Văn mẫu lớp 8: Phân tích nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc Ngữ Văn 8 | Cánh diều

Văn mẫu lớp 8: Phân tích nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc Ngữ Văn 8 | Cánh diều. Tài liệu được biên soạn và tổng hợp các kiến thức chọn lọc hay nhất giúp cho các bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời các bạn đón xem!

Văn mẫu lớp 8
Phân tích nhân vật Lão Hạc
Sơ đồ tư duy Phân tích nhân vật Lão Hạc
Dàn ý phân tích nhân vật lão Hạc
I. Mở bài
Giới thiệu khái quát về nhà văn Nam Cao, truyện ngắn Lão Hạc.
Giới thiệu về nhân vật lão Hạc - nhân vật trung tâm của tác phẩm.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh sống của lão Hạc
Vợ mất sớm, một mình nuôi con khôn lớn.
Tài sản trong nhà không có gì ngoài ba sào vườn, một túp lều nhỏ và một
con chó.
Không có tiền cho con trai cưới vợ, người con trai bỏ đi đồn điền cao su, bỏ
lại lão sống một mình.
Sau một trận ốm, trong nhà không còn gì để ăn, lão quyết định bán cậu Vàng
- kỉ vật mà anh con trai để lại, không chỉ là một con vật mà còn giống như
một người bạn.
=> Hoàn cảnh vô cùng khó khăn, khổ cực.
2. Vẻ đẹp phẩm chất của lão Hạc
* Một con người hiền lành, nhân hậu và giàu tình yêu thương:
- Một người cha hết mực yêu thương con:
Day dứt vì không có tiền lo cho con lấy vợ.
Kiên quyết giữ lại mảnh vườn là của hồi môn của con dù trong nhà không có
gì ăn.
- Yêu thương con chó vàng, coi nó là một người bạn:
Cho ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì ăn cũng gắp cho nó
cùng ăn.
Khi rảnh rỗi còn đem nó ra tẳm rửa, bắt giận.
Mỗi khi lão uống rượu có đồ nhắm ngon lại gắp cho nó một miếng như
người ta gắp thức ăn cho con cháu trong nhà.
Thường xuyên tâm sự với nó, vỗ về ôm ấp.
=> Đối xử giống như với một con người.
- Quyết định bán cậu Vàng: cùng khó khăn, trăn trở giống như phải quyết định
một việc trọng đại trong đời.
- Diễn biến tâm trạng sau khi bán chó: Sáng hôm sau, lão Hạc sang nhà ông giáo
kể lại toàn bộ sự việc.
Cố làm ra vẻ vui mừng: “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ”, nhưng thực ra lão
cười như mếu và đôi mắt ầng ậc nước.
“Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước
mắt chảy ra”
Lão hu hu khóc…
Tự trách bản thân mình đã già rồi còn đi lừa một con chó: “Khốn nạn... Ông
giáo ơi!... như thế này à?”
Chua chát bảo với ông giáo: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta phải hóa kiếp
cho nó…”
Lão cười và ho sòng sọc, Lão nói xong lại cười đưa đà… Nụ cười dường
như để nén đi nỗi đau đơn khi mất đi “người bạn” duy nhất.
=> Nam Cao đã khắc họa chân thực nỗi đau khổ, day dứt của Lão Hạc sau khi bán
cậu Vàng
* Một con người trong sạch, giàu lòng tự trọng
- Quá túng quẫn, chỉ ăn củ chuối, sung luộc…, nhưng lại từ chối “một cách gần
như hách dịch” những gì ông giáo ngầm cho lão.
- Lão đến nhờ cậy ông giáo hai việc:
Trông nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về sẽ giao lại cho nó.
Mang hết tiền dành dụm được nhờ ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ
ông giáo và bà con lo liệu ma chay cho mình.
- Lão đến xin Binh một ý bả chó nói dối rằng dạo này con chó hay đến
vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó. Nếu được lão sẽ mời hắn uống rượu. Nhưng
thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử.
- Hình ảnh lão Hạc khi chết đầy ám ảnh: “Lão Hạc đang vật trên giường, đầu
tóc rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra,
khắp người lão chốc chốc lại bị giật mạnh một cái. Lão vật đến hai giờ đồng hồ
mới chết”. Cái chết dữ dội, đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện.
=> Tố cáo xã hội đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh khốn cùng.
3. Nghệ thuật
Ngôi kể thứ nhất tự nhiên, linh hoạt
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại…
III. Kết bài
Khái quát chung lại về nhân vật lão Hạc
Đánh giá của người viết về nhân vật lão Hạc trong tác phẩm cùng tên.
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 1
Văn học hiện thực Việt Nam đánh dấu sự thành công trên văn đàn của nhiều tác
giả như Kim Lân, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố... và không thể không nhắc tới nhà
văn Nam Cao. Nếu viết về chủ đề người tri thức, ông không chỉ khiến người đọc
trăn trở, xót xa với bao số phận như Thứ, như Hộ,... những kẻ tri thức giàu ước mơ,
khát khao nhưng bị cái nghèo, cái đói vùi dập, ghì sát đất. Thì viết về chủ đề người
nông dân, Nam Cao cũng khiến cho ta phải thổn thức, đắng cay với số phận của
những kiếp người đau khổ, nghèo đói nhưng giàu tình người. Lão Hạc trong truyện
ngắn cùng tên là một nhân vật như thế.
Cũng như bao nhiêu người nông dân khác, chân lấm tay bùn quanh năm suốt tháng
làm lụng nhưng cuộc sống lão Hạc rất nghèo khổ. Cả gia tài chỉ túp lều nát làm
chốn nương thân với ba sào vườn nhỏ, lãomột con chó lão hết mực yêu quý
với cái tên thân thương "cậu Vàng" một thằng con trai độc nhất. Lão chân
chất, nghèo khó, như bao nhiêu người nông dân khác, lão làm thuê kiếm sống qua
ngày. Đứa con trai của lão mong tiền ới vợ đòi bán mảnh vườn đi
nhưng lão không cho, bèn bỏ nhà đi lên đồn điền cao su không biết ngày trở về.
Vậy lão phải chịu cảnh sống thui thủi, một thân một mình, lấy con chó làm bạn.
Tuổi già, lại đơn, lão ốm liền hơn hai tháng trời không ai chăm sóc, trận ốm
khiến sức khỏe của lão ngày một yếu đi, không còn được khoẻ mạnh như trước
nữa. Nhưng phận làm thuê đâu ai bỏ tiền ra thuê người già yêu bao giờ, việc
nhẹ nhàng thì đàn con gái trong làng cũng làm vừa đủ, nơi đâu đến phần lão.
Lão lâm vào cảnh thất nghiệp, khôngnổi công việc kiếm đồng ra đồng vào nuôi
thân.
Năm ấy, bão tố mạnh đã khiến mảnh vườn nhà lão không còn một chút hoa màu
nào, cây trái bị phá tan hoang. Đã đói lại càng thêm đói, ngày ăn ba hào gạo
người chó cũng cứ đói nheo đói nhắt, tình cảnh thật bi thiết. Cuối cùng, trong
tình cảnh túng bấn, lão buộc phải bán cậu Vàng đi, bởi "lấy tiền đâu nuôi
được". Giá cả ngày một đắt đỏ, đói khổ ngày càng thêm nặng, lão phải ăn những củ
ráy, củ sắn mài, ngọn rau má, khi bữa trai, bữa ốc để qua ngày. Lão dần xa
cách với người hàng xóm thân thuộc nhất của mình ông giáo. Cuộc sống ngày
càng túng, đơn độc. Cuối cùng, lão chọn cái chết bằng bả chó để kết thúc cuộc
đời của chính mình, một cái chết bất ngờ và đầy đau khổ.
Cuộc đời Lão Hạc thật bi thảm, nghèo đói nhưng trong lão ánh lên những phẩm
chất tốt đẹp. Lão một người cha tốt trách nhiệm. Với con, lão luôn dành
hết tình yêu của mình cho hắn, dẫu đó một đứa trẻ bồng bột, phần nông cạn.
Lão luôn lo lắng cho tương của con, nghĩ cho cuộc đời con. Lão buồn vì con không
có tiền cưới vợ, lão đau đớn biết bao khi còn từ bỏ gia đình đi đồn điền cao su. Bao
nhiêu tiền bán được cây trái trong mảnh vườn nhỏ lão đều để dành cho con, chắt
chiu từng hào cũng lo cho con. Tiền bán cậu Vàng lão cũng để cho con.
trong cái đói quay quắt, cái nghèo nàn bao trùm lấy bản thân thì lão cũng nhất
quyết không bán đi bất cứ một sào vườn nào phải để trọn vẹn cho con. Cuộc
đời lão luôn nghĩ về con, mọi việc lão làn đều con, lo lắng cho con. Cái chết
thầm lặng cũng là một hi sinh lớn lao của lão cho con.
Lão Hạc còn một người hiền lành, tốt bụng nhân hậu, giàu lòng yêu thương,
tình nghĩa với hàng xóm, giàu tự trọng và hết mực yêu thương loài vật. Lão rất quý
cậu Vàng, coi cậu như một người bạn, ăn cái cũng chia cho cậu, làm cũng
câu theo cạnh. Lão tâm sự với cậu Vàng như tâm sự với những người thân yêu.
Cậu Vàng như một phần trong đời sống của lão, nguồn vui sống, là chỗ dựa tinh
thần lớn lao của lão. Khi buộc phải bán cậu Vàng đi khi lão quá túng quẫn
bách, bán cậu sự lựa chọn duy nhất lúc này lão làm còn cái nữa để cho
Vàng ăn. Bán cậu Vàng, lão luôn cảm thấy tội lỗi vô cùng, vẻ mặt đau khổ đến dằn
vặt của lão khi kể chuyện bán cậu vàng cho bọn thằng Xiên, thằng Mục thật
thương cảm biết bao: "Mặt lão tự nhiên co rúm lại. Những vết nhăn lại với
nhau, ép cho ớc mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên cái miệng móm
mém của lão mếu như con nít"... Sự dằn vặt đến tội nghiệp khi nghĩ về cậu Vàng
cho ta thấy cái đẹp về nhân cách trong con người Lão Hạc.
Trong xã hội, ta vẫn thấy đầy rẫy những người khi lâm vào đường cùng trở nên tha
hoá, xấu nhân cách. Nhưng với Lão Hạc thì khác, càng trong túng quẫn ông lại
càng rạng ngời lên những phẩm chất tốt đẹp, càng trong đói khổ lại càng ánh lên sự
thanh cao, trong sạch. Lão Hạc như một hình ảnh đẹp tuyệt vời trong những trang
văn của Nam Cao giúp thanh lọc tâm hồn con người khỏi những toan tính, nhỏ
nhen, ích kỉ của đời sống.
thể nói, nhà văn Nam Cao bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình trong
hoàn cảnh điển hình với những chi tiết giàu sức gợi đã tạo nên một tượng đài văn
học bất hủ. Qua đó thể hiện được tấm lòng cảm thương sâu sắc của nhà văn với lão
Hạc nói riêng và những người nông dân Việt Nam xưa nói chung.
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 2
“Lão Hạc” một trong những truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn Nam Cao viết về
số phận người nông dân trước cách mạng. Nổi bật lên trong truyện hình ảnh lão
Hạc đã trở thành một trong những biểu tượng cho người nông dân Việt Nam.
Đầu tiên, lão Hạc cũng sống trong hoàn cảnh chung giống như biết bao người nông
dân trước cách mạng - phải đối mặt với cuộc sống nghèo đói khổ cực. Nhưng lão
cũng hoàn cảnh riêng của mình. Vợ lão mất sớm. Con trai lão bỏ đi đồn điền
cao su vì không có đủ tiền cưới vợ. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con bầu bạn.
Không chỉ vậy, thiên tai còn đẩy lão vào cảnh đói nghèo. Lão phải đối mặt với: cái
đói, giàu yếu, sự đơn. Để rồi cuối cùng lão phải bán con chó trong niềm khổ
đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn lại với nhau, ép cho nước mắt
chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu
hu khóc”...
Sống trong hoàn cảnh đó, nhưng lão Hạc vẫn có những phẩm chất tốt đẹp. Lão Hạc
một người cha hết mực yêu thương con. thương con, lão chấp nhận đối mặt
với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương
vào con chó Vàng. Bởi đó con chó kỉ vật duy nhất con trai lão để lại. Nhìn
con chó, lão tưởng như được thấy con mình. Lão thương con đến mức chấp nhận
cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của hồi môn của con.
Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão
lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn.
Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vậy tha hóa về nhân
phẩm. Lão quyết không nhận sự giúp đỡ của ông giáo, bởi lão nghĩ hoàn cảnh của
ông giáo khá hơn mình đâu. Ban đầu “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”,
“khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối,
hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay
bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn để ăn, để sống. Trong hoàn cảnh này,
con người ta rất dễ đánh mất đi sự trong sạch của mình. Nhưng lão Hạc t không
như vậy. Lão quyết định tìm đến cái chết. Lão đến xin Binh một ít bả chó.Binh
đã nghi ngờ lão. Ông giáo cũng vậy. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn
nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân
cả sự tự trọng cao đẹp của mình.
Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão
Hạc đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch,
được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với con chó Vàng tội
nghiệp.
Với ngòi bút xây dựng nhân vật độc đáo, qua nhân vật lão Hạc, người đọc mới
thấm thía được số phận bất hạnh của người nông dân Việt Nam trước cách mạng,
cũng như nổi bật lên cả là phẩm chất tốt đẹp của họ.
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 3
Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên một trong những nhân vật "để đời" của
Nam Cao. Lão Hạc, một nông dân nghèo khổ, cùng quẫn, nhưng không bị biến
chất như Chí Phèo, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng.
Lão sống một thân một mình trong cô đơn, vất vả. Lão chỉ có đứa con trai duy nhất
để nương tựa tuổi già thì anh ta lại phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cao su- "cao su đi
dễ khó về". Lão Hạc đành thui thủi làm thuê, làm mướn kiếm ăn lân hồi, đồng thời
cố nhặt nhạnh, dành dụm cho con.
Nhưng một trận ốm đã làm lão trở nên tay trắng. Sức yếu dần "những công việc
nặng không làm được nữa", việc nhẹ thì "đàn tranh hết". Lão Hạc không
việc. Rồi lại bão. Hoa màu trên mảnh vườn bị phá sạch sành sanh. Gạo cứ kém
dần. "Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo gia sự còn đói gieo đói
dắt. Cuối cùng lão phải ăn khoai. Khoai cũng hết. Bắt đầu từ đây, lão chế tạo được
món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn
rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.
Thực ra tình cảnh lão Hạc đã làm bế tắc đến thế. Lão còn mảnh vườn đó, con
chó vàng đó, thể bán đi tiêu. Nhưng lão sống con chứ đâu mình. Điều
này mấy ai hiểu cho lão. Người ta chỉ thấy lão lẩm cẩm. ông giáo hàng xóm
người lòng ái ngại, nhưng vừa bày tỏ với vợ đã bị thị gạt phắt ngay: "Cho lão
chết! Ai bão lão tiền chịu khổ! Nhà mình sung sướng giúp lão? Con
mình cũng đói".
Còn Binh Tư, một lưu manh chuyên đánh bả chó thì lại lấy làm khoái chí khi
thấy lão đến xin mình một ít bả. Hắn tưởng đâu lão Hạc "đói quá hóa liều" cũng
quay sang trộm cắp như hắn. Hắn bĩu môi: "Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm
ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chẳng vừa đâu". Ngay đến ông giáo tuy hiểu lão
Hạc hơn cả mà cũng đâm ra nghi ngờ.
Người ta chỉ hiểu lão khi lão đã chết rồi. Lão tự tử bằng nắm bả chó của Binh Tư.
Lão chết đi nhưng sẽ còn sống mãi trong lòng người như một tấm gương đạo đức
hiếm có.
Hiếm người cha nào thương con như lão Hạc. Nghèo khó nhưng lúc nào cũng
nghĩ đến bổn phận làm cha, lo làm tròn bổn phận ấy, dẫu có phải chịu khổ, chịu đói
chết bi thảm. Hình ảnh đứa con trái, nỗi lo chu tất cho con luôn ám ảnh, dằn vặt
tâm trí lão. Hồi anh ta còn nhà, lão không cho anh ta bán vườn để cưới vợ cũng
là xuất phát từ sự tính toán điều hơn lẽ thiệt của bậc làm cha.
Thực ra lão dằn lòng lắm. Bởi đạo làm cha phải lo cho con một người vợ, một căn
nhà - một tổ ấm gia đình. Song tình cảnh lão thì lo chưa chu toàn được. Anh con
trai phẫn chí ra đi, ngày về khó hẹn, lão lại đã già. Đã bao lần, lão ngỏ tâm sự này
với ông giáo: tiền hoa lợi trong vườn, tiền bán con chó vàng, mảnh vườn, lão
không dám đụng đến, đây là tiền của con, tiền người làm cha phải để lại
cho con. Nếu không, không phải "đạo".
Đã bao lần lão nh tiền bòn vườn sủa con, "không cho bán ta chỉ ý giữ cho
nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu!... Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, đến
lúc về, nếu không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào cho nó, nếu đủ tiền
cưới vợ thì ta cho vợ chồng để chút vốn làm ăn". Lão đã làm y như thế.
Thà ăn khoai, ăn củ chuối, củ ráy... chứ lão không ăn vào tiền của con, không chịu
bán mảnh vườn của con.
Bao nhiêu tiền nhặt nhạnh được từ mảnhờn, lão gửi tất cả nhờ ông giáo giữ hộ.
Rồi lão chết để không bao giờ phải đụng đến. Ôi, lão Hạc, con người bề ngoài t
vẻ tiều tụy gàn dở như vậy thật giàu tình nặng nghĩa. đâu chỉ đối với
đứa con. Tấm lòng nhân hậu của lão còn thể hiện cái tình rất nặng với con chó
vàng mà lão gọi là "cậu vàng" như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự.
Cứ xem cái cách lão nựng con chó: không! À không! Cậu vàng của ông ngoan
lắm! ông không cho giết... ông để cậu vàng ông nuôi"..., hay cái vẻ mặt cùng
đau khổ của lão khi kể cho ông giáo nghe lão đã bán con chó. "Mặt lão tự nhiên co
rúm lại. Những vết nhăn lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão
ngoẹo về một bên cái miệng móm mém của lão mếu như con t", đủ thấy lão
thương xót con chó và cảm thấy mình có tội như thế nào khi phải bán nó đi.
Chân thật, chất phác, đôn hậu, tràn đầy tình thương trách nhiệm, lão Hạc cũng
thật giàu lòng tự trọng. Đối với ông giáo, người lão tin tưởngquý trọng đến thế,
lão cũng vẫn giữ ý để khỏi bị coi thường. Lão đói đấy, lão phàn nàn "kiếp người
như lão cũng khổ như kiếp chó" đấy, nhưng khi ông giáo mời lão ăn khoai, uống
nước chè tươi, lão đã từ chối.
Lão dứt khoát "từ chối tất cả". Khi ông giáo giấu vợ, thỉnh thoảng muốn ngấm
ngầm giúp đỡ lão một chút gì, lão từ chối "một cách gần như hách dịch". Rồi lão
cứ cố ý xa ông giáo dần dần. Cuối cùng thì lão Hạc chết. Chủ động tìm đến cái
chết, một cái chết bi thảm, khốc liệt như cái chết của một con người cao quý.
Bởi qua cái chết này, tất cả những phẩm giá cao đẹp của lão ánh lên, chiếu sáng
thăm thẳm vào lòng người.
Gần đây người ta đã dựng phim về các nhân vật của Nam Cao - phim Làng Vũ Đại
ngày ấy. Nhà văn Kim Lân được mời đóng vai lão Hạc. Kim Lân đã nghiền ngẫm
về nhân vật của mình, ông nói: "Lão Hạc không chỉ một người nghèo, đó
một con người có nhân cách, tự trọng và bất khuất". Chúng ta cũng hoàn toàn đồng
ý với Kim Lân.
Ta còn thấy rằng những phẩm chất ấy của lão Hạc đã cho ta những suy nghĩ sâu
sắc. Cái chết của lão Hạc đã để lại cho chúng ta, cùng với nỗi xót thương vô hạn
nhiều bài học quý. Bài học sâu sắc nhất trong bất thân phận nào, hoàn cảnh
nào cũng phải giữ danh hiệu con người cao quý.
Giữa người với người phải có trách nhiệm với nhau hơn, phải hiểu biết để đánh giá
đúng cảm thông với người khác hơn, phải tin tưởng hơn con người cuộc
đời. phải biết căm ghét hội bất công, những thế lực độc ác vùi dập, đày đọa
những con người như lão Hạc.
Vợ ông giáo từng nói về lão Hạc: "Cho lão chết! Ai bảo lão tiền mà chịu khổ.
Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!". Nhưng thực ra sống làm người, những
điều khổ, phải tự làm khổ mình cũng phải giữ. Chết cũng giữ! Đó là những
điều thuộc về đạo lí, nhân cách làm người như lão Hạc đã giữ.
thế, đã hơn 60 năm (truyện Lão Hạc ra đời năm 1943), lão Hạc vẫn sống cùng
chúng ta,sẽ còn sống cùng chúng ta. dẫu cho cuộc đời này còn nhiều nỗi đáng
buồn nhưng những con người như lão Hạc thì cuộc đời "chưa hẳn đã đáng
buồn".
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 4
Viết về đề tài nông dân trước cách mạng, "'Lão Hạc" một truyện ngắn độc đáo,
đặc sắc của nhà văn Nam Cao. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động
bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời đơn bất hạnh cái chết đau đớn
của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh
khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ.
Lão Hạc, một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều, một con
chó vàng... đó là tài sản, vốn liếng của lão. Vợ chết đã lâu, cảnh trống nuôi con,
lão lần hồi làm thuê kiếm sống. Đứa con trai độc nhất không trăm bạc để cưới
vợ, cảm thấy "nhục lắm" đã "phẫn chí" đi phu đồn điền cao su Nam Kỳ, biền biệt
năm, sáu năm chưa về.
Tuổi già, sống quạnh, nỗi bất hạnh ngày thêm chồng chất. Lão Hạc chỉ còn biết
làm bạn với con chó vàng. Lão bị ốm một trận kéo dài 2 tháng 18 ngày. Không một
người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, một chén thuốc! Tình cảnh
ấy thật đáng thương!
Tiếp theo một trận bão to, cây trái hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng
mất nghề sợi. Đàn con gái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc.
Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Thất nghiệp! Giá
gạo mỗi ngày một cao. Lão cậu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào gạo vẫn "đói
gieo đói dắt". Bao nhiêu tiền bán hoa lợi trong vườn dành dụm được bấy lâu nay,
lão đã chi tiêu gần hết trong trận ốm!
''Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần (...). Lão Hạc ơi! Ta quyền giữ cho
ta một đâu?". Nhân vật ông giáo đã nghĩ như thế khi nghe lão Hạc nói về ý
định phải bán con chó. Cậu Vàng "ăn khỏe", mỗi ngày cậu ấy ăn "bỏ rẻ cũng mất
hào rưỡi, hai hào". Lão Hạc rất yêu cậu Vàng, nhưng "lấy tiền đâunuôi được?"
Lão Hạc phải bán cậu Vàng cho thằng Xiên, thằng Mục...
Bán cậu Vàng xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy
mình là một kẻ "tệ lắm", đã già mà còn "đánh lừa một con chó". Đói khổ, túng bấn,
cô đơn... ngày một thêm nặng nề... lão Hạc chỉ ăn khoai, ăn củ chuối, ăn sung luộc,
ăn rau má, thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai bữa ốc.
Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo một cách "gần như là hách dịch". Lão xa
ông giáo dần, chỗ dựa tinh thần của lão bấy lâu nay. Lão Hạc đã ăn bả chó để tự tử.
Lão chết đau đớn thê thảm: đầu tóc ợi, mắt long sòng sọc, tru tréo, bọt mép
sùi ra... vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết! Cái chết thật là dữ dội!
Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương. Với chủ
nghĩa nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những
con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thảm. Chí Phèo tự sát bằng mũi
dao, Lang Rận thắt cổ chết... lão Hạc đã quyên sinh bằng cái bả chó! Lão Hạc
đã từng hỏi ông giáo: ''... nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp cho
thật sướng?". Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một kiếp người.
Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành, nhân hậu. Lão rất yêu con. Biết con
buồn vì không có tiền để cưới vợ lão thương con lắm.... Lão đau đớn khi con sắp đi
làm phu đồn điền cao su. Lão chỉ biết khóc: "Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của
nó, người ta đã chụp rồi (...). người của người ta rồi, chứ đâu còn con
tôi ?". "Cao su đi dễ khó về" (Ca dao).
Con trai lão Hạc đã đi "bằn bặt" năm, sáu năm chưa về. Hoa lợi trong vườn, bán
được bao nhiêu lão dành dụm cho con, hi vọng khi con trở về "có chút vốnlàm
ăn". Lão tự bảo: "Mảnh vườn là của con ta... Của mẹ tậu thì hưởng...". Đói
khổ quá, nhưng lão Hạc đã giữ trọn vẹn ba sào vườn cho con. Lão đã tìm đến cái
chết, thà chết chứ không chịu bán đi một sào. Tất cả con, một sự hi sinh thầm
lặng cực kì to lớn!
Lòng nhân hậu của lão Hạc được thể hiện sâu sắc đối với con chó vàng, người
con trai để lại. Lão quý nó, đặt tên "cận Vàng". Cho ăn cơm trong bát sứ
như nhà giàu. Bắt rận hoặc đem ra cầu ao tắm. Lão ăn cũng chia cho cậu
Vàng cùng ăn. Lão ngồi uống rượu, cậu Vàng ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng
lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ.
Lão tâm sự với cậu Vàng như tâm sự với một người thân yêu ruột rà: "Cậu Vàng
của ông ngoan lắm! Ông không cho giết... Ông để cậu Vàng ông nuôi...". thể
nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu; nguồn
vui, chỗ dựa tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vơi đi ít nhiều nỗi buồn
cô đơn, cay đắng.
Cậu Vàng một phần cuộc đời lão Hạc. đã tỏa sáng tâm hồn làm ánh lên
bản tính tốt đẹp của ông lão nông đau khổ, bất hạnh này. thế, sau khi bán cậu
Vàng đi, từ túng quẫn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết
cùng thảm thương.
Lão Hạc một nông dân nghèo khổ trong sạch, giàu lòng tự trọng. Trong đói
khổ cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy... ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè,
lão cười hồn hậu khất "ông giáo cho để khi khác". Ông giáo ngấm ngầm giúp
đỡ, lão từ chối "một cách gần như hách dịch". Bất đắc phải bán con chó; bán
xong rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt: "thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn
đánh lừa một con chó".
Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai, như một lời nguyền đinh ninh: "Cái
vườn của con ta (...). của mẹ tậu thì hưởng". Trước khi chết, lão gửi lại
ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đồng bạc để "lỡ có chết... gọi là của lão
chút...", lão không muốn làm phiền đến hàng xóm. Nam Cao đã tinh tế đưa
nhân vật Binh , một kẻ "làm nghề ăn trộm" phần cuối truyện, tạo nên một sự
đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão
nông chân quê đáng trọng.
Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ bất hạnh. Sống thì
âm thầm, nghèo đói, đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại
bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch tự
trọng...
Lão Hạc một điển hình về người nông dân Việt Nam trong hội được Nam
Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng xót thương, thấm đượm một tinh thần
nhân đạo thống thiết.
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 5
Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông
dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao
quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn "Lão
Hạc" của nhà văn là một tác phẩm như thế.
Nhân vật chính của tác phẩm - nhân vật lão Hạc - một hoàn cảnh bất hạnh,
đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu
đặc biệt một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện
tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.
Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo,
cái đói của cuộc sống cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn những
hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo
không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là
kỷ vật của con để làm bạn.
Vậy cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự đơn tuổi
già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh
sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng lão yêu thương nhất. Lão bán con
chó trong niềm khổ đau tột cùng: "Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau,
ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như
con nít", "lão hu hu khóc",...
Ban đầu "luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai", "khoai cũng hết, lão chế tạo được
món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn
rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc". Rồi đến mức chẳng
còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão
Hạc chỉ còn đường chết. đó một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết
"nhờ" ăn bả chó tự tử...!
Cái chết của lão dữ dội cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn
ông lực lưỡng đè lên... Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con
chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác cái chết của
một con chó.
Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vậy tha hóa về nhân
phẩm. Binh đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão.
Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương
đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.
Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã những "Cha con nghĩa
nặng" của Hồ Biểu Chánh, "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng,... ngợi ca
tình phụ tử. trong đó cũng cần nhắc đến "Lão Hạc" của Nam Cao. thương
con, lão chấp nhận đối mặt với đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con
đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng.
Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều "cậu" Vàng đó con chó khôn, chó
đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với từng
cái ăn, cho ăn vào bát như người, rồi đến lúc chết lão quằn quại, đau đớn,...
bởi con chó kỉ vật duy nhất con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng
như được thấy con mình.
Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không
chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để
vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không đất sinh sống
làm ăn. Vậy lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi!
Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy!
Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn một người sống đầy tự
trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã
thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng
hạn, hay người đàn trong "Một bữa no" của Nam Cao..) nhưng lão Hạc thì
không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn)
lão "từ chối gần như hách dịch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng.
Binh ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó "lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa
đâu". Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: "con người đáng kính ấy bây giờ cũng
theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn".
Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão.
Hay còn cách khác: lão thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng
đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!
Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão
đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được
trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với con chó Vàng tội nghiệp.
Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động cùng. Lão đã tính toán để ngay cả
khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục
đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm
phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc!
Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài
tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi
kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ
dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh
động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.
Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc. Nam
Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt
Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng lối thoát nhanh
chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.
Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của
người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu
thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng thứ đó
xa xỉ cùng. miếng ăn, người ta thể tàn nhẫn, man, thậm chí mất hết
nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được nh thương
tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.
chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc Nam Cao đã chiêm nghiệm:
"Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn". Chưa đáng buồn bởi còn những con người cao
quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm
cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý
cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí nhà
văn còn nhận định người nông dân "như những con lợn không tưởng". bởi
thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!
Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao một nhân vật nhiều đặc điểm đáng
quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam quyền tự hào về
tâm hồn phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã
khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 6
Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện ngắn, truyện dài chân
thực viết về hai mảng đề tài chính: người nông dân nghèo đói bị vùi dập người
trí thức nghèo, sống mòn mỏi bế tắc trong hội xưa cũ. Trong đó, “Lão Hạc”
được coi truyện ngắn tiêu biểu nhất viết về người nông dân khi đã xây dựng
được hình tượng nhân vật lão Hạc - nhân vật chính của tác phẩm.
Lão Hạc một người nông dân nghèo khổ. Vợ mất sớm, mộtnh nuôi con khôn
lớn. Tài sản trong nhà không ngoài ba sào vườn, một túp lều nhỏ một con
chó. Lão không đủ tiền cho con trai cưới vợ. Chán nản, anh con trai bỏ đi đồn
điền cao su, bỏ lại lão sống một mình. Sau một trận ốm, trong nhà không còn để
ăn, lão quyết định bán cậu Vàng - kỉ vật con trai để lại, không chỉ một con
vật mà còn giống như một người bạn.
Cuộc sống khốn khóvậy, nhưng lão vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp. Nổi
bật lên là một con người hiền lành, nhân hậu giàu tình yêu thương. Lão vô cùng
thương yêu con của mình. Khi không lo được cho con cưới vợ, lão đã cùng đau
khổ. thương con, lão chấp nhận sống đơn một mình lúc tuổi già ốm yếu để
con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão lại dồn hết tình cảm vào con chó Vàng - là kỉ
vật duy nhất con để lại: “Con chó của cháu mua đấy chứ!... mua về
nuôi, định để đến lúc cưới vợ thì giết thịt”. Nhìn thấy nó, lão tưởng như được thấy
chính con trai mình. Không chỉ vậy, tình yêu thương con của lão còn khiến lão
chịu đựng cái đói kiên quyết không chịu bán đi mảnh vườn - của hồi môn của
con. Thậm chí lão Hạc quyết định lựa chọn cái chết để không động đến số tiền
dành cho con. Lão bán đi căn nhà, đem hết số tiền sang nhà ông giáo gửi nhờ
trông coi mảnh vườn. Khi con trai lão về sẽ giao lại cho anh. Không chỉ đối với
con trai, lão Hạc còn dành tấm lòng yêu thương dành cho con Vàng. Lão đối xử
với nó như với một con người. Cho ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì
ăn cũng gắp cho nó cùng ăn. Mỗi khi rảnh rỗi còn đem nó ra tẳm rửa, bắt giận. Mỗi
khi lão uống rượu đồ nhắm ngon lại gắp cho một miếng như người ta gắp
thức ăn cho con cháu trong nhà. Thường xuyên tâm sự với nó, vỗ về ôm ấp. Lão
coi con Vàng giống như một người bạn hơn một con chó. Để rồi đến khi phải
bán nó, lão đã vô cùng đau đớn, day dứt. Cái quyết định bán cậu Vàng vô cùng khó
khăn, trăn tr giống như phải quyết định một việc trọng đại trong đời. Khi kể lại
việc bán cậu Vàng cho ông giáo nghe, lão Hạc cùng đau đớn, tự trách bản thân
mình nỡ đi lừa một con chó.
Lão Hạc cùng một con người sống trong sạch, giàu lòng tự trọng. Dù sống trong
hoàn cảnh túng quẫn, chỉ ăn củ chuối, sung luộc… nhưng lại từ chối “một cách gần
như hách dịch” những ông giáo ngầm cho lão. Lão chỉ đến nhờ ông giáo hai
việc. Một là, nhờ ông giáo trông nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về sẽ giao
lại cho nó. Hai là, nhờ ông ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ ông giáo và bà
con lo liệu ma chay cho mình. Sau đó, lão đến xin Binh Tư một ý bả chó và nói dối
rằng dạo này có con chó hay đến vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó. Nếu được lão
sẽ mời hắn uống rượu. Nhưng thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử. Nhà văn
đã khắc họa hình ảnh lão Hạc khi chết đầy ám ảnh: “Lão Hạc đang vật trên
giường, đầu tóc rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt
mép sùi ra, khắp người lão chốc chốc lại bị giật mạnh một cái. Lão vật đến hai
giờ đồng hồ mới chết”. Cái chết dữ dội, đau đớn thê thảm của một con người
lương thiện.
Nhà văn Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật miêu tả nhân vật cùng thành công.
Cùng với đó ngôn ngữ kể chuyện giàu tính tạo hình sức gợi cảm kết hợp với
tài năng miêu tả nội tâm nhân vật để khắc họa thành công nhân vật lão Hạc.
Như vậy, qua nhân vật Lão Hạc, Nam Cao đã đã khắc họa chân thực cuộc đời của
người nông dân Việt Nam trước cách mạng cùng với đó phẩm chất cao quý của
họ.
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 7
Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 - 1945. Qua
nhiều tác phẩm, tác giả đã vẽ nên khung cảnh tiêu điều, xác của nông thôn Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám. Sự đói khổ ám ảnh nhà văn bởi ảnh hưởng
không ít tới nhân cách, nhưng trong cảnh nghèo đói thê thảm, phẩm chất tốt đẹp
của người nông dân vẫn tồn tại âm thầm tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc thể
hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Trong đó, nhân vật chính một
nông dân gặp nhiều nỗi bất hạnh nghèo đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương
con và có lòng tự trọng.
Vợ mất sớm, lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất. Lão sẽ
sung sướng biết dường nào nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã
bị phụ tình chỉ vì quá nghèo, không đủ tiền cưới vợ.
Thương con, lão thấu hiểu nỗi đau của con khi anh nghe lời cha, không bán mảnh
vườn để lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng thương con,
lão càng xót xa đau đớn không giúp được con thỏa nguyện, đến nỗi phẫn chí bỏ
nhà đi phu đồn điền đất đỏ mãi tận Nam Kì. Mỗi khi nhắc đến con, lão Hạc lại rơi
nước mắt.
Lão Hạc rất quý con chó vì nó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai. Lão trìu mến gọi
cậu Vàng cho ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Suốt ngày, lão thầm thì to
nhỏ với con Vàng. Với lão, con Vàng hình bóng của đứa con trai yêu quý,
người bạn chia sẻ cô đơn với lão. Vì thế nên bao lần định bán con Vàng mà lão vẫn
không bán nổi.
Nhưng nếu nhớ con lão Hạc không muốn bán cậu Vàng thì cũng chính
thương con mà lão phải dứt khoát chia tay với nó. Lão nghèo túng quá! Lão đã tính
chi li mỗi ngày cậu ấy ăn thế bỏ rẻ cũng mất hai hào đấy. Cứ mãi thế này thì tôi lấy
tiền đâu nuôi được... Thôi bán phắt đi, đỡ đồng nào hay đồng ấy. Bây giờ, tiêu
một xu cũng là tiêu vào tiền của con. Tiêu lắm chỉ chết nó!
Thế lo tích cóp, giữ gìn cho con trai chút vốn lão Hạc đành chia tay với
con chó yêu quý. Đã quyết như thế nhưng lão vẫn đau đớn, xót xa. Lão kể cho ông
giáo nghe cảnh bán cậu Vàng với nỗi xúc động cực độ. Lão đau khổ dằn vặt vì cảm
thấy mình đã đánh lừa một con chó. Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi lên.
Trước đây, lão dằn vặt mãi về chuyện nghèo không cưới được vợ cho con,
thì bây giờ cũng chỉ nghèo lão thêm day dứt đã xử không đàng hoàng
với một con chó. Lão cố chịu đựng những nỗi đau đớn ấy cũng chỉ nhằm một mục
đích là giữ gìn chút vốn cho con.
Biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con chính là cái chết của lão. Ông lão nông
dân nghèo khổ ấy đã tính toán mọi đường: Bây giờ lão chẳng làm được nữa...
Cái vườn này của mẹ chắt chiu dành dụm cho nó, ta không được ăn vào của
nó... Ta không thể bán vườn để ăn... Chính thương con, muốn giữ cho con chút
vốn giúp thoát khỏi cảnh nghèo lão Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó
một sự chọn lựa tự nguyện dữ dội. Nghe những lời tâm sự của lão Hạc với ông
giáo, không ai thể kìm nổi lòng xót thương, thông cảm khâm phục. Một con
người nghèo đói bất hạnh đến thế cùng! Một người cha thương con đến
thế là cùng!
Không chỉ vậy, qua từng trang truyện, chúng ta còn thấy lão Hạc người đôn
hậu, chất phác. Suốt đời, lão sống quanh quẩn trong lũy tre làng. Trong làng chỉ
ông giáo là người có học nên lão tìm đến ông giáo để chia sẻ tâm sự. Lời lẽ của lão
Hạc đối với ông giáo lúc nào cũng lễ phép cung kính. Đó cách bày tỏ thái độ
kính trọng người hiểu biết, nhiều chữ của một lão nông. Cảnh ngộ lão Hạc đã đến
lúc túng quẫn nhưng lão tự lo liệu, xoay xở, cố giữ nếp sống trong sạch, tránh xa
lối đói ăn vụng túng làm càn. Thậm chí, lão kiên quyết từ chối sự giúp đỡ chỉ
lòng thương hại.
Lão đã chuẩn bịỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo viết văn tự để
giữ hộ con trai mình mảnh vườn gửi ông giáo 30 đồng để lo chôn cất. Lão
không muốn mọi người phải tốn kém lão. Rất thể tốn kém mà người ta lại
chẳng oán trách lão sao? Không phiền lụy đến mọi người, đó cũng cách để giữ
gìn phẩm giá. Thì ra ông lão vẻ ngoài gàn dở ấy lại phẩm chất đáng quý biết
nhường nào!
Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh nghèo đói
cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách
mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh lão Hạc luôn nhắc
chúng ta nhớ đến những con người nghèo khó mà trong sạch với một tình cảm trân
trọng và yêu quý.
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 8
Nam Cao một trong những tác giả tiêu biểu của khuynh hướng văn học hiện
thực. Truyện ngắn Lão Hạc rất nổi bật khi viết về người nông dân với hình tượng
nhân vật lão Hạc.
Về hoàn cảnh sống, Lão Hạc một người nông dân bất hạnh. Vợ mất sớm, một
mình nuôi con trai khôn lớn. Tài sản chỉ ngoài ba sào vườn, một túp lều nhỏ
một con chó. Gia cảnh khó khăn, lão không lo nổi cho con trai lấy vợ. Chán nản,
anh con trai bỏ đi đồn điền cao su. Sau một trận ốm, trong nhà không còn để ăn,
lão quyết định bán cậu Vàng. Lão đến nhờ cậy ông giáo giữ hộ số tiền để khi anh
con trai trở về sẽ trao lại. Sau đó, lão đến xin Binh Tư bả chó để tự tử.‡
Lão Hạc được xây dựng với những phẩm chất tốt đẹp. Một người nông dân thật
thà, hiền lành giàu tình yêu thương. Lão yêu thương anh con trai. Không lo
được cho con cưới vợ, lão đã cùng day dứt, đau khổ. Thương con, lão chấp
nhận sống một mình lúc tuổi già ốm yếu để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão
lại dồn hết nh cảm vào con chó Vàng - kỉ vật duy nhất con để lại.Nhìn
thấy nó, lão tưởng như được thấy chính con trai mình. Lão thà chịu đói chứ kiên
quyết không chịu bán đi mảnh vườn, của hồi môn của con. Sau trận ốm, lão không
còn sức để làm ăn, nhưng lão vẫn kiên quyết không động đến số tiền dành cho con.
Lão bán đi căn nhà, đem hết số tiền sang nhà ông giáo gửi nhờ trông coi mảnh
vườn để khi anh con trai về sẽ giao lại. Lão Hạc cũng dành một tình cảm đặc biệt
với con chó Vàng. Lão gọi cậu Vàng, đối xử với như với một con người.
được ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, ăn cũng gắp cho cùng
ăn. Khi rảnh rỗi, lão còn đem ra tẳm rửa, bắt giận. Mỗi khi lão uống rượu đồ
nhắm ngon lại gắp cho một miếng như người ta gắp thức ăn cho con cháu trong
nhà. Thỉnh thoảng, Lão Hạc còn ôm ấp vỗ về, tâm sự với nó.Lão coi con Vàng
giống như một người bạn hơn là một con chó. Khi phải bán đi con chó Vàng, lão
đã vô cùng đau đớn, day dứt và tự trách bản thân.
Bên cạnh đó, Lão Hạc cũng một con người sống trong sạch, giàu lòng tự trọng.
khó khăn, nhưng lão vẫn từ chối sự giúp đỡ của ông giáo. Lão chỉ đến nhờ ông
giáo hai việc. Một là, nhờ ông giáo trông nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về
sẽ giao lại cho nó. Hai là, nhờ ông ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ ông
giáo và bà con lo liệu ma chay cho mình. Sau đó, lão đến xin Binh Tư một ý bả chó
nói dối rằng dạo này con chó hay đến vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó.
Nhưng thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử. Cái chết của Lão Hạc đầy dữ
dội, đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện.
Với nhân vật Lão Hạc, nhà văn Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật miêu tả nhân vật
cùng thành công. Ngôn ngữ kể chuyện giàu tính tạo hình sức gợi cảm kết
hợp với tài năng miêu tả nội tâm nhân vật cũng là một điểm ấn tượng.‡
Nam Cao đã đã khắc họa chân thực cuộc đời của người nông dân Việt Nam trước
cách mạng cùng với đó là phẩm chất cao quý của họ qua nhân vật Lão Hạc.‡
| 1/26

Preview text:

Văn mẫu lớp 8
Phân tích nhân vật Lão Hạc
Sơ đồ tư duy Phân tích nhân vật Lão Hạc
Dàn ý phân tích nhân vật lão Hạc I. Mở bài
● Giới thiệu khái quát về nhà văn Nam Cao, truyện ngắn Lão Hạc.
● Giới thiệu về nhân vật lão Hạc - nhân vật trung tâm của tác phẩm. II. Thân bài
1. Hoàn cảnh sống của lão Hạc
● Vợ mất sớm, một mình nuôi con khôn lớn.
● Tài sản trong nhà không có gì ngoài ba sào vườn, một túp lều nhỏ và một con chó.
● Không có tiền cho con trai cưới vợ, người con trai bỏ đi đồn điền cao su, bỏ lại lão sống một mình.
● Sau một trận ốm, trong nhà không còn gì để ăn, lão quyết định bán cậu Vàng
- kỉ vật mà anh con trai để lại, không chỉ là một con vật mà còn giống như một người bạn.
=> Hoàn cảnh vô cùng khó khăn, khổ cực.
2. Vẻ đẹp phẩm chất của lão Hạc
* Một con người hiền lành, nhân hậu và giàu tình yêu thương:
- Một người cha hết mực yêu thương con:
● Day dứt vì không có tiền lo cho con lấy vợ.
● Kiên quyết giữ lại mảnh vườn là của hồi môn của con dù trong nhà không có gì ăn.
- Yêu thương con chó vàng, coi nó là một người bạn:
● Cho ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì ăn cũng gắp cho nó cùng ăn.
● Khi rảnh rỗi còn đem nó ra tẳm rửa, bắt giận.
● Mỗi khi lão uống rượu có đồ nhắm ngon lại gắp cho nó một miếng như
người ta gắp thức ăn cho con cháu trong nhà.
● Thường xuyên tâm sự với nó, vỗ về ôm ấp.
=> Đối xử giống như với một con người.
- Quyết định bán cậu Vàng: vô cùng khó khăn, trăn trở giống như phải quyết định
một việc trọng đại trong đời.
- Diễn biến tâm trạng sau khi bán chó: Sáng hôm sau, lão Hạc sang nhà ông giáo
kể lại toàn bộ sự việc.
● Cố làm ra vẻ vui mừng: “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ”, nhưng thực ra lão
cười như mếu và đôi mắt ầng ậc nước.
● “Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra” ● Lão hu hu khóc…
● Tự trách bản thân mình đã già rồi còn đi lừa một con chó: “Khốn nạn... Ông
giáo ơi!... như thế này à?”
● Chua chát bảo với ông giáo: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta phải hóa kiếp cho nó…”
● Lão cười và ho sòng sọc, Lão nói xong lại cười đưa đà… Nụ cười dường
như để nén đi nỗi đau đơn khi mất đi “người bạn” duy nhất.
=> Nam Cao đã khắc họa chân thực nỗi đau khổ, day dứt của Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng
* Một con người trong sạch, giàu lòng tự trọng
- Quá túng quẫn, chỉ ăn củ chuối, sung luộc…, nhưng lại từ chối “một cách gần
như hách dịch” những gì ông giáo ngầm cho lão.
- Lão đến nhờ cậy ông giáo hai việc:
● Trông nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về sẽ giao lại cho nó.
● Mang hết tiền dành dụm được nhờ ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ
ông giáo và bà con lo liệu ma chay cho mình.
- Lão đến xin Binh Tư một ý bả chó và nói dối rằng dạo này có con chó hay đến
vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó. Nếu được lão sẽ mời hắn uống rượu. Nhưng
thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử.
- Hình ảnh lão Hạc khi chết đầy ám ảnh: “Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu
tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra,
khắp người lão chốc chốc lại bị giật mạnh một cái. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ
mới chết”. Cái chết dữ dội, đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện.
=> Tố cáo xã hội đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh khốn cùng. 3. Nghệ thuật
● Ngôi kể thứ nhất tự nhiên, linh hoạt
● Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
● Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại… III. Kết bài
● Khái quát chung lại về nhân vật lão Hạc
● Đánh giá của người viết về nhân vật lão Hạc trong tác phẩm cùng tên.
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 1
Văn học hiện thực Việt Nam đánh dấu sự thành công trên văn đàn của nhiều tác
giả như Kim Lân, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố... và không thể không nhắc tới nhà
văn Nam Cao. Nếu viết về chủ đề người tri thức, ông không chỉ khiến người đọc
trăn trở, xót xa với bao số phận như Thứ, như Hộ,... những kẻ tri thức giàu ước mơ,
khát khao nhưng bị cái nghèo, cái đói vùi dập, ghì sát đất. Thì viết về chủ đề người
nông dân, Nam Cao cũng khiến cho ta phải thổn thức, đắng cay với số phận của
những kiếp người đau khổ, nghèo đói nhưng giàu tình người. Lão Hạc trong truyện
ngắn cùng tên là một nhân vật như thế.
Cũng như bao nhiêu người nông dân khác, chân lấm tay bùn quanh năm suốt tháng
làm lụng nhưng cuộc sống lão Hạc rất nghèo khổ. Cả gia tài chỉ có túp lều nát làm
chốn nương thân với ba sào vườn nhỏ, lão có một con chó mà lão hết mực yêu quý
với cái tên thân thương là "cậu Vàng" và một thằng con trai độc nhất. Lão chân
chất, nghèo khó, như bao nhiêu người nông dân khác, lão làm thuê kiếm sống qua
ngày. Đứa con trai của lão vì mong có tiền cưới vợ mà đòi bán mảnh vườn đi
nhưng lão không cho, bèn bỏ nhà đi lên đồn điền cao su không biết ngày trở về.
Vậy là lão phải chịu cảnh sống thui thủi, một thân một mình, lấy con chó làm bạn.
Tuổi già, lại cô đơn, lão ốm liền hơn hai tháng trời không ai chăm sóc, trận ốm
khiến sức khỏe của lão ngày một yếu đi, không còn được khoẻ mạnh như trước
nữa. Nhưng phận làm thuê đâu ai bỏ tiền ra mà thuê người già yêu bao giờ, việc
nhẹ nhàng thì đàn bà con gái trong làng cũng làm vừa đủ, nơi đâu đến phần lão.
Lão lâm vào cảnh thất nghiệp, không có nổi công việc kiếm đồng ra đồng vào nuôi thân.
Năm ấy, bão tố mạnh đã khiến mảnh vườn nhà lão không còn một chút hoa màu
nào, cây trái bị phá tan hoang. Đã đói lại càng thêm đói, ngày ăn ba hào gạo mà
người và chó cũng cứ đói nheo đói nhắt, tình cảnh thật bi thiết. Cuối cùng, trong
tình cảnh túng bấn, lão buộc phải bán cậu Vàng đi, bởi "lấy tiền đâu mà nuôi
được". Giá cả ngày một đắt đỏ, đói khổ ngày càng thêm nặng, lão phải ăn những củ
ráy, củ sắn mài, ngọn rau má, có khi là bữa trai, bữa ốc để qua ngày. Lão dần xa
cách với người hàng xóm thân thuộc nhất của mình là ông giáo. Cuộc sống ngày
càng tù túng, đơn độc. Cuối cùng, lão chọn cái chết bằng bả chó để kết thúc cuộc
đời của chính mình, một cái chết bất ngờ và đầy đau khổ.
Cuộc đời Lão Hạc thật bi thảm, nghèo đói nhưng trong lão ánh lên những phẩm
chất tốt đẹp. Lão là một người cha tốt và có trách nhiệm. Với con, lão luôn dành
hết tình yêu của mình cho hắn, dẫu đó là một đứa trẻ bồng bột, có phần nông cạn.
Lão luôn lo lắng cho tương của con, nghĩ cho cuộc đời con. Lão buồn vì con không
có tiền cưới vợ, lão đau đớn biết bao khi còn từ bỏ gia đình đi đồn điền cao su. Bao
nhiêu tiền bán được cây trái trong mảnh vườn nhỏ lão đều để dành cho con, chắt
chiu từng hào cũng là lo cho con. Tiền bán cậu Vàng lão cũng để cho con. Dù
trong cái đói quay quắt, cái nghèo nàn bao trùm lấy bản thân thì lão cũng nhất
quyết không bán đi bất cứ một sào vườn nào mà phải để trọn vẹn cho con. Cuộc
đời lão luôn nghĩ về con, mọi việc lão làn đều là vì con, lo lắng cho con. Cái chết
thầm lặng cũng là một hi sinh lớn lao của lão cho con.
Lão Hạc còn là một người hiền lành, tốt bụng và nhân hậu, giàu lòng yêu thương,
tình nghĩa với hàng xóm, giàu tự trọng và hết mực yêu thương loài vật. Lão rất quý
cậu Vàng, coi cậu như một người bạn, ăn cái gì cũng chia cho cậu, làm gì cũng có
câu theo cạnh. Lão tâm sự với cậu Vàng như là tâm sự với những người thân yêu.
Cậu Vàng như một phần trong đời sống của lão, là nguồn vui sống, là chỗ dựa tinh
thần lớn lao của lão. Khi buộc phải bán cậu Vàng đi là khi lão quá túng quẫn bí
bách, bán cậu là sự lựa chọn duy nhất lúc này vì lão làm gì còn cái gì nữa để cho
Vàng ăn. Bán cậu Vàng, lão luôn cảm thấy tội lỗi vô cùng, vẻ mặt đau khổ đến dằn
vặt của lão khi kể chuyện bán cậu vàng cho bọn thằng Xiên, thằng Mục thật
thương cảm biết bao: "Mặt lão tự nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với
nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm
mém của lão mếu như con nít"... Sự dằn vặt đến tội nghiệp khi nghĩ về cậu Vàng
cho ta thấy cái đẹp về nhân cách trong con người Lão Hạc.
Trong xã hội, ta vẫn thấy đầy rẫy những người khi lâm vào đường cùng trở nên tha
hoá, xấu xí nhân cách. Nhưng với Lão Hạc thì khác, càng trong túng quẫn ông lại
càng rạng ngời lên những phẩm chất tốt đẹp, càng trong đói khổ lại càng ánh lên sự
thanh cao, trong sạch. Lão Hạc như một hình ảnh đẹp tuyệt vời trong những trang
văn của Nam Cao giúp thanh lọc tâm hồn con người khỏi những toan tính, nhỏ
nhen, ích kỉ của đời sống.
Có thể nói, nhà văn Nam Cao bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình trong
hoàn cảnh điển hình với những chi tiết giàu sức gợi đã tạo nên một tượng đài văn
học bất hủ. Qua đó thể hiện được tấm lòng cảm thương sâu sắc của nhà văn với lão
Hạc nói riêng và những người nông dân Việt Nam xưa nói chung.
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 2
“Lão Hạc” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn Nam Cao viết về
số phận người nông dân trước cách mạng. Nổi bật lên trong truyện là hình ảnh lão
Hạc đã trở thành một trong những biểu tượng cho người nông dân Việt Nam.
Đầu tiên, lão Hạc cũng sống trong hoàn cảnh chung giống như biết bao người nông
dân trước cách mạng - phải đối mặt với cuộc sống nghèo đói khổ cực. Nhưng lão
cũng có hoàn cảnh riêng của mình. Vợ lão mất sớm. Con trai lão bỏ đi đồn điền
cao su vì không có đủ tiền cưới vợ. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con bầu bạn.
Không chỉ vậy, thiên tai còn đẩy lão vào cảnh đói nghèo. Lão phải đối mặt với: cái
đói, giàu yếu, và sự cô đơn. Để rồi cuối cùng lão phải bán con chó trong niềm khổ
đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt
chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”...
Sống trong hoàn cảnh đó, nhưng lão Hạc vẫn có những phẩm chất tốt đẹp. Lão Hạc
là một người cha hết mực yêu thương con. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt
với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương
vào con chó Vàng. Bởi đó con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn
con chó, lão tưởng như được thấy con mình. Lão thương con đến mức chấp nhận
cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn là của hồi môn của con.
Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão
lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn.
Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân
phẩm. Lão quyết không nhận sự giúp đỡ của ông giáo, bởi lão nghĩ hoàn cảnh của
ông giáo có khá hơn mình đâu. Ban đầu là “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”,
“khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối,
hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay
bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Trong hoàn cảnh này,
con người ta rất dễ đánh mất đi sự trong sạch của mình. Nhưng lão Hạc thì không
như vậy. Lão quyết định tìm đến cái chết. Lão đến xin Binh Tư một ít bả chó.Binh
Tư đã nghi ngờ lão. Ông giáo cũng vậy. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn
nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và
cả sự tự trọng cao đẹp của mình.
Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão
Hạc đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch,
được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với con chó Vàng tội nghiệp.
Với ngòi bút xây dựng nhân vật độc đáo, qua nhân vật lão Hạc, người đọc mới
thấm thía được số phận bất hạnh của người nông dân Việt Nam trước cách mạng,
cũng như nổi bật lên cả là phẩm chất tốt đẹp của họ.
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 3
Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên là một trong những nhân vật "để đời" của
Nam Cao. Lão Hạc, một nông dân nghèo khổ, cùng quẫn, nhưng không bị biến
chất như Chí Phèo, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng.
Lão sống một thân một mình trong cô đơn, vất vả. Lão chỉ có đứa con trai duy nhất
để nương tựa tuổi già thì anh ta lại phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cao su- "cao su đi
dễ khó về". Lão Hạc đành thui thủi làm thuê, làm mướn kiếm ăn lân hồi, đồng thời
cố nhặt nhạnh, dành dụm cho con.
Nhưng một trận ốm đã làm lão trở nên tay trắng. Sức yếu dần "những công việc
nặng không làm được nữa", việc nhẹ thì "đàn bà tranh hết". Lão Hạc không có
việc. Rồi lại bão. Hoa màu trên mảnh vườn bị phá sạch sành sanh. Gạo cứ kém
dần. "Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo mà gia sự còn đói gieo đói
dắt. Cuối cùng lão phải ăn khoai. Khoai cũng hết. Bắt đầu từ đây, lão chế tạo được
món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn
rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.
Thực ra tình cảnh lão Hạc đã làm gì bế tắc đến thế. Lão còn mảnh vườn đó, con
chó vàng đó, có thể bán đi mà tiêu. Nhưng lão sống vì con chứ đâu vì mình. Điều
này mấy ai hiểu cho lão. Người ta chỉ thấy lão lẩm cẩm. Có ông giáo hàng xóm là
người có lòng ái ngại, nhưng vừa bày tỏ với vợ đã bị thị gạt phắt ngay: "Cho lão
chết! Ai bão lão có tiền mà chịu khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Con mình cũng đói".
Còn Binh Tư, một gã lưu manh chuyên đánh bả chó thì lại lấy làm khoái chí khi
thấy lão đến xin mình một ít bả. Hắn tưởng đâu lão Hạc "đói quá hóa liều" cũng
quay sang trộm cắp như hắn. Hắn bĩu môi: "Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm
ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chẳng vừa đâu". Ngay đến ông giáo tuy hiểu lão
Hạc hơn cả mà cũng đâm ra nghi ngờ.
Người ta chỉ hiểu lão khi lão đã chết rồi. Lão tự tử bằng nắm bả chó của Binh Tư.
Lão chết đi nhưng sẽ còn sống mãi trong lòng người như một tấm gương đạo đức hiếm có.
Hiếm có người cha nào thương con như lão Hạc. Nghèo khó nhưng lúc nào cũng
nghĩ đến bổn phận làm cha, lo làm tròn bổn phận ấy, dẫu có phải chịu khổ, chịu đói
và chết bi thảm. Hình ảnh đứa con trái, nỗi lo chu tất cho con luôn ám ảnh, dằn vặt
tâm trí lão. Hồi anh ta còn ở nhà, lão không cho anh ta bán vườn để cưới vợ cũng
là xuất phát từ sự tính toán điều hơn lẽ thiệt của bậc làm cha.
Thực ra lão dằn lòng lắm. Bởi đạo làm cha phải lo cho con một người vợ, một căn
nhà - một tổ ấm gia đình. Song tình cảnh lão thì lo chưa chu toàn được. Anh con
trai phẫn chí ra đi, ngày về khó hẹn, lão lại đã già. Đã bao lần, lão ngỏ tâm sự này
với ông giáo: tiền hoa lợi trong vườn, tiền bán con chó vàng, mảnh vườn, lão
không dám đụng đến, vì đây là tiền của con, là tiền mà người làm cha phải để lại
cho con. Nếu không, không phải "đạo".
Đã bao lần lão tính tiền bòn vườn sủa con, "không cho bán là ta chỉ có ý giữ cho
nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu!... Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, đến
lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào cho nó, nếu nó có đủ tiền
cưới vợ thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn". Lão đã làm y như thế.
Thà ăn khoai, ăn củ chuối, củ ráy... chứ lão không ăn vào tiền của con, không chịu bán mảnh vườn của con.
Bao nhiêu tiền nhặt nhạnh được từ mảnh vườn, lão gửi tất cả nhờ ông giáo giữ hộ.
Rồi lão chết để không bao giờ phải đụng đến. Ôi, lão Hạc, con người bề ngoài thì
có vẻ tiều tụy và gàn dở như vậy mà thật giàu tình nặng nghĩa. Mà đâu chỉ đối với
đứa con. Tấm lòng nhân hậu của lão còn thể hiện ở cái tình rất nặng với con chó
vàng mà lão gọi là "cậu vàng" như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự.
Cứ xem cái cách lão nựng con chó: "À không! À không! Cậu vàng của ông ngoan
lắm! ông không cho giết... ông để cậu vàng ông nuôi"..., hay cái vẻ mặt vô cùng
đau khổ của lão khi kể cho ông giáo nghe lão đã bán con chó. "Mặt lão tự nhiên co
rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão
ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít", đủ thấy lão
thương xót con chó và cảm thấy mình có tội như thế nào khi phải bán nó đi.
Chân thật, chất phác, đôn hậu, tràn đầy tình thương và trách nhiệm, lão Hạc cũng
thật giàu lòng tự trọng. Đối với ông giáo, người lão tin tưởng và quý trọng đến thế,
lão cũng vẫn giữ ý để khỏi bị coi thường. Lão đói đấy, lão phàn nàn "kiếp người
như lão cũng khổ như kiếp chó" đấy, nhưng khi ông giáo mời lão ăn khoai, uống
nước chè tươi, lão đã từ chối.
Lão dứt khoát "từ chối tất cả". Khi ông giáo giấu vợ, thỉnh thoảng muốn ngấm
ngầm giúp đỡ lão một chút gì, lão từ chối "một cách gần như hách dịch". Rồi lão
cứ cố ý xa ông giáo dần dần. Cuối cùng thì lão Hạc chết. Chủ động tìm đến cái
chết, một cái chết bi thảm, khốc liệt như là cái chết của một con người cao quý.
Bởi qua cái chết này, tất cả những phẩm giá cao đẹp của lão ánh lên, chiếu sáng
thăm thẳm vào lòng người.
Gần đây người ta đã dựng phim về các nhân vật của Nam Cao - phim Làng Vũ Đại
ngày ấy. Nhà văn Kim Lân được mời đóng vai lão Hạc. Kim Lân đã nghiền ngẫm
kĩ về nhân vật của mình, ông nói: "Lão Hạc không chỉ là một người nghèo, đó là
một con người có nhân cách, tự trọng và bất khuất". Chúng ta cũng hoàn toàn đồng ý với Kim Lân.
Ta còn thấy rằng những phẩm chất ấy của lão Hạc đã cho ta những suy nghĩ sâu
sắc. Cái chết của lão Hạc đã để lại cho chúng ta, cùng với nỗi xót thương vô hạn là
nhiều bài học quý. Bài học sâu sắc nhất là trong bất kì thân phận nào, hoàn cảnh
nào cũng phải giữ danh hiệu con người cao quý.
Giữa người với người phải có trách nhiệm với nhau hơn, phải hiểu biết để đánh giá
đúng và cảm thông với người khác hơn, phải tin tưởng hơn ở con người và cuộc
đời. Và phải biết căm ghét xã hội bất công, những thế lực độc ác vùi dập, đày đọa
những con người như lão Hạc.
Vợ ông giáo từng nói về lão Hạc: "Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ.
Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!". Nhưng thực ra sống làm người, có những
điều dù khổ, dù phải tự làm khổ mình cũng phải giữ. Chết cũng giữ! Đó là những
điều thuộc về đạo lí, nhân cách làm người như lão Hạc đã giữ.
Vì thế, đã hơn 60 năm (truyện Lão Hạc ra đời năm 1943), lão Hạc vẫn sống cùng
chúng ta,sẽ còn sống cùng chúng ta. Và dẫu cho cuộc đời này còn nhiều nỗi đáng
buồn nhưng có những con người như lão Hạc thì cuộc đời "chưa hẳn đã đáng buồn".
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 4
Viết về đề tài nông dân trước cách mạng, "'Lão Hạc" là một truyện ngắn độc đáo,
đặc sắc của nhà văn Nam Cao. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động
bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn
của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh
khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ.
Lão Hạc, một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều, một con
chó vàng... đó là tài sản, vốn liếng của lão. Vợ chết đã lâu, cảnh gà trống nuôi con,
lão lần hồi làm thuê kiếm sống. Đứa con trai độc nhất không có trăm bạc để cưới
vợ, cảm thấy "nhục lắm" đã "phẫn chí" đi phu đồn điền cao su Nam Kỳ, biền biệt năm, sáu năm chưa về.
Tuổi già, sống cô quạnh, nỗi bất hạnh ngày thêm chồng chất. Lão Hạc chỉ còn biết
làm bạn với con chó vàng. Lão bị ốm một trận kéo dài 2 tháng 18 ngày. Không một
người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, một chén thuốc! Tình cảnh ấy thật đáng thương!
Tiếp theo một trận bão to, cây trái hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng
mất nghề sợi. Đàn bà con gái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc.
Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Thất nghiệp! Giá
gạo mỗi ngày một cao. Lão và cậu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào gạo mà vẫn "đói
gieo đói dắt". Bao nhiêu tiền bán hoa lợi trong vườn dành dụm được bấy lâu nay,
lão đã chi tiêu gần hết trong trận ốm!
' Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần (...). Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho
ta một tí gì đâu?". Nhân vật ông giáo đã nghĩ như thế khi nghe lão Hạc nói về ý
định phải bán con chó. Cậu Vàng "ăn khỏe", mỗi ngày cậu ấy ăn "bỏ rẻ cũng mất
hào rưỡi, hai hào". Lão Hạc rất yêu cậu Vàng, nhưng "lấy tiền đâu mà nuôi được?"
Lão Hạc phải bán cậu Vàng cho thằng Xiên, thằng Mục...
Bán cậu Vàng xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy
mình là một kẻ "tệ lắm", đã già mà còn "đánh lừa một con chó". Đói khổ, túng bấn,
cô đơn... ngày một thêm nặng nề... lão Hạc chỉ ăn khoai, ăn củ chuối, ăn sung luộc,
ăn rau má, thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai bữa ốc.
Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo một cách "gần như là hách dịch". Lão xa
ông giáo dần, chỗ dựa tinh thần của lão bấy lâu nay. Lão Hạc đã ăn bả chó để tự tử.
Lão chết đau đớn thê thảm: đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, tru tréo, bọt mép
sùi ra... vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết! Cái chết thật là dữ dội!
Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương. Với chủ
nghĩa nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những
con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thảm. Chí Phèo tự sát bằng mũi
dao, Lang Rận thắt cổ chết... Và lão Hạc đã quyên sinh bằng cái bả chó! Lão Hạc
đã từng hỏi ông giáo: ' ... nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho
thật sướng?". Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một kiếp người.
Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành, nhân hậu. Lão rất yêu con. Biết con
buồn vì không có tiền để cưới vợ lão thương con lắm.... Lão đau đớn khi con sắp đi
làm phu đồn điền cao su. Lão chỉ biết khóc: "Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của
nó, người ta đã chụp rồi (...). Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con
tôi ?". "Cao su đi dễ khó về" (Ca dao).
Con trai lão Hạc đã đi "bằn bặt" năm, sáu năm chưa về. Hoa lợi trong vườn, bán
được bao nhiêu lão dành dụm cho con, hi vọng khi con trở về "có chút vốn mà làm
ăn". Lão tự bảo: "Mảnh vườn là của con ta... Của mẹ nó tậu thì nó hưởng...". Đói
khổ quá, nhưng lão Hạc đã giữ trọn vẹn ba sào vườn cho con. Lão đã tìm đến cái
chết, thà chết chứ không chịu bán đi một sào. Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kì to lớn!
Lòng nhân hậu của lão Hạc được thể hiện sâu sắc đối với con chó vàng, mà người
con trai để lại. Lão quý nó, đặt tên nó là "cận Vàng". Cho nó ăn cơm trong bát sứ
như nhà giàu. Bắt rận hoặc đem nó ra cầu ao tắm. Lão ăn gì cũng chia cho cậu
Vàng cùng ăn. Lão ngồi uống rượu, cậu Vàng ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng
lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ.
Lão tâm sự với cậu Vàng như tâm sự với một người thân yêu ruột rà: "Cậu Vàng
của ông ngoan lắm! Ông không cho giết... Ông để cậu Vàng ông nuôi...". Có thể
nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu; nó là nguồn
vui, chỗ dựa tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vơi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng.
Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã tỏa sáng tâm hồn và làm ánh lên
bản tính tốt đẹp của ông lão nông đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu
Vàng đi, từ túng quẫn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm thương.
Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng. Trong đói
khổ cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy... ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè,
lão cười hồn hậu và khất "ông giáo cho để khi khác". Ông giáo ngấm ngầm giúp
đỡ, lão từ chối "một cách gần như hách dịch". Bất đắc dĩ phải bán con chó; bán
xong rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt: "thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó".
Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai, như một lời nguyền đinh ninh: "Cái
vườn là của con ta (...). của mẹ nó tậu thì nó hưởng". Trước khi chết, lão gửi lại
ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đồng bạc để "lỡ có chết... gọi là của lão
có tí chút...", vì lão không muốn làm phiền đến hàng xóm. Nam Cao đã tinh tế đưa
nhân vật Binh Tư, một kẻ "làm nghề ăn trộm" ở phần cuối truyện, tạo nên một sự
đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão
nông chân quê đáng trọng.
Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì
âm thầm, nghèo đói, cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có
bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng...
Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ được Nam
Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 5
Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông
dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao
quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn "Lão
Hạc" của nhà văn là một tác phẩm như thế.
Nhân vật chính của tác phẩm - nhân vật lão Hạc - dù có một hoàn cảnh bất hạnh,
đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu và
đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư
tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.
Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo,
cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những
hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo
không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là
kỷ vật của con để làm bạn.
Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi
già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh
sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con
chó trong niềm khổ đau tột cùng: "Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau,
ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như
con nít", "lão hu hu khóc",...
Ban đầu là "luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai", "khoai cũng hết, lão chế tạo được
món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn
rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc". Rồi đến mức chẳng
còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão
Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết
"nhờ" ăn bả chó tự tử...!
Cái chết của lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn
ông lực lưỡng đè lên... Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con
chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.
Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân
phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão.
Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương
đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.
Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những "Cha con nghĩa
nặng" của Hồ Biểu Chánh, "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng,... ngợi ca
tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến "Lão Hạc" của Nam Cao. Vì thương
con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con
đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng.
Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều "cậu" Vàng vì đó là con chó khôn, chó
đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng
cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,...
là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng
như được thấy con mình.
Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không
chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để
vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống
làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi!
Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy!
Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự
trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã
có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng
hạn, hay người đàn bà trong "Một bữa no" của Nam Cao..) nhưng lão Hạc thì
không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn)
lão "từ chối gần như hách dịch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng.
Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó "lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa
đâu". Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: "con người đáng kính ấy bây giờ cũng
theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn".
Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão.
Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng
đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!
Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão
đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được
trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với con chó Vàng tội nghiệp.
Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả
khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục
đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm
phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc!
Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài
tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi
kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ
dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh
động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.
Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc. Nam
Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt
Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh
chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.
Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của
người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu
thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó
xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết
nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương
tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.
Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiêm nghiệm:
"Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn". Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao
quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm
cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô
cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà
văn còn nhận định người nông dân "như những con lợn không tư tưởng". Và bởi
thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!
Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng
quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về
tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã
khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 6
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện ngắn, truyện dài chân
thực viết về hai mảng đề tài chính: người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người
trí thức nghèo, sống mòn mỏi bế tắc trong xã hội xưa cũ. Trong đó, “Lão Hạc”
được coi là truyện ngắn tiêu biểu nhất viết về người nông dân khi đã xây dựng
được hình tượng nhân vật lão Hạc - nhân vật chính của tác phẩm.
Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ. Vợ mất sớm, một mình nuôi con khôn
lớn. Tài sản trong nhà không có gì ngoài ba sào vườn, một túp lều nhỏ và một con
chó. Lão không có đủ tiền cho con trai cưới vợ. Chán nản, anh con trai bỏ đi đồn
điền cao su, bỏ lại lão sống một mình. Sau một trận ốm, trong nhà không còn gì để
ăn, lão quyết định bán cậu Vàng - kỉ vật mà con trai để lại, không chỉ là một con
vật mà còn giống như một người bạn.
Cuộc sống khốn khó là vậy, nhưng lão vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp. Nổi
bật lên là một con người hiền lành, nhân hậu và giàu tình yêu thương. Lão vô cùng
thương yêu con của mình. Khi không lo được cho con cưới vợ, lão đã vô cùng đau
khổ. Vì thương con, lão chấp nhận sống cô đơn một mình lúc tuổi già ốm yếu để
con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão lại dồn hết tình cảm vào con chó Vàng - là kỉ
vật duy nhất mà con để lại: “Con chó là của cháu nó mua đấy chứ!... Nó mua về
nuôi, định để đến lúc cưới vợ thì giết thịt”. Nhìn thấy nó, lão tưởng như được thấy
chính con trai mình. Không chỉ vậy, tình yêu thương con của lão còn khiến lão
chịu đựng cái đói mà kiên quyết không chịu bán đi mảnh vườn - của hồi môn của
con. Thậm chí lão Hạc quyết định lựa chọn cái chết để không động đến số tiền
dành cho con. Lão bán đi căn nhà, đem hết số tiền sang nhà ông giáo gửi và nhờ
trông coi mảnh vườn. Khi con trai lão về sẽ giao lại cho anh. Không chỉ đối với
con trai, lão Hạc còn dành tấm lòng yêu thương dành cho con Vàng. Lão đối xử
với nó như với một con người. Cho ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì
ăn cũng gắp cho nó cùng ăn. Mỗi khi rảnh rỗi còn đem nó ra tẳm rửa, bắt giận. Mỗi
khi lão uống rượu có đồ nhắm ngon lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp
thức ăn cho con cháu trong nhà. Thường xuyên tâm sự với nó, vỗ về ôm ấp. Lão
coi con Vàng giống như một người bạn hơn là một con chó. Để rồi đến khi phải
bán nó, lão đã vô cùng đau đớn, day dứt. Cái quyết định bán cậu Vàng vô cùng khó
khăn, trăn trở giống như phải quyết định một việc trọng đại trong đời. Khi kể lại
việc bán cậu Vàng cho ông giáo nghe, lão Hạc vô cùng đau đớn, tự trách bản thân
mình nỡ đi lừa một con chó.
Lão Hạc cùng là một con người sống trong sạch, giàu lòng tự trọng. Dù sống trong
hoàn cảnh túng quẫn, chỉ ăn củ chuối, sung luộc… nhưng lại từ chối “một cách gần
như hách dịch” những gì ông giáo ngầm cho lão. Lão chỉ đến nhờ ông giáo hai
việc. Một là, nhờ ông giáo trông nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về sẽ giao
lại cho nó. Hai là, nhờ ông ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ ông giáo và bà
con lo liệu ma chay cho mình. Sau đó, lão đến xin Binh Tư một ý bả chó và nói dối
rằng dạo này có con chó hay đến vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó. Nếu được lão
sẽ mời hắn uống rượu. Nhưng thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử. Nhà văn
đã khắc họa hình ảnh lão Hạc khi chết đầy ám ảnh: “Lão Hạc đang vật vã trên
giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt
mép sùi ra, khắp người lão chốc chốc lại bị giật mạnh một cái. Lão vật vã đến hai
giờ đồng hồ mới chết”. Cái chết dữ dội, đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện.
Nhà văn Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật miêu tả nhân vật vô cùng thành công.
Cùng với đó là ngôn ngữ kể chuyện giàu tính tạo hình và sức gợi cảm kết hợp với
tài năng miêu tả nội tâm nhân vật để khắc họa thành công nhân vật lão Hạc.
Như vậy, qua nhân vật Lão Hạc, Nam Cao đã đã khắc họa chân thực cuộc đời của
người nông dân Việt Nam trước cách mạng cùng với đó là phẩm chất cao quý của họ.
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 7
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 - 1945. Qua
nhiều tác phẩm, tác giả đã vẽ nên khung cảnh tiêu điều, xơ xác của nông thôn Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám. Sự đói khổ ám ảnh nhà văn bởi nó ảnh hưởng
không ít tới nhân cách, nhưng trong cảnh nghèo đói thê thảm, phẩm chất tốt đẹp
của người nông dân vẫn tồn tại và âm thầm tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc thể
hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Trong đó, nhân vật chính là một
nông dân gặp nhiều nỗi bất hạnh vì nghèo đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương
con và có lòng tự trọng.
Vợ mất sớm, lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất. Lão sẽ
sung sướng biết dường nào nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã
bị phụ tình chỉ vì quá nghèo, không đủ tiền cưới vợ.
Thương con, lão thấu hiểu nỗi đau của con khi anh nghe lời cha, không bán mảnh
vườn để lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng thương con,
lão càng xót xa đau đớn vì không giúp được con thỏa nguyện, đến nỗi phẫn chí bỏ
nhà đi phu đồn điền đất đỏ mãi tận Nam Kì. Mỗi khi nhắc đến con, lão Hạc lại rơi nước mắt.
Lão Hạc rất quý con chó vì nó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai. Lão trìu mến gọi
là cậu Vàng và cho nó ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Suốt ngày, lão thầm thì to
nhỏ với con Vàng. Với lão, con Vàng là hình bóng của đứa con trai yêu quý, là
người bạn chia sẻ cô đơn với lão. Vì thế nên bao lần định bán con Vàng mà lão vẫn không bán nổi.
Nhưng nếu vì nhớ con mà lão Hạc không muốn bán cậu Vàng thì cũng chính vì
thương con mà lão phải dứt khoát chia tay với nó. Lão nghèo túng quá! Lão đã tính
chi li mỗi ngày cậu ấy ăn thế bỏ rẻ cũng mất hai hào đấy. Cứ mãi thế này thì tôi lấy
tiền đâu mà nuôi được... Thôi bán phắt đi, đỡ đồng nào hay đồng ấy. Bây giờ, tiêu
một xu cũng là tiêu vào tiền của con. Tiêu lắm chỉ chết nó!
Thế là vì lo tích cóp, giữ gìn cho con trai chút vốn mà lão Hạc đành chia tay với
con chó yêu quý. Đã quyết như thế nhưng lão vẫn đau đớn, xót xa. Lão kể cho ông
giáo nghe cảnh bán cậu Vàng với nỗi xúc động cực độ. Lão đau khổ dằn vặt vì cảm
thấy mình đã đánh lừa một con chó. Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi lên.
Trước đây, lão dằn vặt mãi về chuyện vì nghèo mà không cưới được vợ cho con,
thì bây giờ cũng chỉ vì nghèo mà lão thêm day dứt là đã cư xử không đàng hoàng
với một con chó. Lão cố chịu đựng những nỗi đau đớn ấy cũng chỉ nhằm một mục
đích là giữ gìn chút vốn cho con.
Biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con chính là cái chết của lão. Ông lão nông
dân nghèo khổ ấy đã tính toán mọi đường: Bây giờ lão chẳng làm gì được nữa...
Cái vườn này là của mẹ nó chắt chiu dành dụm cho nó, ta không được ăn vào của
nó... Ta không thể bán vườn để ăn... Chính vì thương con, muốn giữ cho con chút
vốn giúp nó thoát khỏi cảnh nghèo mà lão Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó là
một sự chọn lựa tự nguyện và dữ dội. Nghe những lời tâm sự của lão Hạc với ông
giáo, không ai có thể kìm nổi lòng xót thương, thông cảm và khâm phục. Một con
người vì nghèo đói mà bất hạnh đến thế là cùng! Một người cha thương con đến thế là cùng!
Không chỉ có vậy, qua từng trang truyện, chúng ta còn thấy lão Hạc là người đôn
hậu, chất phác. Suốt đời, lão sống quanh quẩn trong lũy tre làng. Trong làng chỉ có
ông giáo là người có học nên lão tìm đến ông giáo để chia sẻ tâm sự. Lời lẽ của lão
Hạc đối với ông giáo lúc nào cũng lễ phép và cung kính. Đó là cách bày tỏ thái độ
kính trọng người hiểu biết, nhiều chữ của một lão nông. Cảnh ngộ lão Hạc đã đến
lúc túng quẫn nhưng lão tự lo liệu, xoay xở, cố giữ nếp sống trong sạch, tránh xa
lối đói ăn vụng túng làm càn. Thậm chí, lão kiên quyết từ chối sự giúp đỡ chỉ vì lòng thương hại.
Lão đã chuẩn bị kĩ lưỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo viết văn tự để
giữ hộ con trai mình mảnh vườn và gửi ông giáo 30 đồng để lo chôn cất. Lão
không muốn mọi người phải tốn kém vì lão. Rất có thể vì tốn kém mà người ta lại
chẳng oán trách lão sao? Không phiền lụy đến mọi người, đó cũng là cách để giữ
gìn phẩm giá. Thì ra ông lão có vẻ ngoài gàn dở ấy lại có phẩm chất đáng quý biết nhường nào!
Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì nghèo đói
cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách
mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh lão Hạc luôn nhắc
chúng ta nhớ đến những con người nghèo khó mà trong sạch với một tình cảm trân trọng và yêu quý.
Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 8
Nam Cao là một trong những tác giả tiêu biểu của khuynh hướng văn học hiện
thực. Truyện ngắn Lão Hạc rất nổi bật khi viết về người nông dân với hình tượng nhân vật lão Hạc.
Về hoàn cảnh sống, Lão Hạc là một người nông dân bất hạnh. Vợ mất sớm, một
mình nuôi con trai khôn lớn. Tài sản chỉ có ngoài ba sào vườn, một túp lều nhỏ và
một con chó. Gia cảnh khó khăn, lão không lo nổi cho con trai lấy vợ. Chán nản,
anh con trai bỏ đi đồn điền cao su. Sau một trận ốm, trong nhà không còn gì để ăn,
lão quyết định bán cậu Vàng. Lão đến nhờ cậy ông giáo giữ hộ số tiền để khi anh
con trai trở về sẽ trao lại. Sau đó, lão đến xin Binh Tư bả chó để tự tử.
Lão Hạc được xây dựng với những phẩm chất tốt đẹp. Một người nông dân thật
thà, hiền lành và giàu tình yêu thương. Lão yêu thương anh con trai. Không lo
được cho con cưới vợ, lão đã vô cùng day dứt, đau khổ. Thương con, lão chấp
nhận sống một mình lúc tuổi già ốm yếu để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão
lại dồn hết tình cảm vào con chó Vàng - là kỉ vật duy nhất mà con để lại. Nhìn
thấy nó, lão tưởng như được thấy chính con trai mình. Lão thà chịu đói chứ kiên
quyết không chịu bán đi mảnh vườn, của hồi môn của con. Sau trận ốm, lão không
còn sức để làm ăn, nhưng lão vẫn kiên quyết không động đến số tiền dành cho con.
Lão bán đi căn nhà, đem hết số tiền sang nhà ông giáo gửi và nhờ trông coi mảnh
vườn để khi anh con trai về sẽ giao lại. Lão Hạc cũng dành một tình cảm đặc biệt
với con chó Vàng. Lão gọi nó là cậu Vàng, đối xử với nó như với một con người.
Nó được ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì ăn cũng gắp cho nó cùng
ăn. Khi rảnh rỗi, lão còn đem nó ra tẳm rửa, bắt giận. Mỗi khi lão uống rượu có đồ
nhắm ngon lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con cháu trong
nhà. Thỉnh thoảng, Lão Hạc còn ôm ấp vỗ về, tâm sự với nó.Lão coi con Vàng
giống như một người bạn hơn là một con chó. Khi phải bán đi con chó Vàng, lão
đã vô cùng đau đớn, day dứt và tự trách bản thân.
Bên cạnh đó, Lão Hạc cũng là một con người sống trong sạch, giàu lòng tự trọng.
Dù khó khăn, nhưng lão vẫn từ chối sự giúp đỡ của ông giáo. Lão chỉ đến nhờ ông
giáo hai việc. Một là, nhờ ông giáo trông nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về
sẽ giao lại cho nó. Hai là, nhờ ông ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ ông
giáo và bà con lo liệu ma chay cho mình. Sau đó, lão đến xin Binh Tư một ý bả chó
và nói dối rằng dạo này có con chó hay đến vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó.
Nhưng thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử. Cái chết của Lão Hạc đầy dữ
dội, đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện.
Với nhân vật Lão Hạc, nhà văn Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật miêu tả nhân vật
vô cùng thành công. Ngôn ngữ kể chuyện giàu tính tạo hình và sức gợi cảm kết
hợp với tài năng miêu tả nội tâm nhân vật cũng là một điểm ấn tượng.
Nam Cao đã đã khắc họa chân thực cuộc đời của người nông dân Việt Nam trước
cách mạng cùng với đó là phẩm chất cao quý của họ qua nhân vật Lão Hạc.
Document Outline

  • Văn mẫu lớp 8
  • Phân tích nhân vật Lão Hạc
  • Sơ đồ tư duy Phân tích nhân vật Lão Hạc
  • Dàn ý phân tích nhân vật lão Hạc
  • Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 1
  • Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 2
  • Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 3
  • Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 4
  • Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 5
  • Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 6
  • Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 7
  • Phân tích nhân vật lão Hạc - Mẫu 8