Văn mẫu lớp 8: Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc Ngữ Văn 8 | Cánh diều
Văn mẫu lớp 8: Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc Ngữ Văn 8 | Cánh diều. Tài liệu được biên soạn và tổng hợp các kiến thức chọn lọc hay nhất giúp cho các bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời các bạn đón xem!
Chủ đề: Bài 6: Truyện (CD)
Môn: Ngữ Văn 8
Sách: Cánh diều
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Văn mẫu lớp 8
Phân tích nhân vật ông giáo hay nhất
Dàn ý phân tích nhân vật ông giáo Dàn ý 1 1. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc. 2. Thân bài
- Hoàn cảnh: cuộc sống nghèo khổ, vất vả nên phải dứt ruột bán đi những thứ vô
cùng quý giá với bản thân
- Thái độ: có sự đối chiếu giữa hoàn cảnh của bản thân với hoàn cảnh của lão Hạc.
- Suy nghĩ: có những bình luận, đánh giá khá sắc sảo, tinh tế về những chuyện lão
Hạc kể hoặc những điều biết về lão Hạc.
- Tình cảm dành cho lão Hạc:
Ban đầu có vẻ dửng dưng, thờ ơ khi nghe chuyện lão Hạc muốn bán chó và tâm sự về con trai.
Đồng cảm, thương xót khi lão Hạc chia sẻ về việc đã bán chó
Buồn bã, khó hiểu khi lão Hạc từ chối sự giúp đỡ.
Có đôi chút nghi ngờ, thất vọng khi nghe Binh Tư kể chuyện lão Hạc xin bả chó.
Xót xa khi chứng kiến cái chết của lão Hạc
- Vai trò của nhân vật: người kể chuyện, chứng kiến và tham gia vào câu chuyện. 3. Kết bài
Khẳng định giá trị của nhân vật trong truyện ngắn Lão Hạc. Dàn ý 2 1. Mở bài
Giới thiệu về nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao. 2. Thân bài
- Giới thiệu vài nét về nhân vật ông giáo.
- Phân tích các nét đẹp của ông Giáo được thể hiện của hành động, suy nghĩ đối với người xung quanh:
Là người đáng mến nhưng cũng đáng thương
Ông giáo là người thấu hiểu chuyện đời, biết cảm thông và thương xót cho người khác
Là người từng trải và giàu triết lí
Là người biết trân trọng và gìn giữ cái đẹp
=> Tâm tư, trăn trở cũng như suy nghĩ của nhà văn được thể hiện rõ ràng qua nhân vật ông giáo. 3. Kết bài
Khẳng định lại vai trò của ông giáo đối với tác phẩm. Dàn ý 3 1. Mở bài
Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm:
Nam Cao (1917 - 1951) là nhà văn hiện thực lớn, một nhà báo kháng chiến,
một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20.
Tác phẩm “Lão Hạc” là truyện ngắn nổi tiếng viết theo chủ nghĩa hiện thực tiêu
biểu của nhà văn Nam Cao được viết vào năm 1943.
- Giới thiệu khái quát về nhân vật ông giáo: Nhân vật ông giáo trong tác phẩm tuy
không phải là nhân vật chính nhưng lại vô cùng quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng của tác giả. 2. Thân bài
a. Luận điểm 1: Lý lịch và hoàn cảnh nhân vật
- Ông giáo là một tri thức nghèo ở nông thôn, có hoàn cảnh khó khăn.
- Nếu như với một người nông dân như lão Hạc, sự nghèo đói khiến lão phải bán đi
con chó - người bạn thân nhất của lão, thì với một trí thức như ông giáo, thứ ông
quý trọng nhất, nâng niu nhất nhưng cuối cùng ông vẫn phải bán chúng đi để chữa
bệnh cho con - đó là sách.
- Cuộc sống khó khăn của ông giáo còn được thể hiện qua hình ảnh người vợ của
ông. Sự nghèo đói, khổ cực đã khiến thị trở nên ích kỉ với tất cả mọi người, ngoại
trừ những đứa con của thị.
=> Cuộc sống khó khăn bao trùm lên ngôi làng nhỏ, dù là một người trí thức cũng
không thể thoát khỏi vòng vây của cái đói, cái khổ.
b. Luận điểm 2: Ông giáo là một người giàu tình cảm, giàu lòng yêu thương
- Ông giáo khác vợ ông ở chỗ, dù nghèo đói, túng quẫn, nhưng ông vẫn giữ được
cái phẩm chất, cái lòng thương người, đồng cảm của mình, đặc biệt là với ông bạn già – lão Hạc.
- Từ khi con trai lão Hạc ra đi, ngoài cậu Vàng thì có lẽ, ông giáo chính là người
thấu hiểu và đồng cảm với lão nhất, ông luôn lắng nghe mọi tâm sự của lão Hạc, từ
việc con trai không có tiền cưới vợ phải bỏ đi đồn điền, đến việc lão muốn bán chó,
muốn gửi vườn, gửi tiền,…
- Ông giáo luôn muốn giúp đỡ lão Hạc, dù chỉ là củ khoai, chén rượu, khi lão Hạc
từ chối sự giúp đỡ của ông, ông giáo vừa buồn vừa thông cảm. Sự giúp đỡ duy
nhất của ông dành cho lão, có lẽ là giữ vườn và tiền làm ma hộ lão.
- Không chỉ với lão Hạc, ông giáo cũng hiểu và thông cảm cho sự ích kỉ của người
vợ: “Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi”
c. Luận điểm 3: Ông giáo là một trí thức vừa đáng thương vừa đáng quý
- Tưởng như trong câu chuyện này, lão Hạc đã là người khổ nhất, đáng thương
nhất, nhưng nếu như nhìn lại tất cả, có lẽ ông giáo mới là người đáng thương nhất.
- Ông giáo là nhân vật đại diện cho tầng lớp trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ.
- Sự bế tắc ấy được thể hiện ở chỗ ông chính là người chứng kiến mọi đau khổ của
lão Hạc, con lão, của vợ ông, và có lẽ của rất nhiều người khác, những ông chỉ có
thể đứng nhìn mà không thể cứu giúp họ khỏi cái khổ đau ấy.
- Ông giáo không chỉ gánh trên vai sự thiếu thốn về vật chất mà còn gánh cả nỗi
đau về tinh thần, đó là sự dày vò, day dứt khi không thể làm gì cho xã hội, cho đất
nước, như chính trách nhiệm của một nhà nho, nhà trí thức đương thời.
- Khi vợ ông ích kỉ với lão Hạc, ông chỉ “buồn chứ không nỡ giận”, khi nghe Binh
Tư nói lão Hạc muốn đánh bả chó, ông chỉ biết thốt lên “Cuộc đời quả thật cứ mỗi
ngày một thêm đáng buồn”. Và cho đến khi chứng kiến cái chết của lão Hạc, điều
duy nhất ông có thể làm đó là giữ trọn lời hứa với lão.
=> Tình cảnh bế tắc và tấm lòng nhân đạo của ông giáo khiến người đọc thấy đâu
đó trong con người ông là nỗi lòng, tâm sự của chính tác giả - nhà văn Nam Cao. 3. Kết bài
- Khẳng định lại phẩm chất, vai trò của nhân vật ông giáo trong truyện: Ông giáo là
người giàu lòng trắc ẩn, yêu thương, đại diện cho tầng lớp trí thức đương thời.
- Đánh giá, cảm nhận của em về nhân vật: Lấp ló đằng sau nhân vật ông giáo ấy
chính là hình ảnh tác giả với tấm lòng nhân đạo cao cả và nỗi lòng bế tắc trước
cảnh ngộ của những người dân lao động.
Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 1
Mỗi nhân vật trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một mảnh đời,
một số phận. Ta thương cảm xót xa cho cái chết đầy đau đớn dữ dội của lão Hạc,
nhưng cũng không quên đi một ông giáo đầy bất hạnh. Nung nấu trong mình
những ý định lớn lao, nhưng tất cả đều sụp đổ bởi “cơm áo không đùa với khách thơ”.
Hai tiếng ông giáo đầy kính trọng, thiêng liêng. Ở cái đất quê mùa, ít học ấy mấy ai
được người đời tôn xưng là ông giáo. Đó phải là người hiểu luân lí, lắm chữ nghĩa
mới được gọi như vậy. Và ông giáo chính là một người như vậy.
Dưới sự giới thiệu của Nam Cao, người đọc được biết đôi nét về tiểu sử của ông
giáo. Thời trẻ ông giáo là một người chăm chỉ, ham học hỏi, sống có mục đích, lí
tưởng. Thứ ông quý hơn sinh mạng của mình chính là những cuốn sách. Nhưng
cuộc sống đưa đẩy, đầy éo le, khi vào Sài Gòn lập nghiệp không được bao lâu, ông
giáo ốm. Trận ốm ấy đã khiến ông bán gần hết những gia sản mình có và mang về
được một va li sách. Nếu như lão Hạc yêu quý cậu Vàng như thế nào thì ông lão
cũng nâng niu những cuốn sách của mình như vậy. Nhưng lấy vợ, rồi cái nghèo cứ
đeo bám, ông bán dần bán mòn những quyển sách của mình và giữ lại đúng năm
quyển, tự hứa sẽ không bán chúng đi nữa. Nhưng cuộc đời cũng thật biết trêu đùa,
con ông ốm đau, đành bán đi những cuốn sách còn lại. Cuộc đời của ông giáo cũng
chính là một bi kịch khác, bi kịch của một người trí thức nghèo.
Ông giáo còn là một người có tâm lòng nhân hậu, luôn biết yêu thương và san sẻ
với mọi người. Ông giáo là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho lão Hạc. Ông giao là
nơi để lão Hạc chia sẻ tâm sự, đặc biệt là từ ngày con lão Hạc bỏ đi đồn điền cao
su. Những bức thư con lão gửi về cũng chính là ông giáo đọc, để lão thỏa vơi nỗi
nhớ con. Rồi khi lão Hạc bán chó, đau đớn, xót xa và tự trách mình, cũng chính
ông giáo đã ở bên an ủi, động viên: “Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái
này là sung sướng: bây giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai
lang, nấu một ấm nước chè tươi thật đặc; ông con mình ăn khoai, uống nước chè,
rồi hút thuốc lào. Thế là sướng”. Đối với ông giáo, lão Hạc là một người thân trong
gia đình, ông thương cảm cho số phận bất hạnh của lão Hạc, vợ mất, một mình gà
trống nuôi con, nay lại lụi cụi một mình khi đứa con trai bỏ đi. Lão Hạc nào có ai
bên cạnh chăm sóc, ngoài sự quan tâm, sẻ chia của ông giáo.
Dù gia cảnh cũng không khấm khá gì hơn lão Hạc. Nhưng nhìn cảnh lão Hạc sau
khi gửi tiền tang ma sau này và giao mảnh vườn lại để cho con, phải ăn uống kham
khổ, lấy củ khoai, củ ráy ăn thì ông giáo động lòng thương cảm muốn giúp đỡ.
Ông giúp bằng chính cái tâm của mình, nhưng lại bị lão Hạc từ chối gần như là
hách dịch. Ông hiểu lắm, bởi lão là người có lòng tự trọng, nên không muốn ai
thương hại mình. Cái chết của lão Hạc cũng làm ông giáo bàng hoàng đau đớn.
Đến bấy giờ ông mới thực sự hiểu hết con người lương thiện, nhân cách cao đẹp
của lão Hạc: “Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt. Lão đừng
lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ
trao lại cho hắn và bảo hắn: Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để
lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào…”.
Ông giáo cũng là người rất hiểu chuyện, nắm bắt rõ tâm lí con người. Khi ông đem
chuyện lão Hạc kể với vợ, mụ vợ gắt phắt đi vì cho rằng chính lão tự làm lão khổ
nên mặc kệ lão. Ông giáo không trách vợ bởi: “Vợ tôi không ác nhưng thị khổ quá
rồi. Một người đau chân có lúc nào quên dược cái chân đau của mình để nghĩ đến
một cái gì khác đâu?Khi người ta đau khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai
được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”.
Ông giáo là nhân vật tư tưởng của nhà văn Nam Cao. Ông đại diện cho Nam Cao
phát biểu những suy nghĩ, quan niệm nhân sinh ở đời.
Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 2
Truyện ngắn Lão Hạc là một trong những thành công của Nam Cao trong việc xây
dựng những hình tượng người nông dân Việt Nam sống dưới ách thống trị nặng nề
trọng xã hội thực dân nửa phong kiến, những con người phải sống một cuộc đời
đầy đau khổ nhưng vẫn mang một vẻ đẹp tâm hồn thật cao quý. Nếu lão Hạc là
hình tượng nhân vật gảy xúc động bởi tình phụ tử thiêng liêng và nhân cách cao
thượng thì ông giáo cũng là điểm sáng về tinh thương người, về cách nhìn đầy cảm
thông trân trọng đối với người nông dân nghèo đói đương thời.
Trước hết, ta thấy nhân vật "tôi" trong tác phẩm là một người tri thức nghèo. Nghề
giáo trong xã hội ấy thường bị thất nghiệp. Mọi mơ ước, lí tưởng, mọi nhiệt tình
sôi nổi của tuổi trẻ đành bỏ dở và phai nhạt dần. Kể cả những cuốn sách quý giá
ông giáo cũng đành bán đi để chữa bệnh cho con. ông giáo, do đó, rất cảm thông
với nỗi đau xót của lão Hạc ông tâm sự như muốn nói với người bạn đồng cảnh
ngộ: "Lão Hạc ơi!Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu? Lão qúy con chó Vàng của
lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi!"
Từ kinh nghiệm, từ nỗi đau bản thân, ông giáo dễ dàng thông cảm với lão Hạc.
Ông thấy được phẩm chất cao quý của lão Hạc và rất trân trọng lão Hạc. Ông đã
nhận xét nếu không hiểu sâu tâm hồn phẩm chất của họ, ta chỉ thấy họ ngu dốt, gàn
dở, xấu xa! Ngược lại, đã hiểu và yêu quý Lão Hạc, ông giáo ngầm giúp đỡ lão
Hạc đến nỗi vợ của ông phàn nàn trách cứ. Đó là thời buổi cái đói khổ và cái chết
chóc đang rình rập bất cứ ai! Hiểu nhau ở tinh thần, thể hiện bằng hành động giúp
đỡ cụ thể, điều đó rõ là tình cảm sâu xa, nhân hậu.
Tuy nhiên, cả một xã hội đang bị cảnh chết đói đe dọa, có người còn giữ được đạo
đức nhân cách, có người phải trộm cắp để sống. Vì vậy, thấy Lão Hạc xin bả chó
của Binh Tư, ông giáo lầm tưởng lão Hạc cũng từ bỏ nhân cách, đói nghèo đến liều
lĩnh rồi. Dù vậy, ông giáo cũng suy nghĩ rất nhân hậu: Lão Hạc lại nối gót Binh Tư
làm nghề bắt trộm chó để sống, lẽ nào một con người hiền lành chất phác như vậy
mà giờ đây lại có ý nghĩ và hành động xấu xa đến như thế? Vừa kính nể về nhân
cách, vừa thương vì hoàn cảnh túng cùng, ông giáo cảm thấy buồn trước sự suy
thoái đạo đức. Đến lúc nghe và thấy cái chết thảm khốc vì ăn bả chó của lão Hạc,
ông giáo chợt nhận ra: "Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn, hay vẫn đáng buồn
nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác". Thật vậy, cuộc đời chưa hẳn đáng buồn
vì Lão Hạc vẫn là con người có đạo đức, có nhân cách cao quý, Lão Hạc vẫn xứng
đáng với niềm tin của ông, lão chưa mất nhân phẩm vì miếng cơm manh áo! Chưa
hẳn đáng buồn, vì lão Hạc vẫn là con người có đạo đức, có nhân cách cao quý, lão
Hạc vẫn xứng đáng với niềm tin cậy của ông, lão chưa mất nhân phẩm vì miếng
cơm manh áo! Nhưng đời đáng buồn theo nghĩa khác: ông giáo buồn vì con người
mà ông đang yêu mến, quý trọng ấy lại nghèo đến nỗi không có cái ăn để tồn tại
trên cõi đời này. Cuộc đời con người lương thiện lại bi thảm đến thế? Vậy thì chân
lí "ở hiền gặp lành" còn tồn tại nữa chăng?
Đối với lão Hạc, còn quý gì hơn lời hứa thực hiện điều ông trăn trối: Lão Hạc ơi!
Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão
cái vườn mà lão nhất định không chịu bán đi một sào". Ta như nghe ông giáo đang
thề nguyện trước vong linh người đã khuất, ta tin rằng ông sẽ làm tròn lời hứa với lão Hạc.
Truyện Lão Hạc đã cho ta thấy xã hội đương thời có nhiều cảnh bi thương, dồn con
người lương thiện vào đường cùng không giúp được, không cưu mang nỗi nhau để
cuối cùng phải tự kết liễu đời mình một cách thảm thương. Ý nghĩa tố cáo của truyện thật sâu sắc!
Tóm lại, ông giáo là người trí thức, không may mắn trong xã hội đương thời nhưng
vẫn có tấm lòng nhân hậu đáng quý, có cái nhìn sâu sắc để cảm thông chia sẻ và
quý trọng một người chất phác thật thà như lão Hạc. Biết bao người có lòng nhân
hậu mà không giúp nhau vượt qua bi kịch của cuộc sống! Qua ông giáo, ta hiểu cái
nhìn cảm thông tin tưởng của Nam Cao đối với nhân cách đáng quý: dù đó là trí
thức hay nông dân thì quan hệ giữa họ vẫn là tri kỉ, họ có thể ký thác những điều
hệ trọng, thiêng liêng nhất đời mình.
Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 3
Trở đi trở lại trong sáng tác của nhà văn Nam Cao là hình ảnh người nông dân và
người trí thức. Họ là nơi để nhà văn ký thác những quan điểm về nghệ thuật và
cuộc đời, nơi nhà văn bộc lộ tâm sự của mình. Người trí thức trong sáng tác của
ông là những nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh sống đầy nghiệt ngã. Những
kiếp đời mòn mỏi, sống mòn, sống thừa, bị áo cơm ghì sát đất. Đau khổ hơn, họ lại
là người trí thức - người luôn ý thức được những nỗi khổ đau của mình trước cuộc
đời. Nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một con người như vậy.
Ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc được nhà văn giao cho rất nhiều trọng trách.
Nhân vật này đứng thứ hai sau nhân vật lão Hạc, vừa như người chứng kiến vừa
như người tham gia vào câu chuyện của nhân vật chính, vừa đóng vai trò dẫn dắt
câu chuyện vừa trực tiếp bày tỏ thái độ, tình cảm, tâm trạng của bản thân. Đó cũng
là chỗ gần gũi và khác cách kể chuyện trong tiểu thuyết - tự truyện Những ngày
thơ ấu của Nguyên Hồng.
Ông giáo cũng là một con người có hoàn cảnh sống đầy những khó khăn. Tuổi trẻ
ông đã từng đi nhiều nơi, vào tận Sài Gòn với những niềm tin và bao khát khao cao
đẹp. Một con người như thế rồi cũng bị ném trả lại vùng nông thôn nghèo khổ, nơi
hi vọng bị diệt trừ và 11 tưởng chỉ là một giấc mộng mãi không thành. Những cuốn
sách mà ông đã nâng niu quý trọng “mỗi lần mở một quyển ra, chưa kịp đọc dòng
nào, tôi đã thấy bừng lên trong lòng tôi như một rạng đông cái hình ảnh tuổi hai
mươi trong trẻo, biết yêu và biết ghét...”, rồi cũng phải tự tay mình bán đi vì con
ốm, vì đã cùng đường đất sinh nhai. Đọc những trang văn của Nam Cao, mặc dù
nhà văn không hề miêu tả kĩ cuộc sống của ông giáo nơi quê nhà nhưng tôi cứ có
cảm giác một nỗi buồn man mác bao phủ lên cảnh sống của ông.
Ông giáo là một nhân vật giàu lòng yêu thương. Có lẽ chính những điều đó là chỗ
gần gùi làm cho ông và lão Hạc xích lại gần nhau hơn. Ông giáo tỏ ra cảm thông,
thương xót cho hoàn cảnh của lão Hạc - người láng giềng già, tốt bụng, tìm cách an
ủi, giúp đỡ lão. Nhất là từ khi thằng con lão Hạc đi xa và khi lão bán cậu Vàng thì
ông giáo dường như là chỗ dựa tinh thần, nơi duy nhất của lão Hạc bộc bạch tâm
sự của mình. Khi lão Hạc bán cậu Vàng, sang nhà ông giáo với tâm trạng tột cùng
đau khổ, thi ông giáo đã ở bên, động viên lão với tấm lòng cảm thông rất mực chân
thành. Khi lão Hạc bòn mót tất cả để gửi gắm lại phần để dành cho con, phần để
dành lo cho hậu sự của mình, trong khi lão càng ngày càng rơi vào cảnh sống đói
khổ, thì ông giáo là người duy nhất hiểu lão: “Tôi giấu giếm vợ, thỉnh thoảng giúp
ngấm ngầm lão Hạc”. Người hàng xóm tốt bụng và giàu tình thương của lão Hạc
khiến ta xúc động và trân trọng, đó là một nhân cách cao cả.
Cũng giống như biết bao nhân vật người trí thức trong sáng tác của Nam Cao, họ
đều là những con người đáng thương. Nếu là một người nông dân bình thường thì
cái đói, cái nghèo có lẽ là nỗi khổ duy nhất và lớn nhất. Nhưng với những người trí
thức của Nam Cao, họ còn phải gánh trên vai cả nỗi khổ về tinh thần. Những con
người có học thức ấy luôn bị dày vò, luôn phải trăn trở trong nghĩ suy. Đi hết câu
chuyện, ta nhận ra ông giáo là người luôn phải chứng kiến nỗi đau của người khác.
Nhìn xung quanh cuộc sống mình không có lấy một niềm vui, một ánh sáng của sự
sống. Cuộc đời bi thương, bất hạnh của gia đình lão Hạc, cách nghĩ của chính vợ
ông khiến ông đau xót thốt lên: “Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng
buồn”. Là người giàu lòng yêu thương nhưng ông cũng bất lực trước hoàn cảnh
của người khác. Lão Hạc luôn bên ông, luôn chia sẻ với ông tâm sự những suy
ngẫm về cuộc đời nhưng rồi, ông giáo có giữ nổi lão Hạc ở lại cõi đời này đâu. Kết
thúc, lão vẫn chết một cách thê thảm, đáng thương. Vợ ông giáo có cái nhìn lệch
lạc về lão Hạc nhưng ông cũng chỉ ngậm ngùi “bởi thị khổ quá rồi, có bao giờ thị
nhìn thấy nỗi khổ của người khác đâu”. Ta thấy ông giáo là một nhân vật vừa đáng thương vừa đáng trọng.
Những triết lí sống rút ra về nỗi buồn trước cuộc đời và con người đã tạo cho ông
một tiếng nói riêng trong truyện. “Chao ôi, đối với những người ở quanh ta, nếu ta
không cố" mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi,
toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng
thương, không bao giờ ta thương”. Ông giáo không chỉ tỏ ra rất hiểu vì sao mà vợ
ông lại không chịu giúp lão Hạc và cảm thông với những nỗi khổ của thị. Ông giáo
chỉ buồn mà không nỡ giận và còn nhắc nhở mình phải cố tìm hiểu họ, đồng cảm
với họ. Mặt khác ông còn buồn vì thấy lão Hạc gần như làm ngơ trước sự giúp đỡ
của ông làm cho hai người dần xa nhau. Nhưng khi biết lão Hạc xin bả chó của
Binh Tư, nghe câu nói đầy mỉa mai của y dành cho lão Hạc thì ông còn buồn hơn.
Ông cảm thấy thất vọng trước sự thay đổi cách sống do không chịu đựng được đói
khổ, “túng ăn vụng, đói làm càn” của một người vốn có bản tính trong sạch, giàu
lòng tự trọng như lão Hạc. Ông giáo buồn vì bản năng đã chiến thắng nhân tính
mất rồi! Nhưng sau cái chết bất ngờ và bi thảm của lão, tâm trạng của ông lại biến
chuyển, có thêm những suy nghĩ khác. Trước hết ông thấy cuộc đời không thật
đáng buồn vì có những cái chết mang tinh thần hi sinh đầy cao đẹp như của lão
Hạc. Cái chết cho thấy nhân tính đã chiến thắng, lòng tự trọng vẫn giữ chân con
người trước bờ vực của sự tha hóa. Ông giáo ngỡ ngàng nhận thấy: “nhưng cuộc
đời lại đáng buồn theo một nghĩa khác” là ở chỗ, những người tốt như lão Hạc,
đáng thương, đáng thông cảm như thế nhưng cuối cùng vẫn có hoàn cảnh bế tắc,
hoàn toàn vô vọng, vẫn phải tìm đến cái chết như là cứu cánh duy nhất, như là sự
giải thoát tự nguyện và bất đắc dĩ. Và càng đáng buồn hơn vi không phải ai cũng
hiểu hết ý nghĩa cái chết của lão. Tâm trạng của ông giáo chứa chan một tình yêu
thương và lòng nhân ái sâu sắc nhưng cũng thâm trầm với giọng điệu buồn và bi
quan. Chỉ còn đó một chút niềm an ủi với vong linh người vừa chết kia là ông giáo
cố' gắng giữ trọn lời hứa, giữ trọn mảnh vườn để có dịp gặp và trao tận tay người con trai lão Hạc.
Có một điều không phải dễ dàng bạn đọc nào cũng nhận ra rằng: người đau khổ
nhất truyện chưa hẳn đã là những con người nhỏ bé, bất lực như lão Hạc, con lão
Hạc, Binh Tư,... mà lại là ông giáo - con người biết tất cả mọi nỗi đau của mọi kiếp
người mà đành bất lực “ngậm đau khổ để gửi vào im lặng”.
Xây dựng nhân vật ông giáo, Nam Cao như muốn tặng cho lão Hạc một người bạn
để an ủi, chia sẻ nhưng cũng với nhân vật này, nhà văn muốn bày tỏ quan điểm,
suy ngẫm về kiếp người và cuộc đời. Ta như bắt gặp hình bóng của Nam Cao trong
ông giáo. Những nét tương đồng của nhân vật này và nhà văn như một lời tâm sự
chân thành mà tác giả gửi vào trang viết. Văn là người. Một trái tim ấm nóng tình
nhân đạo, lòng yêu thương với con người cứ bùng lên mãnh liệt trong trang viết
của Nam Cao. Có thể không thể thay đổi cuộc đời của những người trí thức trong
sáng tác của mình nhưng ta vẫn tin rằng dù cuộc đời có nghiệt ngã đến đâu thì họ
vẫn giữ được những nét nhân cách đáng trọng của mình.
Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 4
Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao nếu mất đi nhân vật ông giáo quả là một sự
thiếu sót. Ông giáo đã làm sáng lên, nêu bật nội dung tư tưởng sâu sắc của tác phẩm.
Nam Cao được đánh giá là nhà văn hay trăn trở về cuộc đời, trăn trở về thân phận
con người, Nhân vật ông giáo được đặt vào tác phẩm không phải là không có chủ
định. Với vai trò là người dẫn chuyện, kể chuyện, ông giáo trực tiếp thổ lộ, biểu
hiện những tình cảm của mình một cách tự nhiên, khái quát. Tác phẩm trở nên
phong phú như được phả vào một luồng tình cảm chắt lọc từ một con người có tấm
lòng chân chính - ông giáo.
Ốm dậy, tôi về quê. Hành lí chỉ vẻn vẹn có một cái va-li đựng toàn những sách. Ôi
những quyển sách rất nâng niu. Sau cùng, chỉ còn có năm quyển, tôi nhất định dù
có phải chết cùng không chịu bán. Ấy thế mà tôi cũng, bán! Mới cách đây có hơn
một tháng thôi, đứa con nhỏ của tôi bị chứng kiết lị gần kiệt sức... Không! Lão Hạc
ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu? Những lời chua chát đắng cay thấm vào
từng câu chữ. Ông giáo đã có một thời cao vọng, đầy những say mê, nhiệt huyết,
nguyện cống hiến cho đời tất cả tài năng trí tuệ. Nhưng hình như cuộc sống thực
tại đã trói chặt và xóa mờ những ước mơ đó. Cái gì đẹp hơn là một con người
nguyện cống hiến toàn bộ lí tưởng đó lại bị một bức tường ngăn trước mặt. Tính
cách của ông giáo có sung sướng lão Hạc. Nhân vật này là hình bóng của nhân vật
trí thức tiểu tư sản nghèo của Nam Cao, là đối tượng của nhà văn khai thác. Đó
cũng là hình bóng, là hiện thân của Nam Cao.
Là một con người được nếm trải-và chứng kiến bao cảnh sống, ông giáo luôn canh
cánh bền lòng nỗi trăn trở về cuộc đời, về con người. Trong tác phẩm đã rất nhiều
lần ông giáo phải thốt lên những lời đắng cay, chua xót về mối quan hệ giữa con
người và con người, sự biến mất ở mỗi con người: Chao ôi! Đối với những người ở
quanh ta không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta
thương. Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại
đáng buồn theo một nghĩa khác. Sự lo lắng, băn khoăn của ông giáo cũng là nỗi
niềm của Nam Cao. Tâm sự của nhân vật mang một nỗi đau về thời thế. Thật sâu
sắc và trân trọng. Nhưng đó cũng là con người bất lực - “lực bất tòng tâm”, chỉ biết
kêu lên những lời ca tha thiết. Ông giáo không biết và không chỉ ra được con
đường thoát cho lão Hạc cũng không tìm được con đường thoát cho chính mình.
Đó cũng là đặc điểm của bao nhân vật tiểu tư sản nghèo trong tác phẩm của Nam Cao.
Được học hành, nếm trải ông giáo có một sự hiểu biết và lòng thương yêu rất mực
đối với con người, một lòng thương quê mình. Đối với vợ - một người hay đánh
giá lầm lạc về con người, ông giáo chỉ có thể buồn chứ không nỡ giận. Bởi hiểu
biết về quy luật khắc nghiệt của cuộc sống, ông giáo đã sẵn sàng tha thứ tính xấu
hay những lầm lạc của con người. Một sự bao dung nhìn nhận con người một cách
đúng đắn. Đặc biệt với nhân vật lão Hạc, ông giáo càng thể hiện tấm lòng mình.
Ông là người biết nhìn nhận cái đẹp và trân trọng cái đẹp. Chính vì vậy mà đã có
lúc ông lo sợ cái đẹp ở con người lão Hạc có thể biến mất. Ông giáo đã tìm thấy
con người bề ngoài có vẻ lẩm cẩm kia chứa đựng bên trong một vẻ đẹp sáng ngời.
Chính vì thế mà ngòi bút của Nam Cao qua nhân vật ông giáo, ban đầu thì lạnh
lùng, nhưng càng về sau càng tha thiết càng gắn bó.
Sống trong một xã hội mà con người lừa dối lẫn nhau, có được một sự hiểu biết
đúng đắn và một trái tim như ông giáo quả là đáng quý. Ông giáo có cách nhìn
nhận về người nông dân có lúc lầm lạc, nhưng cuối cùng thì ông cũng thấy được vẻ
đẹp đáng trân trọng ở họ. Dù phải sống trong một hoàn cảnh không sung sướng gì
nhưng ông giáo luôn luôn giúp đỡ những người đói khổ hơn mình: Tôi giấu giếm
vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc.
Trên cương vị là nhân vật xưng tôi, ông giáo đã không giấu giếm những suy nghĩ,
tình cảm đối với người đọc. Đó cũng là cách khai thác nội tâm nhân vật của Nam
Cao. Ông giáo trở thành tri kỉ của những con người đau khổ như lão Hạc. Ông giáo
đã chứng kiến và thực sự xúc động trước nỗi đau của lão Hạc. Đôi mắt lão dâng
dâng nước, Lão hu hu khóc.
Truyện ngắn Lão Hạc khép lại với tiếng thổn thức tận đáy lòng ông giáo. Sự tiếc
cho một cái đẹp đã vĩnh viễn mất đi, tấm lòng và sự hiểu biết của ông giáo quả là
không thể thiếu được trong tác phẩm.
Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 5
Nam Cao là cây bút truyện ngắn hiện thực năng lực, tài giỏi. Truyện của ông gắn
liền với nông dân, làng quê. Đề tài này dường như trở thành quen thuộc với các tác
phẩm của ông. "Lão Hạc" cũng là một trong số những truyện ngắn nổi bật của ông
có đề tài về người nông dân. Trong truyện ngắn không chỉ nhớ đến nhân vật trung
tâm là Lão Hạc mà còn nổi bật hình ảnh ông giáo - người bạn, người hàng xóm của lão.
Trong truyện, nhân vật ông giáo là hàng xóm của lão Hạc. Đây là nhân vật làm
nghề dạy học, một nghề cao quý, đối với thời ấy là một nghề thanh danh, được
nhiều người kính nể. Ông sống gần gũi, thân tình với lão Hạc, được lão Hạc trân
trọng và tin tưởng. Trong mối quan hệ với lão Hạc nhân vật chính của truyện thì
ông giáo là người biết thấu hiểu, đồng cảm sâu sắc, xót xa với lão Hạc. Điều ấy
được Nam Cao khắc hoạ tài tình qua nhiều chi tiết. Lão Hạc thường qua nhà ông
giáo chơi, trò chuyện : sẻ chia giãi bày mọi chuyện trong nhà những băn khoăn nỗi
niềm tâm trạng về cậu con trai, con chó Vàng, những khó khăn trong cuộc sống nỗi
niềm nhớ thương con, những tính toán sản xuất rồi việc nhà,... Ông giáo đều nghe,
thấu hiểu và thương cho từng hoàn cảnh của Lão Hạc bởi vậy mà ông luôn chăm
chú nghe và thâm tâm luôn trào niềm thương cảm.
Ông giáo lắng nghe tất cả chuyện của lão ,từ chuyện nhỏ đến to, đến cả những việc
chẳng mấy quan trọng hay có ý nghĩa. Chuyện con Vàng bữa ăn như thế nào,
chuyện con Vàng thông minh, gần gũi như người bạn. Hơn một ai trong làng ấy,
chỉ có ông giáo hiểu sâu sắc hoàn cảnh của lão Hạc. Ông hiểu lão Hạc chỉ có con
Vàng làm banh vì vợ mất sớm, con trai vì phẫn uất không lấy được vợ mà bỏ đi
đồn điền cao su. Ông giáo cũng là người hiểu rõ tâm tư tình cảm những nỗi đau
niềm yêu thương, tấm lòng nhân hậu, lương thiện của một lão nông nhân hậu, một
người cha thương con. Khi lão Hạc báo tin bán chó. Ông giáo ngạc nhiên và thấy
đáng thương cho lão Hạc. Nhìn giọt nước mắt của lão mà ông giáo thương cảm vô
vàn. Ông băn khoăn khi lão Hạc gửi hết tiền cho mình. Vẫn lặng lẽ quan sát thấy
lão Hạc vất vả, khó nhọc kiếm được gì ăn nấy, muốn giúp đỡ mà cũng bất lực vì
hoàn cảnh của mình cũng khó như lão.
Cho dù nhiều bảo lão Hạc gàn dở nhưng ông giáo một lòng trân trọng vì ông biết
lão Hạc chết vì quyết giữ vườn cho con. Ông giáo nhận ra nét đẹp trong con người
lão Hạc Đức hi sinh cao cả của người cha, lòng tự trọng đẹp đẽ của con người.
Tuổi tác, nghề nghiệp, vị trí xã hội khác nhau nhưng không ngăn cách hai tâm hồn.
Ông giáo và lão Hạc vẫn thân thiết, tin tưởng và thấu hiểu nhau. Từ đó ta thấy ông
giáo là người có trái tim nhân hậu, yêu thương con người, đặc biệt với những
người nghèo đói, khó khăn. Trước cái chết của lão Hạc, ông giáo từng buồn bã thất
vọng vì nghĩ lão Hạc đã mất đi tấm lòng trong sáng. Nhưng chứng kiến cái chết ăn
bả chó của lão để giữ tấ Nhân vật ông giáo tuy không phải nhân vật trung tâm
nhưng luôn gắn bó chặt chẽ với nhân vật chính như một người bạn, tri kỉ, chứng
kiến và kể lí chân thật câu chuyện.
Ông giáo là sự hoá thân của nhà văn Nam Cao, bày tỏ tình cảm thái độ về số phận
của những người nông dân bất hạnh và phẩm chất cao đẹp của họ. Qua nhân vật
ông giáo ta không chỉ thấy nhân vật hiện lên mà còn thấy cả tác giả với thái độ tình
cảm và cảm nhận được cả đời sống nông dân thời bấy giờ.
Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 6
Có nhà phê bình từng nhận định: Dù viết về đề tài nào, truyện của Nam Cao cũng
thể hiện một tư tưởng chung, nỗi băn khoăn đến đau đớn trước thực trạng con
người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới. Trong truyện
ngắn Lão Hạc, ta bắt gặp những con người với số phận bất hạnh nhưng ở họ vẫn
toát lên tấm lòng và nhân cách cao đẹp, chứa chan tình yêu thương con người.
Nhân vật ông giáo đã để lại trong tâm trí chúng ta ấn tượng về một người tri thức nghèo trong xã hội.
Nhân vật ông giáo vừa đóng vai trò dẫn dắt câu chuyện, vừa làm người tham gia
vào câu chuyện của nhân vật chính, qua đó thể hiện những suy nghĩ, tâm tư của
bản thân ông trước những bão giông của cuộc đời. Không rõ tên họ là gì, nhưng
hai tiếng “Ông giáo” đã toát lên vị thế của ông – một con người nhiều chữ nghĩa và
khiến mọi người đều nể trọng. Lão Hạc mỗi khi nói về ông giáo đều thể hiện sự
cung kính, trọng vọng nhưng cũng thể hiện sự tin tưởng, thân tình “Cậu Vàng đi
đời rồi ông giáo ạ!”; “Vâng ông giáo dạy phải...”
Ông giáo có một hoàn cảnh sống đầy những khó khăn. Tuổi trẻ bôn ba, ông từng
vào Sài Gòn với niềm tin và khát khao cao đẹp nhưng cuộc sống không phải là ước
mơ màu hồng với người tri thức nghèo khó. Sau một trận ốm nặng ở Sài Gòn về
quần áo bán gần hết, chỉ còn một va li sách. Nếu lão Hạc quý cậu Vàng bao nhiêu
thì ông giáo quí những quyển sách của mình bấy nhiêu. Cái nghèo cứ đeo đẳng
mãi. Quý sách là vậy mà ông giáo cứ phải bán sách dần đi, cuối cùng chỉ còn lại 5
quyển với lời nguyền: “dù có phải chết cũng không bán”. Thế rồi, như một kẻ cùng
đường phải bán máu. Đứa con thơ bị chứng kiết lị gần kiệt sức, ông giáo phải bán
nốt đi 5 quyển sách. Gia tài nhỏ nhoi ấy nhưng ông giáo cũng không giữ lại được
cho mình. Cuộc sống của ông cứ cùn dần, mòn dần trước những khốn cùng của
cuộc đời, ông phải hi sinh cả những ước mơ, hạnh phúc của chính bản thân mình.
Thế nhưng, giữa những biến chuyển đầy khổ đau trong cuộc đời, ông vẫn giữ cho
mình nhân cách cao đẹp và là người có trái tim nhân hậu đáng quý. Trở về làng,
ông là chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi cho lão Hạc. Ông giáo luôn cảm thông với
hoàn cảnh của người cha nghèo, cô đơn và tội nghiệp. Ông giáo là nơi để lão Hạc
san sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn. Lão có thể tâm sự mọi chuyện về mảnh vườn, về
đứa con trai, san sẻ nỗi đau khi phải bán cậu Vàng hay có lúc chỉ là sẻ chia một bát
nước chè xanh hoặc điếu thuốc lào. Khi lão Hạc rơi vào tình trạng khốn khổ, ông
giáo đã ngấm ngầm giúp đỡ cho lão, dù gia đình ông cũng rất khó khăn. Ông giáo
cũng là chỗ tin tưởng để lão hạc gửi gắm số tiền ít ỏi, lão dành dụm để để khi lão
chết không phải phiền đến hàng xóm. Có lẽ những đồng cảm về khó khăn trong
cuộc sống đã xích họ lại gần nhau hơn, cảm thông hơn. Một tình bạn giữa những
con người khốn khổ thật ấm áp tình người.
Nếu như nhân vật người nông dân trong sáng tác của Nam Cao chịu những nỗi khổ
về vật chất, họ bị đẩy vào bước đường của cái đói, cái nghèo thì những nhân vật tri
thức trong trang văn của ông còn là những dằn vặt, đau đớn về tinh thần. Họ luôn
phải trăn trở trong những suy nghĩ. Chứng kiến cuộc sống của lão Hạc ngày càng
khốn khó, bi thương, ông giáo đã phải thốt lên: “Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày
trôi qua thật đáng buồn”. Khi biết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư, ông càng buồn
hơn, phải chăng bản năng đã chiến thắng nhân tính con người. Nhưng trước cái
chết của lão Hạc, ông cảm thấy cuộc đời không hẳn đáng buồn. Cái chết ấy đã
chứng minh cho tấm lòng trong sạch, của lòng tự trọng trước bờ vực của sự tha
hóa. Ông giáo ngỡ ngàng nhận thấy cuộc đời vẫn buồn theo một nghĩa khác, một
người tốt như lão Hạc nhưng cuối cùng vẫn phải tìm đến cái chết để giải thoát cho
mình.. Trước cái chết dữ dội của lão Hạc, ông giáo xót xa, khẽ cất lời than trước
vong linh người láng giềng hiền lành, tội nghiệp: “Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão
hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn
cho lão…” Ông cảm thấy bất lực trước những đau thương mà chính ông và cà lão Hạc phải chịu đựng.
Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng sâu sắc và tinh tế, Nam Cao đã khắc
họa thành công những diễn biến trong tâm trạng của ông giáo. Có thể coi hình
tượng ông giáo chính là hình bóng của nhà văn Nam Cao. Thông qua nhân vật ông
giáo, người đọc như hiểu hơn về cuộc đời và số phận của lão Hạc, góp phần tô đậm
giá trị nhân đạo của truyện ngắn thấm đượm tình người.
Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 7
Cuộc sống không phải lúc nào cũng màu hồng như chúng ta mơ ước, có những
chuyện trên đời xảy ra vô lý, có những bất hạnh chẳng biết từ đâu bỗng chốc ập
đến đè bẹp cuộc đời con người. Đôi khi chúng ta có thể thấu hiểu, cảm thông và lý
giải được nguyên nhân của những thứ đang diễn ra trước mắt thế nhưng rồi lại bất
lực nhìn trong vô vọng vì sức người có hạn, đến bản thân mình còn đang phải chịu
sự chà đạp của cuộc đời thì làm sao đủ sức để thay đổi cuộc đời người khác.
Trong tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao chúng ta đã thấy một hình ảnh ông Giáo rất
lương thiện và cao quý, là một người từng trải với những suy nghĩ và trăn trở về
cuộc đời và số phận con người. Ông Giáo là hiện thân của cái đẹp, là tư tưởng lỗi
lạc nhưng sinh nhầm thời thế.
Ông Giáo trong tác phẩm đóng vai trò là người kể chuyện, là nhân vật mà Nam
Cao trực tiếp đặt mình vào đó để thổ lộ và giãi bày những tâm tư của lòng mình.
Là một người có lòng yêu sách hơn cả, cuộc đời của ông gắn bó khăng khít với
sách thế nhưng sau cùng với hoàn cảnh đẩy đưa khiến ông phải bán những đứa con
tinh thần của mình để chạy vạy cho cuộc sống, để chữa bệnh cho đứa con tội nghiệp của mình.
Cùng sống và chịu đựng những đớn đau dày vò từ cuộc sống nên ông Giáo thấu
hiểu và dễ đồng cảm với những người xung quanh. Ông nhận ra được vẻ đẹp cao
quý nơi con người Lão Hạc, mặc cho hoàn cảnh sống của mình cũng đang đói khổ
đến khốn đốn nhưng ông vẫn không ngần ngại đưa tay ra giúp đỡ Lão Hạc hết mức có thể.
Ông Giáo lo sợ hoàn cảnh sống khốn khó sẽ khiến cho lão Hạc đánh mất đi vẻ đẹp
của mình nhưng ông cũng không biết làm cách nào để giải quyết cho vấn đề của
lão cũng như giải thoát cho cuộc đời mình, sau cùng đó cũng chỉ là những trăn trở
suy nghĩ mà chẳng có cách nào cứu chữa.
Ông còn nhận ra vẻ đẹp ẩn sâu trong mỗi người, ai cũng có những câu chuyện, ai
cũng có những nỗi khổ riêng của họ, không có người xấu xa chỉ có những con
người bị khuất phục bởi hoàn cảnh. Cuộc đời dài đằng đẵng sống để mà lo cho
cuộc đời mình thôi đã mỏi mệt lắm rồi vậy nên con người ta không còn tâm trí để
suy nghĩ cho người khác nữa vậy nên họ trở nên ích kỉ, nhưng tất cả đều có nguyên nhân của nó.
Và ông đã thấu hiểu quy luật cuộc sống nên càng biết trân trọng và thương yêu
những người xung quanh mình hơn, ông không trách hay phán xét bất kỳ một ai
mà chỉ tự đặt mình vào vị trí của họ để rồi suy nghĩ mà cảm thông, ông không chỉ
sống cho mình mà còn lo nghĩ cho cả cuộc sống của người khác.
Khác hẳn với ông Giáo thì vợ ông lại là một người tiêu cực hay có những suy nghĩ
lầm lạc về người khác, thế nhưng ông không trách cũng không giận mà ông chỉ
thấy buồn, ông sẵn sàng tha thứ cho người khác để hiểu rõ hơn về bản thân họ, để
cùng sẻ chia và cảm thông.
Thế nhưng con người đầy lạc quan và triết lý ấy lại có lúc lo sợ người khác đánh
mất bản chất tốt đẹp của họ để rồi trăn trở đau lòng. Đó là khi ông Giáo biết tin
Lão Hạc, người mà ông vô cùng nể phục và tôn trọng xin Binh tư bả chó, thoạt đầu
ông buồn và thất vọng về bản chất con người, rằng cái đẹp, cái cao quý của con
người có thể bị mất đi nếu như con người ta rơi vào cảnh bần cùng, sau cùng thì
những thì tươi đẹp sẽ bị vấy bẩn mà không cách nào cứu vãn được.
Tưởng rằng như đã tuyệt vọng và mất niềm tin vào đạo đức của con người thế
nhưng sau đó ông lại nhận ra được việc làm đầy nghĩa khí của lão Hạc, lão thà tự
tay kết liễu cái mạng già thoi thóp kia chứ nhất quyết không chịu vứt đi lòng tự
trọng của mình, nhất quyết không đầu hàng số phận. Con người nhỏ bé là thế
nhưng lại kiên cường và rắn rỏi đến không ngờ, và điều đó làm cho ông Giáo phải
thốt lên đầy thán phục.
Cuộc sống nhân sinh đầy rẫy những đau thương và khốn khổ và không phải ai
cũng giữ được tỉnh táo và cái nhìn lạc quan đối với cuộc đời mỏi mệt này, vậy nên
có thể nói ông Giáo là một trong số những người hiếm hoi đủ tỉnh táo để nhìn nhận
thế giới, nhìn nhận cuộc đời đúng đắn theo cách của mình.
Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 8
Truyện ngắn Lão Hạc là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng
tác của Nam Cao, truyện ngắn thể hiện sâu sắc được tình cảnh đáng thương của
những người nông dân nghèo trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Họ bị cái
đói, cái nghèo đẩy đến bước đường cùng và là nguyên nhân gây ra những bi thảm
trong số phận của họ. Tuy nhiên, cũng trong đói nghèo thì nhân phẩm của con
người cũng được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết, đó là những vẻ đẹp tâm hồn đáng
trân trọng của những người nông dân.
Nhân vật trung tâm của tác phẩm chính là nhân vật lão Hạc. Để làm nổi bật lên
nhân vật Lão hạc, nhà văn Nam Cao đã dựng lên một nhân vật tư tưởng, nhân vật
thể hiện được tuyên ngôn của nhà văn về sự sống, về số phận của con người: nhân
vật ông Giáo. Nhân vật ông Giáo trong truyện ngắn lão Hạc là người bạn thân nhất,
người mà Lão Hạc tin tưởng nhất để chia sẻ những suy nghĩ, tâm sự của mình. Mặt
khác, ông Giáo cũng đóng vai trò là người kể chuyện về cuộc đời và số phận bi thảm của lão Hạc.
Ông Giáo trong cảm nhận của lão Hạc, đó là con người có nhiều chữ, có học, một
người đáng kính trọng, bởi vậy mà mọi câu chuyện, tâm sự sâu kín ông đều sang
và tâm sự với ông Giáo. Trước quyết định bán chó của Lão Hạc, lão đã nói rất
nhiều lần, đã vô cùng trăn trở trước quyết định này.
Tuy nhiên, lúc đầu ông Giáo đã không tin lão Hạc sẽ bán chó nên khi nghe Lão nói
nhiều về việc bán chó, ông đã có suy nghĩ khá dửng dưng, hời hợt: “Tôi vừa thở
khói vừa gà gà đôi mắt của người say, nhìn lão để làm ra vẻ chú ý đến câu nói của
lão đó thôi. Thật ra trong lòng tôi rất dửng dưng.Tôi nghe câu ấy đã nhàm rồi. Tôi
lại biết rằng: Lão nói để đó thôi, chẳng bao giờ lão bán đâu. Vả lại, có bán thật thì
đã sao?làm quái gì một con chó mà lão có vẻ băn khoăn thế chứ”.
Ông Giáo cho rằng con chó chỉ là con vật vô tri vô giác, bán hay không cũng
không thể thay đổi được gì. Không như những cuốn sách của ông, nó là sản phẩm
của sáng tạo, của trí tuệ nên rất đáng trân trọng.Và sâu trong suy nghĩ của mình,
ông giáo cho rằng con chó của lão Hạc không thấm vào đâu so với những quyển
sách của mình: “ lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi…”
Như vậy,lúc đầu ông Giáo có lắng nghe câu chuyện của Lão Hạc nhưng không có
chút đồng cảm nào với câu chuyện ấy, thậm chí còn cho rằng lão Hạc có chút quái
gở, không bình thường. Phải đến khi lão Hạc bán cậu Vàng và sang nhà mình với
tâm trạng đầy đau khổ thì ông mới có suy nghĩ khác đi: “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ.
Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước, tôi muốn ôm choàng
lấy lão mà òa lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót xa năm quyển sách của tôi quá như trước nữa”.
Đến lúc này, ông Giáo mới hiểu được tấm lòng đáng trân trọng của Lão Hạc và đã
có sự đồng cảm chân thành với lão. Sự đồng cảm của ông Giáo khiến cho ông phát
hiện ra một sự thật đau lòng, nghiệt ngã ở đời khi nghe người vợ nói những lời không hay về lão Hạc.
Lời của ông giáo cũng là nội dung tư tưởng mà Nam Cao muốn thể hiện qua tác
phẩm: “ Chao ôi, đối với những người quanh ta nếu ta không cố mà hiểu họ thì chỉ
thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi…toàn những cớ để ta tàn nhẫn;
không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương”.
Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 9
Truyện ngắn "Lão Hạc của nhà văn Nam Cao chính là một tác phẩm tiêu biểu cho
con đường sáng tác nghệ thuật văn chương của Nam Cao. Truyện ngắn thể hiện
tình cảnh vô cùng đáng thương của những người nông dân khốn khổ vào giai cấp
tri thức nghèo trước những năm cách mạng tháng Tám thành công.
Những con người nghèo đói, bị xã hội xô đẩy tới đường cùng chính là nguyên nhân
gây ra những kết cục bi thảm của số phận những con người khốn khổ này. Nhưng
dù có nghèo khổ thì nhân phẩm, đức hạnh của người nông dân, những người tri
thức nghèo khổ vẫn giữ được tấm lòng thanh bạch, tâm hồn thanh cao đáng trân trọng của họ.
Nhân vật chính trong truyện ngắn "Lão Hạc" chính là ông lão. Nhưng bên cạnh đó
có những nhân vật thứ chính cũng không kém phần quan trọng. Đó chính là thầy
giáo, một người hàng xóm tốt bụng, có học thức, nhân cách, đang xoay vần trong
cuộc sống với nhiều bi kịch của cuộc sống cơm áo gạo tiền, và bi kịch của toàn xã
hội, của kiếp sống nô lệ lầm than.
Nhân vật thể hiện một tuyên ngôn văn chương của nhà văn Nam Cao về sự sống,
về những số phận của con người đau khổ. Nhân vật ông giáo là người có phẩm
chất, nhân cách là người có cái nhìn thấu tình đạt lý, có tư tưởng nhân văn.
Nhân vật ông Giáo trong truyện ngắn "Lão Hạc" chính là người bạn thân duy nhất,
là người mà ông lão vô cùng tin tưởng có thể sẻ chia mọi thứ với người bạn tâm giao.
Mặt khác, ông Giáo cũng chính là nhân chứng sống về cuộc đời số phận Lão Hạc,
ông Giáo là người có chữ là người đáng kính trọng, nên hễ có việc gì quan trọng
lão Hạc đều qua tâm sự với ông Giáo tìm lời khuyên. Khi lão Bá Kiến âm mưu
cướp không mảnh vườn của lão Hạc, lão đã sang tâm sự với ông Giáo ngay lập tức,
để mong tìm lời khuyên thấu tình đạt lý.
Trước sức ép của cuộc sống của giai cấp thống trị, cường hào ác bá, mà lão Hạc
quyết định tìm tới cái chết. Trước khi chết lão đã bán đi con chó của mình con
Vàng người bạn thân thiết mà lão coi như là con trai mình. Người luôn đồng hành
lắng nghe câu chuyện của lão Hạc chính là nhân vật thầy Giáo. Lúc đầu thầy giáo
“Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc
nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc."
Tuy nhiên, trước khi chết lão Hạc đã sang thăm thầy Giáo nhờ giữ hộ giấy tờ nhà
đất, và một ít tiền mà lão đã dành dụm được từ rất lâu. Sự đồng cảm của thầy Giáo
khiến cho lão Hạc hoàn toàn tin tưởng trao trọn cơ ngơi của mình cho người hàng xóm tốt bụng này.
Có lẽ trong cái xã hội tranh tối tranh sáng này, người tốt thì ít người xấu thì nhiều,
chỉ có một ông Giáo là người có thể tin tưởng được. Sự đồng cảm của ông Giáo
khiến cho ông phát hiện một sự thật vô cùng đau lòng, khi nghe vợ mình nói những
điều không hay tàn nhẫn về lão Hạc.
Ông lão đã vô cùng đau đớn mà nói ra rằng “ Chao ôi, đối với những người quanh
ta nếu ta không cố mà hiểu họ thì chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ
ổi toàn những cớ để ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng
thương; không bao giờ ta thương”.
Những lời của ông Giáo chính là nội dung tư tưởng nghệ thuật, giá trị nhân đạo của
Nam Cao được thể hiện trong tác phẩm Lão Hạc.
Nhân vật ông Giáo chính là hình ảnh đại diện cho tư tưởng, cái nhìn nhân sinh
quan của tác giả với những cảnh đời bất hạnh của người nông dân xung quanh
mình. Nó thể hiện tấm lòng bao dung, nhân văn, nhân đạo của tác giả với những
mảnh đời bất hạnh khốn khổ cùng đinh trong xã hội.
Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 10
Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc. Tác phẩm tiêu biểu của ông có thể kể
đến truyện ngắn Lão Hạc. Nổi bật trong truyện là nhân vật ông giáo - được khắc
họa với nhiều giá trị.
Ông giáo là người có học thức, được mọi người kính nể trong xã hội xưa. Ông là
một con người chăm chỉ, ham mê, sống vì một lí tưởng đẹp với bao mộng tưởng.
Ông đã từng lăn lộn vào tận Sài Gòn, "hòn ngọc Viễn Đông" thời ấy, để làm ăn, để
học tập, để gây dựng sự nghiệp. Cái va-li "đựng toàn những sách" được người
thanh niên ấy rất "nâng niu"; cái kỉ niệm "đầy những say mê đẹp và cao vọng" ấy,
hơn sáu chục năm sau còn làm cho ta xúc động và quý trọng một nhân cách đẹp.
Con người "nhiều chữ nghĩa'' ấy lại nghèo. Sau một trận ốm nặng ở Sài Gòn, quần
áo bán gần hết, về quê chỉ có một va-li sách. Nếu lão Hạc quý cậu Vàng bao nhiêu
thì ông giáo lại quý những quyển sách của mình bấy nhiêu. Bởi lẽ những quyển
sách ấy đã làm bừng lên trong lòng ông "như một rạng đông" thời trai trẻ, làm cho
cuộc đời thêm sắc màu ý vị, sống say mê, "trong trẻo, biết yêu và biết ghét".
Cái nghèo vẫn đeo đẳng ổng giáo mãi, "ông giáo khổ trường tư". Vận hạn xảy ra
luôn luôn như ông nghĩ: "Đời người ta không chỉ khổ một lần". Sách cứ bán dần đi.
Chỉ còn giữ lại 5 quyển sách với lời nguyền: "... dù có phải chết cũng không bán".
Như một kẻ cùng đường phải bán máu. Đứa con thơ bị chứng kiết lị gần kiệt sức,
ông giáo đã phải bán nốt đi 5 cuốn sách cuối cùng, cái gia tài quý giá nhất của
người trí thức nghèo. "Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?", lời than
ấy cất lên nghe thật não nuột, đã thể hiện một nhân cách đẹp trước sự khốn cùng:
biết sống và dám hi sinh vì cuộc sống!
Ông giáo là một trí thức có trái tim nhân hậu rất đáng quý. Ông là chỗ dựa tinh
thần, là niềm an ủi, tin cậy của lão Hạc. Ông giáo là nơi để lão Hạc san sẻ bao nỗi
đau, nỗi buồn. Nhờ đọc hộ một lá thư, nhờ viết hộ một lá thư cho đứa con trai đi
phu đồn điền. Tâm sự về mảnh vườn và chuyện đứa con trai "phần chí" không lấy
được vợ. San sẻ về nỗi đau buồn sau khi bán cậu Vàng cho thằng Mục, thằng
Xiên,... Có lúc là một điếu thuốc lào, một bát nước chè xanh, một củ khoai lang...
"Lúc tắt lửa tối đèn có nhau". Ông giáo đã đồng cảm, đã thương xót, đã san sẻ với
lão Hạc với tất cả tình người. Ai đã từng là độc giả của Nam Cao, chắc sẽ không
bao giờ quên mẩu đối thoại này:
... Tôi bùi ngùi nhìn lão, bảo:
- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?
- Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?
Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão,ôn tồn bảo:
- Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: bây giờ cụ ngồi
xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm chờ tươi thật đặc;
ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... Thế là sướng.
- Vâng! Ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng"...
Ông giáo đã thương lão Hạc "như thể thương thân". Không chỉ an ủi, động viên,
mà ông còn tìm mọi cách để "ngấm ngầm giúp" khi biết lão Hạc đã nhiều ngày ăn
rau, ăn khoai, ăn củ ráy... Trong lúc đàn con của ông giáo cũng đang đói; cái nghĩa
cử "Lá lành đùm lá rách" ấy mới cao đẹp biết bao!
Ông giáo nghèo mà đức độ lắm. Trước khi ăn bả chó, lão Hạc đã gửi ông giáo 30
đồng để phòng khi chết "gọi là của lão có tí chút...", gửi lại ông giáo ba sào vườn
cho đứa con trai... Tình tiết ấy cho thấy lão Hạc rất tin ông giáo. Ông giáo là người
để lão Hạc "chọn mặt gửi vàng. Giữa cái xã hội đen bạc thời ấy, một bà cô dành
cho đứa cháu nội bát nước cháo đã vữa ra như một sự bố thí (Những ngày thơ ấu),
vợ tên địa chủ bắt bí, bóp nặn người đàn bà khốn cùng để mua rẻ đứa con gái lên
bảy tuổi và ổ chó (Tắt đèn), một tên phụ mẫu ăn bẩn đồng hào của chị nhà quê
(Đồng hào có ma)..., ta mới thấy niềm tin, sự kính trọng của kẻ khốn cùng đối với
ông giáo thật là thánh thiện.
Trước cái chết "dữ dội" của lão Hạc, cái chết "đau đớn và bất thình lình", chỉ có
ông giáo và Binh Tư hiểu... Ông giáo khẽ cất lời than trước vong linh người láng
giềng hiền lành tội nghiệp. Trong giọt lệ là những lời hứa của một nhân cách cao
đẹp, đáng trọng: "Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt ! Lão
đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tỏi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về,
tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã
cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào...".
Cùng với ông giáo Thứ trong "Sống mòn", Điển trong "Trăng sáng", nhân vật "tôi"
trong "Mua nhà", hình ảnh ông giáo trong truyện "Lão Hạc" đã kết tinh cái tâm và
cái tài của Nam Cao trong nghệ thuật xây dựng nhân vật - nhà văn nghèo, ông giáo
khổ trường tư - trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là những con người
nghèo mà trong sạch, hăm hở và nhiệt tâm từng ôm ấp bao mộng đẹp, sống nhân
hậu, vị tha. Có người đã cho rằng, ông giáo là một nhân vật tự truyện, mang dáng
dấp hình bóng Nam Cao. Ý kiến ấy rất lí thú.
Ông giáo vừa là người kể chuyện, chứng kiến và tham gia vào câu chuyện. Qua
nhân vật này, Nam Cao gửi gắm nhiều thông điệp giá trị.
Document Outline
- Văn mẫu lớp 8
- Phân tích nhân vật ông giáo hay nhất
- Dàn ý phân tích nhân vật ông giáo
- Dàn ý 1
- Dàn ý 2
- Dàn ý 3
- Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 1
- Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 2
- Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 3
- Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 4
- Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 5
- Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 6
- Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 7
- Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 8
- Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 9
- Phân tích nhân vật ông giáo - Mẫu 10