng An “Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy
mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những áng vàng!”.
Những suy ngẫm của cô Hiền, của người cháu ở phần cuối truyện Một người Hà Nội
làm cho giọng kể thấm đượm chất trữ tình triết lí, vẻ đẹp thanh lịch, nếp sống văn hóa
của con người kinh kì được thể hiện đầy ấn tượng qua nhân vật cô Hiền; ta cảm thấy
bức chân dung nghệ thuật ấy được Nguyễn Khải phủ bằng những lớp áng vàng chói sáng.
Năm 2010 , đồng bào cả nước ta tưng bừng kỉ niệm một nghìn năm Thăng Long
(1910-2010). Nhân vật cô Hiền, một hạt bụi vàng, trong tập Một người Hà Nội của
Nguyễn Khải đã và đang tỏa sáng tâm hồn mỗi chúng ta.
Phân tích nhân vật cô Hiền - Mẫu 2
Nguyễn Khải (1930 – 2008), tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải, ông là một cây bút
tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến. Nhà văn sống chiến đấu và trưởng
thành trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nên những trải
nghiệm thực tiễn của cuộc sống nơi chiến trường cũng được nhà văn khắc họa khá rõ
nét trong các tác phẩm thơ văn của mình. Trong toàn bộ sáng tác của mình, Nguyễn
Khải cũng có nhiều tác phẩm viết về đề tài nông thôn trong xây dựng cuộc sống mới,
ông đặc biệt quan tâm đến tính cách, tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước
những biến động phức tạp của đời sống. Và một trong số tác phẩm đó, tiêu biểu nhất
có thể kể đến truyện ngắn “Một người Hà Nội”.
Truyện ngắn “Một người Hà Nội” xoay quanh nhân vật trung tâm là cô Hiền, một
người gốc Hà Nội và được nhà văn Nguyễn Khải ví như “Hạt bụi vàng” của Hà Nội.
Trong truyện ngắn này, nhà văn Nguyễn Khải đã phát hiện ra vẻ đẹp trong chiều sâu
tâm hồn, tính cách con người Việt Nam qua những biến động, thăng trầm của đất nước,
mà cụ thể là xã hội Việt Nam những năm giải phóng và tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc. Trong bối cảnh xây dựng xã hội mới ấy, bên cạnh những mặt tích
cực thì vẫn còn tồn tại những mặt tiêu cực, những mặt hạn chế tiêu cực. Nhân vật cô
Hiền được nhà văn Nguyễn Khải xây dựng trong bối cảnh đầy biến động, đổi thay đó,
nhưng những tác động khách quan không hề làm thế giới nội tâm cũng như con người
của cô bị tác động, ngược lại người đàn bà ấy vẫn hiện lên với bao phẩm chất, tính
cách đáng quý, đặc trưng cho nếp sống, tính cách của con người Hà Nội.
Sau khi giải phóng, đất nước ta bắt đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, đảng và nhà nước chủ trương xóa bỏ tư sản, xây dựng công hữu.
Đáp ứng lời kêu gọi của Đảng, cũng là hòa mình vào cuộc sống mới, nên chế độ tư sản
cũng như những người tư sản bị tẩy chay, tiến tới xóa bỏ, dọn đường cho xã hội chủ
nghĩa. Và trong không khí ấy, cô Hiền, một người dân gốc Hà Nội lại đi đầu trong
phong trào, lối sống mới “Cô Hiền vào những năm ấy đã cạo răng và uốn tóc, mặc
quần áo đồng màu, hoặc đen hoặc trắng. Còn nữ trang đã biết dùng đồ ngọc, bạch kim
và hạt xoàn”. Cũng vì vậy mà trong cái nhìn của nhiều người, và trong đó có cả nhà
văn thì cô Hiền có cách sống như một nhà tư sản thực thụ. Và điều này cũng được
chính cô thừa nhận “Tao có bộ mặt tư sản, một cách sống tư sản….”.
Ngay ấn tượng đầu tiên, dù không biết cô Hiền có thực sự là tư sản hay không, nhưng
người đọc đã cảm nhận được ở nhân vật này một cá tính khá mạnh mẽ, thậm chí là bản
lĩnh hơn người. Bởi ở thời kì bấy giờ, dù có là tư sản thì người ta cũng có xu hướng
che đậy, ngụy trang cho bản chất thật của mình, vì một khi bị lộ thì có thể bị tẩy chay,
tịch thu tài sản. Nhưng, cô Hiền không làm điều đó, cô sống đúng với con người, tính
cách của con người mình. Tuy sống như một người tư sản, mọi người có thể thấy và
đánh giá nhưng cô Hiền rất tự tin vào mình, cũng như tự tin vào cuộc sống trong sạch,
chính trực của mình. Cô khẳng định cuộc sống của mình là tự lực, không hề bóc lột
của ai, vì vậy không thể thành tư sản được “….tao có bộ mặt tư sản, một cách sống tư
sản, nhưng lại không bóc lột của ai cả thì làm sao thành tư sản được”.
Qua câu nói của cô Hiền, ta có thể thấy được cô là một người ý thức rất cao về mình,
những lời đàm tiếu, cách nhìn nhận, đánh giá của mọi người đối với cô không phải cô
không biết, ngược lại cô nhận thức được khá tường tận, nhưng “cây ngay không sợ
chết đứng", cô Hiền vẫn mạnh mẽ sống đúng với con người, không vì sự tác động
khách quan đó mà thay đổi hay bó buộc cuộc sống của mình. Cô Hiền cũng là một
người thức thời, những thay đổi hay bản chất thật sự của thời đại cô đều nắm bắt rõ, từ
đó cô định hướng cho công việc, cuộc sống mình “Chế độ này không thích cá nhân
làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không
nhục, nên tao chỉ cần đủ ăn…”, ta có thể thấy cô nhận thức được cả mặt hạn chế của
xã hội thời kì đổi mới, nhận thức được đấy nhưng cô không chạy theo xu hướng,
không uốn mình theo phong trào, cố tỏ ra nghèo khổ để thể hiện mình là người “công
dân tốt của xã hội”.
Cô sống trước hết là vì mình, vì cuộc sống của cả gia đình mình, và cuộc sống ấy là
hoàn toàn tự chủ“…Làm hoa giấy không thể làm giàu được nhưng rất đủ ăn, lại nhàn,
không phải lo sợ gì…”. Cô Hiền là con người thức thời, nhạy bén nhưng cũng rất thực
tế, ngay thẳng. Và sự ngay thẳng của cô còn thể hiện ra ngay trong lời góp ý với nhà
văn Nguyễn Khải: “Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì,
vậy là hỏng….”, chỉ cần một câu nói thôi nhưng ta nhận thức được ở cô Hiền một tư
tưởng dân chủ, lối sống của những con người hiện đại, theo cô thì công việc trong gia
đình bên cạnh trụ cột chính là người chồng thì những người vợ vẫn có quyền đóng góp,
có quyền quyết định trước những vấn đề liên quan đến gia đình của mình, lời nói của
cô là sự góp ý chân thành nhưng cũng là lời phê bình đối với sự gia trưởng của nhà
văn “…người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”.
Cô Hiền là người đề cao những nguyên tắc, những chuẩn mực về đạo đức, và sự coi
trọng, đề cao đó thể hiện ra ngay trong cách dạy dỗ của cô với những đứa nhỏ, khi
chúng ngồi vào bàn ăn thì cô sửa cho từ cách ngồi, cách cầm bát cầm đũa, cách múc
canh và cả cách nói chuyện trong bàn ăn. Và cô cũng răn lũ nhỏ “Chúng mày là người
Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông
tuồng”. Cô Hiền tuy không phải là người sống quá nguyên tắc, gia giáo nhưng những
truyền thống lâu đời của người Hà Nội thì cô cũng nghiêm khắc dạy dỗ, vì đó là nét
đẹp văn hóa song đồng thời cũng là phép tắc, cách ứng xử cơ bản của con người, mà
theo cô thì dạy để chúng biết tự trọng, biết ý thức về bản thân để sau này có thể trở
thành người có ích “…Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ còn sau này
muốn sống ra sao là tùy…”
Tính cách, con người của cô Hiền được bộc lộ rõ nét qua tình huống người con trai của
cô xung phong đi lính. Năm 1965, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam
đang diễn ra căng thẳng, Đảng và nhà nước huy động sức người cũng như sức của để
chi viện cho miền Nam ruột thịt. Trước bối cảnh đó, người con trai cả của cô Hiền đã
xung phong vào miền Nam làm nhiệm vụ, cô Hiền không hề chần chừ, lưỡng lự mà
quyết định cho con đi ngay. Sự quyết đoán này không phải vì cô Hiền không thương
con hay coi nhẹ những hi sinh nơi chiến trường mà đều xuất phát từ chính ý thức của
một người công dân, một người mẹ mẫu mực. Cô cho đứa con đi lính là muốn nó có ý
thức trước đất nước, biết sống tự trọng và là một người công dân sống có ích: “Tao
đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó
dám đi cũng là biết tự trọng”.
Từ khi đi lính thì không có bất kì tin tức gì thì người con thứ hai của cô cũng làm đơn
xin tòng quân, nối tiếp chí hướng của người anh. Với tư cách của một người mẹ, cô
Hiền không khỏi đau xót, thương tâm nhưng càng thương con thì cô càng muốn chúng
sống đúng với bổn phận, với trách nhiệm của mình. Cô cũng ý thức được đất nước
đang cần những sự hi sinh và bao thế hệ của con trai cô cũng đã đi lính, đã dâng hiến
cho đất nước. Cô không ngăn cản chúng ra đi, vì như thế là ích kỉ khi bảo con mình
tìm đường sống cho mình còn phó thác mọi trách nhiệm, hi sinh cho bạn bè cùng trang
lứa “…Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm con
đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết nó”.
Như vậy, ta có thể thấy nhân vật cô Hiền là một người thức thời, sâu sắc nhiều trải
nghiệm. Qua những tình huống truyện đã làm nổi bật lên những phẩm chất đáng quý ở
cô. Đó là một con người ngay thẳng, không sống giả dối, vụ lợi; là một con người
đúng chuẩn của người Hà Nội – chuẩn mực, nề nếp. Với tư cách là một người công
dân cô là một người công dân có trách nhiệm, còn với tư cách của một người mẹ cô
thương con, biết cách dạy dỗ, giáo dục, không vì những tình cảm cá nhân và ngăn cản
để con mình trở thành những người không có trách nhiệm, ý thức với đất nước.
Phân tích nhân vật cô Hiền - Mẫu 3
Nếu như Nguyễn Minh Châu viết lên số phận người đàn bà hàng chài trong thời kì đổi
mới để qua đó thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ hàng chài cam chịu, hi sinh vì gia
đình thì Nguyễn Khải cũng góp vào hình tượng người phụ nữ trong thời kì đổi mới với
nhân vật cô Hiền trong tác phẩm Một người Hà Nội. Tuy cùng một giai đoạn thời kì
đổi mới nhưng chúng ta thấy được sự khác nhau giữa số phận của hai nhân vật này.
Nhân vật cô Hiền có cuộc sống hạnh phúc hơn và cái mới trong hình tượng người phụ
nữ mà Nguyễn Khải đã mang đến chính là những vẻ đẹp của cô Hiền - người phụ nữ
trong giai đoạn mới. Cô được ví như “hạt bụi vàng” của Hà Nội.
Cô đại diện cho phẩm chất và đẹp của những người phụ nữ thức thời mà vẫn mang
đậm vẻ đẹp truyền thống. Những vẻ đẹp ấy được tác giả thể hiện rất rõ trong tác phẩm
của mình. Vẻ đẹp mà một người phụ nữ thời hiện đại ngày nay cần phải học tập, cái
đáng học tập là truyền thống mà vẫn hiện đại, hiện đại nhưng không mất đi sự truyền
thống. Nói cách khác đó chính là hội nhập mà không hòa tan, phát triển đồng thời đi
liền với chống lại những cái xấu. Tác giả không dùng một lời nào để nói về ngoại hình
của cô Hiền mà tác giả đi sâu vào việc khai thác chiều sâu tâm hồn và tính cách của cô.
Hoàn cảnh sống của cô là khi miền Bắc đang đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, nền
kinh tế thị trường phát triển. Bên cạnh những mặt tích cực của cuộc sống thì cũng có
những mặt tiêu cực. Vẻ đẹp của cô Hiền được tác giả ví như “hạt bụi vàng” của Hà Nội.
Cách sống của cô khiến cho người ta nghĩ cô là tư sản nhưng cô không chú ý đến. Khi
đứa cháu, anh bộ đội Cụ Hồ thân mật và tò mò hỏi cô về thành phần giai cấp, về
chuyện “tại sao cô không phải học tập cải tạo. . . ” thì cô cười rất tươi: “Tại sao chưa
đủ tiêu chuẩn”, và thản nhiên nói: “Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản,
nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được”. Như vậy có thể thấy cô
rất kiên trực, cô sống theo cách của cô mà không sợ ai nói gì miễn sao cô không làm hại ai.
Khi nhiều bè bạn ngờ vực: “Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhỉ?”,
thì cô nhẹ nhàng trả lời: “Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”. Đúng là có
khôn hơn các bà bạn, và “thức thời’’ hơn ông chồng. Trước đây, nhà cô cũng thuê một
anh bếp và một chị vú. Chị vú trông coi con cho cô từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi.
Trong suốt 26 năm trời đó, cô coi anh bếp cô vú “tình nghĩa như người trong họ”, đối
xử rất tử tế, nên sau này khi đã về quê, đã làm chủ nghiệm hợp tác xã. Hai vợ chồng
vẫn qua lại thân tình, “ngày giỗ ông chú và ngày Tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và
rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em”.
Cô Hiền là một người phụ nữ thức thời bởi vì nhiều cái cô rất thực tế, cô có hai nhà thì
một nhà để ở. Chồng cô đòi mua máy in thì cô hỏi ông có đứng may được không. Ông
chồng lại đành thôi. Như vậy không phải vì cô tiếc tiền hay hống dịch mà là vị khi
đang khó khăn cô biết nên dành tiền cho việc gì và không dùng cho việc gì.
Cô hiện lên là một người vợ đảm đang dẫu nền kinh tế khó khăn những cô vẫn có thể
nuôi sống gia đình. Đó là một vẻ đẹp đảm đang của người Việt Nam nói chung và của
người Hà Nội nói riêng. Không chỉ thế cô lo toan mọi việc trong gia đình kiếm sống
nuôi gia đình còn thể hiện sự giỏi giang, cần cù, chăm chỉ của người phụ nữ. Công
việc của cô là làm ở một cửa hàng hoa các loại hoa giấy, lẵng hoa đan băng tre. . . rất
đẹp do tự tay cô làm ra, bán rất đắt, nhưng “chịu thuế rất nhẹ”, chăng mang tiếng tư
sản, tiểu chủ gì cả giữa cái thời “cải tạo và đấu tranh giai cấp. . Cô Hiền thật khôn
ngoan, cô biết sống hợp lí, ứng xử theo thời thế. Phải là con người chín chắn và từng
trải mới có cách sống, cách làm ăn như thế, có “đầu óc rất thực tế” như thế.
Không chỉ vậy cô Hiền còn biết dạy con mình thành một người có trách nhiệm với tổ
quốc và một người trưởng thành. Cô khuyên con của cô đi tòng quân vào miền Nam
đánh giặc, có người thân ai mà chẳng sợ mất đi họ nhưng vì tổ quốc cần vì miền Nam
ruột thịt cô khích lệ con mình nên đi. Như vậy không phải cô đẩy con mình vào chỗ
chết mà cô đang dạy con mình yêu nước thương dân, dạy con mình biết vì người khác.
Đó chẳng phải là một vẻ đẹp của người phụ nữ Việt nam hay sao, một người mẹ hay
sao?. Cô còn là một người chuẩn Hà Nội không pha trộn, có những cái mới du nhập
vào nhưng cô thì vẫn vậy vẫn giữ y nguyên cái phẩm chất và tính cách của người Hà
Nội. Đó là vẻ đẹp của truyền thống giống câu:
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”
Không những thế cô Hiền tỏ ra là một người rất sắc sảo và tế nhị, khi gọi là đồng chí
Khải thì cô mắng đứa con là phải gọi là “anh Khải”. Ngày thường cô ăn mặc rất bình
dân nhưng có những buổi liên hoan thì cô lại rất trang trọng.
Và đặc biệt cô rất biết giữ lời ăn tiếng nói của mình, với những người bình dân thân
thiết thì ăn nói thô tục sao cũng được nhưng trước những người quý phái thì phải tế nhị.
Qua đây ta thấy cô Hiền mà nhà văn Nguyễn Khải cất công xây dựng lên thật đẹp. Một
người phụ nữ không chỉ giỏi viêc nhà mà lo được cả việc cho xã hội. Cô đúng là hạt
bụi vàng của Hà Nội. Hạt bụi vốn để người ta chỉ những cái vô cùng bẩn và nhỏ bé
nhưng ở đây tác giả lại nói là hạt bụi vàng. Nó thể hiện sự nhỏ bé của cô Hiền nhưng
lại làm nên một vẻ đẹp đại diện cho những người phụ nữ đương thời.
Phân tích nhân vật cô Hiền - Mẫu 4
Nét đẹp của văn hóa kinh kì xưa và nay đã và đang làm rung động bao trái tim người
nghệ sĩ, trở thành nguồn cảm hứng nghệ thuật của thơ văn, họa và nhạc... Nguyễn
Khải cũng là một nhà văn nhiều duyên nợ với mảnh đất nghìn năm văn hiến ấy. Nhà
văn từng tâm sự, ông đã sống với Hà Nội qua nhiều thời đoạn, nhiều chặng đường của
hiện thực đất nước, "thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mỗi lứa tuổi...". Đặc
biệt, với Nguyễn Khải, Hà Nội đẹp nhất ở những con người hào hoa, có bản lĩnh, tinh
tế trong ứng xử, nhưng cũng đầy nghị lực kiên cường, thiết tha yêu Thủ đô, đất nước
thân thương. Cảm nhận đó của nhà văn được thể hiện tập trung trong nhân vật bà Hiền - một người Hà Nội.
Cũng như những người Hà Nội bình thường khác, bà Hiền đã cùng Hà Nội, cùng đất
nước trải qua nhiều biến động thăng trầm nhưng vẫn giữ được cái cốt cách người Hà
Nội, cái bản lĩnh văn hóa của người Hà Nội. Bà sống thẳng thắn, chân thành, giàu tự
trọng. Nét đẹp của người Hà Nội ấy như bản chất tự nhiên bộc lộ ngay trong chính
cuộc sống đời thường của một người vợ, người mẹ.
Là người phụ nữ có nhan sắc, yêu văn chương, thời con gái giao du với nhiều văn
nhân nghệ sĩ nhưng không chạy theo những tình cảm lãng mạn viển vông, bà Hiền
"chọn bạn trăm năm là một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội
phải kinh ngạc". Người ta kinh ngạc vì nghĩ theo thói thường, còn bà Hiền không ham
danh lợi, sự tính toán. Ông giáo tiểu học - mẫu người mô phạm, khiêm nhường - là
mẫu người phù hợp với quan niệm của cô về tổ ấm gia đình - quan niệm chỉ có ở một
người nghiêm túc với hôn nhân, đặt trách nhiệm "làm vợ", "làm mẹ" lên trên mọi thú
vui khác. Tình yêu của bà Hiền cũng là một tình yêu sáng suốt của người mẹ giàu tự
trọng, biết nhìn xa trông rộng. Cái thời người Việt Nam thích đẻ nhiều con thì bà Hiền
lại có cái quan niệm khác người - bà không tin "trời sinh voi sinh cỏ", mà cho rằng con
cái phải được nuôi dạy chu đáo để chúng có thể "sống tự lập". Trong gia đình, bà Hiền
luôn là người chủ động, tự tin vì bà hiểu rõ vai trò quan trọng của người vợ, người mẹ.
Trước ứng xử của một người cháu đối với vợ mà theo bà là sự "bắt nạt quá đáng", bà
thẳng thắn phê bình và bảo: "Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng
chả ra sao". Trong cách dạy con, bà dạy từ những cái nhỏ nhất. Chuyện ngồi ăn, cách
cầm bát, cầm đũa, múc canh... chỉ là những chuyện vặt vãnh, nhỏ nhặt đối với nhiều
người. Bà Hiền thì khác, bà coi đấy là văn hóa sống, văn hóa người, hơn thế, đấy là
văn hóa của người Hà Nội. Bà nhỏ nhẹ nhắc nhở: "Chúng mày là người Hà Nội thì
cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng". Cái
"chuẩn" trong suy nghĩ của bà Hiền là "lòng tự trọng". Lòng tự trọng không cho phép
con người ta sống hèn nhát, ích kỉ. Khi được hỏi: "Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu
chứ?". Bà Hiền trả lời: "Tao đau đớn mà bằng lòng vì tao không muốn nó sống bám
vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng là biết tự trọng". Và bà cũng lại chấp nhận khi
em Dũng - con trai thứ hai của bà cũng muốn tiếp bước anh: "bảo nó đi tìm đường
sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó". Với bà Hiền, con người
đánh mất lòng tự trọng thì chỉ còn cái chết - cái chết tâm hồn. Bà Hiền tôn trọng danh
dự của con, hiểu con nên chấp nhận để con ra chiến trường nhưng bà không che giấu
nỗi đau lòng, không vờ vui vẻ ồn ào. Với bà, đấy là quyết định thật khó khăn nhưng
hợp lí. Đó cũng là một quyết định của "một người Hà Nội" thiết tha yêu đất nước.
Đặt tên truyện là Một người Hà Nội, có lẽ nhà văn Nguyễn Khải như muốn khắc đậm
cái bản lĩnh, cốt cách của người Hà Nội. Người đọc nhận ra "chất Hà Nội" ở bà Hiền
còn bởi cái nét văn hóa lịch lãm, sang trọng trong cách bài trí phòng khách cùa bà: vừa
cổ kính, quý phái và tinh tế, "suốt mấy chục năm không hề thay đổi" - một không gian
hẹp nhưng lưu giữ cái hồn của mảnh đất kinh kì. Cuộc sống biến động từng ngày, khó
khăn theo những đổi thay khôn lường. Lối sống của một số người Hà Nội trong thời
"kinh tế thị trường" khiến người ta - nhất là với những người yêu Hà Nội, không khỏi
thất vọng (như những người mà nhân vật "tôi" quên đường phải hỏi thăm, anh chàng
đi xe đạp, cô ca, gái anh bạn...). Nhưng với bà Hiền, không chỉ làm ấm lòng người
được bởi chính nét đẹp mang cốt cách người Hà Nội cùa mình, bà còn xua đi cái ấn
tượng "hơi nghiệt" của người cháu - của người đọc bằng thái độ ung dung, tự tại, bằng
sự khôn ngoan sâu sắc của trí tuệ. Bà nói về luật tự nhiên, về niềm tin: Hà Nội "thời
nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi", bà "khiêm tốn và rộng lượng",
hòa mình với cảnh sắc Hà Nội "trời rét, mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ẩm áo chứ không
làm ướt", bà đang lau chùi cái bát cổ để cắm hoa thủy tinh. Sự hài hòa đó là cái duyên
riêng Hà Nội, nét quyến rũ cua Hà Nội khiến người xa Hà Nội phải kêu thầm "thấy Tết
quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội".
Tác giả gọi bà Hiền là "một hạt bụi vàng" của Hà Nội. Nói đến hạt bụi - người ta liên
tưởng tới sự bé nhỏ, tầm thường, ít ai nhận thấy và cũng chẳng có giá trị gì. Nhưng là
hạt bụi vàng thì dù rất nhỏ bé, khiêm nhường nhưng lại mang giá trị quí báu - là tinh
túy của giá trị cuộc sống. Bao nhiêu hạt bụi vàng sẽ hợp lại thành những "ánh vàng"
chói sáng. Bà Hiền là một người Hà Nội bình thường, vô danh nhưng ở bà thấm sâu
cái tinh hoa trong bản chất người Hà Nội. Những người Hà Nội như bà đã là "những
hạt bụi vàng lấp lánh đâu đỏ ở mỗi góc phố Hà Nội", tất cả đang "bay lên cho đất kinh
kì chói sáng những ánh vàng".
Văn chương khắc họa lịch sử qua số phận cá nhân, trọng tâm phản ánh là con người, là
đặc điểm, bản chất, cách ứng xử của con người trong những tình thế lịch sử nhất định.
Một người Hà Nội là tác phẩm văn chương như thế. Nhân vật trung tâm là bà Hiền với
những chặng đường đời song hành cùng những biến động lớn lao của đất nước. Nhà
văn đã có những khám phá sâu sắc về bản chất của nhân vật trên dòng lưu chuyển của
hiện thực lịch sử. Là một con người, bà Hiền luôn giữ gìn phẩm giá, nhân cách là một
công dân, bà chỉ làm những gì có lợi cho đất nước. Là một người Hà Nội, bà đà góp
phần làm rạng rỡ thêm cái cốt cách, cái truyền thống của một Hà Nội anh hùng và hào
hoa - tôn thêm vẻ đẹp thanh lịch của "người Tràng An". Chất nhân văn sâu sắc của
ngòi bút Nguyễn Khải chính là ở đó.
"Muốn hiểu con người thời đại với tất cả những cái hay, cái dở của họ, nhất là muốn
hiểu cách nghĩ của họ, cuộc sống tinh thần của họ, phải đọc Nguyễn Khải". Nhận xét
này của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn thật xác đáng, nhất là đối với truyện ngắn
Một người Hà Nội của Nguyễn Khải.
Phân tích nhân vật cô Hiền - Mẫu 5
Nguyễn Khải là nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm “Mùa lạc”,“Một chặng
đường”,“Tầm nhìn xa”. Trước năm 1978, tác phẩm của Nguyễn Khải là cái nhìn tỉnh
táo, sắc lạnh, luôn khai thác hiện thực trong thế xung đột, đối lập cũ – mới, tốt – xấu,
ta – địch. Từ năm 1978 trở về sau, tác phẩm của ông là cái nhìn trăn trở, chiêm nghiệm,
cảm nhận cái hiện thực xô bồ, hối hả, đổi thay nhưng cũng đầy hương sắc. Chuyển
mạnh từ hướng ngoại sang hướng nội. Nhà văn nhìn con người trong mối quan hệ chặt
chẽ với lịch sử, quá khứ dân tộc, gia đình và sự tiếp nối thế hệ. Từ đó nhà văn khẳng
định những giá trị nhân văn cao đẹp của cuộc sống và con người hôm nay. Nhân vật bà
Hiền trong tác phẩm tiêu biểu cho hướng tiếp cận ấy của nhà văn.
Tác phẩm “Một người Hà Nội” tiêu biểu cho các tác phẩm của Nguyễn Khải sau giai
đoạn 1978, vẻ đẹp của hình tượng của cô Hiền tiêu biểu cho nét đẹp và sức sống bất
diệt của Hà thành. Qua nhân vật này, nhà văn Nguyễn Khải đã nói lên biết bao nhiêu
điều có tính triết lý về sự thay đổi của thời gian, không gian nhưng vẻ đẹp của con
người và vốn văn hóa cùng tính cách người Hà Nội mãi là giá trị tinh thần không thay đổi.
Nhân vật cô Hiền vốn xuất thân trong một gia đình giàu có, lương thiện, được dạy dỗ
theo khuôn phép nhà quan, thời trẻ là một thiếu nữ xinh đẹp, thông minh, mở xalông
văn chương để giao lưu rộng rãi với giới văn nghệ sĩ Hà thành. Cô là con người trí
thức, hiểu biết rộng, là con người có “bộ mặt tư sản”, một cách sống rất tư sản: “Ở
trong một tòa nhà rộng, tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra
cây si cổ thụ và hậu cung đền Ngọc Sơn”. Cái mặc cũng sang trọng quá: “Mùa đông
ông mặc áo Ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo Măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt
cườm”. Cái ăn cũng không giống với số đông: “Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có
một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản, và từng người ngồi đúng chỗ
quy định”. Đây là một lối sống nền nếp, lịch lãm, nhìn thì cứ ngỡ là tư sản nhưng thực
chất cô Hiền không phải là tư sản bởi vì “Cô không bóc lột ai cả thì làm sao gọi là tư
sản”. Cô làm ăn lương thiện với cửa hàng hoa giấy do chính tay tự làm và các con phụ
giúp. Trong quan hệ với người làm, chủ và tớ “dựa vào nhau mà sống”. Tình nghĩa
như người trong họ. Đây chính là vẻ đẹp của người lao động chân chính, có nhân có nghĩa.
Vẻ đẹp của cô Hiền được miêu tả trong nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử. Nhân
vật lại có những biểu hiện ứng xử thể hiện cá tính đặc biệt nhất quán.
Khi hòa bình lập lại 1955, nhân vật “Tôi” từ kháng chiến trở về. “Hà Nội nhỏ hơn
trước, vắng hơn trước”. Người thì tìm những vùng đất mới để làm ăn, sinh sống. Riêng
gia đình cô Hiền vẫn ở lại Hà Nội “Họ không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập
nghiệp ở vùng đất khác”. Đây chính là sự gắn bó máu thịt, tình yêu của cô đối với Hà
Nội. Hay sau kháng chiến chống Mỹ, mỗi bận nhân vật “tôi” từ Sài Gòn trở về Hà Nội,
bà băn khoăn hỏi “Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá như thế nào, dân tình thế nào ?”.
Cứ ngỡ đó chỉ là câu hỏi xã giao nhưng thực chất là chứa đựng tất cả những đau đáu,
phấp phỏng và hi vọng về tương lai Hà Nội.
Nhân vật bà Hiền mang vẻ đẹp thanh lịch của người đất kinh kỳ. Đó là vẻ đẹp có trong
bản thân nhân vật và được nhân vật không ngừng ý thức vun đắp. Đúng như câu ca
xưa viết về con người Hà Nội:
“Chẳng thơm cũng thể hoa lài
Chẳng lịch cũng thể con người Tràng An”
Vẻ đẹp thanh lịch đó được thể hiện ở cách bà nuôi dạy con, uốn nắn cho chúng từ thói
quen nhỏ nhất như cách cầm bát đũa, cách múc canh, cách nói chuyện trong bữa ăn,
cách đi đứng… Điều này thật khác với cách sinh hoạt của gia đình nhân vật xưng tôi
“Cứ việc sục muôi, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát mắng con cái, nhồm nhoàm, hả hê,
không phải theo một quy tắc nào cả”. Với bà Hiền đây không phải là chuyện sinh hoạt
vặt vãnh mà là văn hóa sống, văn hóa ứng xử của người Hà Nội: “Là người Hà Nội thì
cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện buông tuồng”. Bà còn
nói làm người Hà Nội thì phải “biết lòng tự trọng, biết xấu hổ”. Đây không phải là
biểu hiện của sự kỹ tính mà thể hiện nét tinh tế của một người có văn hóa.
Vẻ đẹp thanh lịch ấy còn thể hiện qua lối sống, qua những thói quen lịch lãm rất Hà
Nội. Dường như sự lịch lãm ấy như dòng máu chảy trong huyết quản của bà qua bao
thời gian. Thời thiếu nữ thì mở xalông văn chương, khi về già thì tĩnh tâm hưởng
ngoạn cái đẹp, trang trọng giữa nhịp sống xô bồ, náo nhiệt với hình ảnh ngồi “Tỉa thủy
tiên mỗi khi xuân về”, qua không khí căn phòng khách cổ kính, trang trọng với “Bình
phong bằng gỗ chạm… Cái sập gụ chân quỳ … Cái lư hương đời Hán”. Tất cả đều tinh
tế và quý phái đậm hồn Hà Nội.
Sau chiến tranh, giữa đời thường là vẻ đẹp của một bà Hiền bình dân như bao con
người khác “Áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc đi guốc, khăn len buộc đầu”.
Nhưng điều đáng quý ở bà là quan niệm sống “Xã hội lúc nào cũng phải có một gia
tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị”. Đây là một quan niệm đẹp về
cái chuẩn thanh lịch. Khác với kiểu buông tuồng. Bữa tiệc chiêu đãi hai anh lính từ
chiến trường miền Nam trở về đã giúp tác giả nói lên được vẻ đẹp ấy, đó là vẻ đẹp
thanh lịch đúng chuẩn của con người Hà Nội. “Các ông mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, cổ thắt
caravat, các bà lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc, đeo dây
đi lại uyển chuyển”. Vẻ đẹp này không chỉ là vẻ đẹp một thời mà là cả một đời, nó sẽ
là vẻ đẹp trầm tích văn hóa cho một thời vàng son của lịch sử.
Ngoài vẻ đẹp thanh lịch quý phái, ở bà còn toát lên vẻ đẹp của bản lĩnh cá nhân, bản
lĩnh sống của người Hà Nội, hiểu biết, nhận thức về cuộc sống hết sức thực tế. Là
người phụ nữ nhưng bà mạnh mẽ, chủ động, tự tin, dám là chính mình. Trong hôn
nhân bà chủ động lấy một ông giáo tiểu học hiền lành chăm chỉ. Bà nào chọn ai trong
số đám văn nhân một thời vui chơi ? Sự kiện ấy làm cả Hà Nội “kinh ngạc”. Bà tính
toán việc sinh con đẻ cái sao cho hợp lý, đảm bảo tương lai con cái. Nếu trong thời kỳ
phong kiến vai trò của người phụ nữ bị xem nhẹ thì trong xã hội hôm nay, bà Hiền
luôn đề cao người phụ nữ “Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng
chả ra sao”. Bà cũng quyết định luôn cái kinh tế gia đình trong cái buổi giao thời đầy
phức tạp. Ông chồng định mở tiệm máy in trong khi nhà nước đang có ý “không thích
cá nhân làm giàu”. Bà nhanh chóng cản ngăn “Ông muốn làm ông chủ ở cái chế độ
này à?”. Đây chính là cái nhìn tỉnh táo, sáng suốt của con người biết nhìn xa trông rộng.
Bản lĩnh ở bà còn là tính thẳng thắn. Bà bày tỏ rất thẳng nhận xét của mình về cuộc
sống với bao vấn đề. Theo bà “Chính phủ can thiệp quá nhiều vào việc của dân quá,
nào là phải tập thể dục mỗi sáng, sinh hoạt văn nghệ mỗi tối”. Bà cũng nhận ra cái gì
đó không phù hợp trong cách nghĩ “không thích cá nhân làm giàu”. Đây chính là thái
độ nói thẳng nói thật của con người trung thực, có cái nhìn sâu sắc với thời cuộc.
Vẻ đẹp của bà Hiền còn là vẻ đẹp của một nhân cách sống cao thượng, vẻ đẹp của con
người Hà Nội luôn coi lòng tự trọng là thước đo phẩm giá của mình. Lòng tự trọng ấy
được thể hiện rõ nét nhất qua câu chuyện của bà về hai người con đi bộ đội. Khi anh
Dũng xin đi bộ đội vào Nam chiến đấu, bà nói với nhân vật “tôi”: “Tao đau đớn mà
bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng
là biết tự trọng”. Đến lượt thằng con thứ hai lên đường bà cũng nói “Tao không
khuyến khích cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm con đường sống để các
bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Bà muốn sự công bằng như bao bà
mẹ khác “Tao cũng muốn sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết
cả, vui lẻ có hay hớm gì”. Là người mẹ ai mà không yêu con, không muốn con gặp
gian nguy, bất trắc nhưng ở đây bà Hiền muốn dạy con đừng bao giờ sống đớn hèn,
sống bám vào sự hi sinh của người khác là sống đáng hổ thẹn. Lòng tự trọng không
cho phép con bà sống hèn nhát, ích kỷ. Ở đây bà còn hiện lên vẻ đẹp của người mẹ
thời chiến có ý thức trách nhiệm với đất nước với dân tộc, biết sẻ chia trước đau
thương mất mát của biết bao người mẹ khác. Lòng tự trọng giúp con người ta sống có
trách nhiệm với cộng đồng. Ở bà Hiền, lòng tự trọng của cá nhân đã hòa vào lòng tự
trọng của dân tộc. Đây là một cách ứng xử rất nhân bản.
Bà còn là con người luôn lưu giữ những niềm tin vào cuộc sống. Dù sống trong cơn
lốc thị trường làm xói mòn đi nếp sống của người Hà Nội ngàn năm văn vật nhưng nó
không làm lay chuyển được ý thức của con người luôn tin vào giá trị văn hóa bền vững
của Hà Nội không thể mất đi. Bà quan niệm rằng “Với người già, bất kể ai, cái thời đã
qua luôn là thời vàng son, mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không
thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi”. Đấy chính là niềm tin
mãnh liệt vào những giá trị cổ truyền. Nhà văn còn đem hình ảnh cây si cổ thụ vào
phần cuối của truyện với thái độ ngợi ca nhân vật với sự trân trọng những giá trị tâm
linh. Cây si bật gốc đổ lên mái đền Ngọc Sơn nhưng nhờ vào tình yêu và niềm tin của
con người mà nó đã sống lại. Sự sống lại cây cổ thụ là niềm lạc quan tin tưởng của tác
giả vào sự phục hồi những giá trị tinh thần của Hà Nội. Những giá trị văn hóa bền
vững sẽ không mất đi, nhà văn ao ước những giá trị ấy sẽ hóa thân vào hiện tại “Một
người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu
vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn
gió mà bay lên cho đất kinh kỳ lung linh chói sáng những ánh vàng”.
Làm nên thành công của tác phẩm nói chung và xây dựng nhân vật bà Hiền nói riêng
là nhờ vào ngôn ngữ kể chuyện đặc sắc, có tính cá thể hóa. Nhà văn ít miêu tả, chủ yếu
là kể, kể bằng quan sát, phân tích và bình luận sắc sảo giàu ý nghĩa. Giọng điệu trần
thuật mang tính trải đời, tự nhiên, trĩu nặng suy tư, giàu chất khái quát, đa thanh, mang
đậm yếu tố tự truyện qua “cái tôi”, (giọng kể tự tin xen lẫn hoài nghi, tự hào xen lẫn tự
nhiên tăng tính chân thật, khách quan.)
Qua nhân vật bà Hiền, nhà văn khẳng định sức sống bền bỉ của các giá trị văn hóa
mang nét đẹp Hà Nội. Qua đó tác giả gửi gắm niềm thiết tha gìn giữ các giá trị ấy cho
hôm nay và cho cả mai sau. Từ đó chúng ta thêm yêu quý, tự hào về văn hoá, đất nuớc,
con người Việt Nam trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, với quá khứ dân tộc, với
quan hệ gia đình và nối tiếp thế hệ. Nhân vật bà Hiền là “Một người Hà Nội” mãi mãi
là hạt bụi vàng trong bể vàng trầm tích của văn hóa xứ sở.
Phân tích nhân vật cô Hiền - Mẫu 6
Một người Hà Nội là tác phẩm rút từ tập truyện Hà Nội trong mắt tôi, tác phẩm tiêu
biểu cho ngòi bút Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Trong truyện Một người
Hà Nội Nguyễn Khải đã xây dựng khá thành công hình tượng nhân vật cô Hiền, một
nhân vật khá tiêu biểu cho người Hà Nội.
Cô Hiền, một nhân vật xuyên suốt cả tác phẩm, cô đại diện cho phẩm chất và đẹp của
những người phụ nữ thức thời mà vẫn mang đậm vẻ đẹp truyền thống. Những vẻ đẹp
ấy được tác giả thể hiện rất rõ trong tác phẩm của mình. Vẻ đẹp mà một người phụ nữ
thời hiện đại ngày nay cần phải học tập, cái đáng học tập là truyền thống mà vẫn hiện
đại, hiện đại nhưng không mất đi sự truyền thống. Nói cách khác đó chính là hội nhập
mà không hòa tan, phát triển đồng thời đi liền với chống lại những cái xấu. Tác giả
không dùng một lời nào để nói về ngoại hình của cô Hiền mà tác giả đi sâu vào việc
khai thác chiều sâu tâm hồn và tính cách của cô.
Vẻ đẹp của cô Hiền được miêu tả trong nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử. Cô
Hiền vốn xuất thân trong một gia đình giàu có, lương thiện, được dạy dỗ theo khuôn
phép nhà quan, thời trẻ là một thiếu nữ xinh đẹp, thông minh, mở salon văn chương để
giao lưu rộng rãi với giới văn nghệ sĩ Hà thành. Cô là con người trí thức, hiểu biết
rộng, là con người có “bộ mặt tư sản”, một cách sống rất tư sản: “Ở trong một tòa nhà
rộng, tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu
cung đền Ngọc Sơn”. Cô làm ăn lương thiện với cửa hàng hoa giấy do chính tay tự
làm và các con phụ giúp. Trong quan hệ với người làm, chủ và tớ “dựa vào nhau mà
sống”. Tình nghĩa như người trong họ. Đây chính là vẻ đẹp của người lao động chân chính, có nhân có nghĩa.
Vẻ đẹp thanh lịch của cô được thể hiện ở cách nuôi dạy con, uốn nắn cho chúng từ thói
quen nhỏ nhất như cách cầm bát đũa, cách múc canh, cách nói chuyện trong bữa ăn,
cách đi đứng. Với cô Hiền đây không phải là chuyện sinh hoạt vặt vãnh mà là văn hóa
sống, văn hóa ứng xử của người Hà Nội: “Là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng
phải có chuẩn, không được sống tùy tiện buông tuồng”. Cô còn nói làm người Hà Nội
thì phải “biết lòng tự trọng, biết xấu hổ”. Đây không phải là biểu hiện của sự kỹ tính
mà thể hiện nét tinh tế của một người có văn hóa.
Vẻ đẹp của cô Hiền còn là vẻ đẹp của một nhân cách sống cao thượng luôn coi lòng tự
trọng là thước đo phẩm giá của mình. Lòng tự trọng ấy được thể hiện rõ nét nhất qua
câu chuyện của cô về hai người con đi bộ đội. Là người mẹ ai mà không yêu con,
không muốn con gặp gian nguy, bất trắc nhưng ở đây cô Hiền muốn dạy con đừng bao
giờ sống đớn hèn, sống bám vào sự hi sinh của người khác là sống đáng hổ thẹn. Lòng
tự trọng không cho phép con cô sống hèn nhát, ích kỷ. Ở đây cô còn hiện lên vẻ đẹp
của người mẹ thời chiến có ý thức trách nhiệm với đất nước với dân tộc, biết sẻ chia
trước đau thương mất mát của biết bao người mẹ khác. Lòng tự trọng giúp con người
ta sống có trách nhiệm với cộng đồng. Ở cô Hiền, lòng tự trọng của cá nhân đã hòa
vào lòng tự trọng của dân tộc. Đây là một cách ứng xử rất nhân bản.
Cô còn là con người luôn lưu giữ những niềm tin vào cuộc sống. Dù sống trong cơn
lốc thị trường làm xói mòn đi nếp sống của người Hà Nội ngàn năm văn vật nhưng nó
không làm lay chuyển được ý thức của con người luôn tin vào giá trị văn hóa bền vững
của Hà Nội không thể mất đi. Cô quan niệm rằng với người già, bất kể ai, cái thời đã
qua luôn là thời vàng son, mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không
thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi. Đấy chính là niềm tin
mãnh liệt vào những giá trị cổ truyền.
Qua đây ta thấy cô Hiền mà nhà văn Nguyễn Khải xây dựng lên thật đẹp. Một người
phụ nữ không chỉ giỏi việc nhà mà lo được cả việc cho xã hội. Nó thể hiện sự nhỏ bé
của cô Hiền nhưng lại làm nên một vẻ đẹp đại diện cho những người phụ nữ đương thời.