-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Vẻ đẹp trữ tình - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương
Vẻ đẹp trữ tình - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Văn học dân gian (LITR1234) 42 tài liệu
Đại học Hùng Vương 153 tài liệu
Vẻ đẹp trữ tình - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương
Vẻ đẹp trữ tình - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Văn học dân gian (LITR1234) 42 tài liệu
Trường: Đại học Hùng Vương 153 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút có sức sáng tạo dồi dào của nền văn học Việt Nam với những thành tựu xuất sắc ở cả
hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám. Ông là một nghệ sĩ tài ba, uyên bác, có cá tính độc đáo. Là một nghệ sĩ suốt
đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mỹ, thường miêu tả con người trong
vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Ông sáng tác nhiều thể loại nhưng đặc biệt thành công ở thể tùy bút. Tác phẩm tiêu biểu nhất của
Nguyễn Tuân ở thể loại này là tùy bút “Người lái đò sông Đà".
Nhà văn Pautoxki từng quan niệm: “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường tới xứ sở của cái
đẹp". Nguyễn Tuân là một nhà văn như thế. Một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Hầu hết các sáng tác của Nguyễn Tuân là
hành trình đi tìm cái đẹp trong thiên nhiên và con người. Tùy bút “Người lái đò sông Đà" đã được in trong tập tùy bút “Sông
Đà” (1960). Tác phẩm là thành tựu nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khó tải miền
Tây Bắc rộng lớn, hoang vu nhưng ẩn chứa nhiều vẻ đẹp hoang dại, kì bí của thiên nhiên. Ông đã tìm thấy trong sương khói
Tây Bắc ẩn hiện lên chất vàng của thiên nhiên nơi đây, là “thứ vàng mười đã qua thử lửa của tâm hồn Tây Bắc.”
"Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà" Nguyễn Tuân đã sáng tạo hình tượng con sống và không phải là một thiên nhiên vô tri,
tố giác mà là một sinh thể sống động, không chỉ là một thế giới sống mà còn là một thế giới biết nói”. Gây ấn tượng hơn cả là
nét thơ mộng trữ tình của dòng sông Đà. Dòng sông gợi cảm, trữ tình và nên thơ sau khi đã đi qua thác ghềnh. Sông Đà tạo
thành chất men cho cuộc sống của con người Tây Bắc. Từ nhiều góc nhìn khác nhau, Nguyễn Tuân đã có những phát hiện mới
mẻ về vẻ thi vị, yên ả của con sông này. Qua bao thác ghềnh, con sông trở nên hiền hòa, mềm mại, uyển chuyển hơn bao giờ hết.
Trước hết, tác giả quan sát sông Đà từ trên cao nhìn xuống. Từ trên tàu bay nhìn xuống, Tây Bắc như người thiếu nữ duyên
dáng, yêu kiều mà sông Đà chính là áng tóc mềm mượt của người con gái khao khát thanh xuân này. Nguyễn Tuân nhìn thấy
dòng chảy uốn lượn của con sông Đà tựa như áng tóc buông dài vắt ngang qua núi rừng hùng vĩ. Nhà văn đã sử dụng câu văn
dài hơi, hạn chế ngắt quãng để gợi tả độ dài của sông Đà, của mái tóc thiếu nữ. Đồng thời, sử dụng từ ngữ mượt mà cũng là
cách để nhà văn gợi tả cái dòng chảy êm đềm của con dông mang linh hồn Tây Bắc: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một
áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói
núi Mèo đốt nương xuân.” Hai từ “tuôn dài” được đặt kề nhau không phải là lối lặp từ của Nguyễn Tuân, đó là cách để dòng
sông trong đôi mắt của ông “tuôn dài” giữa núi rừng, giữa lòng người lao động. Nhà văn khéo léo gợi lại thần sắc mây trời
Tây Bắc, màu hoa ban trắng xóa, hoa gạo đỏ tươi đặc trưng cho miền núi rừng hùng vĩ này. Khói núi Mèo mà người đồng bào
đốt nương mỗi khi Tết đến cũng khiến lòng người nao lòng đến lạ. Tây Bắc muôn đời vẫn đẹp, sông Đà dẫu hung hăn đến đâu
cũng có đoạn yêu kiều, diễm lệ như cô gái cháy bùng sức trẻ trong khoảnh khắc thanh xuân.
Nhìn sông Đà từ nhiều thời điểm khác nhau, nhà văn phát hiện màu nước sông Đà thay đổi theo mùa, mỗi mùa lại mang một
vẻ đẹp riêng. Nguyễn Tuân đặc biệt chú trọng sắc nước sông Đà ở hai mùa: xuân và thu. Hai mùa để thương để nhớ, để nhà
văn ngắm nhìn và gợi tả cái dòng nước u huyền, ngọt ngào mang đặc trưng riêng biệt: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân
bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn dòng nước sông Đà”. Tây Bắc vào xuân, sự biến ảo của đất
trời, thiên nhiên khiến sắc nước sông Đà cũng trong xanh kì lạ: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không
xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô.” Màu xanh “ngọc bích” khiến dòng nước không chỉ xanh mà còn trong vắt,
long lanh như tấm gương phản chiếu vẻ đẹp của đất trời nơi đây. Đến khi Tây Bắc vào thu, vẻ trầm mặc của thiên nhiên khiến
dòng nước sông đỏ hẳn đi: “Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một nguời bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ
giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về.” Cách so sánh màu nước sông Đà mùa thu với màu da của một người
nghiện rượu khiến dòng sông có sắc thái, có tinh thần, có cảm xúc hơn. Màu nước này cũng giống như cái màu đỏ giận dỗi,
hờn trách “của một người bất mãn, bực bội gì mỗi đọ thu về”. Nhà văn khéo léo khi so sánh dòng sông với con người, khéo
léo trao thần sắc, tâm trạng của con người vào dòng sông vô tri vô giác.
Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn nhìn sông Đà dưới góc độ một “cố nhân”. Nhà văn kể lại nỗi thèm thuồng khoảng
không gian thoáng đãng trên sông Đà khi ông lạc vào rừng sâu Tây Bắc. Nhớ sông Đà, Nguyễn Tuân lặn lội đi tìm con sông
như tìm một người bạn. Và rồi sông Đà hiện hình trước mắt ông mà dấu hiệu nhận biết chính là: “Cái miếng sáng lóe lên một
màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Cảm xúc của người lâu ngày gặp lại sông Đà “vui như
thấy giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Rõ ràng, sông Đà chính là người bạn của Nguyễn Tuân.