Việt Nam mở cửa và hội nhập - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Việt Nam mở cửa và hội nhập - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

1
VNH3.TB17.735
VIT NAM M CA VÀ H I NH P
NHÌN T KINH NGHIM TH K XX
GS. Vũ Dương Ninh
Đại h c Qu c gia Hà N i
Vit Nam đang bước vào thp niên đầu ca thế k XXI. Nh ng thành t u đạt được
hôm nay chính kết qu ca m t quá trình đấu tranh gii phóng dân t c xây dng đất
nước. Trong đó, quan h đối ngoi đóng m t vai trò quan tr ng.
Ngược dòng lch s ca thế k XX, bài viết đề c p đến ba l n m ca hi nhp
vi nhng tht bi và thành công để t đ ó nêu lên mt vài suy nghĩ v n m b t thi cơ trong
s hi nhp hôm nay.
I. Vit Nam m ca và hi nhp đầu thế k XX - mt th nghim không thành
L ch s Vi t Nam bước vào thế k XX được phác ho như m t b c tranh màu m
đạm. Sau g n n a thế k chinh phc, đế qu đ ếc Pháp ã thi t lp chế độ thuc địa trên mnh
đất này. Các phong trào ch ng xâm lược - t khi nghĩa nông dân đến cu c v n động C n
vương - đều ln lượt th t b i. Các cuc đấu tranh nh m b o v n n độc lp, ph c h i vương
tri u t ch không còn phù h p, ý th c h phong kiế đn ã tàn phai, người ta mu đ n i tìm m t
con đường mi.
Con đường mi y chính là xu hướng dân ch đang làm thc tnh các dân tc châu Á.
Đối v ư ĩi Vit Nam th i đó, nh ng người đi đầu trong trào l u dân ch chính các s phu
cp tiến mà đại din là Phan Bi Châu và Phan Châu Trinh.
Trong khát vng tìm đường cu nước, Phan Bi Châu thành lp Đồng minh hi
(1904), đề ra mt trong ba nhim v trước mt là “chun b xut dương cu vin”, được coi
là nhim v quan trng nht.
Thi hành nhim v xut dương cu vin, Phan Bi Châu suy tính: Trong các lit
cường, nếu không phi nhng nước cùng nn văn hoá, cùng gi ng da vàng thì h s
không giúp mình; còn Trung Quc đã chu nhường nước ta cho Pháp, thế l ếc suy y u, t
cu không xong; ch Nht Bn, va nước da vàng li va tân tiến, “vy thì bây gi
mun tìm ngoi vin, không gì bng sang Nh t là hơn c ” (1).
2
Như vy, Nh t Bn là m u hình mà các hi viên trong Đồng minh hi hướng ti. Vi
thành tu ca công cuc Duy tân Minh Tr, Nht Bn quc gia duy nht trên thế gii
thoát khi ách thng tr c a th c dân Âu M, gìn gi được n n độc l p vươn lên hàng
cường quc. Nht là chiến thng ca Nht trong chiế ăn tranh vi Nga n m 1905 đã gây tiếng
vang ln v thng l i ca m t nước châu Á đối vi mt nước châu Âu, ca mt dân tc da
vàng chng li mt dân tc da trng. Người Nht tuyên truyn thuyết Đại Đông Á, đưa ra
chiêu bài “đồng văn, đồng chng” nhm xác lp vai trò người lãnh đạo khu vc. Hướng v
Nht Bn, các chí sĩ thi đó cũng có phn lo ngi vì Nht “t ngày thng Nga li càng sinh
tâm” nhưng vn hy vng vào thuyết đồ đồ đểng văn, ng chng” th thuyế t ph c h
giúp đỡ binh lính hoc khí gii và lương thc.
Phan Châu Trinh hướng v phương tri Tây, tiếp nhn quan đim dân ch tư sn,
chng li chế độ quân ch phong kiến. Tm gương ca Cách mng Pháp 1789, ca nhà lãnh
đạo M G. Oasinhtơn, ca nh ng người anh hùng Ý Matdini Garibanđi cùng trình độ
công ngh hin đại ca các nước Âu M đã thúc đẩy C m nh m đấu tranh ch ng vương
triu thi nát, đòi thiết lp chế cđộ ếng hoà. C di n thuy t, viết sách o kêu gi s thc
tnh ca đồng bào, truyn nhng tư tưởng tiên tiế n cùng nh ng thành t u khoa h c k
thut mong đất nước sánh vai cùng các lit cườ ương vi ph ng châm “chn dân khí, khai
dân trí, hu dân sinh”. Vi nh hưởng r ng l n kh p c nước, “C được sĩ phu Duy tân
hưởng ng đưa lên thành cao trào yêu nước, mt cu c cách m ng tân văn hoá vn động
dân quyn sôi ni trong nhng năm đầu thế k XX” (2).
Cui cùng, c hai xu hướng ca Phan Bi Châu và Phan Châu Trinh đều không thành
công. nhiu nguyên nhân dn ti s b t thành đó, song th th y mt đi m chung
chính là s phát trin ca thi cu đ ưc ã vượt lên quá xa, các qu c gia quê hương c a t tưởng
“T do, Bình đẳng, Bác ái” cũng như c a cu c Duy tân Minh Tr n đ i tiếng ã không s n
sàng giúp đỡ các dân tc nh yế u đi theo con đường h đã đi. Ngược l i, các quc gia
nh yếu chính là đối tượng xâm lược và nô dch ca h. S câu kết gi a chính ph Nht Bn
vi gii cm quyn thc dân Pháp Đông Dương để trc xut các nhà cách mng Vit Nam
là minh chng cho chính sách thuc địa c a h . Nim hy v ng c a các C đặt vào các “lit
cường tiên tiến” b tan v.
Nhưng du sao phong trào yêu nước đầu thế k ũ đ XX c ng đã ánh d u m t bước phát
trin mi. thoát khi tình trng b o bế trong khuôn kh tng địa phương ca c cuc
khi nghĩa nông dân hay phong trào Văn thân chng xâm lược. bt đầu hướng ra bên
3
ngoài vi s h c hi c u vi n, v n vượt qua ý thc h phong kiến để tiếp c i xu hướng
dân ch tư sn. Cánh ca đã hé m vi nim hy vng canh tân và hoà đồng vào trào lưu thế
gii như đng th i cơ ã vượt qua, tt c đã tht bi.
Nhng c gng p đầu tiên ca s m ca và hi nh đầu thế k XX đã không thành !
II. Vit Nam m ca và hi nhp gia thế k XX - s chn la trong Thế gii hai cc
Nguyn Ái Quc / H Chí Minh đã vượt qua cái khung hn hp ca các bc tin bi,
hướng tm nhìn ra thế gii rng ln đầy sôi động. Qua cuc hành trình cu nưc khp năm
châu bn bin, đi qua các nước văn minh các thuc địa, tiế p xúc v i nhiu lo i người t
ch tư b n đến người nô l, nhìn rõ cuc đấu tranh gii phóng đang lan rng, H Chí Minh
đã rút ra mt nhn xét: “Vi t Nam là m t b ph n c a thế gi i, cách m ng Vi t Nam là mt
b phn ca cách mng thế gii”. Chân y tưởng như gin đơn nhưng đã m rng cánh
ca tư duy gn cuc đấu tranh ca dân tc vào phong trào đấu tranh ca thế gii.
T Đại hi Tua (1920) qua các din đàn ca Quc tế C ng s n đến vi c thành lp
Đảng C ng sn Vi t Nam (1930), H Chí Minh bng nhn thc và hành động ca mình đã
kết ni phong trào đấu tranh trong nước v ư i trào l u cách mng vô s ến th gi i.
Trong Thế chi n thế hai, cuc đấu tranh giành độc lp ca Vit Nam đã hoà nhp
cùng phong trào đấu tranh chng phát xít trên thế gii khi chế độ quân phit Nht Bn
đầ đểu hàng thì cũ ơng là th i c Mt tr n Vi t Minh lãnh đạo T ng kh i nghĩa thành công.
Trên cương v Ch t ch Chính ph lâm th i nước Vit Nam Dân ch C ng Hoà, H
Chí Minh đã kêu gi nguyên th các cường quc hãy công nhn nước Vit Nam độc lp
kết np Vit Nam vào Liên Hp Quc. Nhng n lc để m cánh ca đưa quc gia non tr
hi nhp cùng thế gii đã không thành - người M quay đi, người Nga im lng, có nghĩa
để ng c a cho th c dân Pháp quay l i tái chiếm m Đông Dương. Nhng nă đầu ca cuc
kháng chiến chng Pháp được tiến hành bng tinh thn và s c l c c a bn thân dân t c Vit
Nam sc sôi ý chí vì Độc lp, vì T do mà không có m t s tr giúp nào t bên ngoài.
Trt t hai c ế c Ianta ngày càng th hi n trên b n đồ chính tr th gi i: Châu Âu v i
Đ Đ Đ ông Âu và Tây Âu, ông Đứ Đức và Tây c, ông Beclin và Tây Beclin; Châu Á v i Nam
Bc bán đảo Cao Ly (CHDCND Triu Tiên Đại Hàn Dân Quc), CHND Trung Hoa
vi Đài Loan.
Cuc kháng chiến Vit Nam bt ngun t mâu thun dân tc gia nhân dân Vit
Nam vi ch nghĩa thc dân Pháp, nhưng trong bi c ế nh ca Chi n tranh l nh, nó không th
4
không mang du n ca Trt t hai cc. Trong b i c nh đó, b t c m t quc gia nh yếu
nào cũng phi tìm cho mình mt ch da, hoc bên này, hoc bên kia.
Nhânn Vit Nam đã tiến hành cuc kháng chi iến g n 5 n ăm tri trong đ u kin
hu như đơn độc, phi chiến đấu trong ng vây. Đến khi Cách mng Trung Quc thành
công, nước CHND Trung Hoa ra đời (10-1949), biên gii phía Bc nước ta rng m,
cách m i cng Vit Nam thông được vi thế gii bên ngoài. Chuyến đ a Ch tch H Chí
Minh tháng 1-1950 đã thiết lp quan h ngoi giao vi Trung Quc, Liênc nước
XHCN khác.
Đ ây chính l n m c a h i nhp thành công đầu tiên ca nhà nước Vit Nam độc
l ip. Đ u đặc bit ca s hi nhp ln này Vit Nam bước vào thế gii XHCN ba
mươi năm v trước, Nguyn Ái Quc đã chn con đường “tin theo Lênin, tin theo Quc tế
Ba ”. Đó kết qu c a 20 năm đấu tranh gi i phóng dưới ngn c c a Đảng C ng s n.
đặc bit, đó h qu c a nh ng th ng l i bước đầu ca nhân dân Vit Nam trong cu c
chng chi k thù đế quc. Vic Vit Nam bước vào hàng ngũ các nước XHCN cũng h
qu ca tình thế “hai cc” đang chi phi đời sng chính tr quc tế.
T đó, Vit Nam nhn được s đồng tình ng h và s vin tr v t cht c a các nước
XHCN, đã tiến hành thng li hai cuc kháng chiến chng thc dân Pháp và chng đế quc
M. Bng đường li đoàn kết quc tế, chúng ta đón nhn tình hu nghs đoàn kết ca
các dân tc đang đấu tranh nn độc lp dân tc, ca các đoàn thnhân sĩ yêu chung
công hoà bình thế gii. Điu đặc bit hiếm hoi trong lch s thế gii là trong cuc
kháng chiến chng Pháp, chúng ta nhn được s chia s t đ phía nh ng nhân sĩcác oàn
th Pháp đòi chính ph nước h chm dt “cu ế Đc chi n tranh bn thu” ông Dương;
trong cuc kháng chiến chng M, sinh viên, trí thc và nhiu tng l đp nhân dân M ã đấu
tranh đòi quân đội M rút kh i Vi t Nam, đưa lính M v nước. Nh ếng ph n ng quy t lit
ca nhân dân các nước phn đối chính ph nước h tham chiến Vi t Nam tr thành mt
nhân t góp phn o thng li ca nhân dân Vit Nam. đ ũó c ng thành công ca
chính sách m ca và hi nhp, làm cho thế gi ĩ i hi u rõ tính chính ngh a ca Vi t Nam, đấu
tranh chng li s phi nghĩ a và b o v sinh m nh ca con em nước h.
Trong công cuc cu nước vì Độc lp và Thng nht, đường li m c a và h i nh p,
nói cách khác đường li đoàn kết quc tế được đánh giá xng đáng mt trong nhng
nhân t góp phn vào thng li cu a thi cùng c i k cách mng dân tc, dân ch .
5
III. Vit Nam m ca và hi nhp cui thế k XX - nhng thành qu bước đầu
Vi thng li năm 1975, quan h đối ngoi ca nước Vit Nam thng nht được m
rng, đã thiết lp quan h ngoi giao vi nhiu nước, gia nhp Liên Hp Quc và tham gia
nhiu t chc quc tế khác. Nhưng ch sau vài năm, cánh ca liên h vi thế gii b đóng
sp li. Cái gi “vn đề Campuchia” được coi nguyên c trc tiếp gây nên tình trng
này. Vit Nam rơi vào thế hu như bl ế p, chư a bao gi vòng vây bên ngoài xi t cht g t
gao đến thế.
Có nhiu nguyên nhân khách quan và ch quan dn ti tình hình này. Song v m t nh n
thc, có đôi điu nên suy nghĩ.
Tình hình phc tp Đông Dương khi đó b chi ph i bi 2 lo i mâu thun chính. Đó là
mâu thun gia các nước cùng ý thc h XHCN, cùng do Đảng Cng s n lãnh đạo. Và mâu
thun vn có gia Vit Nam vi Hoa K sau nhi ế ău năm chi n tranh c ng thng.
V mâu thun th nht có 2 tng nc: mt mâu thun gia các nước Trung Quc,
Campuchia và Vit Nam; hai là mâu thun gia Trung Quc và Liên Xô, hai mâu thun này
chng chéo nhau, tác động ln nhau, chi phi tình hình trên bán đảo Đông Dương.
Qua quá trình lch s , chúng ta nhn th c khá rõ v mâu thun gia Vit Nam và Hoa
K, mâu thun gia nn độc lp dân tc vi k xâm lược, đồng thi mâu thun gia mt
nước XHCN vi m đt nước Đ ưQCN. Nh ng ph ư i chăng chúng ta ch a nhn th c úng v
mâu thun gia c nước XHCN mc du đến na đầu nhng năm 80, mâu thun Trung -
đã di ăn ra công khai g n hai ch c n m tri. Chúng ta ch đ coi ó s b t đồ ng n i b
phong trào công nhân quc tế. Nht trong thuyết v 4 mâu thun cơ bn c a th i k
quá độ (gia CNXH và CNTB, gia giai cp vô sn và giai cp tư s n, gia phong trào gi i
phóng dân tc vi ch nghĩa đế quc, gia các nước TBCN) thì không nói đến mâu thun
gia các nước XHCN. Do vy, vào nhng năm cui 70 - đầu 80 ca thế k trước, phi
chăng chúng ta đã lúng túng khi đối m t v i m i mâu thun chưa h tính đến ? thc
cht, mâu thun gia các nước TBCN hoc mâu thun gia các nước XHCN đều cùng
mt bn ch đt, ó là mâu thu n v li ích qu c gia, dù r ng cùng trong mt ý thc h.
Trước tình đó, người M quay tr li tă ng cường chính sách thù địch v i Vit Nam,
tiến hành bao vây cm vn. Mt “liên minh quc tếchng Vit Nam đã hình thành, gây ra
biết bao khó khăn v kinh tế - xã hi nước ta.
Đến đ đ ây cũng có i u nên n ti v mi quan h gia chính tr đạo lý. T sau
năm 1975, càng ngày thế gii càng nhn rõ chính sách dit chng ca tp đoàn Khơme Đỏ
6
được s ng h c đ đ a nước ngoài. T i ác tày tri c a chúng ã cướp i sinh m ng ca 2 triu
người dân Campuchia (tương đương 1 phn 4 dân s), phá hoi nn kinh tế vn đã nghèo
nàn và gây ra nhiu v xâm phm vào biên gii Tây Nam nước ta. Theo li kêu gi ca Mt
trn cu nguy dân tc Campuchia, quân đội Vit Nam cùng vi lc lượng yêu nước
Campuchia đã m cuc tiến công quét sch lũ Pôn Pôt, hi sinh đất nưc “t con s
không”. Hành động thin chí đó đã cu nguy cho s tn vong ca c mt dân t c Qu c
vương Nôrôđôm Xihanuc tng nói:”Không b đội Vit Nam giúp đỡ gii phóng nhân
dân Campuchia thoát nn dit chng thì con cháu nhà vua cũng chết hết”. Th tướng
Hunxen khng định: "Phi tha nhn mt s th t là: nế ếu th gi i ng đòi hi phi đưa bn
đầu s Khơ me Đỏ ra xét x bao nhiêu thì càng c n phi ca ng i s anh hùng ca các chiến
sĩ quân tình nguyn Vit Nam - nhng người đã hy sinh thân mình vì nhân dân Campuchia
by nhiêu” (3 ).
Nhưng do li ích chính tr, nhiu chính ph trong khi vch ti ác ca chế độ dit
chng li ln tiếng to “Vit Nam xâm lược Campuchia”. Có lý l cho rng s can thip
ch được coi nhân đạo khi mt liên minh nhiu nước tham gia. Chính dưới chiêu bài
đó, lch s đã chng kiến bao cu ĩc xâm lược mang danh ngh a “Liên minh”? Rõ ràng là đạo
lý ca cuc sng nhiu khi b lu m trước s c ép v chính tr mà phi qua mt th i gian lâu
dài, lch s mi có th phán xét công minh.
Tình trng đối đầu gia hai khi nước ASEAN Đông Dương na đầu nhng năm
80 không đem li li ích cho mt ai Đông Nam Á bi ngun gc ca tình hình đó
không bt ngun t mi mâu thu n tr c tiếp nào gi a các nước thu c hai kh i. Lch s hi n
đại Đ ơông Nam Á đã h n m t ln ch ng minh r ng nh ng v căng th ng trong khu v c
thường do tác nhân t bên ngoài đem li li ích cho bên ngoài. Cho nên trong không
khí hoà du trên phm vi thế gii, các nước Đông Nam Á đều mu đn i tìm bin pháp cùng
nhau hoà gii và hp tác.
Năm 1986 đường li Đổi mi ca Vit Nam đã bước đầu m ra kh năng vượt qua
tình trng b bao vây. Có th nói trong khong thi gian gia hai k Đại hi ca Đảng Cng
sn Vit Nam (12/1986 7/1991), đường l đ đi đối ngo i rng m, a phương hoá, a dng
hoá dn dn hình thành. Nhtsau khi quân đội Vit Nam đ ã rút toàn b kh i Campuchia
(9/1989) thì nhng vướng mc trong quan h vi các nước ASEAN, Trung Quc, Hoa K,
EU…dn dn được tháo g T đ i Đại h i VII c a Đảng ã vang lên l i tuyên b trnh tr ng:
7
“Vit Nam mun là bn ca tt c các nước trong cng đồng thế gii phn đấu vì hoà bình,
độc lp và phát trin”.
Lưu ý rng vic định hướng thc thi đường li đối ngoi theo tinh thn Đổi mi
din ra trước khi Nhà nước Liên xô tan rã (12/1991). S kế ế t thúc chế độ vi t sau g n ba
phn tư thế k t n ti là mt thách th c r t ln đi v i nước ta, ch ng nh ng v mt chính
tr, kinh tế c v m ưt t tưở ượng và quan h đối ngoi. Các l c l ng đố đợi l p ch i mt
biến động t ng tươ các nước XHCN Đông Âu s din ra Viêt Nam vào năm tiếp theo,
nhưng điu đó đã không xy ra.
Trái li, Vit Nam đ ã vượt qua được thách th c vô cùng him nguy, tiếp t c m rng
quan h vi thế gii, khi đầu bng vic tham gia ký Hip định Bali, tr thành quan sát viên
ca ASEAN (1992). Tiếp sau đó là các cuc viếng thăm ln nhau gia các nhà lãnh đạo Vit
Nam vi nguyên th các nước Trung Quc, Đông Nam Á, Nht Bn, Tây Âu và nhiu nước
khác to nên bu không khí hu ngh, m ra kh nă ưng hp tác v thương mi đầu t .
Tình trng b bao vây, c m v n được tháo g d n dn để đế n tháng 7/1995, Vi t Nam gt
hái được mt v mùa bi thu v đối ngoi: ngày 11 thiết lp quan h ngoi giao vi Hoa K,
ngày 17 ký Hip định khung vi EU, ngày 28 gia nhp ASEAN, là thành viên th 7 ca t
chc khu vc này.
Như v y trên ch ng đường 10 năm Đổi m i đầu tiên, quan h đối ngoi ca Vit
Nam đã thc hi n thành công 2 vi c ln: gi i to tình trng b bao vây l p bước đầu
m c a h i nh p qu c tế. M t trong nhng nhân t ch yế u nh t d n đến thành công chính
là Vit Nam đã nm bt được s chuyn động ca tình hình trên bình din thế gii đến phm
vi khu vc để t đ đó ho ch đị đốnh i sách úng đắn và thích h p c a nước nhà. Đặt gi thiết
rng nếu như trong nhng năm na sau thp k 80 không cách nhìn mi để đị nh ra
đường l i đổi m i thì sau khi Liên Xô tan rã, vn mnh đất nước s ra sao? Chc chn rng
trong quan h đối ngoi, Vit Nam s rơ i vào m t tình thế hế t sc b t l i b i vì ch d ũa c
không còn quan h mi chư ư a xác l p, ch a ra kh i tình thế b bao vây thì si dây cm
vn s xiết cht hơn na. Nhưng thc tế đã không din ra như vy. Đ ó không ph i là s may
ri mà chính là do s nm bt đúng thi cơ, d báo đúng xu thế phát trin, đ i u chnh đúng
chính sách đối ngoi và thc thi đúng ph ng hoá. ương châm đa phương hoá, đa d
Có th nói đây là mt thành công ln có ý nghĩa quyết t định đối vi vn mnh ca đấ
nước nh đó ngày càng hi nhp vi thế gii, đem li kết qu ln lao v ế kinh t
hi. V thế ca Vit Nam ngày càng được nâng cao trên trường quc tế.
8
Đến nay, Vit Nam đã đặt quan h ngoi giao vi hu hế đt các qu c gia, ã gia nhp
các t chc khu vc và quc tế (ASEAN, ASEM, APEC, WTO …) và tr thành thành viên
không thường trc c a Hi đồng b o an Liên Hi p Qu c (nhim k 2008-2009). Vi c m
rng quan h ngoi giao đã to điu kin thúc đẩy thương mi đầu tư, đẩy mnh hp tác
quc tế trên mi lĩnh vc, ci thin mt cách ràng điu kin kinh tế hi ca đất
nước. Đó chính thành công cơ bn nh t c a ln m c a h i nhp c a Vit Nam vào
cui thế k XX.
Kết lun
Trong xu thế toàn cu hoá ca thế gii, vi ếc h i nh p qu c t đi ếu t t y u, không
mt quc gia nào th đứng ngoài vòng xoáy ca thi cuc. Đ i u khác bit quan trng
tham gia o qu đạo chung ca loài người m t cách th động hay ch động. Nếu không
nhn thc được xu thế phát trin thì s đứng ngoài cuc b lôi cun theo mt cách b
động. Nếu ngược li thì s bước vào “sân chơ i” m t cách ch động, có ý th c đạt thành
qu. Ba ln m ca và hi nhp ca Vit Nam trong thế k đ XX ã minh chng điu đó.
Trong 20 năm Đổi m t Nam i (1986-2006), Vi đã gii to tình trng b bao vây, thiết
lp quan h v i các nước, gia nhp các t ch c khu v c qu c tế. B đng đường l i úng
đắ độn bi n pháp linh ho t c đa mình, Vi t Nam ã ch ng tích c ếc h i nhp qu c t
thành công. S kin Vit Nam tr thành thành viên ca T chc Thương mi thế gii WTO
th được coi như s ế k t thúc ca quá trình gia nhp vào “sân chơi” chung ca th trường
thế gii m ra mt thi k mi trong tiến trình h i nh p - thi k tham gia bình đẳng
trong s hp tác và cnh tranh. Chính t đây li xu t hi n nhng thách thc và thi cơ mi,
đặt ra vn đề phi vươn t i mt t m cao mi trong quan h qu c tế ca Vi t Nam.
Nhng thách thc mi đòi hi phi không ngng nâng cao năng lc ch đạo điu
hành nn kinh tế theo đúng quy lut chung, trau di trình độ công ngh cao phù hp xu
hướng ca thi đại kinh tế tri thc, bi dưỡng ngun nhân lc thích ng vi các loi hình
hot động, xây dng phong cách làm vic k lu t minh b ế ch, kiên quy t lo i tr nn
tham nhũng và lãng phí. Công tác đối ngoi ch ếng nhng ti p tc m rng quan h quc tế
mà qua đó kiên quyết b o v ch quy n và toàn vn lãnh th quc gia, tiếp tc bo đảm môi
trường hoà bình, an ninh đn inh nhm phc v s phát tri n kinh tế ca đất nước và đời
sng ca nhân dân.
Trong xu thế chung c ế a thế gi i sau chi n tranh l nh v thế ca Vit Nam trên
trường quc tế, cơ hi ln rđang m ng đầy tim nă ng cùng nhi u thách th c. nm bt
9
tn dng được thi cơ đó hay không tu thuc ý chí năng lc ch quan ca chúng
ta. Li nh c nh c a C ngo i trưởng Vi t Nam Nguy ơn C Th ch: “Cn phi ra sc tranh
th th i c ơ mi và quyết tâm không b l ơ thi c . B l ơ thi c này thì rt nguy hi m và s
b t t h u rt xa” (4) vn mang tính thi s ý nghĩa thiết thc trên bước đường phát
trin..
Chú thích:
1. Chương Thâu: Phan Bi Châu nhà yêu nước, nhà văn hoá ln. Nxb Ngh An,
Trung tâm ngoi ng Đông Tây 2005, tr.46
2. Hoàng Xuân Hãn: Nhng tư tưởng cơ b n c a Phan Châu Trinh vn còn có giá tr
ln đối vi hi ta ngày nay. In trong Phan Châu Trinh, v tác gi tác phm
(Chương Thâu sưu tm, tuyn chn). Nxb Giáo dc, H 2007, tr 124.
3. Dn theo Chhay Vi Heang (Vin Hàn lâm Hoàng gia Campuchia): Mt s nghi p
cao c sáng ngi chính nghĩa trong thế k XX. In trong “Vit Nam trong thế k XX”.
Tp 1, Nxb Chính tr Quc gia, H 2001, tr126-127 và 120-130
4. Nguyn Cơ Thch: Thế gi gii trong 50 năm qua (1945-1995) Thế i trong 25
năm ti (1996-2020). Nxb Chính tr Quc gia, H 1998, tr. 107
| 1/9

Preview text:

VNH3.TB17.735
VIỆT NAM MỞ CỬA VÀ HỘI NHẬP
NHÌN TỪ KINH NGHIỆM THẾ KỶ XX GS. Vũ Dương Ninh
Đại học Quốc gia Hà Nội
Việt Nam đang bước vào thập niên đầu của thế kỷ XXI. Những thành tựu đạt được
hôm nay chính là kết quả của một quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước. Trong đó, quan hệ đối ngoại đóng một vai trò quan trọng.
Ngược dòng lịch sử của thế kỷ XX, bài viết đề cập đến ba lần mở cửa và hội nhập
với những thất bại và thành công để từ đó nêu lên một vài suy nghĩ về nắm ắ b t thời cơ trong sự hội nhập hôm nay.
I. Việt Nam mở cửa và hội nhập đầu thế kỷ XX - một thử nghiệm không thành Lịch sử V ệ
i t Nam bước vào thế kỷ XX được phác hoạ như một bức tranh màu ảm
đạm. Sau gần nửa thế kỷ chinh phục, đế quốc Pháp đã th ế
i t lập chế độ thuộc địa trên mảnh
đất này. Các phong trào chống xâm lược - từ khởi nghĩa nông dân đến cuộc vận động Cần
vương - đều lần lượt thất bại. Các cuộc đấu tranh nhằm ả
b o vệ nền độc lập, phục hồi vương
triều tự chủ không còn phù hợp, ý thức hệ phong kiến đã tàn phai, người ta muốn đi tìm một con đường mới.
Con đường mới ấy chính là xu hướng dân chủ đang làm thức tỉnh các dân tộc châu Á.
Đối với Việt Nam thời đó, n ữ
h ng người đi đầu trong trào lưu dân c ủ h chính là các ĩ s phu
cấp tiến mà đại diện là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
Trong khát vọng tìm đường cứu nước, Phan Bội Châu thành lập Đồng minh hội
(1904), đề ra một trong ba nhiệm vụ trước mắt là “chuẩn bị xuất dương cầu viện”, được coi
là nhiệm vụ quan trọng nhất.
Thi hành nhiệm vụ xuất dương cầu viện, Phan Bội Châu suy tính: Trong các liệt
cường, nếu không phải là những nước cùng nền văn hoá, cùng giống da vàng thì ọ h sẽ
không giúp mình; còn Trung Quốc đã chịu nhường nước ta cho Pháp, thế lực suy yếu, tự
cứu không xong; chỉ có Nhật Bản, vừa là nước da vàng lại vừa tân tiến, “vậy thì bây giờ
muốn tìm ngoại viện, không gì bằng sang Nhật là hơn cả” (1). 1
Như vậy, Nhật Bản là mẫu hình mà các hội viên trong Đồng minh hội hướng tới. Với
thành tựu của công cuộc Duy tân Minh Trị, Nhật Bản là quốc gia duy nhất trên thế giới
thoát khỏi ách thống trị của t ự
h c dân Âu Mỹ, gìn giữ được nền độc lập và vươn lên hàng
cường quốc. Nhất là chiến thắng của Nhật trong chiến tranh với Nga năm 1905 đã gây tiếng
vang lớn về thắng lợi của một nước châu Á đối với một nước châu Âu, của một dân tộc da
vàng chống lại một dân tộc da trắng. Người Nhật tuyên truyền thuyết Đại Đông Á, đưa ra
chiêu bài “đồng văn, đồng chủng” nhằm xác lập vai trò người lãnh đạo khu vực. Hướng về
Nhật Bản, các chí sĩ thời đó cũng có phần lo ngại vì Nhật “từ ngày thắng Nga lại càng sinh
dã tâm” nhưng vẫn hy vọng vào thuyết “đồng văn, đồng chủng” để có thể thuyết phục họ
giúp đỡ binh lính hoặc khí giới và lương thực.
Phan Châu Trinh hướng về phương trời Tây, tiếp nhận quan điểm dân chủ tư sản,
chống lại chế độ quân chủ phong kiến. Tấm gương của Cách mạng Pháp 1789, của nhà lãnh
đạo Mỹ G. Oasinhtơn, của n ữ
h ng người anh hùng Ý Matdini và Garibanđi cùng trình độ
công nghệ hiện đại của các nước Âu Mỹ đã thúc đẩy Cụ mạnh mẽ đấu tranh chống vương
triều thối nát, đòi thiết lập chế đ
ộ cộng hoà. Cụ diễn thuyết, viết sách báo kêu gọi sự thức
tỉnh của đồng bào, truyền bá những tư tưởng tiên tiến cùng những thành tựu khoa học kỹ
thuật mong đất nước sánh vai cùng các liệt cường với phương châm “chấn dân khí, khai
dân trí, hậu dân sinh”. Với ảnh hưởng rộng lớn khắp ả
c nước, “Cụ được sĩ phu Duy tân
hưởng ứng đưa lên thành cao trào yêu nước, một cuộc cách mạng tân văn hoá và vận động
dân quyền sôi nổi trong những năm đầu thế kỷ XX” (2).
Cuối cùng, cả hai xu hướng của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đều không thành
công. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự bất thành đó, song có thể thấy một điểm chung
chính là sự phát triển của thời cuộc đã vượt lên quá xa, các q ố u c gia quê hương ủ c a tư tưởng
“Tự do, Bình đẳng, Bác ái” cũng như của cuộc Duy tân Minh Trị nổi tiếng đã không sẵn
sàng giúp đỡ các dân tộc nhỏ yếu đi theo con đường mà họ đã đi. Ngược lại, các quốc gia
nhỏ yếu chính là đối tượng xâm lược và nô dịch của họ. Sự câu kết giữa chính phủ Nhật Bản
với giới cầm quyền thực dân Pháp ở Đông Dương để trục xuất các nhà cách mạng Việt Nam
là minh chứng cho chính sách thuộc địa của họ. Niềm hy ọ
v ng của các Cụ đặt vào các “liệt
cường tiên tiến” bị tan vỡ.
Nhưng dẫu sao phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX ũ
c ng đã đánh dấu một bước phát
triển mới. Nó thoát khỏi tình trạng bị o bế trong khuôn khổ từng địa phương của các cuộc
khởi nghĩa nông dân hay phong trào Văn thân chống xâm lược. Nó bắt đầu hướng ra bên 2
ngoài với sự học hỏi và cầu viện, vượt qua ý thức hệ phong kiến để tiếp cận với xu hướng
dân chủ tư sản. Cánh cửa đã hé mở với niềm hy vọng canh tân và hoà đồng vào trào lưu thế
giới nhưng thời cơ đã vượt qua, tất cả đã thất bại.
Những cố gắng đầu tiên của sự mở cửa và hội nhập đầu thế kỷ XX đã không thành !
II. Việt Nam mở cửa và hội nhập giữa thế kỷ XX - sự chọn lựa trong Thế giới hai cực
Nguyễn Ái Quốc / Hồ Chí Minh đã vượt qua cái khung hạn hẹp của các bậc tiền bối,
hướng tầm nhìn ra thế giới rộng lớn đầy sôi động. Qua cuộc hành trình cứu nước khắp năm
châu bốn biển, đi qua các nước văn minh và các thuộc địa, tiếp xúc ớ v i nhiều l ạ o i người từ
chủ tư bản đến người nô lệ, nhìn rõ cuộc đấu tranh giải phóng đang lan rộng, Hồ Chí Minh
đã rút ra một nhận xét: “Việt Nam là một bộ p ậ
h n của thế giới, cách mạng Việt Nam là một
bộ phận của cách mạng thế giới”. Chân lý ấy tưởng như giản đơn nhưng đã mở rộng cánh
cửa tư duy gắn cuộc đấu tranh của dân tộc vào phong trào đấu tranh của thế giới.
Từ Đại hội Tua (1920) qua các diễn đàn của Quốc tế Cộng ả
s n đến việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam (1930), Hồ Chí Minh bằng nhận thức và hành động của mình đã
kết nối phong trào đấu tranh trong nước với trào lưu cách mạng vô sản thế g ớ i i.
Trong Thế chiến thứ hai, cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam đã hoà nhập
cùng phong trào đấu tranh chống phát xít trên thế giới và khi chế độ quân phiệt Nhật Bản
đầu hàng thì cũng là thời cơ để Mặt trận Việt Minh lãnh đạo Tổng k ở h i nghĩa thành công.
Trên cương vị Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà, ồ H
Chí Minh đã kêu gọi nguyên thủ các cường quốc hãy công nhận nước Việt Nam độc lập và
kết nạp Việt Nam vào Liên Hợp Quốc. Những nỗ lực để mở cánh cửa đưa quốc gia non trẻ
hội nhập cùng thế giới đã không thành - người Mỹ quay đi, người Nga im lặng, có nghĩa là để ngỏ cửa cho t ự
h c dân Pháp quay lại tái chiếm Đông Dương. Những năm đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp được tiến hành bằng tinh thần và sức lực của bản thân dân tộc Việt
Nam sục sôi ý chí vì Độc lập, vì Tự do mà không có một sự trợ giúp nào ừ t bên ngoài.
Trật tự hai cực Ianta ngày càng thể h ệ
i n trên bản đồ chính trị thế giới: Châu Âu với
Đông Âu và Tây Âu, Đông Đức và Tây Đức, Đông Beclin và Tây Beclin; Châu Á với Nam
và Bắc bán đảo Cao Ly (CHDCND Triều Tiên và Đại Hàn Dân Quốc), CHND Trung Hoa với Đài Loan.
Cuộc kháng chiến ở Việt Nam bắt nguồn từ mâu thuẫn dân tộc giữa nhân dân Việt
Nam với chủ nghĩa thực dân Pháp, nhưng trong bối cảnh của Chiến tranh lạnh, nó không thể 3
không mang dấu ấn của Trật tự hai cực. Trong bối cảnh đó, bất cứ một quốc gia n ỏ h yếu
nào cũng phải tìm cho mình một chỗ dựa, hoặc bên này, hoặc bên kia.
Nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc kháng chiến gần 5 năm trời trong điều kiện
hầu như đơn độc, phải chiến đấu trong vòng vây. Đến khi Cách mạng Trung Quốc thành
công, nước CHND Trung Hoa ra đời (10-1949), biên giới phía Bắc nước ta rộng mở,
cách mạng Việt Nam thông được với thế giới bên ngoài. Chuyến đi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh tháng 1-1950 đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Liên xô và các nước XHCN khác.
Đây chính là lần mở cửa hội nhập thành công đầu tiên của nhà nước Việt Nam độc
lập. Điều đặc biệt của sự hội nhập lần này là Việt Nam bước vào thế giới XHCN mà ba
mươi năm về trước, Nguyễn Ái Quốc đã chọn con đường “tin theo Lênin, tin theo Quốc tế
Ba ”. Đó là kết quả của 20 năm đấu tranh giải phóng dưới ngọn cờ của Đảng ộ C ng sản. Và
đặc biệt, đó là hệ quả của n ữ
h ng thắng lợi bước đầu của nhân dân Việt Nam trong cuộc
chống chọi kẻ thù đế quốc. Việc Việt Nam bước vào hàng ngũ các nước XHCN cũng là hệ
quả của tình thế “hai cực” đang chi phối đời sống chính trị quốc tế.
Từ đó, Việt Nam nhận được sự đồng tình ủng hộ và sự viện trợ vật chất của các nước
XHCN, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc
Mỹ. Bằng đường lối đoàn kết quốc tế, chúng ta đón nhận tình hữu nghị và sự đoàn kết của
các dân tộc đang đấu tranh vì nền độc lập dân tộc, của các đoàn thể và nhân sĩ yêu chuộng
công lý và hoà bình thế giới. Điều đặc biệt hiếm hoi trong lịch sử thế giới là trong cuộc
kháng chiến chống Pháp, chúng ta nhận được sự chia sẻ từ phía n ữ
h ng nhân sĩ và các đoàn
thể ở Pháp đòi chính phủ nước họ chấm dứt “cuộc chiến tranh bẩn thỉu” ở Đông Dương;
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, sinh viên, trí thức và nhiều tầng lớp nhân dân Mỹ đã đấu
tranh đòi quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, đưa lính Mỹ về nước. Những phản ứng quyết liệt
của nhân dân các nước phản đối chính phủ nước họ tham chiến ở V ệ i t Nam trở thành một
nhân tố góp phần vào thắng lợi của nhân dân Việt Nam. Và đó cũng là thành công của
chính sách mở cửa và hội nhập, làm cho thế giới h ể
i u rõ tính chính nghĩa của Việt Nam, đấu
tranh chống lại sự phi nghĩa và bảo vệ sinh ệ
m nh của con em nước họ.
Trong công cuộc cứu nước vì Độc lập và Thống nhất, đường lối mở cửa và ộ h i nhập,
nói cách khác là đường lối đoàn kết quốc tế được đánh giá xứng đáng là một trong những
nhân tố góp phần vào thắng lợi cuối cùng của thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ. 4
III. Việt Nam mở cửa và hội nhập cuối thế kỷ XX - những thành quả bước đầu
Với thắng lợi năm 1975, quan hệ đối ngoại của nước Việt Nam thống nhất được mở
rộng, đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước, gia nhập Liên Hợp Quốc và tham gia
nhiều tổ chức quốc tế khác. Nhưng chỉ sau vài năm, cánh cửa liên hệ với thế giới bị đóng
sập lại. Cái gọi là “vấn đề Campuchia” được coi là nguyên cớ trực tiếp gây nên tình trạng
này. Việt Nam rơi vào thế hầu như bị cô lập, chưa bao g ờ i vòng vây bên ngoài x ế i t chặt gắt gao đến thế.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới tình hình này. Song về mặt nhận
thức, có đôi điều nên suy nghĩ.
Tình hình phức tạp ở Đông Dương khi đó bị chi phối bởi 2 l ạ
o i mâu thuẫn chính. Đó là
mâu thuẫn giữa các nước cùng ý thức hệ XHCN, cùng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Và mâu
thuẫn vốn có giữa Việt Nam với Hoa Kỳ sau nhiều năm ch ế i n tranh căng thẳng.
Về mâu thuẫn thứ nhất có 2 tầng nấc: một là mâu thuẫn giữa các nước Trung Quốc,
Campuchia và Việt Nam; hai là mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô, hai mâu thuẫn này
chồng chéo nhau, tác động lẫn nhau, chi phối tình hình trên bán đảo Đông Dương.
Qua quá trình lịch sử, chúng ta nhận thức khá rõ về mâu thuẫn giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ, mâu thuẫn giữa nền độc lập dân tộc với kẻ xâm lược, đồng thời là mâu thuẫn giữa một
nước XHCN với một nước ĐQCN. N ư
h ng phải chăng chúng ta c ư h a nhận thức đúng về
mâu thuẫn giữa các nước XHCN mặc dầu đến nửa đầu những năm 80, mâu thuẫn Trung -
Xô đã diễn ra công khai gần hai chục năm trời. Chúng ta chỉ coi đó là sự bất đồng ộ n i bộ
phong trào công nhân quốc tế. Nhất là trong lý thuyết về 4 mâu thuẫn cơ bản của thời ỳ k
quá độ (giữa CNXH và CNTB, giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa phong trào g ả i i
phóng dân tộc với chủ nghĩa đế quốc, giữa các nước TBCN) thì không nói đến mâu thuẫn
giữa các nước XHCN. Do vậy, vào những năm cuối 70 - đầu 80 của thế kỷ trước, phải
chăng chúng ta đã lúng túng khi đối mặt với mối mâu thuẫn chưa hề tính đến ? Mà thực
chất, mâu thuẫn giữa các nước TBCN hoặc mâu thuẫn giữa các nước XHCN đều có cùng
một bản chất, đó là mâu thuẫn về lợi ích quốc gia, dù rằng cùng trong một ý thức hệ.
Trước tình đó, người Mỹ quay trở lại tăng cường chính sách thù địch ớ v i Việt Nam,
tiến hành bao vây cấm vận. Một “liên minh quốc tế” chống Việt Nam đã hình thành, gây ra
biết bao khó khăn về kinh tế - xã hội ở nước ta.
Đến đây cũng có điều nên bàn tới về mối quan hệ giữa chính trị và đạo lý. Từ sau
năm 1975, càng ngày thế giới càng nhận rõ chính sách diệt chủng của tập đoàn Khơme Đỏ 5
được sự ủng hộ của nước ngoài. Tội ác tày trời của chúng đã cướp đi sinh mạng của 2 triệu
người dân Campuchia (tương đương 1 phần 4 dân số), phá hoại nền kinh tế vốn đã nghèo
nàn và gây ra nhiều vụ xâm phạm vào biên giới Tây Nam nước ta. Theo lời kêu gọi của Mặt
trận cứu nguy dân tộc Campuchia, quân đội Việt Nam cùng với lực lượng yêu nước
Campuchia đã mở cuộc tiến công quét sạch bè lũ Pôn Pôt, hồi sinh đất nước “từ con số
không”. Hành động thiện chí đó đã cứu nguy cho sự tồn vong của cả một dân tộc mà Quốc
vương Nôrôđôm Xihanuc từng nói:”Không có bộ đội Việt Nam giúp đỡ giải phóng nhân
dân Campuchia thoát nạn diệt chủng thì con cháu nhà vua cũng chết hết”. Và Thủ tướng
Hunxen khẳng định: "Phải thừa nhận một sự thật là: nếu thế g ớ
i i càng đòi hỏi phải đưa bọn
đầu sỏ Khơme Đỏ ra xét ử
x bao nhiêu thì càng cần phải ca ngợi sự anh hùng của các chiến
sĩ quân tình nguyện Việt Nam - những người đã hy sinh thân mình vì nhân dân Campuchia bấy nhiêu” (3 ).
Nhưng do lợi ích chính trị, nhiều chính phủ trong khi vạch tội ác của chế độ diệt
chủng lại lớn tiếng tố cáo “Việt Nam xâm lược Campuchia”. Có lý lẽ cho rằng sự can thiệp
chỉ được coi là nhân đạo khi có một liên minh nhiều nước tham gia. Chính dưới chiêu bài
đó, lịch sử đã chứng kiến bao cuộc xâm lược mang danh ng ĩ
h a “Liên minh”? Rõ ràng là đạo
lý của cuộc sống nhiều khi bị lu mờ trước sức ép về chính trị mà phải qua một thời gian lâu
dài, lịch sử mới có thể phán xét công minh.
Tình trạng đối đầu giữa hai khối nước ASEAN và Đông Dương nửa đầu những năm
80 không đem lại lợi ích cho một ai ở Đông Nam Á bởi vì nguồn gốc của tình hình đó
không bắt nguồn từ mối mâu thuẫn trực tiếp nào g ữ i a các nước th ộ u c hai khối. Lịch ử s h ệ i n
đại Đông Nam Á đã hơn một lần chứng minh rằng những vụ căng thẳng trong khu ự v c
thường là do tác nhân từ bên ngoài và đem lại lợi ích cho bên ngoài. Cho nên trong không
khí hoà dịu trên phạm vi thế giới, các nước Đông Nam Á đều muốn đi tìm biện pháp cùng
nhau hoà giải và hợp tác.
Năm 1986 đường lối Đổi mới của Việt Nam đã bước đầu mở ra khả năng vượt qua
tình trạng bị bao vây. Có thể nói trong khoảng thời gian giữa hai kỳ Đại hội của Đảng Cộng
sản Việt Nam (12/1986 – 7/1991), đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng
hoá dần dần hình thành. Nhất là sau khi quân đội Việt Nam đã rút toàn bộ k ỏ h i Campuchia
(9/1989) thì những vướng mắc trong quan hệ với các nước ASEAN, Trung Quốc, Hoa Kỳ,
EU…dần dần được tháo gỡ Tại Đại hội VII ủ c a Đảng đã vang lên ờ l i tuyên bố trịnh t ọ r ng: 6
“Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình,
độc lập và phát triển”.
Lưu ý rằng việc định hướng và thực thi đường lối đối ngoại theo tinh thần Đổi mới
diễn ra trước khi Nhà nước Liên xô tan rã (12/1991). Sự kết thúc chế độ xô viết sau gần ba
phần tư thế kỷ tồn tại là một thách t ứ
h c rất lớn đối với nước ta, chẳng những về mặt chính
trị, kinh tế mà cả về mặt tư tưởng và quan hệ đối ngoại. Các ự
l c lượng đối lập c ờ h đợi một biến động tư n
ơ g tự các nước XHCN Đông Âu sẽ diễn ra ở Viêt Nam vào năm tiếp theo,
nhưng điều đó đã không xảy ra.
Trái lại, Việt Nam đã vượt qua được thách t ứ
h c vô cùng hiểm nguy, tiếp tục mở rộng
quan hệ với thế giới, khởi đầu bằng việc tham gia ký Hiệp định Bali, trở thành quan sát viên
của ASEAN (1992). Tiếp sau đó là các cuộc viếng thăm lẫn nhau giữa các nhà lãnh đạo Việt
Nam với nguyên thủ các nước Trung Quốc, Đông Nam Á, Nhật Bản, Tây Âu và nhiều nước
khác tạo nên bầu không khí hữu nghị, mở ra khả năng hợp tác về thương mại và đầu ư t .
Tình trạng bị bao vây, cấm ậ
v n được tháo gỡ dần dần để đến tháng 7/1995, Việt Nam gặt
hái được một vụ mùa bội thu về đối ngoại: ngày 11 thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ,
ngày 17 ký Hiệp định khung với EU, ngày 28 gia nhập ASEAN, là thành viên thứ 7 của tổ chức khu vực này.
Như vậy trên chặng đường 10 năm Đổi ớ m i đầu tiên, quan ệ h đối ngoại của Việt
Nam đã thực hiện thành công 2 việc lớn: giải toả tình trạng bị bao vây cô ậ l p và bước đầu
mở cửa hội nhập quốc tế. ộ
M t trong những nhân tố chủ yếu nhất dẫn đến thành công chính
là Việt Nam đã nắm bắt được sự chuyển động của tình hình trên bình diện thế giới đến phạm
vi khu vực để từ đó h ạ
o ch định đối sách đúng đắn và thích hợp của nước nhà. Đặt giả thiết
rằng nếu như trong những năm nửa sau thập kỷ 80 không có cách nhìn mới để định ra
đường lối đổi mới thì sau khi Liên Xô tan rã, vận mệnh đất nước sẽ ra sao? Chắc chắn rằng
trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam sẽ rơi vào một tình thế hết sức bất lợi bởi vì chỗ dựa cũ
không còn mà quan hệ mới chưa xác lập, chưa ra k ỏ
h i tình thế bị bao vây thì sợi dây cấm
vận sẽ xiết chặt hơn nữa. Nhưng thực tế đã không diễn ra như vậy. Đó không phải là sự may
rủi mà chính là do sự nắm bắt đúng thời cơ, dự báo đúng xu thế phát triển, điều chỉnh đúng
chính sách đối ngoại và thực thi đúng phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá.
Có thể nói đây là một thành công lớn có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của đ t ấ
nước và nhờ đó ngày càng hội nhập với thế giới, đem lại kết quả lớn lao về kinh tế và xã
hội. Vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. 7
Đến nay, Việt Nam đã đặt quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia, đã gia nhập
các tổ chức khu vực và quốc tế (ASEAN, ASEM, APEC, WTO …) và trở thành thành viên
không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc (nhiệm kỳ 2008-2009). V ệ i c mở
rộng quan hệ ngoại giao đã tạo điều kiện thúc đẩy thương mại và đầu tư, đẩy mạnh hợp tác
quốc tế trên mọi lĩnh vực, cải thiện một cách rõ ràng điều kiện kinh tế và xã hội của đất
nước. Đó chính là thành công cơ bản nhất của lần mở cửa và ộ
h i nhập của Việt Nam vào cuối thế kỷ XX. Kết luận
Trong xu thế toàn cầu hoá của thế giới, việc hội nhập q ố
u c tế là điều tất yếu, không
một quốc gia nào có thể đứng ngoài vòng xoáy của thời cuộc. Điều khác biệt quan trọng là
tham gia vào quỹ đạo chung của loài người một cách thụ động hay chủ động. Nếu không
nhận thức được xu thế phát triển thì sẽ đứng ngoài cuộc và bị lôi cuốn theo một cách bị
động. Nếu ngược lại thì sẽ bước vào “sân chơi” ộ
m t cách chủ động, có ý thức và đạt thành
quả. Ba lần mở cửa và hội nhập của Việt Nam trong thế kỷ XX đ
ã minh chứng điều đó.
Trong 20 năm Đổi mới (1986-2006), Việt Nam đã giải toả tình trạng bị bao vây, thiết
lập quan hệ với các nước, gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế. Bằng đường lối đúng
đắn và biện pháp linh hoạt của mình, V ệ
i t Nam đã chủ động và tích cực hội nhập quốc ế t
thành công. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới WTO
có thể được coi như sự kết thúc của quá trình gia nhập vào “sân chơi” chung của thị trường
thế giới và mở ra một thời kỳ mới trong tiến trình hội nhập - thời kỳ tham gia bình đẳng
trong sự hợp tác và cạnh tranh. Chính từ đây lại xuất hiện những thách thức và thời cơ mới,
đặt ra vấn đề phải vươn tới một tầm cao mới trong quan hệ q ố u c tế của Việt Nam.
Những thách thức mới đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực chỉ đạo và điều
hành nền kinh tế theo đúng quy luật chung, trau dồi trình độ công nghệ cao phù hợp xu
hướng của thời đại kinh tế tri thức, bồi dưỡng nguồn nhân lực thích ứng với các loại hình
hoạt động, xây dựng phong cách làm việc kỷ luật và minh bạch, kiên quyết l ạ o i trừ nạn
tham nhũng và lãng phí. Công tác đối ngoại chẳng những tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế
mà qua đó kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, tiếp tục bảo đảm môi
trường hoà bình, an ninh và ổn đinh nhằm phục vụ sự phát triển kinh tế của đất nước và đời sống của nhân dân.
Trong xu thế chung của thế g ớ i i sau ch ế
i n tranh lạnh và vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, cơ hội lớn đang mở rộng đầy tiềm năng cùng nh ề
i u thách thức. Có nắm bắt 8
và tận dụng được thời cơ đó hay không là tuỳ thuộc ý chí và năng lực chủ quan của chúng
ta. Lời nhắc nhở của Cố ng ạ
o i trưởng Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch: “Cần phải ra sức tranh
thủ thời cơ mới và quyết tâm không bỏ lỡ thời cơ. Bỏ lỡ thời cơ này thì rất nguy hiểm và ẽ s
bị tụt hậu rất xa” (4) vẫn mang tính thời sự và có ý nghĩa thiết thực trên bước đường phát triển.. Chú thích:
1. Chương Thâu: Phan Bội Châu – nhà yêu nước, nhà văn hoá lớn. Nxb Nghệ An,
Trung tâm ngoại ngữ Đông Tây 2005, tr.46
2. Hoàng Xuân Hãn: Những tư tưởng cơ bản của Phan Châu Trinh vẫn còn có giá trị
lớn đối với xã hội ta ngày nay. In trong Phan Châu Trinh, về tác giả và tác phẩm
(Chương Thâu sưu tầm, tuyển chọn). Nxb Giáo dục, H 2007, tr 124.
3. Dẫn theo Chhay Vi Heang (Viện Hàn lâm Hoàng gia Campuchia): Một sự ngh ệ i p
cao cả sáng ngời chính nghĩa trong thế kỷ XX. In trong “Việt Nam trong thế kỷ XX”.
Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, H 2001, tr126-127 và 120-130
4. Nguyễn Cơ Thạch: Thế giới trong 50 năm qua (1945-1995) và Thế giới trong 25
năm tới (1996-2020). Nxb Chính trị Quốc gia, H 1998, tr. 107 9