Văn mẫu lớp 8: Phân tích truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao (Sơ đồ tư duy) Ngữ Văn 8 | Cánh diều
Văn mẫu lớp 8: Phân tích truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao (Sơ đồ tư duy) Ngữ Văn 8 | Cánh diều. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF bao gồm 35 trang tổng hợp các kiến thức chọn lọc giúp các bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời các bạn đón xem!
Chủ đề: Bài 6: Truyện (CD)
Môn: Ngữ Văn 8
Sách: Cánh diều
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Văn mẫu lớp 8
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc
Dàn ý phân tích truyện ngắn Lão Hạc Dàn ý số 1 I. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao/ II. Thân bài
1. Câu chuyện Lão Hạc bán chó và sự day dứt của lão
a. Hoàn cảnh của lão Hạc:
- Một ông nông dân già yếu, không nơi nương tựa: sống một mình, tự kiếm ăn nuôi
thân, con trai bỏ đi đồn điền cao su.
- Sau một trận ốm, trong nhà không còn gì để ăn, lão quyết định bán cậu Vàng - kỉ
vật mà anh con trai để lại, không chỉ là một con vật mà còn giống như một người bạn.
=> Hoàn cảnh vô cùng khó khăn, khổ cực.
b. Diễn biến tâm trạng của Lão Hạc xoay quanh việc bán cậu Vàng:
- Tình cảm đối với cậu Vàng:
⚫ Cho ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì ăn cũng gắp cho nó cùng ăn.
⚫ Khi rảnh rỗi còn đem nó ra tẳm rửa, bắt giận.
⚫ Mỗi khi lão uống rượu có đồ nhắm ngon lại gắp cho nó một miếng như người
ta gắp thức ăn cho con cháu trong nhà.
⚫ Thường xuyên tâm sự với nó, vỗ về ôm ấp.
=> Đối xử giống như với một con người. Từ tượng hình, từ tượng thanh
- Quyết định bán cậu Vàng: vô cùng khó khăn, trăn trở giống như phải quyết định
một việc trọng đại trong đời.
- Diễn biến tâm trạng sau khi bán chó: Sáng hôm sau, lão Hạc sang nhà ông giáo
kể lại toàn bộ sự việc.
⚫ Cố làm ra vẻ vui mừng: “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ”, nhưng thực ra lão
cười như mếu và đôi mắt ầng ậc nước.
⚫ “Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra” ⚫ Lão hu hu khóc…
⚫ Tự trách bản thân mình đã già rồi còn đi lừa một con chó: “Khốn nạn... Ông
giáo ơi!... như thế này à?”
⚫ Chua chát bảo với ông giáo: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta phải hóa kiếp cho nó…”
⚫ Lão cười và ho sòng sọc, Lão nói xong lại cười đưa đà… Nụ cười dường như
để nén đi nỗi đau đơn khi mất đi “người bạn” duy nhất.
=> Nam Cao đã khắc họa chân thực nỗi đau khổ, day dứt của Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng.
2. Cái chết đầy bất ngờ của Lão Hạc
- Lão Hạc nhờ cậy ông giáo hai việc:
⚫ Trong nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về sẽ giao lại cho nó.
⚫ Mang hết tiền dành dụm được nhờ ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ
ông giáo và bà con lo liệu ma chay cho mình.
=> Chuẩn bị trước cho cái chết của bản thân. - Diễn biến:
⚫ Lão đến xin Binh Tư một ý bả chó và nói dối rằng dạo này có con chó hay đến
vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó. Nếu được lão sẽ mời hắn uống rượu.
⚫ Nhưng thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử.
- Hình ảnh lão Hạc khi chết đầy ám ảnh: “Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu
tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra,
khắp người lão chốc chốc lại bị giật mạnh một cái. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết.”
=> Cái chết dữ dội, đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện. III. Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Lão Hạc. Dàn ý số 2 I. Mở bài
Giới thiệu về tác phẩm Lão Hạc của nhà văn Nam Cao. II. Thân bài
1. Nhân vật lão Hạc a. Tình cảnh Lão Hạc
⚫ Một lão nông già yếu, cô đơn
⚫ Vì nghèo, lão dự định bán đi cậu Vàng – kỉ vật của anh con trai, người bạn thân
thiết của bản thân mình và chọn kết thúc cuộc đời.
b. Diễn biến tâm trạng lão Hạc quanh việc bán cậu Vàng
- Cậu Vàng là con chó của lão Hạc rất yêu quý:
⚫ Cho ăn trong một bát lớn như của nhà giàu; ăn gì cũng gắp cho nó cùng ăn.
⚫ Rỗi rãi thì đem nó ra ao tắm, bắt rận cho nó.
⚫ Mỗi khi uống rượu lão nhắm vài miếng thì lại gắp cho nó một miếng như người
ta gắp thức ăn cho cháu.
⚫ Thường xuyên tâm sự với nó về bố nó, rồi thủ thỉ, âu yếm.
=> Quyết định bán đi con chó Vàng là một việc làm rất khó khăn, một việc hệ trọng.
- Tâm trạng, biểu hiện khi bán chó:
⚫ Lão cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước
⚫ Mặt lão đột nhiên co rúm lại, vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra,
⚫ Đầu ngoẹo về một bên, miệng móm mém mếu như con nít ⚫ Lão hu hu khóc.
=> Lão Hạc là một người nông dân sống có tình có nghĩa, thủy chung, rất mực trung thực.
c. Cái chết của lão Hạc
- Lão nhờ ông giáo hai việc:
⚫ Trông nom hộ mảnh vườn, khi nào con trai lão về thì giao lại cho nó
⚫ Mang hết tiền dành dụm nhờ ông giáo và bà con chòm xóm làm ma cho nếu lão chết đi.
- Nguyên nhân: ý thức sâu sắc, rõ ràng hoàn cảnh cùng đường, không có lối thoát của mình.
- Mục đích: bảo toàn tài sản cho con và không muốn phiền hà đến bà con hàng xóm.
=> Là người có ý thức cao về lẽ sống, trọng danh dự làm người hơn cả sự sống;
một người cha hết lòng thương con, một người nông dân trung thực, thật thà, giàu lòng tự trọng.
2. Nhân vật ông giáo
⚫ Có cùng nỗi khổ của sự nghèo túng; có cùng nỗi đau phải bán đi những thứ mà mình yêu quý nhất
⚫ Thông cảm, thương xót cho hoàn cảnh của lão Hạc, tìm mọi cách an ủi, giúp đỡ lão.
⚫ Ông là người hiểu đời hiểu người, có tấm lòng vị tha cao cả
⚫ Ông giáo là người trí thức chân chính, trọng nhân cách, không mất đi lòng tin
vào những điều tốt đẹp ở con người. III. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Lão Hạc, liên hệ mở rộng.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 1
Nam Cao là một trong những tác gia lớn của nền văn học Việt Nam. Một trong
những tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến truyện ngắn Lão Hạc.
Như nhiều tác phẩm khác của Nam Cao, nhân vật chính trong truyện lúc nào cũng
có một cuộc đời khốn khó, hoặc bất ngờ cái sự khốn khó bỗng đổ ập lên đầu người
vô tội vì nhiều nguyên do khác nhau. Lão Hạc cũng là một kiếp người như thế, đời
một người nông dân thì chẳng bao giờ biết đến cái giàu sang sung sướng, mà chỉ
cốt cố làm, cố ăn sao cho sống hết được cái đời dài đằng đẵng. Lão Hạc cũng có vợ,
nhưng vợ lão mất sớm, chỉ để lại cho lão một thằng con trai, từ ấy trở đi lão cứ ở
vậy làm lụng, bòn vườn nuôi con khôn lớn. Đến khi con lớn rồi thì bậc làm cha
như lão lại phải đau đầu chuyện cưới vợ cho con, thế nhưng khốn nỗi nhà lão
nghèo quá, miệng ăn kiếm chưa đủ thì kiếm đâu ra cả trăm bạc nhà gái thách cưới.
Thằng con lão không cưới được vợ đâm ra buồn chán, bất đắc chí, rồi dứt áo ra đi
bỏ vào Nam làm đồn điền cao su với hy vọng kiếm được tiền. Lão Hạc thấy con đi
thì cũng xót xa đau đớn lắm, lão chỉ trách tại cái thân mình nghèo rồi hại đến đời
con, để nó phải bỏ xứ mà tha phương cầu thực. Mà những kẻ bỏ quê đi thì cũng có
được sung sướng gì, ai biết được làm đồn điền trong ấy nó có sung sướng gì không,
hay lại bị người ta chèn ép, bóc lột. Thằng con đi chỉ để lại cho lão một con chó
vàng mà lão vẫn thường âu yếm gọi là "cậu Vàng" lão chăm bẵm xem nó như con,
có đồ ngon gì cũng dành phần cho nó, có con chó lão đỡ buồn và vơi đi nỗi nhớ
đứa con trai biết bao nhiêu. Lão Hạc sống lương thiện, chưa từng chôm chỉa của ai
bao giờ, lão bòn vườn, rồi lại đi cày thuê cuốc mướn cho người ta để lấy cái ăn,
còn tiền thu được ở vườn thì lão để dành, đợi con trai về rồi sẽ góp thêm vào kiếm
cho nó một tấm vợ. Nhưng có lẽ rằng hiện thực tàn khốc, và đặc biệt là truyện
ngắn của Nam Cao thì cho dù con người ta có hiền lành, chăm chỉ đến đâu, nhưng
vẫn cứ bị những biến cố khốn nạn vồ lấy dồn dập, ép họ vào đường cùng, vào cái
sự đau đớn, dằn vặt. Lão Hạc đang khỏe bỗng nhiên đổ bệnh, một trận ốm hai
tháng 18 ngày đã tiêu tốn sạch cái mớ tiền lão tích cóp bấy lâu, lại thêm việc không
đi làm thuê được ngày nào khiến lão gần như khánh kiệt. Nhưng trời nào có
thương cho phận lão, việc năm nay vốn đã kém đi nhiều, thế mà bão lại còn quét
một trận qua khu vườn của lão, thành thử ra có bao nhiêu hoa màu thì gãy dập hết,
mất hết. Lão với con chó vàng ngày ăn 3 hào gạo nhưng vẫn cứ đói, thậm chí con
chó còn ăn nhiều hơn cả lão, mà cụ lại không dám cho nó ăn ít đi bởi ăn ít thì "cậu
ấy gầy đi, bán hụt tiền". Mà lão thì lại càng không muốn bán mảnh vườn của con
trai. Lão thương con trai lão, người cha nhân hậu ấy không muốn để cuộc đời gần
tàn của lão liên lụy đến cái đời còn trẻ của con.
Cái đói kém, khốn khổ đã hành hạ người cha già thương con ấy rất lâu, cuối cùng
lão cũng ra một quyết định hệ trọng và đau đớn. Trong buổi nói chuyện với ông
giáo, người rất thân với lão, lão Hạc đã nói trong sự tần ngần và nghiêm túc "Có lẽ
tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ", nhưng ông giáo chẳng lấy làm tin cho lắm, bởi lẽ
trước đây ông lão cũng từng nhiều lần nói vậy nhưng chưa lần nào ông làm thật.
Điều ấy đã chứng tỏ một điều rằng lão Hạc luyến tiếc và yêu thương cậu Vàng lắm,
lão không nỡ bán nó cho người ta giết thịt, bởi nó là kỷ vật là người bạn đã theo
lão suốt 3 năm trời đằng đẵng, bán nó sao đành. Nhưng khốn lắm, trời hành cái
thân lão, khiến lão đói kém quá, mà suy cho cùng lão vẫn phải nghĩ đến con, thế
nên đành tàn nhẫn bán con chó đi sau nhiều lần đắn đo, suy nghĩ. Tội nghiệp cho
một người già đến cuối đời vẫn phải trăn trở nhiều khổ đau như vậy. Ngày bán cậu
Vàng, lão đã vội chạy sang báo với ông giáo, người đàn ông khốn khổ ấy cố làm ra
vẻ vui mừng thế nhưng cái "nụ cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước" kia của lão
thì làm sao giấu nổi những đớn đau, dằn vặt trong lòng lão. Một câu hỏi của ông
giáo "Thế nó cho bắt à?" đã đập tan tất cả phòng tuyến cuối cùng của ông lão tội
nghiệp ""Mặt lão đột nhiên co rúm lại . Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho
nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão
mếu như con nít. Lão hu hu khóc...". Lão Hạc phải gánh chịu nỗi thống khổ của bi
kịch làm người, lão thế mà lại đi lừa một con chó, con chó đã theo lão suốt ba năm
trời trung thành, con chó mà lão yêu quý và coi như con. Ôi chao cái đời lão sao nó
khốn nạn và độc ác quá, lão ăn ở thất đức với cả một con chó không biết gì. Lão
Hạc vẫn ám ảnh và nhớ như in ánh mắt và tiếng kêu ư ử của cậu Vàng lúc bị người
ta bắt đi, lão thấy ân hận và xót xa lắm. Đúng trời bắt tội con người, lão lương
thiện cả đời, chăm chỉ, dè sẻn vì con, vì cháu cuối cùng lại trở thành người tráo trở,
đến con chó chung sống bấy lâu cũng không tha. Thế rồi lão nói hóa kiếp cho con
chó, nhưng trở thành kiếp gì cho sung sướng, chứ kiếp người như lão thì chi bằng
đừng hóa kiếp cho xong. Những nỗi đớn đau và suy nghĩ của lão Hạc khi nhắc về
chuyện bán con chó đã cho ta thấy tấm lòng của một con người hết mực lương
thiện, sống thủy chung, giàu lòng nhân hậu, dẫu chỉ là một con chó nhưng lão cũng
dành cho nó những tình cảm sâu sắc, gắn bó, thấy tội lỗi khi lỡ lừa bán nó. Đối với
con trai lão Hạc lại là một người cha có tấm lòng yêu thương hết mực, con trai đi
làm ăn thì ở nhà lão cũng lo tích cóp dành dụm đợi con về, lão luôn mang trong
mình những mặc cảm là người cha "có tội" khi không lo được cho con cưới vợ, để
con phải tha phương cầu thực. Mà khốn khổ thay cái tội nghèo thì nó đã quanh
quẩn với biết bao kiếp người chứ phải riêng gì lão, ấy thế mà lão vẫn thấy mình có
tội, thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm, chứ lão chẳng bao giờ than trời trách đất.
Vì thế lão lại càng không được ăn phạm vào mảnh vườn mà vợ lão dè sẻn chắt bóp
cả đời để cho con, lão buộc phải bán cậu Vàng, phải lo liệu thật chu toàn để con
lão trở về không phải khổ. Chao ôi tấm lòng cha mẹ đời nào cũng thế, cả đời chỉ vì
con cái, vì con cái mà cắn rơm cắn cỏ, hy sinh, chịu đựng tất cả.
Bán con chó Vàng là một phần trong kế hoạch "chu toàn" của lão Hạc. Phần tiếp
theo nữa ấy là việc nhờ ông giáo chăm nom vườn tược cho con, rồi gửi ông giáo số
tiền ba chục bạc để ông giáo lo liệu hậu sự sau này cho mình. Như vậy đến lúc này
đây ta lại thấy ở lão Hạc không chỉ là tấm lòng yêu thương con tha thiết mà còn là
lòng tự trọng sâu sắc. Lão gửi ông giáo tiền hậu sự, vì không muốn phiền bà con
chòm xóm lúc chết, lão muốn được chết đi trong trong sạch, không nợ nần với ai,
và cũng là để con lão có trở về thì không bị mang tiếng chôn cha nhưng phải phiền
lụy xóm giềng. Lão Hạc ấy đã suy nghĩ thật chu toàn, chuẩn bị sẵn cho chuyến đi
xa của mình, chứ quyết không chịu sống lay lắt, tội lỗi, liên lụy con cái, láng giềng
thêm nữa. Mà quả thực, cái thời buổi đói kém này, có lẽ cái chết là cách giải thoát
duy nhất cho những con người đau yếu, già nua, không nơi nương tựa, chứ sống
ngày nào thì càng khốn khổ thêm ngày đó. Lão Hạc cũng nghĩ vậy. Nhưng nhìn
xem lão đã chọn cái chết thật kinh hoàng, thật ám ảnh. Đến cả chết mà lão cũng
không dám cho mình một cái chết êm ái, lão chọn ăn bả chó, rồi nhận lấy một cái
chết dữ dội, vật vã suốt 2 giờ đồng hồ rồi mới nhắm mắt xuôi tay. Sao Lão Hạc
phải khổ vậy? Đành rằng lão chấp nhận chết để dành lại vườn và tiền cho thằng
con trai của lão, nhưng thêm một thứ nữa có lẽ lão đang tự trừng phạt mình vì
những tội lỗi lão đã gây ra cho cậu Vàng chăng? Hoặc chỉ đơn giản rằng, bả chó
không mất tiền mua, lão xin được của Binh Tư, thôi thì cũng không phạm vào tiền
của con trai, lão chết thế nào chẳng là chết. Thật tội nghiệp và đớn đau cho một kiếp người như thế.
Lão Hạc là một truyện ngắn hay và xuất sắc nhất của Nam Cao giai đoạn trước
cách mạng tháng tám, để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Không chỉ là
cái chết đầy ám ảnh của một kiếp người tàn mà ở đó ta thấy được nhiều vẻ đẹp
đáng quý của một con người giữa cái thời đói khổ khốn nạn. Đó là tấm lòng
thương yêu con sâu sắc, chịu chết để giữ vườn cho con, là lối sống ân nghĩa, thủy
chung với cả con chó, là sự lương thiện, thật thà của một con người dù đói chứ
cũng không bao giờ táy máy của ai, là tấm lòng tự trọng, chu toàn không muốn
phiền lụy đến một ai sau khi chết. Một đời người lắm hy sinh, lắm tốt đẹp như thế
nhưng vẫn phải chịu nhiều nghiệt ngã đớn đau, vì trời bắt tội những kẻ nghèo, thật
khiến người ta không khỏi bùi ngùi, xót xa.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 2
Nam Cao là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc nhất của văn học hiện thực
trước cách mạng. Các tác phẩm của ông sáng tác trên hai đề tài lớn là người trí
thức và người nông dân, nhưng thành công hơn cả là khi ông viết về đề tài người
nông dân. Viết về người nông dân, nhà văn có khuynh hướng khám phá, phát hiện
những vẻ đẹp phẩm chất ẩn sâu trong con người họ. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm như vậy.
Trước hết về nhân vật lão Hạc, lão có số phận bi thảm nhưng ẩn sau đó là những
phẩm chất cao đẹp, đại diện cho người nông dân. Số phận lão Hạc cũng là số phận
chung của biết bao người nông dân trước cách mạng. Vợ lão chết sớm, lão ở vậy
gà trống nuôi con. Đứa con lớn lên vì không lấy được người mình yêu nên phẫn chí
bỏ nhà ra đi. Lão ở vậy một mình với cậu Vàng – kỉ vật người con trai để lại.
Nhưng cuộc đời lão càng ngày lại càng bi đát hơn, lão bị ốm, lão tiêu tốn nhiều tiền
dành dụm cho con, bởi vậy lão đành bán cậu Vàng – người bạn đã ở bên giúp lão
vơi bớt nỗi buồn khi phải xa con. Khi bán cậu Vàng lão vô cùng đau đớn, ân hận.
Nỗi ân hận đó được thể hiện qua đoạn văn miêu tả đặc sắc: cười như mếu, đôi mắt
ầng ậng nước, mặt đột nhiên co rúm lại, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm
mém mếu như con nít, hu hu khóc. Tình cảnh của lão thật đáng thương, lão luôn
sống trong sự day dứt, dằn vặt bản thân.
Nhưng ẩn đằng đó chính là những phẩm chất cao đẹp của người nông dân lương
thiện. Lão là một người giàu tình yêu thương, tình yêu thương đó được thể hiện
ngay cả với một con vật: lão gọi chó là cậu Vàng, gọi nịnh như gọi một đứa trẻ,
ông chăm sóc cậu Vàng chu đáo: cho ăn cơm trong bát như một nhà giàu, không
chỉ vậy ông còn trò chuyện, mắng yêu cậu vàng, cậu Vàng làm lão bớt cô đơn, vơi
đi nỗi nhớ con. Tình cảm sâu nặng của ông với cậu Vàng có nguồn gốc sâu xa từ
tình yêu thương con của lão Hạc, con chó là kỉ vật thiêng liêng mà người con để lại
cho ông trước khi đi đến đồn điền cao su.
Tình phụ tử ở lão Hạc cũng vô cùng sâu sắc, thiêng liêng. Vì cảnh nghèo không
cưới được vợ cho con, lão vô cùng đau đớn, bởi vậy bao nhiêu tiền của làm được
lão đều dành dụm cho con, lão chịu kham khổ, để người đời chửi mắng chứ nhất
định không chịu tiêu lạm vào tiền của con. Sau khi bị bệnh nặng, lão chỉ ăn khoai,
hết khoai lão ăn củ chuối, rồi ăn sung luộc, rau má, củ ráy, nghĩa là vớ được thứ gì
lão ăn thứ ấy,… Và cuối cùng lão lo lắng sẽ tiêu hết tiền cho con nên lão đành
chọn cái chết để bảo toàn tài sản cho con trai mình. Cái chết đau đớn của lão Hạc
xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà lớn lao.
Mặc dù nghèo khổ nhưng lão luôn giữ lòng tự trọng. Lão không nhận bất cứ sự
giúp đỡ của ai, ngay cả khi ông giáo đề nghị giúp, lão từ chối một cách hách dịch,
bởi lão hiểu hoàn cảnh gia đình ông giáo cũng nghèo túng chẳng khác gì gia đình
mình. Lòng tự trọng đó còn được thể hiện trong cách thức tìm đến cái chết của ông.
Trước khi chết ông để lại tiền nhờ bà con lo ma chay, không muốn phiền hà đến
hàng xóm. Lão chết bằng cách ăn bả chó, cái chết đau đớn, dữ dội như một lời tạ
tội với cậu Vàng. Cái chết của lão Hạc chính là sự khẳng định cho sức sống bất
diệt của nhân cách trong ông.
Ngoài nhân vật lão Hạc trong tác phẩm ta còn thấy nổi bật lên hình ảnh của một
ông giáo nghèo, người bạn thân thiết của lão Hạc. Ông giáo có sự đồng cảm sâu
sắc với cảnh ngộ đáng thương của lão Hạc: an ủi, động viên khi lão bán chó, chia
sẻ nỗi buồn với lão Hạc, luôn tìm mọi cách làm cho lão khuây khỏa, lạc quan. Ông
còn là người am hiểu tường tận nhất vẻ đẹp nhân cách của lão hạc: “Không cuộc
đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một
nghĩa khác”. Nghĩa khác ấy chính là con người có nhân cách cao đẹp nhưng lại
phải chết vật vã, đau đớn và cái chết ấy lại càng làm sáng hơn nhân cách cao đẹp của lão.
Nghệ thuật kể chuyện xuất sắc: câu chuyện được kể bởi nhân vật tôi (ông giáo)
người luôn bên cạnh lão Hạc, bởi vậy khiến câu chuyện trở nên chân thực, gần gũi,
ngoài ra khiến mạch kể trở nên tự nhiên, linh hoạt, tạo điều kiện kết hợp tả, kể với
bình luận một cách tự nhiên, sinh động. Giọng văn đa dạng, thay đổi linh hoạt.
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ, hợp lí, những bước ngoặt của
truyện giúp bộc lộ rõ tính cách, phẩm chất của nhân vật. Nghệ thuật xây dựng nhân
vật cũng là một điểm nhấn của văn bản: nhân vật được khắc họa qua diện mạo,
ngôn ngữ đối thoại, diễn biến tâm trạng và qua lời nhận xét, bình luận của các nhân
vật khác, bởi vậy chân dung nhân vật hiện lên chân thực, sinh động hơn.
Với nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, ngôn ngữ giản dị, lôi cuốn Nam Cao đã cho
người đọc thấy chân dung số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng,
họ bị đẩy đến bước đường cùng phải tìm đến cái chết. Nhưng đằng sau đó còn là
chân dung tinh thần đẹp đẽ: giàu tình yêu thương và nhân cách cao đẹp.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 3
Viết về đề tài nông dân trước cách mạng, "'Lão Hạc" là một truyện ngắn độc đáo,
đặc sắc của nhà văn Nam Cao. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động
bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn
của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh
khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ.
Lão Hạc, một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều, một con
chó vàng... đó là tài sản, vốn liếng của lão. Vợ chết đã lâu, cảnh gà trống nuôi con,
lão lần hồi làm thuê kiếm sống. Đứa con trai độc nhất không có trăm bạc để cưới
vợ, cảm thấy "nhục lắm" đã "phẫn chí" đi phu đồn điền cao su Nam Kỳ, biền biệt
năm, sáu năm chưa về. Tuổi già, sống cô quạnh, nỗi bất hạnh ngày thêm chồng
chất. Lão Hạc chỉ còn biết làm bạn với con chó vàng. Lão bị ốm một trận kéo dài 2
tháng 18 ngày. Không một người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo,
một chén thuốc! Tình cảnh ấy thật đáng thương! Tiếp theo một trận bão to, cây trái
hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng mất nghề sợi. Đàn bà con gái
trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn
đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Thất nghiệp! Giá gạo mỗi ngày một cao. Lão và
cậu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào gạo mà vẫn "đói". Bao nhiêu tiền bán hoa lợi
trong vườn dành dụm được bấy lâu nay, lão đã chi tiêu gần hết trong trận ốm!
''Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần (...). Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho
ta một tí gì đâu?". Nhân vật ông giáo đã nghĩ như thế khi nghe lão Hạc nói về ý
định phải bán con chó. Cậu Vàng "ăn khỏe", mỗi ngày cậu ấy ăn "bỏ rẻ cũng mất
hào rưỡi, hai hào". Lão Hạc rất yêu cậu Vàng, nhưng "lấy tiền đâu mà nuôi được?"
Lão Hạc phải bán cậu Vàng cho thằng Xiên, thằng Mục. Bán cậu Vàng xong, lão
Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy mình là một kẻ "tệ lắm", đã
già mà còn "đánh lừa một con chó". Đói khổ, cô đơn ngày một thêm nặng nề lão
Hạc chỉ ăn khoai, ăn củ chuối, ăn sung luộc, ăn rau má, thỉnh thoảng một vài củ ráy,
hay bữa trai bữa ốc. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo một cách "gần như là
hách dịch". Lão xem ông giáo là chỗ dựa tinh thần của lão bấy lâu nay. Lão Hạc đã
ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn thê thảm: đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc,
tru tréo, bọt mép sùi ra vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết! Cái chết thật là dữ dội!
Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương. Với chủ
nghĩa nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những
con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thảm. Chí Phèo tự sát bằng mũi
dao, Lang Rận thắt cổ chết... Và lão Hạc đã quyên sinh bằng cái bả chó! Lão Hạc
đã từng hỏi ông giáo: ''... nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho
thật sướng?". Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một kiếp người.
Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành, nhân hậu. Lão rất yêu con. Biết con
buồn vì không có tiền để cưới vợ lão thương con lắm.... Lão đau đớn khi con sắp đi
làm phu đồn điền cao su. Lão chỉ biết khóc: "Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó,
người ta đã chụp rồi (...). Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ?".
"Cao su đi dễ khó về" (Ca dao). Con trai lão Hạc đã đi "bằn bặt" năm, sáu năm
chưa về. Hoa lợi trong vườn, bán được bao nhiêu lão dành dụm cho con, hi vọng
khi con trở về "có chút vốn mà làm ăn". Lão tự bảo: "Mảnh vườn là của con ta.
Của mẹ nó tậu thì nó hưởng...". Đói khổ quá, nhưng lão Hạc đã giữ trọn vẹn ba sào
vườn cho con. Lão đã tìm đến cái chết, thà chết chứ không chịu bán đi một sào. Tất
cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kì to lớn!
Lòng nhân hậu của lão Hạc được thể hiện sâu sắc đối với con chó vàng, mà người
con trai để lại. Lão quý nó, đặt tên nó là "cận Vàng". Cho nó ăn cơm trong bát sứ
như nhà giàu. Bắt rận hoặc đem nó ra cầu ao tắm. Lão ăn gì cũng chia cho cậu
Vàng cùng ăn. Lão ngồi uống rượu, cậu Vàng ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng
lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Lão tâm sự với cậu
Vàng như tâm sự với một người thân yêu ruột rà: "Cậu Vàng của ỏng ngoan lắm!
Ông không cho giết... Ông để cậu Vàng ông nuôi...". Có thể nói, cậu Vàng được
lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu; nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh
thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vơi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng.
Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã tỏa sáng tâm hồn và làm ánh lên
bản tính tốt đẹp của ông lão nông đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu
Vàng đi, từ túng quẫn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm thương.
Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng. Trong đói
khổ cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy... ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè,
lão cười hồn hậu và khất "ông giáo cho để khi khác". Ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ,
lão từ chối "một cách gần như hách dịch". Bất đắc đĩ phải bán con chó; bán xong
rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt: "thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh
lừa một con chó". Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai, như một lời
nguyền đinh ninh: "Cái vườn là của con ta (...). của mẹ nó tậu thì nó hưởng". Trước
khi chết, lão gửi lại ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đồng bạc để "lỡ có
chết gọi là của lão có tí chút...", vì lão không muốn làm phiền đến hàng xóm. Nam
Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư, một kẻ "làm nghề ăn trộm" ở phần cuối
truyện, tạo nên một sự đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng
của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng trọng.
Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì
âm thầm, nghèo đói, cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có
bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự
trọng... Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ
được Nam Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng xót thương, thấm đượm một
tinh thần nhân đạo thống thiết.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 4
Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông
dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao
quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn "Lão
Hạc" của nhà văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm - nhân vật
lão Hạc - dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu
thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua
nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.
Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo,
cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những
hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo
không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là
kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ:
cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão
đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu
thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: "Mặt co rúm lại, những
nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái
miệng móm mém mếu như con nít", "lão hu hu khóc".
Ban đầu là "luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai", "khoai cũng hết, lão chế tạo được
món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn
rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc". Rồi đến mức chẳng
còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão
Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết
"nhờ" ăn bả chó tự tử! Cái chết của lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật
phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên. Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng
đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu
khác gì cái chết của một con chó. Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão
không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn
trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn
nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và
cả sự tự trọng cao đẹp của mình.
Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những "Cha con nghĩa
nặng" của Hồ Biểu Chánh, "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng, ngợi ca tình
phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến "Lão Hạc" của Nam Cao. Vì thương con,
lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi,
lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều
"cậu" Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu
quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi
đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai
lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.
Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không
chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để
vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống
làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi!
Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy! Yêu thương những người
thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều
cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay
thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong
"Một bữa no" của Nam Cao..) nhưng lão Hạc thì không.
Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão "từ
chối gần như hách dịch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ
rằng lão xin bả để ăn trộm chó "lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu". Đến lượt
ông giáo cũng nghi ngờ: "con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư
để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn". Nhưng cuối cùng
tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác:
lão có thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của
con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!
Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão
đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được
trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với con chó Vàng tội nghiệp.
Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả
khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục
đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm
phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc! Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng
nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu
tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong
đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà
văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.
Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc. Nam
Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt
Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh
chóng nhất là cái chết nghiệt ngã. Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân
trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào
đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự
trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có
thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc,
lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.
Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiêm nghiệm:
"Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn". Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao
quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm
cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô
cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà
văn còn nhận định người nông dân "như những con lợn không tư tưởng". Và bởi
thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!
Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng
quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về
tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã
khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 5
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 - 1945. Qua
nhiều tác phẩm, tác giả đã vẽ nên khung cảnh tiêu điều, xơ xác của nông thôn Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám. Sự đói khổ ám ảnh nhà văn bởi nó ảnh hưởng
không ít tới nhân cách, nhưng trong cảnh nghèo đói thê thảm, phẩm chất tốt đẹp
của người nông dân vẫn tồn tại và âm thầm tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc thể
hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Trong đó, nhân vật chính là một
nông dân gặp nhiều nỗi bất hạnh vì nghèo đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương
con và có lòng tự trọng.
Vợ mất sớm, lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất. Lão sẽ
sung sướng biết dường nào nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã
bị phụ tình chỉ vì quá nghèo, không đủ tiền cưới vợ. Thương con, lão thấu hiểu nỗi
đau của con khi anh nghe lời cha, không bán mảnh vườn để lấy tiền cưới vợ mà
chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng thương con, lão càng xót xa đau đớn vì
không giúp được con thỏa nguyện, đến nỗi phẫn chí bỏ nhà đi phu đồn điền đất đỏ
mãi tận Nam Kì. Mỗi khi nhắc đến con, lão Hạc lại rơi nước mắt. Lão Hạc rất quý
con chó vì nó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai. Lão trìu mến gọi là cậu Vàng và
cho nó ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Suốt ngày, lão thầm thì to nhỏ với con
Vàng. Với lão, con Vàng là hình bóng của đứa con trai yêu quý, là người bạn chia
sẻ cô đơn với lão. Vì thế nên bao lần định bán con Vàng mà lão vẫn không bán nổi.
Nhưng nếu vì nhớ con mà lão Hạc không muốn bán cậu Vàng thì cũng chính vì
thương con mà lão phải dứt khoát chia tay với nó. Lão nghèo túng quá! Lão đã tính
chi li mỗi ngày cậu ấy ăn thế bỏ rẻ cũng mất hai hào đấy. Cứ mãi thế này thì tôi lấy
tiền đâu mà nuôi được... Thôi bán phắt đi, đỡ đồng nào hay đồng ấy. Bây giờ, tiêu
một xu cũng là tiêu vào tiền của con. Tiêu lắm chỉ chết nó! Thế là vì lo tích cóp,
giữ gìn cho con trai chút vốn mà lão Hạc đành chia tay với con chó yêu quý. Đã
quyết như thế nhưng lão vẫn đau đớn, xót xa. Lão kể cho ông giáo nghe cảnh bán
cậu Vàng với nỗi xúc động cực độ. Lão đau khổ dằn vặt vì cảm thấy mình đã đánh
lừa một con chó. Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi lên. Trước đây, lão dằn
vặt mãi về chuyện vì nghèo mà không cưới được vợ cho con, thì bây giờ cũng chỉ
vì nghèo mà lão thêm day dứt là đã cư xử không đàng hoàng với một con chó. Lão
cố chịu đựng những nỗi đau đớn ấy cũng chỉ nhằm một mục đích là giữ gìn chút vốn cho con.
Biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con chính là cái chết của lão. Ông lão nông
dân nghèo khổ ấy đã tính toán mọi đường: “Bây giờ lão chẳng làm gì được nữa...
Cái vườn này là của mẹ nó chắt chiu dành dụm cho nó, ta không được ăn vào của
nó... Ta không thể bán vườn để ăn…”. Chính vì thương con, muốn giữ cho con
chút vốn giúp nó thoát khỏi cảnh nghèo mà lão Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó
là một sự chọn lựa tự nguyện và dữ dội. Nghe những lời tâm sự của lão Hạc với
ông giáo, không ai có thể kìm nổi lòng xót thương, thông cảm và khâm phục. Một
con người vì nghèo đói mà bất hạnh đến thế là cùng! Một người cha thương con đến thế là cùng!
Không chỉ có vậy, qua từng trang truyện, chúng ta còn thấy lão Hạc là người đôn
hậu, chất phác. Suốt đời, lão sống quanh quẩn trong lũy tre làng. Trong làng chỉ có
ông giáo là người có học nên lão tìm đến ông giáo để chia sẻ tâm sự. Lời lẽ của lão
Hạc đối với ông giáo lúc nào cũng lễ phép và cung kính. Đó là cách bày tỏ thái độ
kính trọng người hiểu biết, nhiều chữ của một lão nông. Cảnh ngộ lão Hạc đã đến
lúc túng quẫn nhưng lão tự lo liệu, xoay xở, cố giữ nếp sống trong sạch, tránh xa
lối đói ăn vụng túng làm càn. Thậm chí, lão kiên quyết từ chối sự giúp đỡ chỉ vì lòng thương hại.
Lão đã chuẩn bị kĩ lưỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo viết văn tự để
giữ hộ con trai mình mảnh vườn và gửi ông giáo 30 đồng để lo chôn cất. Lão
không muốn mọi người phải tốn kém vì lão. Rất có thể vì tốn kém mà người ta lại
chẳng oán trách lão sao? Không phiền lụy đến mọi người, đó cũng là cách để giữ
gìn phẩm giá. Thì ra ông lão có vẻ ngoài gàn dở ấy lại có phẩm chất đáng quý biết nhường nào!
Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì nghèo đói
cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách
mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh lão Hạc luôn nhắc
chúng ta nhớ đến những con người nghèo khó mà trong sạch với một tình cảm trân trọng và yêu quý.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 6
Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên là một trong những nhân vật "để đời" của
Nam Cao. Lão Hạc, một nông dân nghèo khổ, cùng quẫn, nhưng không bị biến
chất như Chí Phèo, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng. Lão
sống một thân một mình trong cô đơn, vất vả. Lão chỉ có đứa con trai duy nhất để
nương tựa tuổi già thì anh ta lại phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cao su- "cao su đi dễ
khó về". Lão Hạc đành thui thủi làm thuê, làm mướn kiếm ăn, đồng thời cố nhặt nhạnh, dành dụm cho con.
Nhưng một trận ốm đã làm lão trở nên tay trắng. Sức yếu dần "những công việc
nặng không làm được nữa", việc nhẹ thì "đàn bà tranh hết". Lão Hạc không có việc.
Rồi lại bão. Hoa màu trên mảnh vườn bị phá sạch sành sanh. Gạo cứ kém dần.
"Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo mà gia sự còn đói gieo đói dắt.
Cuối cùng lão phải ăn khoai. Khoai cũng hết. Bắt đầu từ đây, lão chế tạo được món
gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau
má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.
Thực ra tình cảnh lão Hạc đã làm gì bế tắc đến thế. Lão còn mảnh vườn đó, con
chó vàng đó, có thể bán đi mà tiêu. Nhưng lão sống vì con chứ đâu vì mình. Điều
này mấy ai hiểu cho lão. Người ta chỉ thấy lão lẩm cẩm. Có ông giáo hàng xóm là
người có lòng ái ngại, nhưng vừa bày tỏ với vợ đã bị thị gạt phắt ngay: "Cho lão
chết! Ai bão lão có tiền mà chịu khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Con
mình cũng đói. Còn Binh Tư, một gã lưu manh chuyên đánh bả chó thì lại lấy làm
khoái chí khi thấy lão đến xin mình một ít bả. Hắn tưởng đâu lão Hạc "đói quá hoá
liều" cũng quay sang trộm cắp như hắn. Hắn bĩu môi: "Lão làm bộ đấy! Thật ra thì
lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chẳng vừa đâu". Ngay đến ông giáo
tuy hiểu lão Hạc hơn cả mà cũng đâm ra nghi ngờ.
Người ta chỉ hiểu lão khi lão đã chết rồi. Lão tự tử bằng nắm bả chó của Binh Tư.
Lão chết đi nhưng sẽ còn sống mãi trong lòng người như một tấm gương đạo đức
hiếm có. Hiếm có người cha nào thương con như lão Hạc. Nghèo khó nhưng lúc
nào cũng nghĩ đến bổn phận làm cha, lo làm tròn bổn phận ấy, dẫu có phải chịu
khổ, chịu đói và chết bi thảm. Hình ảnh đứa con trái, nỗi lo chu tất cho con luôn
ám ảnh, dằn vặt tâm trí lão. Hồi anh ta còn ở nhà, lão không cho anh ta bán vườn
để cưới vợ cũng là xuất phát từ sự tính toán điều hơn lẽ thiệt của bậc làm cha. Thực
ra lão dằn lòng lắm. Bởi đạo làm cha phải lo cho con một người vợ, một căn nhà -
một tổ ấm gia đình. Song tình cảnh lão thì lo chưa chu toàn được. Anh con trai
phẫn chí ra đi, ngày về khó hẹn, lão lại đã già.
Đã bao lần, lão ngỏ tâm sự này với ông giáo: tiền hoa lợi trong vườn, tiền bán con
chó vàng, mảnh vườn, lão không dám đụng đến, vì đây là tiền của con, là tiền mà
người làm cha phải để lại cho con. Nếu không, không phải "đạo". Đã bao lần lão
tính tiền bòn vườn sủa con, "không cho bán là ta chỉ có ý giữ cho nó, chứ có phải
giữ để ta ăn đâu!... Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, đến lúc nó về, nếu
nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào cho nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ thì ta
cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn". Lão đã làm y như thế. Thà ăn khoai,
ăn củ chuối, củ ráy chứ lão không ăn vào tiền của con, không chịu bán mảnh vườn của con.
Bao nhiêu tiền nhặt nhạnh được từ mảnh vườn, lão gửi tất cả nhờ ông giáo giữ hộ.
Rồi lão chết để không bao giờ phải đụng đến. ôi, lão Hạc, con người bề ngoài thì
có vẻ tiều tuỵ và gàn dở như vậy mà thật giàu tình nặng nghĩa. Mà đâu chỉ đối với
đứa con. Tấm lòng nhân hậu của lão còn thể hiện ở cái tình rất nặng với con chó
vàng mà lão gọi là "cậu vàng" như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Cứ xem cái
cách lão nựng con chó: "À không! À không! Cậu vàng của ông ngoan lắm! ông
không cho giết... ông để cậu vàng ông nuôi"..., hay cái vẻ mặt vô cùng đau khổ của
lão khi kể cho ông giáo nghe lão đã bán con chó. "Mặt lão tự nhiên co rúm lại.
Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về
một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít", đủ thấy lão thương xót
con chó và cảm thấy mình có tội như thế nào khi phải bán nó đi.
Chân thật, chất phác, đôn hậu, tràn đầy tình thương và trách nhiệm, lão Hạc cũng
thật giàu lòng tự trọng. Đối với ông giáo, người lão tin tưởng và quý trọng đến thế,
lão cũng vẫn giữ ý để khỏi bị coi thường. Lão đói đấy, lão phàn nàn "kiếp người
như lão cũng khổ như kiếp chó" đấy, nhưng khi ông giáo mời lão ăn khoai, uống
nước chè tươi, lão đã từ chối. Lão dứt khoát "từ chối tất cả". Khi ông giáo giấu vợ,
thỉnh thoảng muốn ngấm ngầm giúp đỡ lão một chút gì, lão từ chối "một cách gần
như hách dịch". Rồi lão cứ cố ý xa ông giáo dần dần.
Cuối cùng thì lão Hạc chết. Chủ động tìm đến cái chết, một cái chết bi thảm, khốc
liệt như là cái chết của một con người cao quý. Bởi qua cái chết này, tất cả những
phẩm giá cao đẹp của lão ánh lên, chiếu sáng thăm thẳm vào lòng người. Gần đây
người ta đã dựng phim về các nhân vật của Nam Cao - phim Làng Vũ Đại ngày ấy.
Nhà văn Kim Lân được mời đóng vai lão Hạc. Kim Lân đã nghiền ngẫm kĩ về
nhân vật của mình, ông nói: "Lão Hạc không chỉ là một người nghèo, đó là một
con người có nhân cách, tự trọng và bất khuất".
Chúng ta cũng hoàn toàn đồng ý với Kim Lân. Ta còn thấy rằng những phẩm chất
ấy của lão Hạc đã cho ta những suy nghĩ sâu sắc. Cái chết của lão Hạc đã để lại
cho chúng ta, cùng với nỗi xót thương vô hạn là nhiều bài học quý. Bài học sâu sắc
nhất là trong bất kì thân phận nào, hoàn cảnh nào cũng phải giữ danh hiệu con
người cao quý. Giữa người với người phải có trách nhiệm với nhau hơn, phải hiểu
biết để đánh giá đúng và cảm thông với người khác hơn, phải tin tưởng hơn ở con
người và cuộc đời. Và phải biết căm ghét xã hội bất công, những thế lực độc ác vùi
dập, đày đọa những con người như lão Hạc.
Vợ ông giáo từng nói về lão Hạc: "Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ.
Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!". Nhưng thực ra sống làm người, có những
điều dù khổ, dù phải tự làm khổ mình cũng phải giữ. Chết cũng giữ! Đó là những
điều thuộc về đạo lí, nhân cách làm người như lão Hạc đã giữ.
Vì thế, đã hơn 60 năm (truyện Lão Hạc ra đời năm 1943), lão Hạc vẫn sống cùng
chúng ta,sẽ còn sống cùng chúng ta. Và dẫu cho cuộc đời này còn nhiều nỗi đáng
buồn nhưng có những con người như lão Hạc thì cuộc đời "chưa hẳn đã đáng buồn".
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 7
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc với những sáng tác để lại trong lòng người
đọc nhiều day dứt và ám ảnh. Mỗi câu chuyện của ông đều mang dáng dấp của một
đời người, một kiếp người lầm than trong xã hội. Nam Cao tập trung khai thác số
phận người nông dân trước cách mạng tháng Tám, bế tắc, cùng cực đã khiến cho
cuộc đời họ chìm vào nước mắt. Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những câu
chuyện cảm động về hình ảnh nghèo khó của người nông dân, đồng thời toát lên
được vẻ đẹp tinh thần đáng quý của họ. Đây mới chính là giá trị nhân văn của tác phẩm này.
Nam Cao lấy bối cảnh lịch sử là thời kỳ đất nước đang chìm trong cảnh nước mất,
nhà tan, nhân dân lầm than, đói khổ, xơ xác. Ông đã xây dựng nên nhân vật nông
dân điển hình trong một xã hội điển hình. Qua nhân vật này tác giả muốn lột tả chế
độ thực dân phong kiến và cuộc sống bần hàn của người nông dân. Tác giả lựa
chọn ngôi kể độc đáo, theo ngôi thứ ba, theo lời của ông Giáo, hàng xóm của lão
Hạc. Bơi vậy câu chuyện thêm sinh động, chân thực và mang tính khách quan hơn.
Người đọc có thể quan sát, theo dõi cuộc đời của một con người phải trải qua bao
nhiêu thăng trầm và biến cố.
Những câu văn giản dị cứ thế đi vào long người đọc một cách chân thật và hiền
hòa nhất. Từng mảnh đời cứ chấp chới hiện lên dật dờ, nghèo đói nhưng trong họ
ánh lên sự nhân hậu, vị tha và lòng yêu thương tha thiết. Cuộc đời của lão Hạc thật
là buồn, buồn đến thê thảm. Vợ lão mất sớm, lão ở với đứa con trai. Nhưng từ khi
đứa con trai đi làm điền cao su thì lão không còn biết tin tức gì về con nữa. Lão
thương con, rồi lão thương cho chính cuộc đời của mình chẳng làm được gì cho
con. Lão Hạc là hiện thân của người nông dân hiền lành, lương thiện, chất phác,
chăm chỉ làm ăn. Ai thuê lão làm gì, lão đều làm. Nhưng cuộc đời khắc nghiệt,
cuộc sống khắc nghiệt, sức khỏe của lão yếu đi, lão không muốn cậy nhờ con và hàng xóm.
Túng quẫn, bế tắc, lão đã nghĩ đến việc bán cậu Vàng. Nhưng tình cảm của lão
dành cho cậu Vàng quá thân thiết, nên lão không nở, bao nhiêu lần mà lão không
bán nổi. Sự giằng xé trong tâm hồn đã khiến cho lão ngày càng bệnh tật, ốm đau.
Nhưng rồi vì cơm cũng chẳng có mà ăn, lấy gì nuôi cậu Vàng. Lão không muốn
tiêu vào những đồng tiết tiết kiệm lão dành dụm cho đứa con trai từ việc bán hoa
lợi và thu được từ mảnh vườn ba sào bé tí. Vậy là lão đứt ruột bán cậu vàng, nói
đúng hơn là lão phải lừa để mới có thể bán cậu Vàng.
Cảnh bán chó thực sự là một cảnh tượng xúc động, đầy dằn vặt và đau đớn của lão
Hạc. Lão đã tự thú nhận “già bằng này tuổi đầu còn đi lừa một con chó”. Ông giáo
đã kể lại cảnh tượng đó “Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những vết nhăn xô lại với
nhau, ép cho nước mắt chảy ra ngoài. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng
móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc”. Một đoạn văn tràn đầy tình
cảm, một đoạn văn khiến người đọc không cầm nổi nước mắt.
Một người nông dân chất phác, ngay cả trong việc bán chó cũng vậy. Lão không
muốn cậu Vàng đau lòng, muốn nó ra đi thanh thản nhất, nhưng thực ra lòng lão
đang quá rối bời. Những tâm sự của lão Hạc khiến người đọc xúc động, cảm thông
và rất đỗi khâm phục. Ông dù nghèo nhưng vẫn quyết dành tình cảm cho đứa con
trai duy nhất. Lão Hạc yêu thương con hết mực, quyết định hi sinh vì con. Bởi vậy
lão mới quyết định kết liễu cuộc đời mình để không liên lụy đến con mình. Một
người cha yêu thương con hết mực và là một người suy nghĩ quá thấu đáo, chu
toàn. Lão đã định sẵn cho mình một cái chết thanh thản, nhẹ nhàng nhất. Lão đã
cậy nhờ chuyện ông giáo sau khi chết giao lại mảnh vườn cho con trai và để lại 30 đồng bạc lẻ.
Chi tiết ông Giáo kể với vợ về chuyện lão Hạc thì vợ ông đã nói “Cho lão chết! Ai
bảo có tiền mà chịu khổ! Lão làm khổ lão chứ ai làm lão khổ. Nhà mình sung
sướng gì mà giúp lão. Chính con mình cũng đói". Bất lực ông giáo chỉ biết ngậm
ngùi than thở: "Chao ôi, đối với những người ở xung quanh ta, nếu ta không cố mà
tìm hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi toàn những
cớ để ta tàn nhẫn, không bao giờ thương”. Thực sự đây là một đoạn hội thoại có
giá trị nhân văn sâu sắc, khẳng định một thái độ sống về những con người ở xung
quanh mình. Có lẽ Nam Cao ngầm thương xót cho những mảnh đời bất hạnh, sống
hiền lương nhưng lại bị ruồng bỏ.
Cái chết của lão Hạc là một cái chết đầy bi kịch, thức tỉnh biết bao nhiêu con người.
Cái chết đó đã phản ánh hiện thực xã hội phong kiến nhiều bất công, đã đẩy người
nông dân vào bước đường cùng. Sự bế tắc, túng quẫn đã dẫn đến cái chết bi thảm
đó. Ông giáo đã có suy nghĩ sai lầm thì nghe bảo lão Hạc sang xin bả chó. Nhưng
thực sự là ông đang muốn kết liễu đời mình, không muốn làm gánh nặng cho con trai.
Tại sao lão lại chọn cái chết đau đớn, đầy thương tâm đó. Có lẽ đây là điều mà rất
nhiều người hỏi, nhưng có lẽ có nguyên nhân của nó. Phản ánh sự bế tắc đến cùng
cực xã hội phong kiến, đẩy con người vào chỗ chết. Có lẽ lão Hạc muốn trừng phạt
chính bản thân mình vì đã đi “lừa một con chó”, đồng thời lão muốn yêu thương
đứa con trai đến giây phút cuối cùng. Cái chết đó chỉ ông Giáo và Binh Tư mới hiểu.
Truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao thực sự ám ảnh đến người đọc vì hình ảnh
người nông dân cùng cực trong xã hội phong kiến. Đồng thời khẳng định vẻ đẹp
tinh thần lấp lánh trong con người họ.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 8
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng. Tác phẩm của ông
thường gắn liền với hình ảnh nông thôn đói khổ. Trong hoàn cảnh đó, ông vẫn nhìn
thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nghèo đang âm thầm tỏa
sáng. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm như vậy. Nhân vật chính là một lão
nông nghèo khổ, bất hạnh nhưng vẫn mang những phẩm chất cao quý đáng trân trọng.
Truyện được kể qua lời ông giáo – người hàng xóm thân thiết của lão Hạc – đã tạo
cho câu chuyện thêm phần chân thực, sinh động. Qua ông giáo, ta được biết gia
cảnh buồn của lão Hạc: vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất lại phẫn chí do bị phụ
tình vì quá nghèo nên bỏ vào Nam làm phu đồn điền cao su, biền biệt một năm nay
chẳng tin tức gì. Kỷ vật duy nhất con trai lão để lại là con chó mà lão vẫn hay trìu
mến gọi là cậu Vàng. Mỗi lần nhớ con, lão lại ngồi nói chuyện với nó cho khuây
khỏa. Vì thế, có thể nói nó là một người bạn tri kỉ của lão. Nhưng rồi, cảnh đói
kém bủa vây. Một trận ốm đã làm cho số tiền tích cóp của lão cạn dần. Còn mảnh
vườn nhưng lão không thể bán được vì lão muốn để dành nó cho con trai. Vì vậy,
sau nhiều lần định bán con Vàng, lần này lão dứt khoát chia tay nó. Lão không
muốn tiêu phạm vào những đồng tiền ít ỏi mà lão để dành cho con trai.
Cảnh lão bán cậu Vàng thật xót xa. Cả đời lão chưa dám lừa một ai. Vậy mà lần
này lão lại đi lừa một con chó – điều này làm lão đau lòng và tội lỗi: "Lão cố làm
ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước... Mặt lão
đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra.
Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc..."
Lão tìm đến ông giáo để giãi bày lòng mình. Lão muốn nhờ ông giáo trông coi hộ
lão cái vườn đến khi con trai lão trở về. Rồi lão cũng nhờ ông giáo lo liệu ma chay
cho mình nếu sau này già yếu. Những suy nghĩ, tính toán của lão thật đơn giản,
thật thà. Nhưng mọi thứ đều được lão sắp xếp một cách cẩn thận, chi tiết. Lão vừa
lo cho con trai mình, rồi lại lo đến cái chết của mình làm ảnh hưởng tới làng xóm.
Điều này như một dự báo sẽ có một biến cố lớn xảy đến với lão.
Từ ngày bán cậu Vàng, và cũng từ khi nói chuyện, nhờ cậy ông giáo xong, nếp
sống sinh hoạt của lão cũng có sự thay đổi: "Lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai
cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối,
hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa
trai, bữa ốc." Mặc dù vẫn còn ba mươi đồng bạc đó, nhưng lão không muốn là ảnh
hưởng tới cái "gia tài" của con. Xuất phát từ tình thương của một người cha đã
khiến cho lão phải chịu cảnh sống đói khổ. Nhưng không phải vì thế mà lão nảy
sinh thói hư tật xấu. Lão vẫn giữ cho mình nếp sống "đói cho sạch, rách cho thơm".
Cuộc sống bế tắc đã đẩy lão Hạc tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Trước hết,
lão sang nhà Binh Tư xin ít bả chó. Biết tin, ông giáo thấy vô cùng đau lòng: "Hỡi
ơi lão Hạc! Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư?" Ai
cũng cứ ngỡ rằng rồi đây, lão sẽ sa chân vào con đường tội lỗi khi nghe những lời
Binh Tư kể lại: "Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra
phết chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả chó. Lão bảo có con chó nhà nào
cứ đến vườn nhà lão...
Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu." Nhưng rồi cái
chết của lão đã làm đảo lộn suy nghĩ của tất cả mọi người: "Lão Hạc đang vật vã ở
trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo,
bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người
đàn ông lực lưỡng phải đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới
chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất
thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư là hiểu." Lão vẫn giữ cho bản thân mình
trong sạch, nhưng cái chết của lão thật đau đớn, bi thảm.
"Lão Hạc" đã cho chúng ta thấu hiểu được hoàn cảnh khổ đau, khốn cùng, bế tắc
của người nông dân nghèo có tâm hồn cao đẹp trong chế độ thực dân phong kiến
tàn ác đương thời. Đồng thời, truyện cũng là lời nhắc nhở cho chúng ta phải biết
quan tâm, giúp đỡ những con người có số phận éo le hơn mình.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 9
Nam Cao được đánh giá là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng, là bậc thầy
của truyện ngắn Việt Nam. Hình ảnh nông thôn bùn lầy nước đọng, tiêu điều xơ
xác vì đói khổ hiện lên thường xuyên trong tác phẩm của ông như một nỗi ám ảnh
không nguôi. Một trong những tác phẩm thể hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của
Nam Cao là truyện ngắn Lão Hạc.
Nhân vật đứng ra kể chuyện là ông giáo, người hàng xóm thân thiết của lão Hạc.
Nhờ vậy mà câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực. Tác giả dẫn dắt người đọc vào
cuộc, cùng sống, cùng chia sẻ vui buồn với nhân vật. Do đó mà người đọc có cảm
giác như mình đang được chứng kiến tận mắt diễn biến của câu chuyện bi thảm này.
Tác giả kết hợp giữa kể và tả, đan xen hiện tại và quá khứ, hiện thực và trữ tình.
Giọng kể biến đổi linh hoạt tùy theo tình huống. Cảm xúc phần lớn được thể hiện
gián tiếp suốt chiều dài truyện nhưng cũng có lúc bộc lộ trực tiếp qua những câu
cảm thán đầy xót xa, ái ngại, ẩn chứa triết lí sâu sắc về cuộc sống, về thân phận con người.
Gia cảnh của lão Hạc thật đáng buồn, vợ lão mất sớm, đứa con trai duy nhất lại
phẫn chí bỏ vào Nam làm phu đồn điền cao su, biền biệt một năm nay chẳng tin
tức gì. Lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho con. Lão sẽ sung sướng biết bao
nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã bị phụ tình chỉ vì quá nghèo.
Thương con, lão thấu hiểu nỗi đau đớn của con. Con trai lão đã vâng lời bố, không
bán mảnh vườn để lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng
thương con, lão càng xót xa đau đớn vì đã không giúp được con thỏa nguyện. Lão
Hạc mỏi mòn chờ con về, ngày ngày quanh quẩn làm thuê, làm mướn kiếm ăn. Dù
đói, lão nhất quyết giữ mảnh vườn và không ăn vào số tiền dành dụm cho con. Sau
trận ốm kéo dài, lão thấy người yếu đi ghê lắm. số tiền tích cóp bấy lâu nay đã cạn
kiệt. Rồi trận bão vừa qua đã phá sạch sành sanh hoa màu trong vườn. Giá gạo thì
cứ cao mãi lên mà lão Hạc thì chẳng còn được ai thuê mướn. Thế là lão lặng lẽ đi
đến một quyết định quan trọng. Sau khi dằn lòng bán con chó Vàng thân thiết, lão
sang nhờ cậy ông giáo một việc…
Trước tiên, lão kể chuyện bán con chó Vàng cho ông giáo nghe. Lão Hạc rất quý
con chó vì nó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai. Lão trìu mến gọi nó là cậu Vàng
và cho nó ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Với lão, con Vàng là bầu bạn sớm hôm.
Mỗi lần nhớ con trai, lão lại thì thầm trò chuyện với nó cho khuây khỏa. Vì gắn bó
như thế nên đã mấy lần định bán con Vàng mà lão vẫn không bán nổi.
Cuối cùng, cũng vì thương con mà lão phải dứt khoát chia tay với nó. Lão nghèo
túng quá! Đến Cơm cũng chẳng có mà ăn, lấy gì để nuôi cậu Vàng? Lão không
muốn tiêu phạm vào những đồng tiền ít ỏi mà lão để dành cho con trai từ việc bán
hoa lợi thu được từ mảnh vườn ba sào bé tí.
Lão Hạc tính đi tính lại và đành bán cậu Vàng để khỏi tốn kém, nhưng lòng lão thì
đau đớn, xót xa. Lão đã kể cho ông giáo nghe cảnh bán cậu Vàng với nỗi xúc động
cực độ. Lão đau khổ, dằn vặt, cứ tự trách mình vì cảm thấy mình có lỗi: già bằng
này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Cả đời, ông lão nhân hậu này nào đã nỡ
lừa ai! Thái độ và cử chỉ của lão Hạc mới đáng thương làm sao: Lão cố làm ra vẻ
vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước… Mặt lão đột
nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái
đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu
hu khóc… Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi. Trước đây, chỉ vì nghèo mà lão
không cưới được vợ cho con thì bây giờ cũng chỉ vì nghèo mà lão phải buộc lòng
cư xử không đàng hoàng với một con chó.
Nhưng không chỉ có vậy. Qua từng trang truyện, chúng ta còn hiểu thêm về một
lão Hạc đôn hậu, chất phác. Suốt đời lão sống quanh quẩn trong lũy tre làng nên
những suy nghĩ, tính toán của lão rất đơn giản, thật thà. Lão tìm đến ông giáo để
chia sẻ tâm sự và quan trọng hơn là tìm một chỗ dựa tinh thần. Nghe những lời tâm
sự của lão Hạc, không ai có thể kìm nổi xót thương, thông cảm và khâm phục một
con người bất hạnh vì nghèo đói nhưng không hề nghĩ đến mình mà dồn tất cả tình
yêu thương cho đứa con trai duy nhất.
Lão đã chuẩn bị kĩ lưỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo giữ hộ mảnh
vườn và gửi ông giáo ba mươi đồng để lo chôn cất. Lão không muốn làng xóm
phải tốn kém vì lão. Rất có thể vì tốn kém mà người ta lại chẳng oán trách lão sao?
Không để phiền lụy đến mọi người, đó cũng là một cách giữ gìn phẩm giá. Ông lão
bề ngoài có vẻ gàn dở nhưng bên trong lại có phẩm chất đáng quý nhường nào!
Xét về tuổi tác, lão Hạc còn có thể sống lâu, nhưng lão chỉ còn vẻn vẹn ba mươi
đồng bạc, nếu tiếp tục sống thì phải ăn vào chút vốn liếng ít ỏi, cho nên lão đã chọn
cái chết để bảo toàn căn nhà và mảnh vườn cho con trai. Cái chết tự nguyện này
xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà sâu nặng, từ lòng tự trọng đáng kính của
lão Hạc. Cái chết bi thảm của lão Hạc là biểu hiện cao nhất của đức hi sinh. Chính
vì thương con, muốn giữ cho con chút vốn giúp nó thoát cảnh đói nghèo mà lão
Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó là một sự lựa chọn tự nguyện và dữ dội, đầy bi
kịch. Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão Hạc đến việc coi cái chết như một
hành động giải thoát. Chi tiết này phản ánh số phận bi thảm, bế tắc của nông dân
nghèo trong xã hội thực dân phong kiến đầy áp bức bất công..
Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì nghèo đói
cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách
mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh lão Hạc luôn nhắc
nhở chúng ta nhớ đến những con người nghèo khổ mà trong sạch với một tình cảm
xót thương và trân trọng.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 10
Nhận xét về cách viết của Nam Cao trong những truyện ngắn, giáo sư Hà Minh
Đức viết: "Viết về những nhân vật này, ngòi bút Nam Cao không lạnh lùng khách
quan mà tha thiết gắn bó; không châm biếm, mỉa mai mà chân thành, xúc động.
Tác giả xem mình cũng là người trong cuộc".
Nhận xét về cách viết của Nam Cao trong những truyện ngắn về những người nông
dân tột cùng thống khổ và đau thương, giáo sư Hà Minh Đức viết: "Viết về những
nhân vật này, ngòi bút Nam Cao không lạnh lùng khách quan mà tha thiết gắn bó;
không châm biếm, mỉa mai mà chân thành, xúc động. Tác giả xem mình cũng là
người trong cuộc". Trong số những tập truyện ngắn của Nam Cao, truyện Lão Hạc
là một điển hình về bút pháp như vậy của tác giả viết về những người nông dân đau
khổ và lầm than vô hạn.
Viết về lão Hạc – nhân vật chính trong truyện, một người nông dân tột cùng nghèo
khổ và đau thương – ngòi bút của Nam Cao đã bộc lộ một tình cảm tha thiết gắn bó.
Khi chưa hiểu rõ tâm tình của lão Hạc thì giọng điệu của ông giáo dưới ngòi bút
của nhà văn tưởng chừng vẫn chỉ là viết về một loại Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận
nào đó: "Tôi nghe câu ấy đã nhàm rồi… Lão nói là nói để đấy thôi… Làm quái gì
có một con chó mà lão có vẻ băn khoăn quá thế". Đôi lúc, ông còn bộc lộ sự tự tôn
mình, coi thường người nghèo khổ: "Lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào
đâu so với tôi quý năm quyển sách của tôi". Một sự lạnh lùng khách quan: Tôi
"dửng dưng" nhìn lão để rồi mộng tưởng về một cái thời "say mê", đẹp đẽ, chăm
chỉ và đầy "cao vọng" của riêng mình.
Ta bắt đầu cảm thấy một bóng dáng đơn điệu của làng quê ông giáo Thứ trong
truyện Sống mòn: con người lạnh nhạt, bới móc nhau… Nhưng tác giả không dừng
lại ở đó, ông đưa những trang viết về tình cảm của ông giáo đối với lão Hạc tiến
triển một cách chậm rãi lần theo những lời kể của ông lão, khiến người đọc ngày
càng thấy sự rung động, sâu xa của cõi lòng tác giả: Người con trai lão thất tình, bỏ
đi phu cao su, để lại cho người cha vài đồng bạc để "ăn quà", một con chó và mảnh
vườn nho nhỏ, biệt tích, để cho lão cứ ngóng trông, dành dụm, chắt chiu mà nào
biết bao giờ nó về! Vợ mất, con biệt xứ, lão cô đơn giữa tuổi già và cái chết đang
dần đến. Ngòi bút của nhà văn lại bùi ngùi, xúc động: "Già rồi mà ngày cũng như
đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai mà chả phải buồn". Vì vậy mà "những lúc buồn,
có con chó làm bạn thì cũng đỡ bồn một chút", nhắc đến con "lão rân rấn nước
mắt". Đến đây thì ông giáo đã thốt lên: "Bây giờ thì tôi không xót xa năm quyển
sách của tôi quá như trước nữa".
Trước những đe dọa rình rập, những mất mát chồng chéo lên nhau, ông giáo đành
an ủi lão Hạc mà ta nghe thấy biết bao đau xót, thương cảm: "Lão Hạc ơi ! ta có
quyền giữ cho ta một tí gì đâu?". Thì ra tác giả đâu có thờ ơ, ông thấu hiểu con
người tốt đẹp ấy, mỗi lời kể như đượm nỗi xúc động: Thương con, lão không muốn
bán đi con chó – kỉ vật của con. Nhưng nuôi nó thì tốn mà lão không muốn phải
tiêu vào tiền lão đã dành dụm cho con. Nhưng cái nghèo khổ cứ đến: "làng mất vé
sợi", "Lão Hạc không có việc"… Sự điêu đứng cứ dồn dập đến. Ngòi bút nhà văn
trở nên xót xa cho lão Hạc. Trước cảnh lão khóc vì để con chó bị bắt, ngòi bút
Nam Cao bỗng như trào lên nước mắt. Ông giáo hỏi như để che giấu nỗi đau: "Thế
nó cho bắt à", rồi đau đớn và phủ nhận, ông kết luận: "Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ!",
đều khổ, đều cơ cực, kiếp người không khác kiếp con chó. Số phận một con chó
chấm dứt bằng một cái chết bi thảm thì con người cũng không hơn, còn dữ dội gấp trăm lần.
Nhà văn cảm thông tha thiết với "những người cùng khổ ấy", muốn san sẻ nỗi cực
nhục với họ, bởi "một chút âu yếm, một chút tình thương cũng đủ để nâng đỡ họ"
(Thạch Lam). Nhưng Nam Cao còn sâu sắc hơn, ông giận cuộc đời gian ác đã cướp
đi bao người lương thiện như lão Hạc, nên ông cầm bút khóc cho những con người
đang quằn quại sống và quằn quại chết đó.
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc - Mẫu 11
Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc. Hai mảng đề tài chính trong các tác
phẩm của ông là người nông dân và tri thức nghèo. Một trong những tác phẩm tiêu
biểu viết về người nông dân là truyện ngắn Lão Hạc.
“Lão Hạc” được đăng báo lần đầu năm 1943. Truyện kể về Lão Hạc là một người
nông dân nghèo khổ. Lão có một đứa con trai nhưng vì nhà nghèo, không có tiền
lấy vợ nên bỏ đi đồn điền cao su. Cả gia tài của lão chỉ có mảnh vườn vốn là của
hồi môn của con trai và con chó Vàng sống cùng để bầu bạn. Sau trận ốm thập tử
nhất sinh, nhà lão không còn gì để ăn. Lão đành phải bán con Vàng đi. Số tiền bán
chó và bán mảnh vườn, lão đem gửi ông giáo và nhờ khi nào anh con trai về sẽ trao
lại cho anh. Còn bản thân thì đến xin Binh Tư một ít bả chó để tự tử.
Nhân vật chính trong truyện là lão Hạc, một người nông dân nghèo khổ nhưng
sống tình cảm. Điều này được thể hiện rõ qua sự gắn bó, đau xót, tiếc thương của
lão khi phải bán đi cậu Vàng. Bên cạnh đó, lão còn là một người cha yêu thương
con hết mực, luôn nghĩ cho con và dành dụm cho con. Không chỉ vậy, Lão cũng là
một người có lòng tự trọng. Dù sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn nhưng
không có những suy nghĩ, việc làm trái với lương tâm và cũng không muốn ảnh
hưởng, phiền hà đến bất cứ ai.
Nhân vật ông giáo xuất hiện với vai trò người kể chuyện, xưng “tôi”. Nhân vật này
là hàng xóm cũng có thể coi là người bạn tâm giao của lão Hạc. Ông giáo là người
được lão Hạc tin tưởng. Lão kể cho ông giáo nghe về việc bán con chó Vàng, lão
nhờ ông giáo giữ hô số tiền bán mảnh vườn và con chó để khi con trai của lão trở
về sẽ giao lại. Không chỉ vậy, qua nhân vật ông giáo, Nam Cao cũng gửi gắm một
số triết lí về cuộc sống, tư tưởng sâu sắc.
Bên cạnh những thành công về nội dung, truyện ngắn còn gây ấn tượng với người
đọc bởi nghệ thuật tác giả sử dụng vô cùng đặc sắc. Đầu tiên phải kể đến nghệ
thuật xây dựng và khắc họa nhân vật vô cùng tiêu biểu, đậm nét. Lấy hình ảnh một
con người để nói đến một bộ phận người. Tiếp đến là nghệ thuật miêu tả chân dung
nhân vật vô cùng tài tình. Sự kết hợp giữa phương thức tự sự và trữ tình cũng tạo
nên sự đa chiều của câu chuyện. Có lúc là giọng văn tự sự mẫu mực, có lúc lại
khiến người đọc rưng rưng xúc động với những xúc cảm do tác giả thể hiện.
Lão Hạc của nhà văn Nam Cao xứng đáng là một tác phẩm hay. Truyện không chỉ
thành công bởi những giá trị về nội dung mà còn cả bởi giá trị về nghệ thuật.