Văn mẫu lớp 8: Phân tích truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao (Sơ đồ tư duy) Ngữ Văn 8 | Cánh diều

Văn mẫu lớp 8: Phân tích truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao (Sơ đồ tư duy) Ngữ Văn 8 | Cánh diều. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF bao gồm 35 trang tổng hợp các kiến thức chọn lọc giúp các bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời các bạn đón xem!

n mẫu lp 8
Phân tích truyn ngn Lão Hc
n ý phân tích truyn ngn Lão Hc
Dàn ý s 1
I. Mi
Dn dt, gii thiu v truyn ngn Lão Hc ca Nam Cao/
II. Thân bài
1. Câu chuyn Lão Hc bán chó s day dt cao
a. Hoàn cnh ca lão Hc:
- Mt ông nông dân già yếu, không nơi nương ta: sng mt mình, t kiếm ăn nuôi
thân, con trai b đi đồn đin cao su.
- Sau mt trn ốm, trong nkng còn đ ăn, lão quyết đnh bán cu Vàng - k
vật anh con trai đ li, không ch là mt con vt còn ging nmột người
bn.
=> Hoàn cảnh cùng khó khăn, kh cc.
b. Din biến tâm trng ca Lão Hc xoay quanh vic bán cu Vàng:
- Tình cảm đi vi cu Vàng:
Cho ăn bng mt i bát ln như của ngiàu, ăn cũng gắp cho nó cùng
ăn.
Khi rnh rỗi còn đem nó ra tm ra, bt gin.
Mi khi lão ung rượu đ nhm ngon li gp cho nó mt miếng như ni
ta gp thức ăn cho con cháu trong nhà.
Thường xuyên tâm s vi , v v ôm p.
=> Đối x giống như vi một con ngưi. T ng hình, t ng thanh
- Quyết đnh bán cậu Vàng: cùng k khăn, trăn tr giống như phi quyết định
mt vic trọng đại trong đi.
- Din biến tâm trng sau khi bán chó: Sáng hôm sau, lão Hc sang nhà ông giáo
k li toàn b s vic.
C làm ra v vui mừng: “Cậu Vàng đi đi ri ông giáo ạ”, nhưng thc ra lão
ời như mếu và đôi mắt ng ậc nước.
“Mặt lão đt nhiên co rúm li, nhng nếp nhăn li với nhau, ép cho nưc
mt chảy ra
Lão hu hu khóc…
T trách bản thân mình đã gri còn đi la mt con c: Khn nn... Ông
giáo ơi!... như thế này à?”
Chua chát bo vi ông giáo: “Kiếp con chó kiếp kh thì ta phi hóa kiếp cho
…”
Lão cười ho ng sc, Lão i xong lại cười đưa đà… Nụ ời dường n
để nén đi nỗi đau đơn khi mất đi “ngưi bạn” duy nht.
=> Nam Cao đã khc ha chân thc nỗi đau kh, day dt ca Lão Hc sau khi bán
cu Vàng.
2. Cái chết đầy bt ng cao Hc
- Lão Hc nh cy ông giáo hai vic:
Trong nom h mảnh vườn, khi thng con trai v s giao li cho nó.
Mang hết tin dành dm được nh ông giáo gi h đ khi nh chết thì nh
ông giáo và bà con lo liu ma chay cho mình.
=> Chun b trước cho cái chết ca bn thân.
- Din biến:
Lão đến xin Binh một ý b chó nói di rng dạo này con chó hay đến
n nhà lão nên mun đánh b nó. Nếu được lão s mi hn ung rượu.
Nhưng thc ra lão Hc dùng s b chó ấy để t t.
- Hình nh lão Hc khi chết đy ám nh: “Lão Hạc đang vật vã trên giường, đu
tóc rượi, qun áo xc xch, hai mt long sòng sc. Lão tru tréo, bt mép sùi ra,
khắp người lão chc chc li b git mnh mt cái. Lão vật vã đến hai gi đồng h
mi chết.
=> Cái chết d dội, đau đn và thê thm ca một con nời lương thiện.
III. Kết bài
Khẳng đnh giá tr ni dung và ngh thut ca tác phm Lão Hc.
Dàn ý s 2
I. Mi
Gii thiu v tác phm Lão Hc của nhà văn Nam Cao.
II. Thân bài
1. Nhân vt lão Hc
a. Tình cnh Lão Hc
Mt lão ng già yếu, cô đơn
Vì nghèo, lão d định bán đi cậu Vàng k vt của anh con trai, ni bn thân
thiết ca bn thân mình và chn kết thúc cuộc đi.
b. Din biến tâm trng lão Hc quanh vic bán cu Vàng
- Cu Vàng là con chó ca lão Hc rt yêu quý:
Cho ăn trong một bát ln như của nhà giàu; ăn gì cũng gắp cho nó cùng ăn.
Rỗi rãi thì đem nó ra ao tm, bt rn cho nó.
Mi khi uống rượu lão nhm vài miếng thì li gp cho mt miếng như người
ta gp thức ăn cho cháu.
Thường xuyên tâm s vi v b nó, ri th th, âu yếm.
=> Quyết định bán đi con chó Vàng mt vic m rất k khăn, một vic h
trng.
- Tâm trng, biu hin khi bán chó:
Lão cười như mếu, đôi mắt ng ng nước
Mặt lão đột nhiên co rúm li, vết nhăn xô li với nhau ép cho nước mt chy ra,
Đầu ngoo v mt bên, ming m mém mếu như con nít
Lão hu hu khóc.
=> Lão Hc mt người nông dân sng tình nghĩa, thy chung, rt mc
trung thc.
c. Cái chết ca lão Hc
- Lão nh ông giáo hai vic:
Trông nom h mảnh vườn, khi nào con trai lão v thì giao li cho
Mang hết tin dành dm nh ông giáo và bà con chòm xóm làm ma cho nếu
lão chết đi.
- Nguyên nhân: ý thc sâu sc, ràng hoàn cảnh ng đường, kng li thoát
ca mình.
- Mục đích: bo toàn tài sn cho con không mun phiền đến bà con hàng
m.
=> người ý thc cao v l sng, trng danh d làm ni hơn cả s sng;
một người cha hết lòng thương con, một người nông dân trung thc, tht thà, giàu
lòng t trng.
2. Nhân vt ông giáo
Có cùng ni kh ca s nghèo túng; có cùng ni đau phải bán đi nhng th
mình yêu quý nht
Thông cảm, thươngt cho hoàn cảnh ca lão Hc, tìm mi cách an ủi, giúp đ
lão.
Ông là người hiểu đi hiểu người, có tm lòng v tha cao c
Ông giáo ni trí thc chân chính, trng nhân cách, không mất đi ng tin
vào những điều tốt đẹp con người.
III. Kết bài
Khái quát giá tr ni dung và ngh thut ca truyn ngn Lão Hc, liên h m
rng.
Phân tích truyn ngn Lão Hc - Mu 1
Nam Cao mt trong nhng tác gia ln ca nền văn hc Vit Nam. Mt trong
nhng tác phm tiêu biu ca ông phi k đến truyn ngn Lão Hc.
Như nhiu tác phm khác ca Nam Cao, nhân vt chính trong truyện c nào cũng
mt cuc đi khn khó, hoc bt ng cái s khn khó bỗng đổ ập lên đầu người
ti vì nhiu nguyên do khác nhau. Lão Hạc cũng là một kiếp người như thế, đời
một người nông dân thì chng bao gi biết đến i giàu sang sung sướng, ch
ct cm, c ăn sao cho sống hết được cái đời dài đằng đng. Lão Hc cũngv,
nhưng v lão mt sm, ch để li cho lão mt thng con trai, t y tr đi lão cứ
vy làm lng, n vườn nuôi con khôn lớn. Đến khi con ln ri thì bc làm cha
như lão lại phải đau đu chuyện cưới v cho con, thế nhưng khn ni nlão
nghèo quá, miệng ăn kiếm chưa đ thì kiếm đâu ra cả trăm bạc nhà gái thách cưới.
Thằng con lão không cưới được v đâm ra bun chán, bất đắc chí, ri dứt áo ra đi
b vào Nam làm đn điền cao su vi hy vng kiếm được tin. Lão Hc thấy con đi
thì cũng xót xa đau đn lm, lão ch trách ti cái thân mình nghèo ri hại đến đi
con, đ phi b x mà tha phương cầu thc. nhng k b quê đi thì cũng
được sung sướng gì, ai biết đượcm đồn đin trong ấy sung sưng gì kng,
hay li b ngưi ta chèn ép, c lt. Thằng con đi ch để li cho lão mt con chó
vàng lão vẫn thường âu yếm gi "cậu Vàng" lão chăm bm xem ncon,
đồ ngon cũng dành phần cho nó, con chó lão đ buồn và vơi đi ni nh
đứa con trai biết bao nhiêu. Lão Hc sống lương thiện, chưa từng chôm cha ca ai
bao giờ, lão bòn n, ri lại đi cày thuê cuốc mướn cho người ta để lấy cái ăn,
còn tiền thu được ờn tlão đ dành, đi con trai v ri s p thêm vào kiếm
cho mt tm vợ. Nhưng l rng hin thc tàn khốc, đc bit truyn
ngn ca Nam Cao thì cho dù con ngưi ta hiền lành, chăm ch đến đâu, nhưng
vn c b nhng biến c khn nn v ly dn dp, ép h vào đường cùng, vào i
s đau đn, dn vt. Lão Hạc đang khỏe bỗng nhiên đổ bnh, mt trn m hai
tháng 18 ngày đã tiêu tn sch cái m tin lão tích p by lâu, li thêm vic không
đi làm thuê được ngày nào khiến lão gần như khánh kiệt. Nhưng trời nào
thương cho phn lão, việc năm nay vn đã kém đi nhiu, thế bão li còn quét
mt trận qua khu vườn ca lão, thành th ra bao nhiêu hoa màu thì gãy dp hết,
mt hết. Lão với con chó vàng ngày ăn 3 hào gạo nhưng vn c đói, thm chí con
chó còn ăn nhiều hơn cả lão, mà c lại không dám cho nó ăn ít đi bi ăn ít t"cậu
y gầy đi, bán ht tin". Mà lão thì li ng không mun bán mảnh vườn ca con
trai. Lão thương con trai lão, ni cha nhân hu y không muốn đ cuộc đời gn
tàn ca lão liên ly đến cái đời còn tr ca con.
Cái đói kém, khn kh đã hành h người cha già thương con y rt lâu, cui cùng
lão cũng ra một quyết định h trọng đau đớn. Trong bui nói chuyn vi ông
giáo, người rt thân vi lão, lão Hạc đã i trong sự tn ngn nghiêm túc "Có l
tôi bán con chó đy, ông giáo ạ", nhưng ông giáo chng ly làm tin cho lm, bi l
trước đây ông lão cũng tng nhiu ln nói vậy nhưng chưa ln nào ông làm tht.
Điu ấy đã chứng t một điều rng lão Hc luyến tiếc và yêu thương cậu Vàng lm,
lão không n bán cho người ta giết tht, bi k vật người bạn đã theo
lão suốt 3 năm trời đằng đẵng, bán sao đành. Nhưng khn lm, tri hành cái
thân lão, khiến lão đói kém quá, suy cho cùng lão vn phải nghĩ đến con, thế
nên đành tàn nhẫn bán con chó đi sau nhiu lần đắn đo, suy nghĩ. Tội nghip cho
một người gđến cuối đời vn phải trăn trở nhiu kh đau n vy. Ngày bán cu
Vàng, lão đã vi chy sang báo vi ông giáo, người đàn ông khn kh y c làm ra
v vui mng thế nhưng cái "n ời như mếu và đôi mắt ng ng nước" kia ca lão
thì làm sao giu ni những đớn đau, dn vt trong ng lão. Mt u hi ca ông
giáo "Thế cho bắt à?" đã đp tan tt c png tuyến cui cùng ca ông lão ti
nghip ""Mặt o đt nhiên co rúm li . Nhng vết nhăn lại vi nhau, ép cho
c mt chảy ra. Cái đu lão ngho v mt bên cái ming móm mém ca lão
mếu như con nít. Lão hu hu khóc...". Lão Hc phi gánh chu ni thng kh ca bi
kịch làm người, lão thế lại đi lừa mt con chó, con chó đã theo lão sut ba năm
trời trung thành, con chó mà lão yêu quý và coi như con. Ôi chao i đi lão sao nó
khn nạn và độc ác quá, lão ăn thất đc vi c mt con chó kng biết gì. Lão
Hc vn ám nh và nh như in ánh mt và tiếng kêu ư ử ca cu Vàng lúc b ngưi
ta bắt đi, lão thy ân hn xót xa lắm. Đúng trời bt ti con người, lão lương
thin c đời, chăm ch, dè sn vì con, vì cháu cui cùng li tr thành người tráo tr,
đến con chó chung sng bấy lâu cũng không tha. Thế ri lão nói hóa kiếp cho con
chó, nhưng tr thành kiếp gì cho sung sướng, ch kiếp người như lão thì chi bng
đừng a kiếp cho xong. Nhng ni đớn đau suy nghĩ ca lão Hc khi nhc v
chuyện bán con chó đã cho ta thy tm lòng ca một con người hết mc lương
thin, sng thy chung, giàu lòng nhân hu, du chmột con chó nhưng lão cũng
dành cho nó nhng tình cm sâu sc, gn bó, thy ti li khi l lừa bán . Đi vi
con trai lão Hc li là mt người cha tm lòng yêu thương hết mực, con trai đi
làm ăn thì nhà lão cũng lo ch cóp dành dụm đi con v, lão luôn mang trong
mình nhng mc cm là người cha "tội" khi không lo được cho con cưới vợ, đ
con phải tha phương cầu thc. khn kh thay cái ti nghèo thì đã quanh
qun vi biết bao kiếp người ch phi riêng gì lão, y thế o vn thy mình
ti, thấy mình chưa làm tròn trách nhim, ch lão chng bao gi than trời trách đt.
thế lão lại càng không được ăn phm vào mảnh vườn mà v lão dè sn cht bóp
c đời để cho con, lão buc phi bán cu Vàng, phi lo liu thật chu toàn đ con
lão tr v không phi kh. Chao ôi tm ng cha m đời nào cũng thế, c đi ch
con i, vì con cái cắn m cắn c, hy sinh, chịu đng tt c.
Bán con chó Vàng mt phn trong kế hoch "chu toàn" ca lão Hc. Phn tiếp
theo na y là vic nh ông giáo chăm nom ờn tược cho con, ri gi ông giáo s
tin ba chc bạc đ ông giáo lo liu hu s sau này cho mình. Như vậy đến lúc này
đây ta li thy lão Hc không ch tấm lòng yêu thương con tha thiết mà còn là
lòng t trng sâu sc. Lão gi ông giáo tin hu s, không mun phin bà con
chòm m c chết, lão mun được chết đi trong trong sch, kng n nn vi ai,
cũng đ con lão tr v thì không b mang tiếng chôn cha nhưng phi phin
ly m ging. Lão Hc ấy đã suy ngtht chu toàn, chun b sn cho chuyến đi
xa ca mình, ch quyết không chu sng lay lt, ti li, liên ly con cái, láng ging
thêm na. Mà qu thc, cái thi bui đói kém này, l cái chết cách gii thoát
duy nht cho những con người đau yếu, già nua, kng nơi nương ta, ch sng
ngày nào thì ng khn kh thêm ngày đó. Lão Hạc cũng nghĩ vậy. Nhưng nhìn
xem lão đã chn i chết tht kinh hoàng, tht ám nh. Đến c chết mà lão cũng
không dám cho mình mt cái chết êm ái, lão chn ăn b chó, ri nhn ly mt i
chết d di, vt sut 2 gi đng h ri mi nhm mt xi tay. Sao Lão Hc
phi kh vậy? Đành rng lão chp nhn chết để dành lại vườn và tin cho thng
con trai ca lão, nhưng tm một th na l lão đang tự trng pht mình
nhng ti li lão đã gây ra cho cậu Vàng chăng? Hoc ch đơn gin rng, b chó
không mt tiền mua, lão xin đưc ca Binh Tư, thôi thì cũng không phm vào tin
ca con trai, lão chết thế nào chng chết. Tht ti nghiệp và đớn đau cho một
kiếp người như thế.
Lão Hc mt truyn ngn hay và xut sc nht của Nam Cao giai đoạn trước
cách mạng tháng tám, đ lại cho người đc nhiu ấn tượng u sc. Không ch
cái chết đầy ám nh ca mt kiếp người tàn đó ta thấy được nhiu v đp
đáng quý của một con ni gia cái thi đói kh khn nạn. Đó tấm ng
thương yêu con sâu sắc, chu chết đ gi n cho con, li sống ân nghĩa, thy
chung vi c con c, s lương thin, tht thà ca một con người đói chứ
cũng không bao giờ táy máy ca ai, là tm lòng t trng, chu toàn không mun
phin ly đến mt ai sau khi chết. Một đời người lm hy sinh, lm tt đẹp như thế
nhưng vn phi chu nhiu nghiệt ngã đớn đau, vì tri bt ti nhng k nghèo, tht
khiến người ta không khii ngùi, xót xa.
Phân tích truyn ngn Lão Hc - Mu 2
Nam Cao mt trong nhng cây bút hin thc xut sc nht ca văn hc hin thc
trước ch mng. Các tác phm của ông sáng tác trên hai đ tài lớn ni trí
thức và người ng dân, nhưng thành công hơn c là khi ông viết v đ tài người
ng dân. Viết v người ng dân, nhà văn khuynh ng khám phá, phát hin
nhng v đp phm cht ẩn sâu trong con người h. Truyn ngn Lão Hc mt
tác phẩm như vy.
Trước hết v nhân vt lão Hc, lão s phn bi thảm nhưng ẩn sau đó nhng
phm chất cao đẹp, đi diện cho ni nông dân. S phn lão Hạc cũng số phn
chung ca biết bao người nông dân trước cách mng. V lão chết sm, lão vy
gà trng ni con. Đa con ln lên vì không lấy được người mình yêu nên phn chí
b n ra đi. Lão vy mt mình vi cu ng k vật người con trai đ li.
Nhưng cuộc đi lão càng ngày lại càng bi đát hơn, lão b m, lão tiêu tn nhiu tin
dành dm cho con, bi vậy lão đành bán cậu Vàng ngưi bạn đã bên gp lão
i bt ni bun khi phi xa con. Khi bán cậu Vàng lão ng đau đn, ân hn.
Ni ân hận đó được th hiện qua đoạn văn miêu t đặc sc: cười như mếu, đôi mắt
ng ậng nước, mặt đt nhiên co rúm lại, cái đầu ngoo v mt bên, cái ming m
mém mếu như con nít, hu hu khóc. Tình cnh ca lão thật đáng thương, lão luôn
sng trong s day dt, dn vt bn thân.
Nhưng ẩn đằng đó chính nhng phm chất cao đp của người nông dân lương
thin. Lão là một người giàu nh yêu thương, tình yêu thương đó đưc th hin
ngay c vi mt con vt: lão gi chó cu Vàng, gi nnh như gọi một đa tr,
ông chăm c cậu Vàng chu đáo: cho ăn cơm trong bát nmt ngiàu, không
ch vy ông còn trò chuyn, mng yêu cu vàng, cu Vàng làm lão bớt đơn, vơi
đi ni nh con. Tình cm sâu nng ca ông vi cu Vàng ngun gc sâu xa t
tình yêu thương con ca lão Hc, con chó là k vật thiêng liêng mà ngưi con đ li
cho ông trước khi đi đến đồn điền cao su.
Tình ph t lão Hạc cũng cùng sâu sắc, thiêng liêng. cnh nghèo không
ới được v cho con, lão vô cùng đau đn, bi vy bao nhiêu tin của m được
lão đều dành dm cho con, lão chu kham khổ, đ người đi chi mng ch nht
định không chu tiêu lm vào tin ca con. Sau khi b bnh nng, lão ch ăn khoai,
hết khoai lão ăn c chui, ri ăn sung luộc, rau má, c ráy, nga v đưc th
lão ăn th ấy,cui cùng lão lo lng s tiêu hết tiền cho con nên lão đành
chn cái chết đ bo toàn tài sn cho con trai mình. Cái chết đau đn ca lão Hc
xut phát t lòng thương con âm thm mà ln lao.
Mc dù nghèo kh nhưng lão ln gi lòng t trng. Lão không nhn bt c s
giúp đ ca ai, ngay c khi ông giáo đ ngh giúp, lão t chi mt cách hách dch,
bi lão hiu hoàn cảnh gia đình ông giáo ng nghèo túng chẳng khác gì gia đình
mình. ng t trọng đó còn đưc th hin trong cách thức tìm đến cái chết ca ông.
Trước khi chết ông đ li tin nh bà con lo ma chay, kng mun phiền đến
hàng m. Lão chết bằng cách ăn b chó, cái chết đau đớn, d di như một li t
ti vi cu Vàng. Cái chết ca lão Hc chính s khng định cho sc sng bt
dit ca nhân cách trong ông.
Ngoài nhân vt lão Hc trong tác phm ta còn thy ni bt lên nh nh ca mt
ông giáo nghèo, ni bn thân thiết ca lão Hc. Ông giáo có s đồng cm sâu
sc vi cnh ng đáng thương ca lão Hc: an ủi, đng viên khi lão bán chó, chia
s ni bun vi lão Hc, luôn tìm mi cách làm cho lão khuây kha, lc quan. Ông
còn người am hiểu tường tn nht v đẹp nhân cách ca lão hạc: “Không cuộc
đời chưa hẳn đã đáng bun, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng bun theo mt
nghĩa khác”. Nghĩa khác ấy chính con người nhân cách cao đẹp nhưng li
phi chết vật vã, đau đn và cái chết y lại càng làm sáng n nhân cách cao đp
ca lão.
Ngh thut k chuyn xut sc: câu chuyện được k bi nhân vt i ng giáo)
ngưi luôn bên cnh lão Hc, bi vy khiến câu chuyn tr nên chân thc, gần gũi,
ngoài ra khiến mch k tr nên t nhiên, linh hot, tạo điu kin kết hp t, k vi
bình lun mt cách t nhiên, sinh đng. Ging văn đa dạng, thay đi linh hot.
Ngh thut xây dng tình hung truyn bt ng, hp lí, nhng bước ngot ca
truyn gp bc ltính cách, phm cht ca nhân vt. Ngh thut xây dng nhân
vật ng một điểm nhn của văn bản: nhân vật được khc ha qua din mo,
ngôn ng đi thoi, din biến tâm trng và qua li nhn xét, bình lun ca các nhân
vt khác, bi vy chân dung nhân vt hin lên chân thực, sinh đng hơn.
Vi ngh thut k chuyện đặc sc, nn ng gin d, i cuốn Nam Cao đã cho
người đc thy chân dung s phn bt hnh ca người ng n trước cách mng,
h b đẩy đến bước đường cùng phải tìm đến cái chết. Nhưng đằng sau đó n
chân dung tinh thần đẹp đẽ: giàu tình yêu thương và nhân cách cao đp.
Phân tích truyn ngn Lão Hc - Mu 3
Viết v đ tài nông dân trưc cách mng, "'Lão Hc" là mt truyn ngắn độc đáo,
đặc sc của nhà văn Nam Cao. Một truyn ngn chứa chan tình người, lay đng
bao nỗi t thương khi tác gi k v cuộc đời đơn bt hnh cái chết đau đn
ca mt lão nông nghèo kh. Nhân vt lão Hạc đã để li trong ng ta bao ám nh
khi nghĩ v s phận con người, s phận người nông dân Vit Nam trong xã hội cũ.
Lão Hc, một con người nghèo kh, bt hạnh. Ba sào n, mt túp lu, mt con
chó vàng... đó là tài sn, vn liếng ca lão. V chết đã lâu, cnh trng nuôi con,
lão ln hi m th kiếm sống. Đứa con trai đc nhất kng có trăm bạc đ i
v, cm thy "nhc lắm" đã "phẫn chí" đi phu đn điền cao su Nam K, bin bit
năm, sáu m chưa v. Tui già, sng qunh, ni bt hnh ngày thêm chng
cht. Lão Hc ch còn biết làm bn vi con chó vàng. Lão b m mt trn kéo dài 2
tháng 18 ngày. Không một người thân bên cạnh đ đần, săn c cho một bát cháo,
mt chén thuc! Tình cnh y thật đáng thương! Tiếp theo mt trn bão to, cây trái
hoa màu trong vườn b phá sch sành sanh. Làng mt ngh sợi. Đàn bà con gái
trong làng đi làm th rt nhiu, giành hết mi vic. Sau trn m, lão Hc yếu hn
đi, chẳng ai thuê lão đi làm na. Tht nghip! Giá go mi ngày mt cao. Lão
cu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào go vẫn "đói". Bao nhiêu tiền bán hoa li
trong vườn dành dụm được bấy lâu nay, lão đã chi tiêu gn hết trong trn m!
''Nhưng đời người ta kng ch kh mt ln (...). Lão Hạc ơi! Ta quyn gi cho
ta mt tí gì đâu?". Nhân vật ông giáo đã ngnhư thế khi nghe lão Hc i v ý
định phi bán con chó. Cậu Vàng "ăn khe", mi ngày cu ấy ăn "b r cũng mt
hào rưỡi, hai hào". Lão Hc rt yêu cậu Vàng, nhưng "ly tiền đâu nuôi đưc?"
Lão Hc phi bán cu Vàng cho thng Xiên, thng Mc. Bán cu Vàng xong, lão
Hc b đy sâu xuống đáy vc bi thm. Lão cm thy mình mt k "t lm", đã
già còn ánh la mt con chó". Đói khổ, đơn ngày một thêm nng n lão
Hc ch ăn khoai, ăn c chuối, ăn sung luc, ăn rau má, thnh thong mt vài c ráy,
hay ba trai ba c. Lão t chi mi s giúp đ ca ông giáo mt cách "gần như là
hách dch". Lão xem ông giáo là ch da tinh thn ca lão by lâu nay. Lão Hạc đã
ăn b chó đ t t. Lão chết đau đn thê thảm: đầu c rượi, mt long sòng sc,
tru tréo, bt mép sùi ra vật vã đến hai gi đng h ri mi chết! Cái chết tht d
di!
S phn một con người, mt kiếp người như lão Hc thật đáng thương. Với ch
nghĩa nhân đo thng thiết, Nam Cao đã i lên bao tình thương t đi vi nhng
con người đau kh, bế tc phải tìm đến cái chết thê thm. Chí Phèo t sát bằng mũi
dao, Lang Rn tht c chết... lão Hạc đã quyên sinh bng cái b chó! Lão Hc
đã từng hi ông giáo: ''... nếu kiếp người cũng khổ nt thì ta n làm kiếp gì cho
thật sướng?". Câu hi ấy đã thể hin ni đau khổ tt cùng ca mt kiếp người.
Lão Hc, một con ni cht phác, hin lành, nhân hu. Lão rt yêu con. Biết con
bun vì không có tiền đ i v lão thương con lắm.... Lão đau đn khi con sắp đi
làm phu đn điền cao su. Lão ch biết khóc: "Th của nó, ni ta gi. Hình ca nó,
người ta đã chụp ri (...). ni ca người ta ri, ch đâu còn là con i ?".
"Cao su đi dễ khó v" (Ca dao). Con trai lão Hạc đã đi "bn bặt" năm, sáu năm
chưa v. Hoa lợi trong vườn, bán được bao nhiêu lão dành dm cho con, hi vng
khi con tr v "có chút vốn làm ăn". o tự bo: "Mảnh vườn ca con ta.
Ca m tậu thì nó hưởng...". Đói kh quá, nhưng lão Hạc đã gi trn vn ba sào
ờn cho con. Lão đã tìm đến cái chết, thà chết ch kng chịu bán đi một sào. Tt
c vì con, mt s hi sinh thm lng cc kì to ln!
Lòng nhân hu ca lão Hạc được th hin sâu sắc đi với con chó vàng, ni
con trai đ lại. Lão quý nó, đt tên "cận Vàng". Cho nó ăn cơm trong bát s
như ngiàu. Bắt rn hoặc đem nó ra cầu ao tắm. Lão ăn cũng chia cho cậu
Vàng cùng ăn. Lão ngi ung rượu, cu Vàng ngi dưới chân, lão nhm mt miếng
li gp cho mt miếng như người ta gp thc ăn cho con trẻ. Lão tâm s vi cu
Vàng như tâm s vi mt ni thân yêu rut rà: "Cu Vàng ca ng ngoan lm!
Ông không cho giết... Ông để cu ng ông ni...". th nói, cậu Vàng được
lão Hạc chăm c, nuôi nấng như con, như cháu; là ngun vui, ch da tinh
thần, i san s tình thương, giúp lão Hạc vơi đi ít nhiu ni buồn cô đơn, cay đng.
Cu Vàng mt phn cuc đi lão Hạc. đã tỏa sáng tâm hn làm ánh lên
bn tính tốt đp của ông lão nông đau kh, bt hnh này. thế, sau khi bán cu
Vàng đi, t túng qun, lão Hc chìm xung đáy b bi kch, dẫn đến cái chết
cùng thảm thương.
Lão Hc mt nông dân nghèo kh trong sch, giàu lòng t trng. Trong đói
kh cùng cc phải ăn củ chui, c ráy... ông giáo mời lão ăn khoai, ung nước chè,
lão cười hn hu và khất "ông giáo cho đ khi khác". Ông giáo ngm ngầm giúp đ,
lão t chi "mt ch gần nhách dch". Bất đắc đĩ phi bán con chó; bán xong
rồi, lão đau đớn, lương tâm dn vt: "thì ra tôi gbng này tui đầu ri n đánh
la một con chó". Ba sào n gi li nguyên vẹn cho con trai, n một li
nguyền đinh ninh: "Cái vườn là ca con ta (...). ca m nó tậu thì nó ởng". Trước
khi chết, lão gi li ông giáo mảnh n cho con, và gi lại 30 đng bạc đ "l
chết gi là ca lão tí chút...", vì lão không mun làm phiền đến hàng m. Nam
Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư, một k "làm ngh ăn trộm" phn cui
truyn, to nên mt s đối sánh đc sc, làm ni bt tm ng trong sch, t trng
ca lão Hc, một lãong chân quê đáng trng.
Tóm li, cuc đi ca lão Hc đầy nước mt, nhiều đau khổ bt hnh. Sng thì
âm thầm, nghèo đói, đơn; chết thì qun quại, đau đn. Tuy thế, lão Hc li
bao phm cht tt đẹp nhin lành, cht phác, v tha, nhân hu, trong sch và t
trng... Lão Hc mt điển hình v ngưi nông dân Vit Nam trong hội
đưc Nam Cao miêu t chân thc, vi bao trân trng t thương, thấm đượm mt
tinh thần nhân đo thng thiết.
Phân tích truyn ngn Lão Hc - Mu 4
Nam Cao một nhà văn ln ca người nông dân Việt Nam, đc biệt là người nông
dân trước Cách mng tháng m 1945. Ông vn cm nhận được nhng v đẹp cao
quý trong tâm hn ca h trước b vc của cái đói, i nghèo. Truyn ngn "Lão
Hc" ca nhà văn mộtc phẩm như thế. Nhân vt chính ca tác phm - nhân vt
lão Hc - dù mt hoàn cnh bt hạnh, đau đớn nhưng lão vn gi đưc tình yêu
thương đối vi những người thân yêu đc bit mt ng t trng cao c. Qua
nhân vật này, nhà văn đã th hiện tư tưởng nhân đạo tiến b và sâu sc.
Lão Hc cũng như bao ngưi ng dân Vit Nam khác phải đi mt vi cái nghèo,
cái đói của cuc sống cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão n nhng
hoàn cnh riêng vô cùng bt hnh. V lão chết sm. Con trai o phn chí nghèo
không lấy được người mình yêu nên b đi đồn đin cao su. Lão ch con Vàng
k vt của con đ làm bn. Vy là cùng mt c lão phải đi mt với bao đau kh:
cái đói, sự đơn và tuổi già vi ôm đau, bnh tt. Ri cuộc đời cc kh, dn lão
đến mc hết đường sinh sng. Lão phi dt rut bán đi con chó Vàng mà lão yêu
thương nht. Lão bán con chó trong nim kh đau tột cùng: "Mt co rúm li, nhng
nếp nhăn xô li với nhau, ép cho nước mt chảy ra, cái đu ngoo v mt bên, cái
mingm mém mếu như con nít", "lão hu hu khóc".
Ban đầu là "luôn my hôm lão ch ăn khoai", "khoai cũng hết, lão chế tạo được
món , ăn món ấy. m thì lão ăn củ chui, hôm thì lão ăn sung luộc, m thì ăn
rau , vi thnh thong mt vài c ráy hay ba trai, ba c". Ri đến mc chng
còn gì đ ăn, đ sng. Rồi điều đến s phải đến. Không còn đường sinh sng, lão
Hc ch còn đường chết. đó một cái chết thật đau đn, tht ti nhc: chết
"nhờ" ăn b chó t t! Cái chết ca lão d di vô cùng: lão sùi bt mép, lão co git
phải hai nời đàn ông lực lưỡng đè lên. Cái chết y khiến người đọc liên tưởng
đến cái chết ca con chó Vàng đ ri rùng mình nhn ra rng i chết ca lão đâu
khác cái chết ca mt con chó. Đói nghèo như thế, kh đau như thế nhưng lão
không vì vy tha hóa v nhân phẩm. Binh đã tưởng lão xin b chó để ăn
trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hc vn gi đưc vn
nguyên tâm hn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trng của người nông dân và
c s t trọng cao đp ca mình.
Lão yêu thương con rt mực. Văn học Việt Nam đã nhng "Cha con nghĩa
nng" ca H Biu Chánh, "Chiếc lược ngà" ca Nguyn Quang Sáng, ngi ca tình
ph tử. trong đó ng cn nhắc đến "Lão Hc" ca Nam Cao. thương con,
lão chp nhận đối mt với cô đơn, vi tuổi già đ con ra đi cho thỏa chí. Con đi ri,
lão dn c yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn gin rằng lão cưng chiu
"cu" Vàng đó con c khôn, chó đẹp. Điều quan trng nht khiến lão yêu
quý con Vàng đến mc chia vi nó từng cái ăn, cho ăn vào bát như ni, ri
đến lúc nó chết lão qun quại, đau đn là bi con chó là k vt duy nht mà con trai
lão đ lại. Nhìn con chó, lão tưng như đưc thy con mình.
Không ch vậy, lão thương con đến độ chp nhận i đói, ri c cái chết ch không
chịu bán đi mảnh vườn ca con. Nếu lão bán mảnh vườn, t lão s đ ăn tiêu đ
t qua thi khốn k. Nhưng lão lại lo khi con trai v không có đất sinh sng
làm ăn. Vậy là lão đã nhn ly cái chết ri nh ông giáo gi đất cho con. Chao ôi!
Tình yêu thương con của lão tht cm đng biết mấy! Yêu thương những người
thân yêu rut tht, lão Hc còn là một người sng đy t trọng trước cuc đi nhiu
cám d và ti li. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã th ăn trộm, ăn cắp hay
thậm chí ăn bám vào người kc (nBinh chng hạn, hay nời đàn trong
"Mt ba no" của Nam Cao..) nhưng lão Hc thì kng.
Vi s giúp đ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó ch c khoai, c sn) lão "t
chi gần như hách dch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh ng
rng lão xin b để ăn trộm chó "lão cũng ra phết đy ch chng vừa đâu". Đến lượt
ông giáo cũng nghi ngờ: "con người đáng kính y bây gi ng theo t Binh
để ăn ư? cuộc đi qu tht c mi ngày mt thêm đáng buồn". Nhưng cui cùng
tt c đu ng ngàng, sng st trước cái chết đt ngt ca lão. Hay còn cách khác:
lão th bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn ca
con lão. Và lão đã thà chết ch kng ăn ca con!
Lòng t trng ca lão Hc rc sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đn nht. Lão
đã chọn cái chết, mt cái chết khc liệt đ tâm hn mình được trong sạch, được
trn vẹn tình nghĩa vi tt thy mi người - k c vi con chó Vàng ti nghip.
Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động cùng. Lão đã tính toán đ ngay c
khi chết đi rồi cũng kng làm phiền đến mọi người: lão đã gi ông giáo my chc
đồng bạc, định khi mình nm xung thì nh ông giáo lo liu ma chay khi làm
phin hàng xóm! Hi ôi lão Hc! Xây dng nhân vt lão Hc, Nam Cao đã s dng
ngh thut khc ha nhân vật tài nh. Điều đó được th hiện trong đoạn văn miêu
t b dng, c ch ca lão Hc khi k cho ông giáo chuyn la bán cu Vàng, trong
đon miêu t s vật đau đớn d di ca lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ng nhà
văn sử dng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính to hình hết sc gi
cm.
Qua nhân vt lão Hạc, nvăn đã th hin tinh thần nhân đo tiến b sâu sc. Nam
Cao đã đng cảm đến tn cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Vit
Nam trong nạn đói 1945. Thi cuc đã dn h đến đường cùng li thoát nhanh
chóng nht cái chết nghiệt ngã. Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân
trng v đp tâm hn cao khiết của người nông dân ngay c khi h c vào
đưng cùng. Không ch giàu tình yêu thương, ngưi nông dân còn sống đầy t
trọng. Trong cái đói, t trng th đó xa xỉ vô cùng. miếng ăn, ni ta
th tàn nhn, dã man, thm chí mt hết nhân nh. Nhưng đáng trng thay lão Hc,
lão không ch gi được tình thương tươi mát còn gi đưc lòng t trng vàng
đá của mình.
chính nh v đẹp tươi sáng y ca lão Hạc mà Nam Cao đã chiêm nghim:
"Cuc đời chưa hẳn đáng bun". Chưa đáng bun bi còn những con người cao
quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nvăn đã bày t thái đ tin tưởng đi phm
cách tt đp ca người nông dân Việt Nam trưc ch mạng. Điu ấy đáng quý vô
cùng bi trước Cách mạng, người nông dân b coi r như cỏ rác, thm chí n
văn còn nhận định người ng dân "nnhng con lợn không tưởng". bi
thế, tư tưng ca Nam Cao đáng ca ngi biết bao!
Nhân vt lão Hc của nhà văn Nam Cao một nhân vt nhiều đặc điểm đáng
quý, đáng trân trọng. T lão Hạc, người nông dân Vit Nam có quyn t hào v
tâm hn phm ch ca mình. Dng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã
khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đo sâu sc.
Phân tích truyn ngn Lão Hc - Mu 5
Nam Cao là nhà văn hin thc xut sắc trong giai đoạn văn hc 1930 - 1945. Qua
nhiu tác phm, c gi đã v nên khung cảnh tiêu điều, xơ xác của nông tn Vit
Nam trước Cách mng tháng Tám. S đói kh ám ảnh nhà văn bi nó ảnh hưởng
không ít ti nhân cách, nhưng trong cảnh nghèo đói thê thm, phm cht tốt đẹp
của người nông dân vn tn ti và âm thm ta sáng. Truyn ngn Lão Hc th
hiện cái nhìn nhân đo sâu sc của Nam Cao. Trong đó, nhân vt chính mt
ng dân gp nhiu ni bt hạnh vì nghèo đói nhưng chất pc, đôn hậu, thương
con và có lòng t trng.
V mt sm, lão Hc dn tt c tình yêu thương cho đa con trai duy nht. Lão s
sung sướng biết dường nào nếu con trai lão đưc hạnh pc, nhưng con trai lão đã
b ph tình ch quá nghèo, không đ tiền cưới vợ. Thương con, lão thu hiu ni
đau của con khi anh nghe li cha, không bán mnh vườn đ ly tiền cưới v
chp nhn s tan v của tình yêu. ng thương con, lão càng xót xa đau đn
không giúp đưc con tha nguyện, đến ni phn chí b nhà đi phu đồn điền đất đ
mãi tn Nam Kì. Mi khi nhắc đến con, lão Hc lại rơi c mt. Lão Hc rt quý
con chó vì nó là k vt duy nht của đa con trai. Lão trìu mến gi cu Vàng và
cho ăn cơm bng chiếc bát lành ln. Sut ngày, lão thm thì to nh vi con
Vàng. Vi lão, con Vàng là hình bóng của đa con trai yêu q, ni bn chia
s cô đơn vi lão. Vì thế nên bao lần đnh bán con Vàng lão vn không bán ni.
Nhưng nếu nh con o Hc kng mun bán cậu Vàng thì cũng chính vì
thương con mà lão phi dt khoát chia tay với nó. Lão nghèo túng quá! Lão đã tính
chi li mi ngày cu ấy ăn thế b r cũng mất hai hào đy. C mãi thế này thì tôi ly
tiền đâu ni được... Thôi bán phắt đi, đ đồng nào hay đng y. Bây gi, tiêu
một xu cũng là tiêu vào tin ca con. Tiêu lm ch chết ! Thế vì lo tích p,
gi gìn cho con trai chút vn lão Hc đành chia tay với con chó yêu quý. Đã
quyết nthế nhưng lão vẫn đau đn, xót xa. Lão k cho ông giáo nghe cnh bán
cu Vàng vi nỗi c động cực độ. Lão đau khổ dn vt vì cm thấy mình đã đánh
la mt con chó. Ni kh tâm ca lão c chng chất mãi lên. Trước đây, lão dn
vt mãi v chuyện vì nghèo không cưới được v cho con, thì bây gi ng ch
nghèo lão thêm day dứt đã x kng đàng hoàng vi mt con chó. Lão
c chịu đng nhng nỗi đau đn ấy cũng ch nhm mt mục đích gi gìn chút
vn cho con.
Biu hin cao nht ca tình yêu thương con chínhcái chết ca lão. Ông lão ng
dân nghèo kh ấy đã tính toán mọi đường: “Bây giờ lão chẳng làm được na...
Cái vườn này ca m nó cht chiu dành dm cho nó, ta không được ăn vào của
... Ta không th bán vườn để ăn…”. Chính thương con, mun gi cho con
chút vn giúp thoát khi cnh nghèo lão Hạc đã chn cho mình cái chết. Đó
mt s chn la t nguyn d di. Nghe nhng li tâm s ca lão Hc vi
ông giáo, không ai th kìm nổi lòng xót thương, thông cảm và khâm phc. Mt
con người nghèo đói bt hạnh đến thế ng! Mt người cha thương con
đến thế là cùng!
Không ch vy, qua tng trang truyn, chúng ta còn thy lão Hc người đôn
hu, cht phác. Suốt đời, lão sng quanh quẩn trong lũy tre làng. Trong làng ch
ông giáo là người có hc nên lão tìm đến ông giáo đ chia s tâm s. Li l ca lão
Hạc đi với ông giáo c nào cũng l phép và cung kính. Đó cách bày t thái đ
kính trọng người hiu biết, nhiu ch ca mt lão ng. Cnh ng lão Hạc đã đến
lúc túng quẫn nhưng lão t lo liu, xoay x, c gi nếp sng trong sch, tránh xa
lối đói ăn vng túng làm càn. Thm chí, lão kiên quyết t chi s giúp đ ch vì
lòng thương hi.
Lão đã chun b lưỡng mi việc. Trước khi chết, lão nh ông giáo viết văn t để
gi h con trai mình mảnh vườn và gửi ông giáo 30 đồng để lo chôn ct. Lão
không mun mọi người phi tn kém vì lão. Rt th vì tốn kém mà ni ta li
chng oán trách lão sao? Không phin lụy đến mọi người, đó cũng cách đ gi
gìn phm giá. Thì ra ông lão v ngoài gàn d y li phm chất đáng quý biết
nhưng nào!
Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được ni kh tâm, bt hạnh vì nghèo đói
cùng nhng v đẹp cao quý trong tâm hn người nông dân Việt Nam trước Cách
mng tháng Tám. T nhng trang ch ca Nam Cao, hình nh lão Hc luôn nhc
chúng ta nh đến những con người nghèo khó trong sch vi mt tình cm trân
trng và yêu quý.
Phân tích truyn ngn Lão Hc - Mu 6
Lão Hc trong truyn ngn cùng tên mt trong nhng nhân vật đời" ca
Nam Cao. Lão Hc, mt nông dân nghèo kh, cùng quẫn, nhưng kng bị biến
chất như Chí Phèo, mà trái li mt m hn đẹp, một nhân cách cao thượng. Lão
sng mt thân mt mình trong đơn, vt v. Lão ch đa con trai duy nhất đ
nương ta tui già thì anh ta li phn chí b đi phu đồn đin cao su- "cao su đi d
khó v". Lão Hạc đành thui thủi làm thuê, m mướn kiếm ăn, đng thi c nht
nhnh, dành dm cho con.
Nhưng một trn m đã làm o trở nên tay trng. Sc yếu dn "nhng công vic
nặng kng làm đưc na", vic nh t"đàn bà tranh hết". Lão Hc không có vic.
Ri li bão. Hoa màu trên mảnh vườn b phá sch sành sanh. Go c kém dn.
"Mt lão vi mt con chó, mi ngày ba hào go gia s còn đói gieo đói dt.
Cui cùng lão phải ăn khoai. Khoai cũng hết. Bắt đầu t đây, o chế tạo được món
gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm tlão ăn sung luộc, m thì ăn rau
má, vi thnh thong mt vài c ráy, hay ba trai, ba c.
Thc ra tình cnh lão Hạc đã làm bế tắc đến thế. Lão còn mảnh vườn đó, con
chó vàng đó, th bán đi tiêu. Nhưng lão sng vì con ch đâu vì mình. Điu
này my ai hiểu cho lão. Người ta ch thy lão lm cm. ông giáo hàng xóm
ngưi ng ái ngại, nhưng va bày t vi v đã b th gt pht ngay: "Cho lão
chết! Ai bão lão tin chu kh! Nhà mình sung sướng gì gp lão? Con
mình cũng đói. Còn Binh Tư, một lưu manh chuyên đánh b chó tli ly m
khoái chí khi thấy lão đến xin mình mt ít b. Hắn ởng đâu lão Hạc ói quá hoá
liều" cũng quay sang trm cắp như hn. Hắn bĩu môi: "Lão làm b đy! Tht ra thì
lão ch tm ngm thế, nhưng ng ra phết ch chng vừa đâu". Ngay đến ông giáo
tuy hiu lão Hạc hơn cả cũng đâm ra nghi ng.
Người ta ch hiểu lão khi lão đã chết ri. Lão t t bng nm b chó ca Binh Tư.
Lão chết đi nhưng s còn sống mãi trong ng người như một tấm gương đạo đức
hiếm . Hiếm người cha nào thương con như lão Hc. Nghèo k nhưng c
nào cũng nghĩ đến bn phn làm cha, lo làm tròn bn phn y, du phi chu
kh, chịu đói chết bi thm. Hình nh đa con trái, ni lo chu tt cho con luôn
ám nh, dn vt m trí lão. Hi anh ta còn nhà, lão không cho anh ta bán n
để i v cũng là xut phát t s tính toán điều hơn lẽ thit ca bc làm cha. Thc
ra lão dn ng lm. Bởi đo m cha phi lo cho con mt ni v, một căn n-
mt t ấm gia đình. Song tình cảnh lão thì lo chưa chu toàn đưc. Anh con trai
phẫn chí ra đi, ngày v k hn, lão lại đã già.
Đã bao ln, lão ng m s này vi ông giáo: tin hoa li trong vườn, tin bán con
chó vàng, mảnh vườn, lão không dám đụng đến, vì đây tin ca con, tin
ngưi làm cha phải đ li cho con. Nếu không, kng phải o". Đã bao ln lão
tính tiền bòn vườn sa con, "không cho bán ta ch ý gi cho , ch phi
gi để ta ăn đâu!... Ta bòn n của nó, cũng nên đ ra cho nó, đến lúc nó v, nếu
kng đ tiền cưới v thì ta thêm vào cho , nếu nó đ tiền cưới v thì ta
cho v chồng nó đ chút vốn làm ăn". Lão đã làm y như thế. Thà ăn khoai,
ăn củ chui, c ráy ch lão kng ăn vào tin ca con, kng chu bán mảnh vườn
ca con.
Bao nhiêu tin nht nhạnh được t mảnh vườn, lão gi tt c nh ông giáo gi h.
Ri lão chết đ không bao gi phải đụng đến. ôi, lão Hạc, con người b ngoài thì
v tiu tu và gàn d như vậy mà tht giàu tình nặng nghĩa. đâu ch đi vi
đứa con. Tm lòng nhân hu ca lão còn th hin cái tình rt nng vi con chó
vàng mà lão gi là "cậu vàng" nmt bà hiếm hoi gọi đứa con cu t. C xem cái
cách lão nng con chó: không! À kng! Cu vàng ca ông ngoan lm! ông
không cho giết... ông đ cu vàng ông ni"..., hay cái v mặt vô cùng đau kh ca
lão khi k cho ông giáo nghe lão đã bán con chó. "Mt lão t nhiên co m li.
Nhng vết nhăn xô li với nhau, ép cho c mt chảy ra. Cái đu lão ngoo v
mt bên và cái ming m m ca lão mếu ncon nít", đ thấy lão thương xót
con chó và cm thy mình có tội như thế nào khi phải bán nó đi.
Chân tht, chất phác, đôn hậu, tràn đầy tình thương và trách nhim, lão Hạc cũng
tht giàu lòng t trọng. Đối với ông giáo, người lão tin tưởng và quý trng đến thế,
lão cũng vn gi ý đ khi b coi thường. Lão đói đy, lão phàn nàn "kiếp người
như lão ng kh như kiếp chó" đấy, nhưng khi ông giáo mời lão ăn khoai, ung
ớc chè tươi, lão đã t chi. Lão dt khoát "t chi tt c". Khi ông giáo giu v,
thnh thong mun ngm ngầm giúp đ lão mt chút gì, lão t chi "mt cách gn
như hách dch". Ri lão c c ý xa ông giáo dn dn.
Cui cùng thì lão Hc chết. Ch động tìm đến cái chết, mt cái chết bi thm, khc
liệt ncái chết ca mt con người cao quý. Bi qua cái chết này, tt c nhng
phẩm gcao đp ca lão ánh lên, chiếu sáng thăm thẳm vào lòng ni. Gần đây
người ta đã dng phim v c nhân vt ca Nam Cao - phimng Đại ngày y.
Nhà văn Kim Lân đưc mời đóng vai lão Hạc. Kim Lân đã nghin ngẫm kĩ v
nhân vt ca mình, ông nói: "Lão Hc không ch một người nghèo, đó một
con người có nhân cách, t trng và bt khut".
Chúng ta cũng hoàn toàn đng ý vi Kim Lân. Ta còn thy rng nhng phm cht
y ca lão Hạc đã cho ta những suy ngsâu sắc. i chết ca lão Hạc đã đ li
cho chúng ta, cùng vi ni xót thương hn là nhiu bài hc quý. Bài hc sâu sc
nht trong bt kì thân phn nào, hoàn cảnh nào cũng phi gi danh hiu con
ngưi cao q. Giữa người với người phi trách nhim với nhau hơn, phi hiu
biết để đánh giá đúng và cảm thông với người khác hơn, phải tin tưởng n con
ngưi và cuộc đi. Và phi biết căm ghét xã hi bt công, nhng thế lực độc ác vùi
dập, đày đa những con người như lão Hạc.
V ông giáo tng i v lão Hc: "Cho lão chết! Ai bo lão tin chu kh.
Lão làm o kh ch ai làm lão kh!". Nhưng thc ra sống làm người, nhng
điu dù kh, dù phi t làm kh mình ng phi gi. Chết cũng giữ! Đó nhng
điu thuc v đạo lí, nhân cách làm người như lão Hạc đã giữ.
thế, đã hơn 60 năm (truyn Lão Hc ra đời năm 1943), lão Hạc vn sng cùng
chúng ta,s còn sng cùng chúng ta. du cho cuộc đời này còn nhiu ni đáng
buồn nhưng những con người n lão Hạc thì cuộc đời "chưa hẳn đã đáng
bun".
Phân tích truyn ngn Lão Hc - Mu 7
Nam Cao nvăn hin thc xut sc vi những sáng c đ lại trong ng ni
đọc nhiu day dt và ám nh. Mi câu chuyn của ông đu mang dáng dp ca mt
đời người, mt kiếp người lm than trong xã hi. Nam Cao tp trung khai thác s
phận người nông dân trưc cách mng tháng Tám, bế tc, cùng cực đã khiến cho
cuộc đời h chìm vào nước mt. Truyn ngắn “Lão Hạc” mt trong nhng câu
chuyn cảm động v nh nh nghèo k ca người nông dân, đng thi toát lên
đưc v đẹp tinh thần đáng quý của họ. Đây mới chính gtr nhân văn của tác
phm này.
Nam Cao ly bi cnh lch s thi k đất nước đang chìm trong cảnh nước mt,
nhà tan, nhân dân lầm than, đói khổ, xơ xác. Ông đã xây dng nên nhân vt nông
dân đin hình trong mt xã hội điển hình. Qua nhân vt này tác gi mun lt t chế
độ thc dân phong kiến cuc sng bn hàn ca người nông dân. Tác gi la
chn ngôi k độc đáo, theo ngôi th ba, theo li ca ông Giáo, hàng xóm ca lão
Hạc. Bơi vy câu chuyện thêm sinh đng, chân thực mang tính khách quan hơn.
Người đc th quan sát, theo i cuc đi ca một con người phi tri qua bao
nhiêu thăng trm và biến c.
Những câu văn giản d c thế đi vào long người đọc mt cách chân tht hin
a nht. Tng mảnh đi c chp chi hin lên dt d, nghèo đói nhưng trong h
ánh lên s nhân hu, v tha và lòng yêu thương tha thiết. Cuộc đời ca lão Hc tht
bun, buồn đến thê thm. V lão mt sm, lão với đứa con trai. Nhưng t khi
đứa con trai đi làm đin cao su tlão kng n biết tin tc v con na. Lão
thương con, rồi lão thương cho chính cuc đi ca mình chẳng làm được gì cho
con. Lão Hc hin thân của người nông dân hiền lành, lương thin, cht phác,
chăm chỉ làm ăn. Ai thuê lão làm gì, lão đều làm. Nhưng cuộc đi khc nghit,
cuc sng khc nghit, sc khe ca lão yếu đi, lão không mun cy nh con
hàng xóm.
Túng qun, bế tắc, lão đã nghĩ đến vic bán cậu Vàng. Nhưng tình cảm ca lão
dành cho cu Vàng qthân thiết, nên lão không n, bao nhu ln lão không
bán ni. S ging xé trong tâm hn đã khiến cho lão ngày càng bnh tt, m đau.
Nhưng rồi cơm cũng chẳng ăn, lấy gì nuôi cu Vàng. Lão kng mun
tiêu vào những đồng tiết tiết kim lão dành dm cho đa con trai t vic bán hoa
lợi và thu đưc t mảnh vườn ba sào bé . Vậy lão đt rut bán cu vàng, i
đúng hơn là lão phi lừa đ mi có th bán cu Vàng.
Cnh bán chó thc s mt cảnh tượng xúc động, đy dn vặt và đau đn ca lão
Hạc. Lão đã t thú nhận “già bng này tui đầu n đi lừa một con chó”. Ông giáo
đã kể li cảnh tượng đó “Mặt lão đột nhiên co rúm li, nhng vết nhăn li vi
nhau, ép cho nước mt chảy ra ngoài. Cái đu lão ngoo v mt bên và cái ming
móm mém ca lão mếu ncon nít. Lão hu hu kc”. Mt đon văn tràn đy tình
cm, mt đoạn văn khiến nời đc không cm ni nước mt.
Mt người ng dân cht phác, ngay c trong việc bán chó ng vy. Lão không
mun cậu Vàng đau ng, muốn nó ra đi thanh thn nhất, nhưng thc ra lòng lão
đang qri bi. Nhng tâm s ca lão Hc khiến người đọc xúc đng, cm tng
rất đi khâm phc. Ông dù nghèo nhưng vn quyết dành tình cảm cho đa con
trai duy nht. Lão Hạc yêu thương con hết mc, quyết đnh hi sinh con. Bi vy
lão mi quyết định kết liu cuộc đời mình đ không liên lụy đến con mình. Mt
người cha yêu thương con hết mc một người suy nghĩ qthấu đáo, chu
toàn. Lão đã đnh sn cho mình mt cái chết thanh thn, nh nhàng nhất. Lão đã
cy nh chuyn ông giáo sau khi chết giao li mảnh ờn cho con trai và đ li 30
đồng bc l.
Chi tiết ông Giáo k vi v v chuyn lão Hc thì v ông đã nói “Cho lão chết! Ai
bo tin chu kh! Lão làm kh lão ch ai làm lão kh. Nhà mình sung
ớng giúp lão. Chính con mình cũng đói". Bt lc ông giáo ch biết ngm
ngùi than th: "Chao ôi, đi vi những người xung quanh ta, nếu ta kng c
tìm hiu h, thì ta ch thy h gàn d, ngu ngc, bn tin, xu xa, b i toàn nhng
c để ta tàn nhn, không bao gi thương”. Thc s đây một đon hi thoi
giá tr nhân văn sâu sắc, khẳng đnh mt thái đ sng v những con người xung
quanh mình. l Nam Cao ngầm thương xót cho nhng mảnh đi bt hnh, sng
hiền lương nhưng li b rung b.
Cái chết ca lão Hc là mt cái chết đy bi kch, thc tnh biết bao nhiêu con người.
Cái chết đó đã phn ánh hin thc xã hi phong kiến nhiu bất công, đã đẩy người
ng dân vào bước đường ng. S bế tc, ng quẫn đã dẫn đến i chết bi thm
đó. Ông giáo đã suy nghĩ sai lm thì nghe bo lão Hc sang xin b chó. Nhưng
thc s ông đang mun kết liễu đi mình, không mun làm gánh nng cho con
trai.
Ti sao lão li chn cái chết đau đớn, đầy thương m đó. l đây điu rt
nhiều người hỏi, nhưng l nguyên nhân ca . Phn ánh s bế tắc đến cùng
cc xã hi phong kiến, đẩy con người vào ch chết. l lão Hc mun trng pht
chính bản thân mình đã đi “la mt con chó”, đng thi lão mun yêu thương
đứa con trai đến giây phút cui cùng. i chết đó chỉ ông Giáo Binh mi
hiu.
Truyn ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao thc s ám ảnh đến người đọc vì hình nh
ngưi nông dân cùng cc trong hi phong kiến. Đồng thi khẳng đnh v đẹp
tinh thn lấp lánh trong con ni h.
Phân tích truyn ngn Lão Hc - Mu 8
Nam Cao nhà văn hin thc xut sắc trước ch mng. Tác phm ca ông
thường gn lin vi hình ảnh nông thôn đói khổ. Trong hoàn cnh đó, ông vn nhìn
thấy đưc nhng phm cht tốt đp của người nông dân nghèo đang âm thm ta
sáng. Truyn ngn Lão Hc mt tác phm như vy. Nhân vt chính là mt lão
ng nghèo kh, bt hạnh nhưng vẫn mang nhng phm chất cao quý đáng trân
trng.
Truyện được k qua li ông giáo ngưi hàng xóm thân thiết ca lão Hc đã tạo
cho câu chuyn thêm phn chân thực, sinh động. Qua ông giáo, ta đưc biết gia
cnh bun ca lão Hc: v mt sớm, đứa con trai duy nht li phn chí do b ph
tình vì quá nghèo nên b vào Nam làm phu đn đin cao su, bin bit mt năm nay
chng tin tc gì. K vt duy nhất con trai lão đ li là con chó lão vn hay trìu
mến gi là cu Vàng. Mi ln nh con, lão li ngi nói chuyn vi nó cho khuây
kha. thế, th nói nó mt người bn tri k của lão. Nhưng rồi, cảnh đói
kém ba vây. Mt trn m đã làm cho s tin tích cóp ca lão cn dn. Còn mnh
ờn nhưng lão không th bán được lão muốn để dành nó cho con trai. vy,
sau nhiu lần đnh bán con Vàng, ln này lão dt khoát chia tay . Lão không
mun tiêu phm vào những đng tin ít i mà lão đ dành cho con trai.
Cnh lão bán cu Vàng tht t xa. C đời lão chưa m la mt ai. Vy mà ln
này lão lại đi la mt con chó điều này làm lão đau ng tội li: "Lão c làm
ra v vui vẻ. Nhưng trông lão ời như mếu và đôi mắt lão ng ậng nước... Mt lão
đột nhiên co m li. Nhng vết nhăn xô lại vi nhau, ép cho nước mt chy ra.
Cái đu lão ngoo v mt bên cái ming m mém ca lão mếu như con nít.
Lão hu hu khóc..."
Lão tìm đến ông giáo đ giãi bày ng mình. Lão mun nh ông giáo trông coi h
lão cái vườn đến khi con trai lão tr v. Rồi lão cũng nh ông giáo lo liu ma chay
cho mình nếu sau này già yếu. Những suy nghĩ, tính toán của lão thật đơn gin,
thật thà. Nhưng mọi th đều được lão sp xếp mt cách cn thn, chi tiết. Lão va
lo cho con trai mình, ri lại lo đến cái chết ca mình m ảnh hưởng ti làng m.
Điều này như mt d báo s mt biến c ln xảy đến vi lão.
T ngày bán cậu Vàng, ng t khi nói chuyn, nh cy ông giáo xong, nếp
sng sinh hot của lão cũng s thay đi: "Lão Hc ch ăn khoai. Rồi thì khoai
cũng hết. Bắt đu t đy, lão chế đưc món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chui,
m thì lão ăn sung luc, m thì rau má, vi thnh thong mt vài c ráy hay ba
trai, ba c." Mc dù vẫn còn ba mươi đng bạc đó, nhưng lão không mun là nh
ng ti cái "gia tài" ca con. Xut phát t tình thương của một người cha đã
khiến cho lão phi chu cnh sống đói kh. Nhưng không phi vì thế lão ny
sinh thói hư tt xu. Lão vn gi cho mình nếp sng "đói cho sạch, rách cho thơm".
Cuc sng bế tắc đã đy lão Hạc tìm đến cái chết như một s giải thoát. Trước hết,
lão sang nBinh xin ít b chó. Biết tin, ông giáo thấy cùng đau ng: "Hi
ơi lão Hạc! Con người đáng kính y bây gi cũng theo gót Binh Tư đ có ăn ư?" Ai
cũng cứ ng rng rồi đây, lão s sa chân vào con đường ti li khi nghe nhng li
Binh k li: "Lão làm b đấy! Tht ra thì lão ch tm ngm thế, nhưng cũng ra
phết ch ch vừa đâu. Lão va xin tôi mt ít b chó. Lão bo con chó nnào
c đến vườn nhà lão...
Lão định cho xơi một ba. Nếu trúng, lão vi tôi uống rượu." Nhưng rồi cái
chết của lão đã làm đo ln suy nghĩ của tt c mọi ni: "Lão Hạc đang vt vã
trên giường, đầu tóc rũ rượi, qun áo xc xch, hai mt long sòng sc. Lão tru tréo,
bt p sùi ra, khắp người chc chc li b git mnh mt cái, nảy lên. Hai người
đàn ông lực lưỡng phải đè lên ni lão. Lão vật đến hai gi đng h ri mi
chết. Cái chết tht là d di. Chng ai hiu lão chết bệnh gì đau đn bt
thình lình như vy. Ch có tôi với Binh Tư là hiu." Lão vn gi cho bn thân mình
trong sạch, nhưng cái chết ca lão thật đau đn, bi thm.
"Lão Hc" đã cho chúng ta thu hiểu được hoàn cnh kh đau, khn cùng, bế tc
của người ng dân nghèo tâm hn cao đp trong chế đ thc dân phong kiến
tàn ác đương thời. Đồng thi, truyện cũng li nhc nh cho chúng ta phi biết
quan tâm, giúp đ những con người có s phận éo le hơn mình.
Phân tích truyn ngn Lão Hc - Mu 9
Nam Cao được đánh giá là nhà văn hin thc xut sắc trước cách mng, là bc thy
ca truyn ngn Vit Nam. Hình nh nông thôn n lầy nước đọng, tiêu điều
xác đói kh hiện lên thường xuyên trong tác phm của ông nmột ni ám nh
không nguôi. Mt trong nhng tác phm th hiện cái nhìn nhân đo sâu sc ca
Nam Cao là truyn ngn Lão Hc.
Nhân vật đng ra k chuyện là ông giáo, ni hàng m thân thiết ca lão Hc.
Nh vy câu chuyn tr nên gần gũi, chân thc. Tác gi dn dắt người đc vào
cuc, cùng sng, cùng chia s vui bun vi nhân vật. Do đó nời đc cm
giác như mình đang đưc chng kiến tn mt din biến ca câu chuyn bi thm
này.
Tác gi kết hp gia k tả, đan xen hin ti và qkh, hin thc tr tình.
Ging k biến đi linh hot tùy theo tình hung. Cm xúc phn ln được th hin
gián tiếp sut chiu dài truyện nhưng cũng c bc l trc tiếp qua nhng u
cảm thán đy xót xa, ái ngi, n cha triết lí sâu sc v cuc sng, v thân phn con
ngưi.
Gia cnh ca lão Hc thật đáng bun, v lão mt sớm, đa con trai duy nht li
phn chí b vào Nam m phu đn đin cao su, bin bit mt năm nay chng tin
tc gì. Lão Hc dn tt c tình yêu thương cho con. o s sung sướng biết bao
nếu con trai lão được hạnh pc, nhưng con trai lão đã b ph tình ch vì quá nghèo.
Thương con, lão thu hiu ni đau đn của con. Con trai lão đã vâng li b, không
bán mảnh vườn để ly tiền cưới v chp nhn s tan v ca tình yêu. Càng
thương con, lão càng t xa đau đn đã không giúp được con tha nguyn. Lão
Hc mi mòn ch con v, ngày ngày quanh quẩn làm thuê, làm mướn kiếm ăn.
đói, lão nht quyết gi mảnh vườn và không ăn vào s tin dành dm cho con. Sau
trn m kéo dài, lão thấy người yếu đi ghê lm. s tin tích cóp bấy lâu nay đã cạn
kit. Ri trn bão vừa qua đã phá sạch sành sanh hoa màu trong vưn. Giá go thì
c cao mãi lên lão Hc thì chẳng n được ai thuê mướn. Thế lão lng l đi
đến mt quyết đnh quan trng. Sau khi dn lòng bán con chó Vàng thân thiết, lão
sang nh cy ông giáo mt vic…
Trước tiên, lão k chuyn bán con chó Vàng cho ông giáo nghe. Lão Hc rt quý
con chó vì nó là k vt duy nht ca đứa con trai. Lão trìu mến gi nó cu Vàng
cho nó ăn cơm bng chiếc bát lành ln. Vi lão, con Vàng bu bn sm hôm.
Mi ln nh con trai, lão li thì thm trò chuyn vi cho khuây kha. gn bó
như thế nên đã mấy lần đnh bán con Vàng lão vn không bán ni.
Cui cùng, cũng thương con lão phi dt khoát chia tay vi nó. Lão nghèo
túng quá! Đến Cơm cũng chẳng ăn, lấy đ nuôi cu Vàng? o không
mun tiêu phm vào những đng tin ít i mà lão đ dành cho con trai t vic bán
hoa lợi thu được t mnh vườn ba sào bé tí.
Lão Hc tính đi tính lại đành bán cậu Vàng đ khi tn kém, nhưng lòng lão thì
đau đớn, xót xa. Lão đã k cho ông giáo nghe cnh bán cu Vàng vi ni xúc đng
cực độ. Lão đau kh, dn vt, c t trách mình vì cm thy nh li: gbng
này tuổi đu rồi còn đánh la mt con chó. C đời, ông lão nhân hậu này nào đã n
lừa ai! Thái đ c ch ca lão Hc mới đáng thương làm sao: Lão c làm ra v
vui vẻ. Nhưng trông lão cười nmếu và đôi mt lão ng ậng nước… Mặt lão đt
nhiên co m li. Nhng vết nhăn li vi nhau, ép cho c mt chy ra. i
đầu lão ngoo v mt bên và cái ming móm m ca lão mếu như con nít. Lão hu
hu khóc… Nỗi kh tâm ca lão c chng chất mãi. Trước đây, chỉ nghèo lão
không cưới được v cho con thì bây gi cũng chỉ nghèo lão phi buc lòng
cư xử kng đàng hoàng vi mt con chó.
Nhưng không ch có vy. Qua tng trang truyn, chúng ta n hiu thêm v mt
lão Hc đôn hu, cht phác. Suốt đi lão sng quanh quẩn trong y tre làng nên
những suy nghĩ, tính toán ca lão rất đơn gin, thật thà. Lão tìm đến ông giáo đ
chia sm s và quan trng hơn là tìm một ch da tinh thn. Nghe nhng li tâm
s ca lão Hc, kng ai th kìm nổi xót thương, thông cm khâm phc mt
con người bt hạnh vì nghèo đói nhưng không h nghĩ đến mình dn tt c tình
yêu thương cho đa con trai duy nht.
Lão đã chun b lưỡng mi việc. Trước khi chết, lão nh ông giáo gi h mnh
n và gửi ông giáo ba mươi đng đ lo chôn ct. Lão không mun làng xóm
phi tn kém lão. Rt th vì tốn kém người ta li chng oán trách lão sao?
Không đ phin lụy đến mi người, đó cũng là một cách gi gìn phm giá. Ông lão
b ngoài có v gàn d nhưng bên trong li có phm chất đáng q nhường nào!
Xét v tui tác, lão Hc còn th sng lâu, nhưng lão ch còn vn vẹn ba mươi
đồng bc, nếu tiếp tc sng thì phải ăn vào chút vn liếng ít i, cho nên lão đã chn
cái chết để bảo toàn n nvà mảnh vườn cho con trai. Cái chết t nguyn này
xut phát t lòng thương con âm thm mà sâu nng, t lòng t trọng đáng kính ca
lão Hc. Cái chết bi thm ca lão Hc là biu hin cao nht của đc hi sinh. Chính
thương con, mun gi cho con ct vn giúp thoát cảnh đói nghèo lão
Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó một s la chn t nguyn và d di, đy bi
kch. Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đy lão Hạc đến vic coi i chết như một
hành động gii thoát. Chi tiết này phn ánh s phn bi thm, bế tc ca nông dân
nghèo trong xã hi thc dân phong kiến đy áp bc bt công..
Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được ni kh tâm, bt hạnh vì nghèo đói
cùng nhng v đẹp cao quý trong tâm hn người nông dân Việt Nam trước Cách
mng tháng Tám. T nhng trang ch ca Nam Cao, hình nh lão Hc luôn nhc
nh chúng ta nh đến những con người nghèo kh trong sch vi mt tình cm
t thương và trân trng.
Phân tích truyn ngn Lão Hc - Mu 10
Nhn xét v ch viết ca Nam Cao trong nhng truyn ngắn, giáo Minh
Đức viết: "Viết v nhng nhân vt này, ni bút Nam Cao không lnh lùng khách
quan mà tha thiết gn bó; kng châm biếm, ma mai mà chân thành, xúc đng.
Tác gi xem mình cũng là ngưi trong cuc".
Nhn xét v ch viết ca Nam Cao trong nhng truyn ngn v những ni nông
dân tt cùng thng kh đau thương, giáo Minh Đc viết: "Viết v nhng
nhân vt này, ni bút Nam Cao không lnh lùng khách quan tha thiết gn ;
không châm biếm, mỉa mai chân thành, c đng. Tác gi xem mình cũng
ngưi trong cuc". Trong s nhng tp truyn ngn ca Nam Cao, truyn Lão Hc
là một điển hình v bút pháp như vy ca tác gi viết v những người nông dân đau
kh và lm than hn.
Viết v lão Hc nhân vt chính trong truyn, một người nông dân tt cùng nghèo
kh và đau thương ngòi bút của Nam Cao đã bc l mt tình cm tha thiết gn.
Khi chưa hiu tâm tình ca lão Hc thì giọng điu của ông giáo dưới ni t
của nvăn tưởng chng vn ch là viết v mt loi Chí Phèo, Th N, Lang Rn
nào đó: "Tôi nghe câu ấy đã nhàm rồi… Lão i i đ đấy thôi… Làm quái
mt con chó lão v băn khoăn qthế". Đôi lúc, ông còn bộc l s t tôn
mình, coi thường người nghèo kh: "Lão quý con c vàng ca lão đã thấm vào
đâu so với tôi quý năm quyn sách ca tôi". Mt s lnh lùng khách quan: i
"dửng dưng" nhìn lão đ ri mộng tưởng v mt i thời "say ", đẹp đẽ, chăm
ch và đầy "cao vng" ca riêng mình.
Ta bắt đầu cm thy một bóng dáng đơn điu ca làng quê ông giáo Th trong
truyn Sống mòn: con người lnh nht, bi móc nhau… Nhưng tác gi kng dng
li đó, ông đưa nhng trang viết v tình cm của ông giáo đi vi lão Hc tiến
trin mt ch chm rãi ln theo nhng li k ca ông lão, khiến người đc ngày
càng thy s rung động, sâu xa ca cõi lòngc giả: Người con trai lão tht tình, b
đi phu cao su, đ lại cho người cha vài đng bạc để "ăn quà", mt con chó và mnh
n nho nh, biệt ch, đ cho lão c ngóng trông, dành dm, cht chiu mà nào
biết bao gi nó v! V mt, con bit xứ, lão đơn gia tui già và cái chết đang
dần đến. Ngòi t của nvăn lại bùi ngùi, xúc đng: "Già rồi ngày cũng n
đêm, chỉ thui thi mt mình thì ai ch phi bun". vy "nhng c bun,
con chó làm bạn thì cũng đ bn mt chút", nhắc đến con "lão rân rấn nước
mắt". Đến đây thì ông giáo đã tht lên: "Bây gi thì tôi không t xa năm quyn
sách của tôi quá như trưc na".
Trước những đe da rình rp, nhng mt mát chng chéo lên nhau, ông giáo đành
an i lão Hc ta nghe thy biết bao đau t, thương cm: "Lão Hc ơi ! ta
quyn gi cho ta một đâu?". Thì ra tác gi đâu có th ơ, ông thu hiu con
ngưi tt đp y, mi li k như đượm nỗi c động: Thương con, lão không mun
bán đi con chó k vt của con. Nhưng ni nó thì tn o không mun phi
tiêu vào tiền lão đã dành dm cho con. Nhưng cái nghèo kh c đến: "làng mt vé
si", "Lão Hc kng việc"… S điêu đng c dn dập đến. Ngòi bút nvăn
tr nên t xa cho lão Hạc. Trước cảnh lão khóc vì đ con cb bt, ngòi bút
Nam Cao bỗng như trào lên nước mt. Ông giáo hi như đ che giu nỗi đau: "Thế
cho bt à", ri đau đn và ph nhn, ông kết lun: "Kiếp ai cũng thế thôi, c !",
đều kh, đều cc, kiếp người không khác kiếp con chó. S phn mt con chó
chm dt bng mt cái chết bi thảm thì con người ng không hơn, n d di gp
trăm ln.
Nhà văn cảm thông tha thiết vi "những người cùng kh y", mun san s ni cc
nhc vi h, bi "mt chút âu yếm, một chút tình thương cũng đ đ nâng đỡ h"
(Thạch Lam). Nhưng Nam Cao còn sâu sc hơn, ông gin cuộc đời gian ác đã cưp
đi bao người lương thiện như lão Hc, nên ông cm bút kc cho những con ngưi
đang qun qui sng và qun qui chết đó.
Phân tích truyn ngn Lão Hc - Mu 11
Nam Cao là mt nhà văn hin thc xut sc. Hai mảng đề tài chính trong các tác
phm ca ông người nông dân và tri thc nghèo. Mt trong nhng tác phm tiêu
biu viết v ngưi nông dân là truyn ngn Lão Hc.
“Lão Hạcđược đăng báo lần đầu năm 1943. Truyn k v Lão Hc một người
ng dân nghèo kh. Lão mt đứa con trai nhưng vì nhà nghèo, không tin
ly v nên b đi đồn điền cao su. C gia tài ca lão ch mảnh vườn vn ca
hi môn ca con trai con chó Vàng sng ng đ bu bn. Sau trn m thp t
nhất sinh, nlão không còn đ ăn. Lão đành phải bán con Vàng đi. S tin bán
chó và bán mảnh vườn, lão đem gi ông giáo và nh khi nào anh con trai v s trao
li cho anh. Còn bản thân thì đến xin Binh Tư mt ít b chó để t t.
Nhân vt cnh trong truyn lão Hc, một người nông dân nghèo kh nhưng
sng tình cảm. Điều này được th hin qua s gắn bó, đau t, tiếc thương của
lão khi phải bán đi cậu Vàng. Bên cạnh đó, lão n một người cha yêu thương
con hết mực, luôn ng cho condành dm cho con. Không ch vậy, Lão cũng là
một người ng t trng. sng trong hoàn cnh thiếu thốn, k khăn nhưng
không những suy ng, vic làm trái vi lương m và cũng không mun nh
ng, phiền hà đến bt c ai.
Nhân vt ông giáo xut hin vi vai trò người k chuyện, xưng “tôi”. Nhân vt này
hàng xóm ng th coi người bn tâm giao ca lão Hc. Ông giáo ni
đưc lão Hc tin ng. Lão k cho ông giáo nghe v vic bán con chó Vàng, lão
nh ông giáo gi s tin bán mảnh vườn và con chó đ khi con trai ca lão tr
v s giao li. Không ch vy, qua nhân vật ông giáo, Nam Cao ng gi gm mt
s triết lí v cuc sống, tư tưởng sâu sc.
Bên cnh nhng thành công v ni dung, truyn ngn còn gây ấn tượng với người
đọc bi ngh thut tác gi s dụng cùng đc sắc. Đầu tiên phi k đến ngh
thut xây dng và khc ha nhân vt vô cùng tiêu biểu, đm nét. Ly hình nh mt
con người để nói đến mt b phận người. Tiếp đến là ngh thut miêu t chân dung
nhân vt cùng tài tình. S kết hp giữa phương thc t s và tr tình ng to
nên s đa chiều ca câu chuyn. lúc ging văn t s mu mc, lúc li
khiến người đọc rưng rưng xúc đng vi nhng xúc cm do tác gi th hin.
Lão Hc ca nhà văn Nam Cao xứng đáng là một tác phm hay. Truyn không ch
thành công bi nhng giá tr v ni dung mà còn c bi giá tr v ngh thut.
| 1/35

Preview text:

Văn mẫu lớp 8
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc
Dàn ý phân tích truyện ngắn Lão Hạc Dàn ý số 1 I. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao/ II. Thân bài
1. Câu chuyện Lão Hạc bán chó và sự day dứt của lão
a. Hoàn cảnh của lão Hạc:
- Một ông nông dân già yếu, không nơi nương tựa: sống một mình, tự kiếm ăn nuôi
thân, con trai bỏ đi đồn điền cao su.
- Sau một trận ốm, trong nhà không còn gì để ăn, lão quyết định bán cậu Vàng - kỉ
vật mà anh con trai để lại, không chỉ là một con vật mà còn giống như một người bạn.
=> Hoàn cảnh vô cùng khó khăn, khổ cực.
b. Diễn biến tâm trạng của Lão Hạc xoay quanh việc bán cậu Vàng:
- Tình cảm đối với cậu Vàng:
⚫ Cho ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì ăn cũng gắp cho nó cùng ăn.
⚫ Khi rảnh rỗi còn đem nó ra tẳm rửa, bắt giận.
⚫ Mỗi khi lão uống rượu có đồ nhắm ngon lại gắp cho nó một miếng như người
ta gắp thức ăn cho con cháu trong nhà.
⚫ Thường xuyên tâm sự với nó, vỗ về ôm ấp.
=> Đối xử giống như với một con người. Từ tượng hình, từ tượng thanh
- Quyết định bán cậu Vàng: vô cùng khó khăn, trăn trở giống như phải quyết định
một việc trọng đại trong đời.
- Diễn biến tâm trạng sau khi bán chó: Sáng hôm sau, lão Hạc sang nhà ông giáo
kể lại toàn bộ sự việc.
⚫ Cố làm ra vẻ vui mừng: “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ”, nhưng thực ra lão
cười như mếu và đôi mắt ầng ậc nước.
⚫ “Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra” ⚫ Lão hu hu khóc…
⚫ Tự trách bản thân mình đã già rồi còn đi lừa một con chó: “Khốn nạn... Ông
giáo ơi!... như thế này à?”
⚫ Chua chát bảo với ông giáo: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta phải hóa kiếp cho nó…”
⚫ Lão cười và ho sòng sọc, Lão nói xong lại cười đưa đà… Nụ cười dường như
để nén đi nỗi đau đơn khi mất đi “người bạn” duy nhất.
=> Nam Cao đã khắc họa chân thực nỗi đau khổ, day dứt của Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng.
2. Cái chết đầy bất ngờ của Lão Hạc
- Lão Hạc nhờ cậy ông giáo hai việc:
⚫ Trong nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về sẽ giao lại cho nó.
⚫ Mang hết tiền dành dụm được nhờ ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ
ông giáo và bà con lo liệu ma chay cho mình.
=> Chuẩn bị trước cho cái chết của bản thân. - Diễn biến:
⚫ Lão đến xin Binh Tư một ý bả chó và nói dối rằng dạo này có con chó hay đến
vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó. Nếu được lão sẽ mời hắn uống rượu.
⚫ Nhưng thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử.
- Hình ảnh lão Hạc khi chết đầy ám ảnh: “Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu
tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra,
khắp người lão chốc chốc lại bị giật mạnh một cái. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết.”
=> Cái chết dữ dội, đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện. III. Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Lão Hạc. Dàn ý số 2 I. Mở bài
Giới thiệu về tác phẩm Lão Hạc của nhà văn Nam Cao. II. Thân bài
1. Nhân vật lão Hạc a. Tình cảnh Lão Hạc
⚫ Một lão nông già yếu, cô đơn
⚫ Vì nghèo, lão dự định bán đi cậu Vàng – kỉ vật của anh con trai, người bạn thân
thiết của bản thân mình và chọn kết thúc cuộc đời.
b. Diễn biến tâm trạng lão Hạc quanh việc bán cậu Vàng
- Cậu Vàng là con chó của lão Hạc rất yêu quý:
⚫ Cho ăn trong một bát lớn như của nhà giàu; ăn gì cũng gắp cho nó cùng ăn.
⚫ Rỗi rãi thì đem nó ra ao tắm, bắt rận cho nó.
⚫ Mỗi khi uống rượu lão nhắm vài miếng thì lại gắp cho nó một miếng như người
ta gắp thức ăn cho cháu.
⚫ Thường xuyên tâm sự với nó về bố nó, rồi thủ thỉ, âu yếm.
=> Quyết định bán đi con chó Vàng là một việc làm rất khó khăn, một việc hệ trọng.
- Tâm trạng, biểu hiện khi bán chó:
⚫ Lão cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước
⚫ Mặt lão đột nhiên co rúm lại, vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra,
⚫ Đầu ngoẹo về một bên, miệng móm mém mếu như con nít ⚫ Lão hu hu khóc.
=> Lão Hạc là một người nông dân sống có tình có nghĩa, thủy chung, rất mực trung thực.
c. Cái chết của lão Hạc
- Lão nhờ ông giáo hai việc:
⚫ Trông nom hộ mảnh vườn, khi nào con trai lão về thì giao lại cho nó
⚫ Mang hết tiền dành dụm nhờ ông giáo và bà con chòm xóm làm ma cho nếu lão chết đi.
- Nguyên nhân: ý thức sâu sắc, rõ ràng hoàn cảnh cùng đường, không có lối thoát của mình.
- Mục đích: bảo toàn tài sản cho con và không muốn phiền hà đến bà con hàng xóm.
=> Là người có ý thức cao về lẽ sống, trọng danh dự làm người hơn cả sự sống;
một người cha hết lòng thương con, một người nông dân trung thực, thật thà, giàu lòng tự trọng.
2. Nhân vật ông giáo
⚫ Có cùng nỗi khổ của sự nghèo túng; có cùng nỗi đau phải bán đi những thứ mà mình yêu quý nhất
⚫ Thông cảm, thương xót cho hoàn cảnh của lão Hạc, tìm mọi cách an ủi, giúp đỡ lão.
⚫ Ông là người hiểu đời hiểu người, có tấm lòng vị tha cao cả
⚫ Ông giáo là người trí thức chân chính, trọng nhân cách, không mất đi lòng tin
vào những điều tốt đẹp ở con người. III. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Lão Hạc, liên hệ mở rộng.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 1
Nam Cao là một trong những tác gia lớn của nền văn học Việt Nam. Một trong
những tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến truyện ngắn Lão Hạc.
Như nhiều tác phẩm khác của Nam Cao, nhân vật chính trong truyện lúc nào cũng
có một cuộc đời khốn khó, hoặc bất ngờ cái sự khốn khó bỗng đổ ập lên đầu người
vô tội vì nhiều nguyên do khác nhau. Lão Hạc cũng là một kiếp người như thế, đời
một người nông dân thì chẳng bao giờ biết đến cái giàu sang sung sướng, mà chỉ
cốt cố làm, cố ăn sao cho sống hết được cái đời dài đằng đẵng. Lão Hạc cũng có vợ,
nhưng vợ lão mất sớm, chỉ để lại cho lão một thằng con trai, từ ấy trở đi lão cứ ở
vậy làm lụng, bòn vườn nuôi con khôn lớn. Đến khi con lớn rồi thì bậc làm cha
như lão lại phải đau đầu chuyện cưới vợ cho con, thế nhưng khốn nỗi nhà lão
nghèo quá, miệng ăn kiếm chưa đủ thì kiếm đâu ra cả trăm bạc nhà gái thách cưới.
Thằng con lão không cưới được vợ đâm ra buồn chán, bất đắc chí, rồi dứt áo ra đi
bỏ vào Nam làm đồn điền cao su với hy vọng kiếm được tiền. Lão Hạc thấy con đi
thì cũng xót xa đau đớn lắm, lão chỉ trách tại cái thân mình nghèo rồi hại đến đời
con, để nó phải bỏ xứ mà tha phương cầu thực. Mà những kẻ bỏ quê đi thì cũng có
được sung sướng gì, ai biết được làm đồn điền trong ấy nó có sung sướng gì không,
hay lại bị người ta chèn ép, bóc lột. Thằng con đi chỉ để lại cho lão một con chó
vàng mà lão vẫn thường âu yếm gọi là "cậu Vàng" lão chăm bẵm xem nó như con,
có đồ ngon gì cũng dành phần cho nó, có con chó lão đỡ buồn và vơi đi nỗi nhớ
đứa con trai biết bao nhiêu. Lão Hạc sống lương thiện, chưa từng chôm chỉa của ai
bao giờ, lão bòn vườn, rồi lại đi cày thuê cuốc mướn cho người ta để lấy cái ăn,
còn tiền thu được ở vườn thì lão để dành, đợi con trai về rồi sẽ góp thêm vào kiếm
cho nó một tấm vợ. Nhưng có lẽ rằng hiện thực tàn khốc, và đặc biệt là truyện
ngắn của Nam Cao thì cho dù con người ta có hiền lành, chăm chỉ đến đâu, nhưng
vẫn cứ bị những biến cố khốn nạn vồ lấy dồn dập, ép họ vào đường cùng, vào cái
sự đau đớn, dằn vặt. Lão Hạc đang khỏe bỗng nhiên đổ bệnh, một trận ốm hai
tháng 18 ngày đã tiêu tốn sạch cái mớ tiền lão tích cóp bấy lâu, lại thêm việc không
đi làm thuê được ngày nào khiến lão gần như khánh kiệt. Nhưng trời nào có
thương cho phận lão, việc năm nay vốn đã kém đi nhiều, thế mà bão lại còn quét
một trận qua khu vườn của lão, thành thử ra có bao nhiêu hoa màu thì gãy dập hết,
mất hết. Lão với con chó vàng ngày ăn 3 hào gạo nhưng vẫn cứ đói, thậm chí con
chó còn ăn nhiều hơn cả lão, mà cụ lại không dám cho nó ăn ít đi bởi ăn ít thì "cậu
ấy gầy đi, bán hụt tiền". Mà lão thì lại càng không muốn bán mảnh vườn của con
trai. Lão thương con trai lão, người cha nhân hậu ấy không muốn để cuộc đời gần
tàn của lão liên lụy đến cái đời còn trẻ của con.
Cái đói kém, khốn khổ đã hành hạ người cha già thương con ấy rất lâu, cuối cùng
lão cũng ra một quyết định hệ trọng và đau đớn. Trong buổi nói chuyện với ông
giáo, người rất thân với lão, lão Hạc đã nói trong sự tần ngần và nghiêm túc "Có lẽ
tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ", nhưng ông giáo chẳng lấy làm tin cho lắm, bởi lẽ
trước đây ông lão cũng từng nhiều lần nói vậy nhưng chưa lần nào ông làm thật.
Điều ấy đã chứng tỏ một điều rằng lão Hạc luyến tiếc và yêu thương cậu Vàng lắm,
lão không nỡ bán nó cho người ta giết thịt, bởi nó là kỷ vật là người bạn đã theo
lão suốt 3 năm trời đằng đẵng, bán nó sao đành. Nhưng khốn lắm, trời hành cái
thân lão, khiến lão đói kém quá, mà suy cho cùng lão vẫn phải nghĩ đến con, thế
nên đành tàn nhẫn bán con chó đi sau nhiều lần đắn đo, suy nghĩ. Tội nghiệp cho
một người già đến cuối đời vẫn phải trăn trở nhiều khổ đau như vậy. Ngày bán cậu
Vàng, lão đã vội chạy sang báo với ông giáo, người đàn ông khốn khổ ấy cố làm ra
vẻ vui mừng thế nhưng cái "nụ cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước" kia của lão
thì làm sao giấu nổi những đớn đau, dằn vặt trong lòng lão. Một câu hỏi của ông
giáo "Thế nó cho bắt à?" đã đập tan tất cả phòng tuyến cuối cùng của ông lão tội
nghiệp ""Mặt lão đột nhiên co rúm lại . Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho
nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão
mếu như con nít. Lão hu hu khóc...". Lão Hạc phải gánh chịu nỗi thống khổ của bi
kịch làm người, lão thế mà lại đi lừa một con chó, con chó đã theo lão suốt ba năm
trời trung thành, con chó mà lão yêu quý và coi như con. Ôi chao cái đời lão sao nó
khốn nạn và độc ác quá, lão ăn ở thất đức với cả một con chó không biết gì. Lão
Hạc vẫn ám ảnh và nhớ như in ánh mắt và tiếng kêu ư ử của cậu Vàng lúc bị người
ta bắt đi, lão thấy ân hận và xót xa lắm. Đúng trời bắt tội con người, lão lương
thiện cả đời, chăm chỉ, dè sẻn vì con, vì cháu cuối cùng lại trở thành người tráo trở,
đến con chó chung sống bấy lâu cũng không tha. Thế rồi lão nói hóa kiếp cho con
chó, nhưng trở thành kiếp gì cho sung sướng, chứ kiếp người như lão thì chi bằng
đừng hóa kiếp cho xong. Những nỗi đớn đau và suy nghĩ của lão Hạc khi nhắc về
chuyện bán con chó đã cho ta thấy tấm lòng của một con người hết mực lương
thiện, sống thủy chung, giàu lòng nhân hậu, dẫu chỉ là một con chó nhưng lão cũng
dành cho nó những tình cảm sâu sắc, gắn bó, thấy tội lỗi khi lỡ lừa bán nó. Đối với
con trai lão Hạc lại là một người cha có tấm lòng yêu thương hết mực, con trai đi
làm ăn thì ở nhà lão cũng lo tích cóp dành dụm đợi con về, lão luôn mang trong
mình những mặc cảm là người cha "có tội" khi không lo được cho con cưới vợ, để
con phải tha phương cầu thực. Mà khốn khổ thay cái tội nghèo thì nó đã quanh
quẩn với biết bao kiếp người chứ phải riêng gì lão, ấy thế mà lão vẫn thấy mình có
tội, thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm, chứ lão chẳng bao giờ than trời trách đất.
Vì thế lão lại càng không được ăn phạm vào mảnh vườn mà vợ lão dè sẻn chắt bóp
cả đời để cho con, lão buộc phải bán cậu Vàng, phải lo liệu thật chu toàn để con
lão trở về không phải khổ. Chao ôi tấm lòng cha mẹ đời nào cũng thế, cả đời chỉ vì
con cái, vì con cái mà cắn rơm cắn cỏ, hy sinh, chịu đựng tất cả.
Bán con chó Vàng là một phần trong kế hoạch "chu toàn" của lão Hạc. Phần tiếp
theo nữa ấy là việc nhờ ông giáo chăm nom vườn tược cho con, rồi gửi ông giáo số
tiền ba chục bạc để ông giáo lo liệu hậu sự sau này cho mình. Như vậy đến lúc này
đây ta lại thấy ở lão Hạc không chỉ là tấm lòng yêu thương con tha thiết mà còn là
lòng tự trọng sâu sắc. Lão gửi ông giáo tiền hậu sự, vì không muốn phiền bà con
chòm xóm lúc chết, lão muốn được chết đi trong trong sạch, không nợ nần với ai,
và cũng là để con lão có trở về thì không bị mang tiếng chôn cha nhưng phải phiền
lụy xóm giềng. Lão Hạc ấy đã suy nghĩ thật chu toàn, chuẩn bị sẵn cho chuyến đi
xa của mình, chứ quyết không chịu sống lay lắt, tội lỗi, liên lụy con cái, láng giềng
thêm nữa. Mà quả thực, cái thời buổi đói kém này, có lẽ cái chết là cách giải thoát
duy nhất cho những con người đau yếu, già nua, không nơi nương tựa, chứ sống
ngày nào thì càng khốn khổ thêm ngày đó. Lão Hạc cũng nghĩ vậy. Nhưng nhìn
xem lão đã chọn cái chết thật kinh hoàng, thật ám ảnh. Đến cả chết mà lão cũng
không dám cho mình một cái chết êm ái, lão chọn ăn bả chó, rồi nhận lấy một cái
chết dữ dội, vật vã suốt 2 giờ đồng hồ rồi mới nhắm mắt xuôi tay. Sao Lão Hạc
phải khổ vậy? Đành rằng lão chấp nhận chết để dành lại vườn và tiền cho thằng
con trai của lão, nhưng thêm một thứ nữa có lẽ lão đang tự trừng phạt mình vì
những tội lỗi lão đã gây ra cho cậu Vàng chăng? Hoặc chỉ đơn giản rằng, bả chó
không mất tiền mua, lão xin được của Binh Tư, thôi thì cũng không phạm vào tiền
của con trai, lão chết thế nào chẳng là chết. Thật tội nghiệp và đớn đau cho một kiếp người như thế.
Lão Hạc là một truyện ngắn hay và xuất sắc nhất của Nam Cao giai đoạn trước
cách mạng tháng tám, để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Không chỉ là
cái chết đầy ám ảnh của một kiếp người tàn mà ở đó ta thấy được nhiều vẻ đẹp
đáng quý của một con người giữa cái thời đói khổ khốn nạn. Đó là tấm lòng
thương yêu con sâu sắc, chịu chết để giữ vườn cho con, là lối sống ân nghĩa, thủy
chung với cả con chó, là sự lương thiện, thật thà của một con người dù đói chứ
cũng không bao giờ táy máy của ai, là tấm lòng tự trọng, chu toàn không muốn
phiền lụy đến một ai sau khi chết. Một đời người lắm hy sinh, lắm tốt đẹp như thế
nhưng vẫn phải chịu nhiều nghiệt ngã đớn đau, vì trời bắt tội những kẻ nghèo, thật
khiến người ta không khỏi bùi ngùi, xót xa.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 2
Nam Cao là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc nhất của văn học hiện thực
trước cách mạng. Các tác phẩm của ông sáng tác trên hai đề tài lớn là người trí
thức và người nông dân, nhưng thành công hơn cả là khi ông viết về đề tài người
nông dân. Viết về người nông dân, nhà văn có khuynh hướng khám phá, phát hiện
những vẻ đẹp phẩm chất ẩn sâu trong con người họ. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm như vậy.
Trước hết về nhân vật lão Hạc, lão có số phận bi thảm nhưng ẩn sau đó là những
phẩm chất cao đẹp, đại diện cho người nông dân. Số phận lão Hạc cũng là số phận
chung của biết bao người nông dân trước cách mạng. Vợ lão chết sớm, lão ở vậy
gà trống nuôi con. Đứa con lớn lên vì không lấy được người mình yêu nên phẫn chí
bỏ nhà ra đi. Lão ở vậy một mình với cậu Vàng – kỉ vật người con trai để lại.
Nhưng cuộc đời lão càng ngày lại càng bi đát hơn, lão bị ốm, lão tiêu tốn nhiều tiền
dành dụm cho con, bởi vậy lão đành bán cậu Vàng – người bạn đã ở bên giúp lão
vơi bớt nỗi buồn khi phải xa con. Khi bán cậu Vàng lão vô cùng đau đớn, ân hận.
Nỗi ân hận đó được thể hiện qua đoạn văn miêu tả đặc sắc: cười như mếu, đôi mắt
ầng ậng nước, mặt đột nhiên co rúm lại, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm
mém mếu như con nít, hu hu khóc. Tình cảnh của lão thật đáng thương, lão luôn
sống trong sự day dứt, dằn vặt bản thân.
Nhưng ẩn đằng đó chính là những phẩm chất cao đẹp của người nông dân lương
thiện. Lão là một người giàu tình yêu thương, tình yêu thương đó được thể hiện
ngay cả với một con vật: lão gọi chó là cậu Vàng, gọi nịnh như gọi một đứa trẻ,
ông chăm sóc cậu Vàng chu đáo: cho ăn cơm trong bát như một nhà giàu, không
chỉ vậy ông còn trò chuyện, mắng yêu cậu vàng, cậu Vàng làm lão bớt cô đơn, vơi
đi nỗi nhớ con. Tình cảm sâu nặng của ông với cậu Vàng có nguồn gốc sâu xa từ
tình yêu thương con của lão Hạc, con chó là kỉ vật thiêng liêng mà người con để lại
cho ông trước khi đi đến đồn điền cao su.
Tình phụ tử ở lão Hạc cũng vô cùng sâu sắc, thiêng liêng. Vì cảnh nghèo không
cưới được vợ cho con, lão vô cùng đau đớn, bởi vậy bao nhiêu tiền của làm được
lão đều dành dụm cho con, lão chịu kham khổ, để người đời chửi mắng chứ nhất
định không chịu tiêu lạm vào tiền của con. Sau khi bị bệnh nặng, lão chỉ ăn khoai,
hết khoai lão ăn củ chuối, rồi ăn sung luộc, rau má, củ ráy, nghĩa là vớ được thứ gì
lão ăn thứ ấy,… Và cuối cùng lão lo lắng sẽ tiêu hết tiền cho con nên lão đành
chọn cái chết để bảo toàn tài sản cho con trai mình. Cái chết đau đớn của lão Hạc
xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà lớn lao.
Mặc dù nghèo khổ nhưng lão luôn giữ lòng tự trọng. Lão không nhận bất cứ sự
giúp đỡ của ai, ngay cả khi ông giáo đề nghị giúp, lão từ chối một cách hách dịch,
bởi lão hiểu hoàn cảnh gia đình ông giáo cũng nghèo túng chẳng khác gì gia đình
mình. Lòng tự trọng đó còn được thể hiện trong cách thức tìm đến cái chết của ông.
Trước khi chết ông để lại tiền nhờ bà con lo ma chay, không muốn phiền hà đến
hàng xóm. Lão chết bằng cách ăn bả chó, cái chết đau đớn, dữ dội như một lời tạ
tội với cậu Vàng. Cái chết của lão Hạc chính là sự khẳng định cho sức sống bất
diệt của nhân cách trong ông.
Ngoài nhân vật lão Hạc trong tác phẩm ta còn thấy nổi bật lên hình ảnh của một
ông giáo nghèo, người bạn thân thiết của lão Hạc. Ông giáo có sự đồng cảm sâu
sắc với cảnh ngộ đáng thương của lão Hạc: an ủi, động viên khi lão bán chó, chia
sẻ nỗi buồn với lão Hạc, luôn tìm mọi cách làm cho lão khuây khỏa, lạc quan. Ông
còn là người am hiểu tường tận nhất vẻ đẹp nhân cách của lão hạc: “Không cuộc
đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một
nghĩa khác”. Nghĩa khác ấy chính là con người có nhân cách cao đẹp nhưng lại
phải chết vật vã, đau đớn và cái chết ấy lại càng làm sáng hơn nhân cách cao đẹp của lão.
Nghệ thuật kể chuyện xuất sắc: câu chuyện được kể bởi nhân vật tôi (ông giáo)
người luôn bên cạnh lão Hạc, bởi vậy khiến câu chuyện trở nên chân thực, gần gũi,
ngoài ra khiến mạch kể trở nên tự nhiên, linh hoạt, tạo điều kiện kết hợp tả, kể với
bình luận một cách tự nhiên, sinh động. Giọng văn đa dạng, thay đổi linh hoạt.
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ, hợp lí, những bước ngoặt của
truyện giúp bộc lộ rõ tính cách, phẩm chất của nhân vật. Nghệ thuật xây dựng nhân
vật cũng là một điểm nhấn của văn bản: nhân vật được khắc họa qua diện mạo,
ngôn ngữ đối thoại, diễn biến tâm trạng và qua lời nhận xét, bình luận của các nhân
vật khác, bởi vậy chân dung nhân vật hiện lên chân thực, sinh động hơn.
Với nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, ngôn ngữ giản dị, lôi cuốn Nam Cao đã cho
người đọc thấy chân dung số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng,
họ bị đẩy đến bước đường cùng phải tìm đến cái chết. Nhưng đằng sau đó còn là
chân dung tinh thần đẹp đẽ: giàu tình yêu thương và nhân cách cao đẹp.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 3
Viết về đề tài nông dân trước cách mạng, "'Lão Hạc" là một truyện ngắn độc đáo,
đặc sắc của nhà văn Nam Cao. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động
bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn
của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh
khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ.
Lão Hạc, một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều, một con
chó vàng... đó là tài sản, vốn liếng của lão. Vợ chết đã lâu, cảnh gà trống nuôi con,
lão lần hồi làm thuê kiếm sống. Đứa con trai độc nhất không có trăm bạc để cưới
vợ, cảm thấy "nhục lắm" đã "phẫn chí" đi phu đồn điền cao su Nam Kỳ, biền biệt
năm, sáu năm chưa về. Tuổi già, sống cô quạnh, nỗi bất hạnh ngày thêm chồng
chất. Lão Hạc chỉ còn biết làm bạn với con chó vàng. Lão bị ốm một trận kéo dài 2
tháng 18 ngày. Không một người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo,
một chén thuốc! Tình cảnh ấy thật đáng thương! Tiếp theo một trận bão to, cây trái
hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng mất nghề sợi. Đàn bà con gái
trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn
đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Thất nghiệp! Giá gạo mỗi ngày một cao. Lão và
cậu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào gạo mà vẫn "đói". Bao nhiêu tiền bán hoa lợi
trong vườn dành dụm được bấy lâu nay, lão đã chi tiêu gần hết trong trận ốm!
''Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần (...). Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho
ta một tí gì đâu?". Nhân vật ông giáo đã nghĩ như thế khi nghe lão Hạc nói về ý
định phải bán con chó. Cậu Vàng "ăn khỏe", mỗi ngày cậu ấy ăn "bỏ rẻ cũng mất
hào rưỡi, hai hào". Lão Hạc rất yêu cậu Vàng, nhưng "lấy tiền đâu mà nuôi được?"
Lão Hạc phải bán cậu Vàng cho thằng Xiên, thằng Mục. Bán cậu Vàng xong, lão
Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy mình là một kẻ "tệ lắm", đã
già mà còn "đánh lừa một con chó". Đói khổ, cô đơn ngày một thêm nặng nề lão
Hạc chỉ ăn khoai, ăn củ chuối, ăn sung luộc, ăn rau má, thỉnh thoảng một vài củ ráy,
hay bữa trai bữa ốc. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo một cách "gần như là
hách dịch". Lão xem ông giáo là chỗ dựa tinh thần của lão bấy lâu nay. Lão Hạc đã
ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn thê thảm: đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc,
tru tréo, bọt mép sùi ra vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết! Cái chết thật là dữ dội!
Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương. Với chủ
nghĩa nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những
con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thảm. Chí Phèo tự sát bằng mũi
dao, Lang Rận thắt cổ chết... Và lão Hạc đã quyên sinh bằng cái bả chó! Lão Hạc
đã từng hỏi ông giáo: ''... nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho
thật sướng?". Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một kiếp người.
Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành, nhân hậu. Lão rất yêu con. Biết con
buồn vì không có tiền để cưới vợ lão thương con lắm.... Lão đau đớn khi con sắp đi
làm phu đồn điền cao su. Lão chỉ biết khóc: "Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó,
người ta đã chụp rồi (...). Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ?".
"Cao su đi dễ khó về" (Ca dao). Con trai lão Hạc đã đi "bằn bặt" năm, sáu năm
chưa về. Hoa lợi trong vườn, bán được bao nhiêu lão dành dụm cho con, hi vọng
khi con trở về "có chút vốn mà làm ăn". Lão tự bảo: "Mảnh vườn là của con ta.
Của mẹ nó tậu thì nó hưởng...". Đói khổ quá, nhưng lão Hạc đã giữ trọn vẹn ba sào
vườn cho con. Lão đã tìm đến cái chết, thà chết chứ không chịu bán đi một sào. Tất
cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kì to lớn!
Lòng nhân hậu của lão Hạc được thể hiện sâu sắc đối với con chó vàng, mà người
con trai để lại. Lão quý nó, đặt tên nó là "cận Vàng". Cho nó ăn cơm trong bát sứ
như nhà giàu. Bắt rận hoặc đem nó ra cầu ao tắm. Lão ăn gì cũng chia cho cậu
Vàng cùng ăn. Lão ngồi uống rượu, cậu Vàng ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng
lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Lão tâm sự với cậu
Vàng như tâm sự với một người thân yêu ruột rà: "Cậu Vàng của ỏng ngoan lắm!
Ông không cho giết... Ông để cậu Vàng ông nuôi...". Có thể nói, cậu Vàng được
lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu; nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh
thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vơi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng.
Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã tỏa sáng tâm hồn và làm ánh lên
bản tính tốt đẹp của ông lão nông đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu
Vàng đi, từ túng quẫn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm thương.
Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng. Trong đói
khổ cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy... ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè,
lão cười hồn hậu và khất "ông giáo cho để khi khác". Ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ,
lão từ chối "một cách gần như hách dịch". Bất đắc đĩ phải bán con chó; bán xong
rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt: "thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh
lừa một con chó". Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai, như một lời
nguyền đinh ninh: "Cái vườn là của con ta (...). của mẹ nó tậu thì nó hưởng". Trước
khi chết, lão gửi lại ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đồng bạc để "lỡ có
chết gọi là của lão có tí chút...", vì lão không muốn làm phiền đến hàng xóm. Nam
Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư, một kẻ "làm nghề ăn trộm" ở phần cuối
truyện, tạo nên một sự đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng
của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng trọng.
Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì
âm thầm, nghèo đói, cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có
bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự
trọng... Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ
được Nam Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng xót thương, thấm đượm một
tinh thần nhân đạo thống thiết.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 4
Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông
dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao
quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn "Lão
Hạc" của nhà văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm - nhân vật
lão Hạc - dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu
thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua
nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.
Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo,
cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những
hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo
không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là
kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ:
cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão
đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu
thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: "Mặt co rúm lại, những
nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái
miệng móm mém mếu như con nít", "lão hu hu khóc".
Ban đầu là "luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai", "khoai cũng hết, lão chế tạo được
món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn
rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc". Rồi đến mức chẳng
còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão
Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết
"nhờ" ăn bả chó tự tử! Cái chết của lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật
phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên. Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng
đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu
khác gì cái chết của một con chó. Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão
không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn
trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn
nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và
cả sự tự trọng cao đẹp của mình.
Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những "Cha con nghĩa
nặng" của Hồ Biểu Chánh, "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng, ngợi ca tình
phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến "Lão Hạc" của Nam Cao. Vì thương con,
lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi,
lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều
"cậu" Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu
quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi
đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai
lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.
Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không
chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để
vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống
làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi!
Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy! Yêu thương những người
thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều
cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay
thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong
"Một bữa no" của Nam Cao..) nhưng lão Hạc thì không.
Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão "từ
chối gần như hách dịch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ
rằng lão xin bả để ăn trộm chó "lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu". Đến lượt
ông giáo cũng nghi ngờ: "con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư
để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn". Nhưng cuối cùng
tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác:
lão có thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của
con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!
Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão
đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được
trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với con chó Vàng tội nghiệp.
Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả
khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục
đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm
phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc! Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng
nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu
tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong
đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà
văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.
Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc. Nam
Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt
Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh
chóng nhất là cái chết nghiệt ngã. Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân
trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào
đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự
trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có
thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc,
lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.
Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiêm nghiệm:
"Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn". Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao
quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm
cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô
cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà
văn còn nhận định người nông dân "như những con lợn không tư tưởng". Và bởi
thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!
Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng
quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về
tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã
khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 5
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 - 1945. Qua
nhiều tác phẩm, tác giả đã vẽ nên khung cảnh tiêu điều, xơ xác của nông thôn Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám. Sự đói khổ ám ảnh nhà văn bởi nó ảnh hưởng
không ít tới nhân cách, nhưng trong cảnh nghèo đói thê thảm, phẩm chất tốt đẹp
của người nông dân vẫn tồn tại và âm thầm tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc thể
hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Trong đó, nhân vật chính là một
nông dân gặp nhiều nỗi bất hạnh vì nghèo đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương
con và có lòng tự trọng.
Vợ mất sớm, lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất. Lão sẽ
sung sướng biết dường nào nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã
bị phụ tình chỉ vì quá nghèo, không đủ tiền cưới vợ. Thương con, lão thấu hiểu nỗi
đau của con khi anh nghe lời cha, không bán mảnh vườn để lấy tiền cưới vợ mà
chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng thương con, lão càng xót xa đau đớn vì
không giúp được con thỏa nguyện, đến nỗi phẫn chí bỏ nhà đi phu đồn điền đất đỏ
mãi tận Nam Kì. Mỗi khi nhắc đến con, lão Hạc lại rơi nước mắt. Lão Hạc rất quý
con chó vì nó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai. Lão trìu mến gọi là cậu Vàng và
cho nó ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Suốt ngày, lão thầm thì to nhỏ với con
Vàng. Với lão, con Vàng là hình bóng của đứa con trai yêu quý, là người bạn chia
sẻ cô đơn với lão. Vì thế nên bao lần định bán con Vàng mà lão vẫn không bán nổi.
Nhưng nếu vì nhớ con mà lão Hạc không muốn bán cậu Vàng thì cũng chính vì
thương con mà lão phải dứt khoát chia tay với nó. Lão nghèo túng quá! Lão đã tính
chi li mỗi ngày cậu ấy ăn thế bỏ rẻ cũng mất hai hào đấy. Cứ mãi thế này thì tôi lấy
tiền đâu mà nuôi được... Thôi bán phắt đi, đỡ đồng nào hay đồng ấy. Bây giờ, tiêu
một xu cũng là tiêu vào tiền của con. Tiêu lắm chỉ chết nó! Thế là vì lo tích cóp,
giữ gìn cho con trai chút vốn mà lão Hạc đành chia tay với con chó yêu quý. Đã
quyết như thế nhưng lão vẫn đau đớn, xót xa. Lão kể cho ông giáo nghe cảnh bán
cậu Vàng với nỗi xúc động cực độ. Lão đau khổ dằn vặt vì cảm thấy mình đã đánh
lừa một con chó. Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi lên. Trước đây, lão dằn
vặt mãi về chuyện vì nghèo mà không cưới được vợ cho con, thì bây giờ cũng chỉ
vì nghèo mà lão thêm day dứt là đã cư xử không đàng hoàng với một con chó. Lão
cố chịu đựng những nỗi đau đớn ấy cũng chỉ nhằm một mục đích là giữ gìn chút vốn cho con.
Biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con chính là cái chết của lão. Ông lão nông
dân nghèo khổ ấy đã tính toán mọi đường: “Bây giờ lão chẳng làm gì được nữa...
Cái vườn này là của mẹ nó chắt chiu dành dụm cho nó, ta không được ăn vào của
nó... Ta không thể bán vườn để ăn…”. Chính vì thương con, muốn giữ cho con
chút vốn giúp nó thoát khỏi cảnh nghèo mà lão Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó
là một sự chọn lựa tự nguyện và dữ dội. Nghe những lời tâm sự của lão Hạc với
ông giáo, không ai có thể kìm nổi lòng xót thương, thông cảm và khâm phục. Một
con người vì nghèo đói mà bất hạnh đến thế là cùng! Một người cha thương con đến thế là cùng!
Không chỉ có vậy, qua từng trang truyện, chúng ta còn thấy lão Hạc là người đôn
hậu, chất phác. Suốt đời, lão sống quanh quẩn trong lũy tre làng. Trong làng chỉ có
ông giáo là người có học nên lão tìm đến ông giáo để chia sẻ tâm sự. Lời lẽ của lão
Hạc đối với ông giáo lúc nào cũng lễ phép và cung kính. Đó là cách bày tỏ thái độ
kính trọng người hiểu biết, nhiều chữ của một lão nông. Cảnh ngộ lão Hạc đã đến
lúc túng quẫn nhưng lão tự lo liệu, xoay xở, cố giữ nếp sống trong sạch, tránh xa
lối đói ăn vụng túng làm càn. Thậm chí, lão kiên quyết từ chối sự giúp đỡ chỉ vì lòng thương hại.
Lão đã chuẩn bị kĩ lưỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo viết văn tự để
giữ hộ con trai mình mảnh vườn và gửi ông giáo 30 đồng để lo chôn cất. Lão
không muốn mọi người phải tốn kém vì lão. Rất có thể vì tốn kém mà người ta lại
chẳng oán trách lão sao? Không phiền lụy đến mọi người, đó cũng là cách để giữ
gìn phẩm giá. Thì ra ông lão có vẻ ngoài gàn dở ấy lại có phẩm chất đáng quý biết nhường nào!
Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì nghèo đói
cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách
mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh lão Hạc luôn nhắc
chúng ta nhớ đến những con người nghèo khó mà trong sạch với một tình cảm trân trọng và yêu quý.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 6
Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên là một trong những nhân vật "để đời" của
Nam Cao. Lão Hạc, một nông dân nghèo khổ, cùng quẫn, nhưng không bị biến
chất như Chí Phèo, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng. Lão
sống một thân một mình trong cô đơn, vất vả. Lão chỉ có đứa con trai duy nhất để
nương tựa tuổi già thì anh ta lại phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cao su- "cao su đi dễ
khó về". Lão Hạc đành thui thủi làm thuê, làm mướn kiếm ăn, đồng thời cố nhặt nhạnh, dành dụm cho con.
Nhưng một trận ốm đã làm lão trở nên tay trắng. Sức yếu dần "những công việc
nặng không làm được nữa", việc nhẹ thì "đàn bà tranh hết". Lão Hạc không có việc.
Rồi lại bão. Hoa màu trên mảnh vườn bị phá sạch sành sanh. Gạo cứ kém dần.
"Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo mà gia sự còn đói gieo đói dắt.
Cuối cùng lão phải ăn khoai. Khoai cũng hết. Bắt đầu từ đây, lão chế tạo được món
gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau
má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.
Thực ra tình cảnh lão Hạc đã làm gì bế tắc đến thế. Lão còn mảnh vườn đó, con
chó vàng đó, có thể bán đi mà tiêu. Nhưng lão sống vì con chứ đâu vì mình. Điều
này mấy ai hiểu cho lão. Người ta chỉ thấy lão lẩm cẩm. Có ông giáo hàng xóm là
người có lòng ái ngại, nhưng vừa bày tỏ với vợ đã bị thị gạt phắt ngay: "Cho lão
chết! Ai bão lão có tiền mà chịu khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Con
mình cũng đói. Còn Binh Tư, một gã lưu manh chuyên đánh bả chó thì lại lấy làm
khoái chí khi thấy lão đến xin mình một ít bả. Hắn tưởng đâu lão Hạc "đói quá hoá
liều" cũng quay sang trộm cắp như hắn. Hắn bĩu môi: "Lão làm bộ đấy! Thật ra thì
lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chẳng vừa đâu". Ngay đến ông giáo
tuy hiểu lão Hạc hơn cả mà cũng đâm ra nghi ngờ.
Người ta chỉ hiểu lão khi lão đã chết rồi. Lão tự tử bằng nắm bả chó của Binh Tư.
Lão chết đi nhưng sẽ còn sống mãi trong lòng người như một tấm gương đạo đức
hiếm có. Hiếm có người cha nào thương con như lão Hạc. Nghèo khó nhưng lúc
nào cũng nghĩ đến bổn phận làm cha, lo làm tròn bổn phận ấy, dẫu có phải chịu
khổ, chịu đói và chết bi thảm. Hình ảnh đứa con trái, nỗi lo chu tất cho con luôn
ám ảnh, dằn vặt tâm trí lão. Hồi anh ta còn ở nhà, lão không cho anh ta bán vườn
để cưới vợ cũng là xuất phát từ sự tính toán điều hơn lẽ thiệt của bậc làm cha. Thực
ra lão dằn lòng lắm. Bởi đạo làm cha phải lo cho con một người vợ, một căn nhà -
một tổ ấm gia đình. Song tình cảnh lão thì lo chưa chu toàn được. Anh con trai
phẫn chí ra đi, ngày về khó hẹn, lão lại đã già.
Đã bao lần, lão ngỏ tâm sự này với ông giáo: tiền hoa lợi trong vườn, tiền bán con
chó vàng, mảnh vườn, lão không dám đụng đến, vì đây là tiền của con, là tiền mà
người làm cha phải để lại cho con. Nếu không, không phải "đạo". Đã bao lần lão
tính tiền bòn vườn sủa con, "không cho bán là ta chỉ có ý giữ cho nó, chứ có phải
giữ để ta ăn đâu!... Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, đến lúc nó về, nếu
nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào cho nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ thì ta
cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn". Lão đã làm y như thế. Thà ăn khoai,
ăn củ chuối, củ ráy chứ lão không ăn vào tiền của con, không chịu bán mảnh vườn của con.
Bao nhiêu tiền nhặt nhạnh được từ mảnh vườn, lão gửi tất cả nhờ ông giáo giữ hộ.
Rồi lão chết để không bao giờ phải đụng đến. ôi, lão Hạc, con người bề ngoài thì
có vẻ tiều tuỵ và gàn dở như vậy mà thật giàu tình nặng nghĩa. Mà đâu chỉ đối với
đứa con. Tấm lòng nhân hậu của lão còn thể hiện ở cái tình rất nặng với con chó
vàng mà lão gọi là "cậu vàng" như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Cứ xem cái
cách lão nựng con chó: "À không! À không! Cậu vàng của ông ngoan lắm! ông
không cho giết... ông để cậu vàng ông nuôi"..., hay cái vẻ mặt vô cùng đau khổ của
lão khi kể cho ông giáo nghe lão đã bán con chó. "Mặt lão tự nhiên co rúm lại.
Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về
một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít", đủ thấy lão thương xót
con chó và cảm thấy mình có tội như thế nào khi phải bán nó đi.
Chân thật, chất phác, đôn hậu, tràn đầy tình thương và trách nhiệm, lão Hạc cũng
thật giàu lòng tự trọng. Đối với ông giáo, người lão tin tưởng và quý trọng đến thế,
lão cũng vẫn giữ ý để khỏi bị coi thường. Lão đói đấy, lão phàn nàn "kiếp người
như lão cũng khổ như kiếp chó" đấy, nhưng khi ông giáo mời lão ăn khoai, uống
nước chè tươi, lão đã từ chối. Lão dứt khoát "từ chối tất cả". Khi ông giáo giấu vợ,
thỉnh thoảng muốn ngấm ngầm giúp đỡ lão một chút gì, lão từ chối "một cách gần
như hách dịch". Rồi lão cứ cố ý xa ông giáo dần dần.
Cuối cùng thì lão Hạc chết. Chủ động tìm đến cái chết, một cái chết bi thảm, khốc
liệt như là cái chết của một con người cao quý. Bởi qua cái chết này, tất cả những
phẩm giá cao đẹp của lão ánh lên, chiếu sáng thăm thẳm vào lòng người. Gần đây
người ta đã dựng phim về các nhân vật của Nam Cao - phim Làng Vũ Đại ngày ấy.
Nhà văn Kim Lân được mời đóng vai lão Hạc. Kim Lân đã nghiền ngẫm kĩ về
nhân vật của mình, ông nói: "Lão Hạc không chỉ là một người nghèo, đó là một
con người có nhân cách, tự trọng và bất khuất".
Chúng ta cũng hoàn toàn đồng ý với Kim Lân. Ta còn thấy rằng những phẩm chất
ấy của lão Hạc đã cho ta những suy nghĩ sâu sắc. Cái chết của lão Hạc đã để lại
cho chúng ta, cùng với nỗi xót thương vô hạn là nhiều bài học quý. Bài học sâu sắc
nhất là trong bất kì thân phận nào, hoàn cảnh nào cũng phải giữ danh hiệu con
người cao quý. Giữa người với người phải có trách nhiệm với nhau hơn, phải hiểu
biết để đánh giá đúng và cảm thông với người khác hơn, phải tin tưởng hơn ở con
người và cuộc đời. Và phải biết căm ghét xã hội bất công, những thế lực độc ác vùi
dập, đày đọa những con người như lão Hạc.
Vợ ông giáo từng nói về lão Hạc: "Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ.
Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!". Nhưng thực ra sống làm người, có những
điều dù khổ, dù phải tự làm khổ mình cũng phải giữ. Chết cũng giữ! Đó là những
điều thuộc về đạo lí, nhân cách làm người như lão Hạc đã giữ.
Vì thế, đã hơn 60 năm (truyện Lão Hạc ra đời năm 1943), lão Hạc vẫn sống cùng
chúng ta,sẽ còn sống cùng chúng ta. Và dẫu cho cuộc đời này còn nhiều nỗi đáng
buồn nhưng có những con người như lão Hạc thì cuộc đời "chưa hẳn đã đáng buồn".
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 7
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc với những sáng tác để lại trong lòng người
đọc nhiều day dứt và ám ảnh. Mỗi câu chuyện của ông đều mang dáng dấp của một
đời người, một kiếp người lầm than trong xã hội. Nam Cao tập trung khai thác số
phận người nông dân trước cách mạng tháng Tám, bế tắc, cùng cực đã khiến cho
cuộc đời họ chìm vào nước mắt. Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những câu
chuyện cảm động về hình ảnh nghèo khó của người nông dân, đồng thời toát lên
được vẻ đẹp tinh thần đáng quý của họ. Đây mới chính là giá trị nhân văn của tác phẩm này.
Nam Cao lấy bối cảnh lịch sử là thời kỳ đất nước đang chìm trong cảnh nước mất,
nhà tan, nhân dân lầm than, đói khổ, xơ xác. Ông đã xây dựng nên nhân vật nông
dân điển hình trong một xã hội điển hình. Qua nhân vật này tác giả muốn lột tả chế
độ thực dân phong kiến và cuộc sống bần hàn của người nông dân. Tác giả lựa
chọn ngôi kể độc đáo, theo ngôi thứ ba, theo lời của ông Giáo, hàng xóm của lão
Hạc. Bơi vậy câu chuyện thêm sinh động, chân thực và mang tính khách quan hơn.
Người đọc có thể quan sát, theo dõi cuộc đời của một con người phải trải qua bao
nhiêu thăng trầm và biến cố.
Những câu văn giản dị cứ thế đi vào long người đọc một cách chân thật và hiền
hòa nhất. Từng mảnh đời cứ chấp chới hiện lên dật dờ, nghèo đói nhưng trong họ
ánh lên sự nhân hậu, vị tha và lòng yêu thương tha thiết. Cuộc đời của lão Hạc thật
là buồn, buồn đến thê thảm. Vợ lão mất sớm, lão ở với đứa con trai. Nhưng từ khi
đứa con trai đi làm điền cao su thì lão không còn biết tin tức gì về con nữa. Lão
thương con, rồi lão thương cho chính cuộc đời của mình chẳng làm được gì cho
con. Lão Hạc là hiện thân của người nông dân hiền lành, lương thiện, chất phác,
chăm chỉ làm ăn. Ai thuê lão làm gì, lão đều làm. Nhưng cuộc đời khắc nghiệt,
cuộc sống khắc nghiệt, sức khỏe của lão yếu đi, lão không muốn cậy nhờ con và hàng xóm.
Túng quẫn, bế tắc, lão đã nghĩ đến việc bán cậu Vàng. Nhưng tình cảm của lão
dành cho cậu Vàng quá thân thiết, nên lão không nở, bao nhiêu lần mà lão không
bán nổi. Sự giằng xé trong tâm hồn đã khiến cho lão ngày càng bệnh tật, ốm đau.
Nhưng rồi vì cơm cũng chẳng có mà ăn, lấy gì nuôi cậu Vàng. Lão không muốn
tiêu vào những đồng tiết tiết kiệm lão dành dụm cho đứa con trai từ việc bán hoa
lợi và thu được từ mảnh vườn ba sào bé tí. Vậy là lão đứt ruột bán cậu vàng, nói
đúng hơn là lão phải lừa để mới có thể bán cậu Vàng.
Cảnh bán chó thực sự là một cảnh tượng xúc động, đầy dằn vặt và đau đớn của lão
Hạc. Lão đã tự thú nhận “già bằng này tuổi đầu còn đi lừa một con chó”. Ông giáo
đã kể lại cảnh tượng đó “Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những vết nhăn xô lại với
nhau, ép cho nước mắt chảy ra ngoài. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng
móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc”. Một đoạn văn tràn đầy tình
cảm, một đoạn văn khiến người đọc không cầm nổi nước mắt.
Một người nông dân chất phác, ngay cả trong việc bán chó cũng vậy. Lão không
muốn cậu Vàng đau lòng, muốn nó ra đi thanh thản nhất, nhưng thực ra lòng lão
đang quá rối bời. Những tâm sự của lão Hạc khiến người đọc xúc động, cảm thông
và rất đỗi khâm phục. Ông dù nghèo nhưng vẫn quyết dành tình cảm cho đứa con
trai duy nhất. Lão Hạc yêu thương con hết mực, quyết định hi sinh vì con. Bởi vậy
lão mới quyết định kết liễu cuộc đời mình để không liên lụy đến con mình. Một
người cha yêu thương con hết mực và là một người suy nghĩ quá thấu đáo, chu
toàn. Lão đã định sẵn cho mình một cái chết thanh thản, nhẹ nhàng nhất. Lão đã
cậy nhờ chuyện ông giáo sau khi chết giao lại mảnh vườn cho con trai và để lại 30 đồng bạc lẻ.
Chi tiết ông Giáo kể với vợ về chuyện lão Hạc thì vợ ông đã nói “Cho lão chết! Ai
bảo có tiền mà chịu khổ! Lão làm khổ lão chứ ai làm lão khổ. Nhà mình sung
sướng gì mà giúp lão. Chính con mình cũng đói". Bất lực ông giáo chỉ biết ngậm
ngùi than thở: "Chao ôi, đối với những người ở xung quanh ta, nếu ta không cố mà
tìm hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi toàn những
cớ để ta tàn nhẫn, không bao giờ thương”. Thực sự đây là một đoạn hội thoại có
giá trị nhân văn sâu sắc, khẳng định một thái độ sống về những con người ở xung
quanh mình. Có lẽ Nam Cao ngầm thương xót cho những mảnh đời bất hạnh, sống
hiền lương nhưng lại bị ruồng bỏ.
Cái chết của lão Hạc là một cái chết đầy bi kịch, thức tỉnh biết bao nhiêu con người.
Cái chết đó đã phản ánh hiện thực xã hội phong kiến nhiều bất công, đã đẩy người
nông dân vào bước đường cùng. Sự bế tắc, túng quẫn đã dẫn đến cái chết bi thảm
đó. Ông giáo đã có suy nghĩ sai lầm thì nghe bảo lão Hạc sang xin bả chó. Nhưng
thực sự là ông đang muốn kết liễu đời mình, không muốn làm gánh nặng cho con trai.
Tại sao lão lại chọn cái chết đau đớn, đầy thương tâm đó. Có lẽ đây là điều mà rất
nhiều người hỏi, nhưng có lẽ có nguyên nhân của nó. Phản ánh sự bế tắc đến cùng
cực xã hội phong kiến, đẩy con người vào chỗ chết. Có lẽ lão Hạc muốn trừng phạt
chính bản thân mình vì đã đi “lừa một con chó”, đồng thời lão muốn yêu thương
đứa con trai đến giây phút cuối cùng. Cái chết đó chỉ ông Giáo và Binh Tư mới hiểu.
Truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao thực sự ám ảnh đến người đọc vì hình ảnh
người nông dân cùng cực trong xã hội phong kiến. Đồng thời khẳng định vẻ đẹp
tinh thần lấp lánh trong con người họ.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 8
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng. Tác phẩm của ông
thường gắn liền với hình ảnh nông thôn đói khổ. Trong hoàn cảnh đó, ông vẫn nhìn
thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nghèo đang âm thầm tỏa
sáng. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm như vậy. Nhân vật chính là một lão
nông nghèo khổ, bất hạnh nhưng vẫn mang những phẩm chất cao quý đáng trân trọng.
Truyện được kể qua lời ông giáo – người hàng xóm thân thiết của lão Hạc – đã tạo
cho câu chuyện thêm phần chân thực, sinh động. Qua ông giáo, ta được biết gia
cảnh buồn của lão Hạc: vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất lại phẫn chí do bị phụ
tình vì quá nghèo nên bỏ vào Nam làm phu đồn điền cao su, biền biệt một năm nay
chẳng tin tức gì. Kỷ vật duy nhất con trai lão để lại là con chó mà lão vẫn hay trìu
mến gọi là cậu Vàng. Mỗi lần nhớ con, lão lại ngồi nói chuyện với nó cho khuây
khỏa. Vì thế, có thể nói nó là một người bạn tri kỉ của lão. Nhưng rồi, cảnh đói
kém bủa vây. Một trận ốm đã làm cho số tiền tích cóp của lão cạn dần. Còn mảnh
vườn nhưng lão không thể bán được vì lão muốn để dành nó cho con trai. Vì vậy,
sau nhiều lần định bán con Vàng, lần này lão dứt khoát chia tay nó. Lão không
muốn tiêu phạm vào những đồng tiền ít ỏi mà lão để dành cho con trai.
Cảnh lão bán cậu Vàng thật xót xa. Cả đời lão chưa dám lừa một ai. Vậy mà lần
này lão lại đi lừa một con chó – điều này làm lão đau lòng và tội lỗi: "Lão cố làm
ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước... Mặt lão
đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra.
Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc..."
Lão tìm đến ông giáo để giãi bày lòng mình. Lão muốn nhờ ông giáo trông coi hộ
lão cái vườn đến khi con trai lão trở về. Rồi lão cũng nhờ ông giáo lo liệu ma chay
cho mình nếu sau này già yếu. Những suy nghĩ, tính toán của lão thật đơn giản,
thật thà. Nhưng mọi thứ đều được lão sắp xếp một cách cẩn thận, chi tiết. Lão vừa
lo cho con trai mình, rồi lại lo đến cái chết của mình làm ảnh hưởng tới làng xóm.
Điều này như một dự báo sẽ có một biến cố lớn xảy đến với lão.
Từ ngày bán cậu Vàng, và cũng từ khi nói chuyện, nhờ cậy ông giáo xong, nếp
sống sinh hoạt của lão cũng có sự thay đổi: "Lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai
cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối,
hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa
trai, bữa ốc." Mặc dù vẫn còn ba mươi đồng bạc đó, nhưng lão không muốn là ảnh
hưởng tới cái "gia tài" của con. Xuất phát từ tình thương của một người cha đã
khiến cho lão phải chịu cảnh sống đói khổ. Nhưng không phải vì thế mà lão nảy
sinh thói hư tật xấu. Lão vẫn giữ cho mình nếp sống "đói cho sạch, rách cho thơm".
Cuộc sống bế tắc đã đẩy lão Hạc tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Trước hết,
lão sang nhà Binh Tư xin ít bả chó. Biết tin, ông giáo thấy vô cùng đau lòng: "Hỡi
ơi lão Hạc! Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư?" Ai
cũng cứ ngỡ rằng rồi đây, lão sẽ sa chân vào con đường tội lỗi khi nghe những lời
Binh Tư kể lại: "Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra
phết chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả chó. Lão bảo có con chó nhà nào
cứ đến vườn nhà lão...
Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu." Nhưng rồi cái
chết của lão đã làm đảo lộn suy nghĩ của tất cả mọi người: "Lão Hạc đang vật vã ở
trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo,
bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người
đàn ông lực lưỡng phải đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới
chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất
thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư là hiểu." Lão vẫn giữ cho bản thân mình
trong sạch, nhưng cái chết của lão thật đau đớn, bi thảm.
"Lão Hạc" đã cho chúng ta thấu hiểu được hoàn cảnh khổ đau, khốn cùng, bế tắc
của người nông dân nghèo có tâm hồn cao đẹp trong chế độ thực dân phong kiến
tàn ác đương thời. Đồng thời, truyện cũng là lời nhắc nhở cho chúng ta phải biết
quan tâm, giúp đỡ những con người có số phận éo le hơn mình.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 9
Nam Cao được đánh giá là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng, là bậc thầy
của truyện ngắn Việt Nam. Hình ảnh nông thôn bùn lầy nước đọng, tiêu điều xơ
xác vì đói khổ hiện lên thường xuyên trong tác phẩm của ông như một nỗi ám ảnh
không nguôi. Một trong những tác phẩm thể hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của
Nam Cao là truyện ngắn Lão Hạc.
Nhân vật đứng ra kể chuyện là ông giáo, người hàng xóm thân thiết của lão Hạc.
Nhờ vậy mà câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực. Tác giả dẫn dắt người đọc vào
cuộc, cùng sống, cùng chia sẻ vui buồn với nhân vật. Do đó mà người đọc có cảm
giác như mình đang được chứng kiến tận mắt diễn biến của câu chuyện bi thảm này.
Tác giả kết hợp giữa kể và tả, đan xen hiện tại và quá khứ, hiện thực và trữ tình.
Giọng kể biến đổi linh hoạt tùy theo tình huống. Cảm xúc phần lớn được thể hiện
gián tiếp suốt chiều dài truyện nhưng cũng có lúc bộc lộ trực tiếp qua những câu
cảm thán đầy xót xa, ái ngại, ẩn chứa triết lí sâu sắc về cuộc sống, về thân phận con người.
Gia cảnh của lão Hạc thật đáng buồn, vợ lão mất sớm, đứa con trai duy nhất lại
phẫn chí bỏ vào Nam làm phu đồn điền cao su, biền biệt một năm nay chẳng tin
tức gì. Lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho con. Lão sẽ sung sướng biết bao
nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã bị phụ tình chỉ vì quá nghèo.
Thương con, lão thấu hiểu nỗi đau đớn của con. Con trai lão đã vâng lời bố, không
bán mảnh vườn để lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng
thương con, lão càng xót xa đau đớn vì đã không giúp được con thỏa nguyện. Lão
Hạc mỏi mòn chờ con về, ngày ngày quanh quẩn làm thuê, làm mướn kiếm ăn. Dù
đói, lão nhất quyết giữ mảnh vườn và không ăn vào số tiền dành dụm cho con. Sau
trận ốm kéo dài, lão thấy người yếu đi ghê lắm. số tiền tích cóp bấy lâu nay đã cạn
kiệt. Rồi trận bão vừa qua đã phá sạch sành sanh hoa màu trong vườn. Giá gạo thì
cứ cao mãi lên mà lão Hạc thì chẳng còn được ai thuê mướn. Thế là lão lặng lẽ đi
đến một quyết định quan trọng. Sau khi dằn lòng bán con chó Vàng thân thiết, lão
sang nhờ cậy ông giáo một việc…
Trước tiên, lão kể chuyện bán con chó Vàng cho ông giáo nghe. Lão Hạc rất quý
con chó vì nó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai. Lão trìu mến gọi nó là cậu Vàng
và cho nó ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Với lão, con Vàng là bầu bạn sớm hôm.
Mỗi lần nhớ con trai, lão lại thì thầm trò chuyện với nó cho khuây khỏa. Vì gắn bó
như thế nên đã mấy lần định bán con Vàng mà lão vẫn không bán nổi.
Cuối cùng, cũng vì thương con mà lão phải dứt khoát chia tay với nó. Lão nghèo
túng quá! Đến Cơm cũng chẳng có mà ăn, lấy gì để nuôi cậu Vàng? Lão không
muốn tiêu phạm vào những đồng tiền ít ỏi mà lão để dành cho con trai từ việc bán
hoa lợi thu được từ mảnh vườn ba sào bé tí.
Lão Hạc tính đi tính lại và đành bán cậu Vàng để khỏi tốn kém, nhưng lòng lão thì
đau đớn, xót xa. Lão đã kể cho ông giáo nghe cảnh bán cậu Vàng với nỗi xúc động
cực độ. Lão đau khổ, dằn vặt, cứ tự trách mình vì cảm thấy mình có lỗi: già bằng
này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Cả đời, ông lão nhân hậu này nào đã nỡ
lừa ai! Thái độ và cử chỉ của lão Hạc mới đáng thương làm sao: Lão cố làm ra vẻ
vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước… Mặt lão đột
nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái
đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu
hu khóc… Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi. Trước đây, chỉ vì nghèo mà lão
không cưới được vợ cho con thì bây giờ cũng chỉ vì nghèo mà lão phải buộc lòng
cư xử không đàng hoàng với một con chó.
Nhưng không chỉ có vậy. Qua từng trang truyện, chúng ta còn hiểu thêm về một
lão Hạc đôn hậu, chất phác. Suốt đời lão sống quanh quẩn trong lũy tre làng nên
những suy nghĩ, tính toán của lão rất đơn giản, thật thà. Lão tìm đến ông giáo để
chia sẻ tâm sự và quan trọng hơn là tìm một chỗ dựa tinh thần. Nghe những lời tâm
sự của lão Hạc, không ai có thể kìm nổi xót thương, thông cảm và khâm phục một
con người bất hạnh vì nghèo đói nhưng không hề nghĩ đến mình mà dồn tất cả tình
yêu thương cho đứa con trai duy nhất.
Lão đã chuẩn bị kĩ lưỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo giữ hộ mảnh
vườn và gửi ông giáo ba mươi đồng để lo chôn cất. Lão không muốn làng xóm
phải tốn kém vì lão. Rất có thể vì tốn kém mà người ta lại chẳng oán trách lão sao?
Không để phiền lụy đến mọi người, đó cũng là một cách giữ gìn phẩm giá. Ông lão
bề ngoài có vẻ gàn dở nhưng bên trong lại có phẩm chất đáng quý nhường nào!
Xét về tuổi tác, lão Hạc còn có thể sống lâu, nhưng lão chỉ còn vẻn vẹn ba mươi
đồng bạc, nếu tiếp tục sống thì phải ăn vào chút vốn liếng ít ỏi, cho nên lão đã chọn
cái chết để bảo toàn căn nhà và mảnh vườn cho con trai. Cái chết tự nguyện này
xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà sâu nặng, từ lòng tự trọng đáng kính của
lão Hạc. Cái chết bi thảm của lão Hạc là biểu hiện cao nhất của đức hi sinh. Chính
vì thương con, muốn giữ cho con chút vốn giúp nó thoát cảnh đói nghèo mà lão
Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó là một sự lựa chọn tự nguyện và dữ dội, đầy bi
kịch. Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão Hạc đến việc coi cái chết như một
hành động giải thoát. Chi tiết này phản ánh số phận bi thảm, bế tắc của nông dân
nghèo trong xã hội thực dân phong kiến đầy áp bức bất công..
Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì nghèo đói
cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách
mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh lão Hạc luôn nhắc
nhở chúng ta nhớ đến những con người nghèo khổ mà trong sạch với một tình cảm
xót thương và trân trọng.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 10
Nhận xét về cách viết của Nam Cao trong những truyện ngắn, giáo sư Hà Minh
Đức viết: "Viết về những nhân vật này, ngòi bút Nam Cao không lạnh lùng khách
quan mà tha thiết gắn bó; không châm biếm, mỉa mai mà chân thành, xúc động.
Tác giả xem mình cũng là người trong cuộc".
Nhận xét về cách viết của Nam Cao trong những truyện ngắn về những người nông
dân tột cùng thống khổ và đau thương, giáo sư Hà Minh Đức viết: "Viết về những
nhân vật này, ngòi bút Nam Cao không lạnh lùng khách quan mà tha thiết gắn bó;
không châm biếm, mỉa mai mà chân thành, xúc động. Tác giả xem mình cũng là
người trong cuộc". Trong số những tập truyện ngắn của Nam Cao, truyện Lão Hạc
là một điển hình về bút pháp như vậy của tác giả viết về những người nông dân đau
khổ và lầm than vô hạn.
Viết về lão Hạc – nhân vật chính trong truyện, một người nông dân tột cùng nghèo
khổ và đau thương – ngòi bút của Nam Cao đã bộc lộ một tình cảm tha thiết gắn bó.
Khi chưa hiểu rõ tâm tình của lão Hạc thì giọng điệu của ông giáo dưới ngòi bút
của nhà văn tưởng chừng vẫn chỉ là viết về một loại Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận
nào đó: "Tôi nghe câu ấy đã nhàm rồi… Lão nói là nói để đấy thôi… Làm quái gì
có một con chó mà lão có vẻ băn khoăn quá thế". Đôi lúc, ông còn bộc lộ sự tự tôn
mình, coi thường người nghèo khổ: "Lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào
đâu so với tôi quý năm quyển sách của tôi". Một sự lạnh lùng khách quan: Tôi
"dửng dưng" nhìn lão để rồi mộng tưởng về một cái thời "say mê", đẹp đẽ, chăm
chỉ và đầy "cao vọng" của riêng mình.
Ta bắt đầu cảm thấy một bóng dáng đơn điệu của làng quê ông giáo Thứ trong
truyện Sống mòn: con người lạnh nhạt, bới móc nhau… Nhưng tác giả không dừng
lại ở đó, ông đưa những trang viết về tình cảm của ông giáo đối với lão Hạc tiến
triển một cách chậm rãi lần theo những lời kể của ông lão, khiến người đọc ngày
càng thấy sự rung động, sâu xa của cõi lòng tác giả: Người con trai lão thất tình, bỏ
đi phu cao su, để lại cho người cha vài đồng bạc để "ăn quà", một con chó và mảnh
vườn nho nhỏ, biệt tích, để cho lão cứ ngóng trông, dành dụm, chắt chiu mà nào
biết bao giờ nó về! Vợ mất, con biệt xứ, lão cô đơn giữa tuổi già và cái chết đang
dần đến. Ngòi bút của nhà văn lại bùi ngùi, xúc động: "Già rồi mà ngày cũng như
đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai mà chả phải buồn". Vì vậy mà "những lúc buồn,
có con chó làm bạn thì cũng đỡ bồn một chút", nhắc đến con "lão rân rấn nước
mắt". Đến đây thì ông giáo đã thốt lên: "Bây giờ thì tôi không xót xa năm quyển
sách của tôi quá như trước nữa".
Trước những đe dọa rình rập, những mất mát chồng chéo lên nhau, ông giáo đành
an ủi lão Hạc mà ta nghe thấy biết bao đau xót, thương cảm: "Lão Hạc ơi ! ta có
quyền giữ cho ta một tí gì đâu?". Thì ra tác giả đâu có thờ ơ, ông thấu hiểu con
người tốt đẹp ấy, mỗi lời kể như đượm nỗi xúc động: Thương con, lão không muốn
bán đi con chó – kỉ vật của con. Nhưng nuôi nó thì tốn mà lão không muốn phải
tiêu vào tiền lão đã dành dụm cho con. Nhưng cái nghèo khổ cứ đến: "làng mất vé
sợi", "Lão Hạc không có việc"… Sự điêu đứng cứ dồn dập đến. Ngòi bút nhà văn
trở nên xót xa cho lão Hạc. Trước cảnh lão khóc vì để con chó bị bắt, ngòi bút
Nam Cao bỗng như trào lên nước mắt. Ông giáo hỏi như để che giấu nỗi đau: "Thế
nó cho bắt à", rồi đau đớn và phủ nhận, ông kết luận: "Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ!",
đều khổ, đều cơ cực, kiếp người không khác kiếp con chó. Số phận một con chó
chấm dứt bằng một cái chết bi thảm thì con người cũng không hơn, còn dữ dội gấp trăm lần.
Nhà văn cảm thông tha thiết với "những người cùng khổ ấy", muốn san sẻ nỗi cực
nhục với họ, bởi "một chút âu yếm, một chút tình thương cũng đủ để nâng đỡ họ"
(Thạch Lam). Nhưng Nam Cao còn sâu sắc hơn, ông giận cuộc đời gian ác đã cướp
đi bao người lương thiện như lão Hạc, nên ông cầm bút khóc cho những con người
đang quằn quại sống và quằn quại chết đó.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 11
Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc. Hai mảng đề tài chính trong các tác
phẩm của ông là người nông dân và tri thức nghèo. Một trong những tác phẩm tiêu
biểu viết về người nông dân là truyện ngắn Lão Hạc.
“Lão Hạc” được đăng báo lần đầu năm 1943. Truyện kể về Lão Hạc là một người
nông dân nghèo khổ. Lão có một đứa con trai nhưng vì nhà nghèo, không có tiền
lấy vợ nên bỏ đi đồn điền cao su. Cả gia tài của lão chỉ có mảnh vườn vốn là của
hồi môn của con trai và con chó Vàng sống cùng để bầu bạn. Sau trận ốm thập tử
nhất sinh, nhà lão không còn gì để ăn. Lão đành phải bán con Vàng đi. Số tiền bán
chó và bán mảnh vườn, lão đem gửi ông giáo và nhờ khi nào anh con trai về sẽ trao
lại cho anh. Còn bản thân thì đến xin Binh Tư một ít bả chó để tự tử.
Nhân vật chính trong truyện là lão Hạc, một người nông dân nghèo khổ nhưng
sống tình cảm. Điều này được thể hiện rõ qua sự gắn bó, đau xót, tiếc thương của
lão khi phải bán đi cậu Vàng. Bên cạnh đó, lão còn là một người cha yêu thương
con hết mực, luôn nghĩ cho con và dành dụm cho con. Không chỉ vậy, Lão cũng là
một người có lòng tự trọng. Dù sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn nhưng
không có những suy nghĩ, việc làm trái với lương tâm và cũng không muốn ảnh
hưởng, phiền hà đến bất cứ ai.
Nhân vật ông giáo xuất hiện với vai trò người kể chuyện, xưng “tôi”. Nhân vật này
là hàng xóm cũng có thể coi là người bạn tâm giao của lão Hạc. Ông giáo là người
được lão Hạc tin tưởng. Lão kể cho ông giáo nghe về việc bán con chó Vàng, lão
nhờ ông giáo giữ hô số tiền bán mảnh vườn và con chó để khi con trai của lão trở
về sẽ giao lại. Không chỉ vậy, qua nhân vật ông giáo, Nam Cao cũng gửi gắm một
số triết lí về cuộc sống, tư tưởng sâu sắc.
Bên cạnh những thành công về nội dung, truyện ngắn còn gây ấn tượng với người
đọc bởi nghệ thuật tác giả sử dụng vô cùng đặc sắc. Đầu tiên phải kể đến nghệ
thuật xây dựng và khắc họa nhân vật vô cùng tiêu biểu, đậm nét. Lấy hình ảnh một
con người để nói đến một bộ phận người. Tiếp đến là nghệ thuật miêu tả chân dung
nhân vật vô cùng tài tình. Sự kết hợp giữa phương thức tự sự và trữ tình cũng tạo
nên sự đa chiều của câu chuyện. Có lúc là giọng văn tự sự mẫu mực, có lúc lại
khiến người đọc rưng rưng xúc động với những xúc cảm do tác giả thể hiện.
Lão Hạc của nhà văn Nam Cao xứng đáng là một tác phẩm hay. Truyện không chỉ
thành công bởi những giá trị về nội dung mà còn cả bởi giá trị về nghệ thuật.