-
Thông tin
-
Quiz
Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học | Tiểu luận môn Triết học Mác - Lênin
Kể từ sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba (1913 - 1950), sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, mở rộng trên phạm vi toàn thế giới theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác - Lenin (LLCT130105) 646 tài liệu
Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 3.1 K tài liệu
Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học | Tiểu luận môn Triết học Mác - Lênin
Kể từ sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba (1913 - 1950), sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, mở rộng trên phạm vi toàn thế giới theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105) 646 tài liệu
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 3.1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TIỂU LUẬN
Môn học: Triết học Mác - Lênin
Đề tài: Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học
Giảng viên hướng dẫn: Đoàn Đức Hiếu Họ và tên MSSV Nguyễn Trần Khánh Uyên 23116041 Vũ Trần Mỹ Vân 23116042
TP.HCM, ngày 6 tháng 11 năm 2023 Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................
NỘI DUNG...............................................................................................................
Phần 1: Cơ sở của đề tài............................................................................................
I. Cơ sở lý luận..........................................................................................................
1. Khái niệm..............................................................................................................
2. Lý luận triết học....................................................................................................
3. Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan của các nước trong giai đoạn hiện
nay.............................................................................................................................
II. Cơ sở thực tế.........................................................................................................
1. Tình hình quốc tế và khu vực làm nảy sinh và phát triển quá trình hội nhập.........
2. Hội nhập kinh tế với các nước đang phát triển......................................................
3. Sự hình thành tất yếu của chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.............
4. Nhận định về những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trên con đường hội nhập
kinh tế quốc tế...........................................................................................................
4.1. Những cơ hội mà Việt Nam có được khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế......
4.2. Những thách thức mà chúng ta gặp phải trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế
..................................................................................................................................
5. Những quan điểm chủ đạo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta......
Phần 2: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu................................................................
I. Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế..........................
II. Các kết quả bước đầu đạt được của nước ta trong quá trình hội nhập...................
III. Những hạn chế tồn tại cần giải quyết trong thời gian tới.....................................
IV. Các kiến nghị đề xuất trên phương diện triết học để hạn chế các nhược điểm và phát
huy những mặt tích cực của tiến trình hội nhập hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta. .
V. Vai trò của sinh viên trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế............................. Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
LỜI KẾT................................................................................................................... LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba (1913 - 1950), sự phát
triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực
lượng sản xuất vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, mở rộng trên phạm vi toàn thế
giới theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Do đó, tất cả các quốc gia không phân biệt trình độ
đã và đang hình thành mối quan hệ gắn bó lẫn nhau. Đường biên giới quốc gia và khoảng
cách địa lý trở nên mờ nhạt, các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu nối tiếp nhau ra đời.
Sự ra đời của các tổ chức lớn như WTO, APEC, NAFTA và gần đây là sự ra đời của các
khu vực đồng tiền chung Euro đã là ví dụ điển hình trong thiên niên kỷ mới này, cuộc
cách mạng công nghiệp tiếp tục đi sau, mở rộng ứng dụng công nghệ tin học sẽ là động
lực chính thúc đẩy hơn nữa quá trình hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa.
Trước bối cảnh toàn cầu như vậy, công cuộc phát triển kinh tế của nước ta không thể
đứng ngoài xu thế toàn cầu hóa. Nhận thấy được tình hình kinh tế của đất nước đang gặp
khó khăn, tháng 12/1986 Đảng và Nhà nước quyết định chuyển đổi nền kinh tế từ tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong chiến lược phát triển kinh tế, vấn đề hội nhập nền kinh tế thế giới tăng cường hợp
tác các nước và các tổ chức quốc tế đang là vấn đề được quan tâm. Với phương châm “đa
dạng hóa, ấy đa phương hóa quan hệ” và “là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với hơn 160 nước và hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Với việc
gia nhập PECC (01/1995), ASEAN (07/1995), ký kết hiệp định chung về hợp tác kinh tế
với EU (07/1995), tham gia thành lập ASEM (1996), tham gia APEC (11/1998) và gia
nhập tổ chức thương mại thế giới WTO (01/2007). Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra
Nghị quyết về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm cụ thể hóa một chủ trương lớn được nêu ra
tại Đại hội lần thứ IX của Đảng là: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hóa dân
tộc, bảo vệ môi trường”.
Những vấn đề nêu trên là những vấn đề mà chúng em rất tâm huyết và quan tâm và
đó cũng là lý do thôi thúc chúng em chọn đề tài: “Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát
triển dưới con mắt triết học”. Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
Và chúng em hy vọng đề tài này sẽ giải đáp được phần nào thắc mắc về hội nhập và
toàn cầu hóa ở nước ta hiện nay. PHẦN 1
CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Khái niệm
Hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu cơ bản chính là quá trình giao lưu, hợp tác, gắn
kết nền kinh tế của quốc gia này với quốc gia khác hoặc tổ chức kinh tế khu vực hội nhập
với toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất được biết đến là xu hướng tất yếu trong
quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới.
2. Lý luận triết học
Phép biện chứng đã khẳng định: các sự vật, các hiện tượng, các quá trình khác nhau
của thế giới có mối quan hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau và cũng đồng thời
khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của các mối liên hệ đó.
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau
bao nhiêu song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống
nhất - thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách
rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ
xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy biện phản chứng khẳng định rằng: mối liên
hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật
hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Do đó,
mọi mối liên hệ đều mang tính khách quan, là vốn quá của một sự vật hiện tượng.
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ biến. Bởi lẽ, bất
cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Không có sự vật, hiện
tượng nào nằm ngoài mối quan hệ. Trong thời đại ngày nay không có một quốc gia nào
không có quan hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế mà
hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa mọi mặt
của đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu như: đói nghèo,
bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái, dân số và kế hoạch hóa gia đình, chiến tranh và
hòa bình… Ngoài ra, mối liên hệ được biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện của
mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
Mặt khác, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua
lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt của sự vật hiện
tượng mà sự vật hiện tượng luôn tồn tại và vận động không ngừng theo nhiều cách khác
nhau. Do đó mà mối liên hệ còn mang tính đa dạng và trong mỗi sự vật, hiện tượng có thể
bao gồm rất nhiều loại mối quan hệ chứ không phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định.
3. Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan của các nước trong giai đoạn hiện nay
“Toàn cầu hóa” là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại mà trước hết
là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi động. Cách đây hơn 150 năm, Các
Mác đã dự báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành hiện thực. Theo ông, toàn cầu hóa
kinh tế là một xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ
phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội mà ở đó phân công lao động quốc tế và quốc
tế hóa sản xuất trở thành phổ biến.
Trong lịch sử, trước khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời, do trình độ
lực lượng sản xuất thấp kém, giao thông chưa phát triển, việc sản xuất và trao đổi hàng
hóa còn bị giới hạn trong các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, năng suất thấp nên chưa có thị
trường thế giới theo nghĩa hiện đại. Từ khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời,
đặc biệt là từ khi diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, đời sống kinh tế các nước có sự
thay đổi căn bản. Tình trạng tự cấp, tự túc và bế quan tỏa cảng của các địa phương, các
dân tộc trước khi được thay thế bằng sự sản xuất và tiêu dùng mang tính quốc tế. Tuy
nhiên, cho đến trước Thế chiến thứ II, hình thức quốc tế hóa chủ yếu vẫn là phân công áp
đặt trực tiếp, tức là các nước phát triển áp dụng chiến tranh xâm lược và bạo lực để thống
trị các nước lạc hậu, bóc lột, vơ vét tài nguyên và tiêu thụ hàng hóa. Trong đó, mỗi nước
đế quốc có một hệ thống thuộc địa riêng, phân công lao động và quốc tế hóa còn mang
tính chất cát cứ làm cho các nước lạc hậu không thoát khỏi tình trạng khó khăn trì trệ.
Từ sau Thế chiến II, do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật, lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hết sức nhanh chóng. Thêm vào
đó là thắng lợi của các phong trào giải phóng dân tộc làm cho hệ thống phân công lao
động quốc tế theo lối áp đặt trực tiếp phải sụp đổ và thay thế bằng hệ thống phân công
mới gọi là toàn cầu hóa kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế là quá trình phát triển mới của phân
công lao động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia vươn tới quy
mô toàn thế giới và đạt trình độ chất lượng mới. Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
Như vậy, toàn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hóa sản xuất,
của tốc độ phát triển nhanh, của lực lượng sản xuất bắt nguồn từ sự thúc đẩy của khoa
học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Nó là kết quả tất yếu của sự phát triển sâu rộng nền
kinh tế thị trường trên phạm vi toàn thế giới, sự gia tăng phân công lao động quốc tế, sự
mở rộng hơn nữa trong không gian và thời gian các mối quan hệ giao lưu phổ biến của
loài người và sự hiện diện nóng bỏng của những vấn đề toàn cầu cấp bách. Nói cách
khác, nó là kết quả của quá trình tích lũy về số lượng đã tạo ra một khối lượng tới hạn để
số lượng biến thành chất mới; xu hướng quốc tế hoá, khu vực hoá đã chuyển thành xu
hướng toàn cầu hóa trong thời đại ngày nay. Nó là một trong những xu thế lịch sử tất yếu
do quy luật phát triển của lực lượng sản xuất chi phối.
Và trong đó, đặc trưng nổi bật của toàn cầu kinh tế là nền kinh tế thế giới tồn tại và
phát triển như một chỉnh thể, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, có quan hệ tương tác
lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Tham gia toàn cầu hóa kinh tế, các
quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, vẫn là các chủ thể tự quyết định ý
thức hệ, vận mệnh và con đường phát triển của mình. Toàn cầu hóa kinh tế làm cho các
quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau về vốn, kỹ thuật, công nghệ, nguyên liệu và thị
trường. Đến nay, toàn cầu hóa kinh tế đã cuốn hút nhiều quốc gia ở khắp các châu lục, đã
có 27 tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu ra đời và hoạt động. Đây là sự phát triển mới
chưa từng có. Lịch sử đã chứng tỏ không có một quốc gia nào dù lớn và giàu đến đâu
cũng không thể sản xuất được tất cả các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta không
quên 100 năm về trước Trung Quốc đóng cửa nền kinh tế để rồi phải chịu sự thụt lùi về
mọi mặt. Thành tựu có được như ngày nay là nhờ vào mở cửa kinh tế. Như vậy rõ ràng
xu thế này là xu thế phát triển tất yếu của thời đại không thể khác được. Chỉ có những
quốc gia nào nắm bắt nhịp xu thể này, biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức mới
đứng vững và phát triển. Cự tuyệt hay khước từ toàn cầu hóa kinh tế tức là tự gạt mình ra
ngoài lề của sự phát triển. Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
II. CƠ SỞ THỰC TẾ
1. Tình hình quốc tế và khu vực làm nảy sinh và phát triển quá trình hội nhập
Đại hội VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại,
chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế nước ta
trên trường quốc tế.” Đại hội lần thứ IX khẳng định chủ trương “phát huy cao độ nội lực,
đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát
triển nhanh có hiệu quả và bền vững.” [Trích văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX - trang 89] Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được đề ra trong bối cảnh tình hình
thế giới và khu vực diễn ra nhanh chóng, phức tạp, khó lường trước được.
Trong hơn thập kỷ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển không đồng đều. Trên
thế giới đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả là cuộc khủng hoảng kinh
tế - tài chính nổ ra năm 1997. Vị thế các nước và các khu vực thay đổi theo hướng: kinh
tế Mỹ phát triển nhanh và ổn định liên tục trong nhiều năm và đến năm 2002 bắt đầu suy
giảm; kinh tế Tây Âu hiện không còn phát triển nhanh như các thập kỷ trước; kinh tế
Nhật suy thoái chưa có lối ra; các nước thuộc Liên Xô trước đây và nước Đông Âu rơi
vào tình trạng suy thoái kéo dài, vài năm gần đây tăng trưởng tương đối khá; kinh tế
Trung Quốc phát triển ngoạn mục; Đông Nam Á và Đông Á phát triển nhanh bậc nhất
trong những thập kỷ trước, tuy nhiên vừa qua đã rơi vào suy thoái và nay đang hồi phục;
Nam Á và châu Phi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ kéo dài; kinh tế Mỹ Latinh có
khá hơn song cũng không ổn định.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão. Cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang tác động đến tất cả các nước trên thế
giới với những mức độ khác nhau, đưa lại những thành quả cực kỳ to lớn cho nhân loại
và những hậu quả xã hội hết sức sâu sắc. Công nghệ thông tin đang là nhân lõi của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại nó phản ánh giai đoạn mới về chất của sản
xuất trong đó hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản phẩm. Công nghệ sinh
học là bước đột phá vào thế giới đầy bí hiểm của sự sống tạo ra một tiềm năng to lớn cho
việc sản xuất các vật phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người như lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của
con người. Công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ hàng không
vũ trụ mở ra một tiềm năng mới cho loài người chinh phục tự nhiên chinh phục vũ trụ. Tự
động hóa trong sản xuất ngày càng giải phóng con người khỏi những công việc nặng
nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ xã hội. Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
Xu thế toàn cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả
các dân tộc trên thế giới. Ngày nay các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó hữu cơ và tùy
thuộc vào nhau. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế gia tăng. Nền sản xuất thế
giới mang tính toàn cầu. Phân công lao động quốc tế đạt đến trình độ ngày càng cao.
Phương châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà máy của mình, lấy các nước làm phân
xưởng của mình, qua đó phân công lao động quốc tế có thể lợi dụng ưu thế kỹ thuật đến
vốn sức lao động và thị trường của các nước, thúc đẩy quá trình quốc tế hóa sản xuất phát
triển nhanh chóng. Trong quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa nổi lên xu hướng liên kết
kinh tế dẫn tới sự ra đời rồi hợp nhất của nhiều tổ chức kinh tế và thương mại tài chính
quốc tế và khu vực như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF),
Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh châu Âu (EU), khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (AFTA),…
Hiện nay, các nước lớn, nhỏ đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi chính
sách kinh tế mở. Nay những nước có tiềm năng và thị trường lớn như Trung Quốc, Nga,
Ấn Độ, Mỹ và cả một số nước vốn khép kín theo mô hình tự cung tự cấp cũng dần dần
mở cửa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, côngk đồng
thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có
thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự
bùng nổ dân số, đẩy lùi dịch bệnh hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế,…
Tuy nhiên, trong xu thế đó các nước công nghiệp phát triển, đứng đầu là Mỹ do có
ưu thế về thị trường, nắm bắt tiến bộ khoa học - công nghệ, có nền kinh tế phát triển cao
đã ra sức thao túng chi phối thị trường thế giới, áp đặt điều kiện với những nước chậm
phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp thô bạo như bao vây cấm vận, trừng phạt
làm thiệt hại lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển. Trước tình hình đó,
các nước đang phát triển đã từng bước tập hợp nhau lại, đấu tranh chống chính sách tăng
cường quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế bình đẳng, công bằng.
Ở khu vực Đông Nam Á đã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù trải qua cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính trầm trọng trong thời gian 1997 - 1998 song vẫn là khu vực
có nhiều tiềm năng do vị thế địa lý chính trị và địa lý kinh tế của mình, dung lượng thị
trường lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào được đào tạo tốt, có quan hệ quốc tế rộng rãi.
Toàn bộ tình hình trên đã đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng đặt ra nhiều
thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển đất nước nói chung và quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
2. Hội nhập kinh tế với các nước đang phát triển
Thế giới vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ đang chứng kiến những thay đổi
sâu sắc trên tất cả mọi lĩnh vực từ sản xuất vật chất đến đời sống tinh thần xã hội. Toàn
cầu hóa nổi lên như một trong những xu hướng chủ đạo chi phối hệ thống quan hệ quốc
tế hiện đại. Xét trên phương diện sản xuất vật chất xã hội, một giai đoạn mới của lịch sử
nhân loại đang từng bước quá độ từ xã hội gắn liền văn minh công nghiệp lên nấc thang
phát triển cao hơn. Nấc thang phát triển này được đặc trưng bởi công nghệ và cơ cấu kinh
tế mới - kinh tế tri thức trên cơ sở áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học công nghệ tiên
tiến, các phương tiện truyền tin hiện đại và máy tính.
Nhìn một cách tổng quát, toàn cầu hóa kinh tế là quá trình phổ biến theo hướng nhất
thể hóa trên phạm vi toàn cầu những giá trị, tri thức, những hoạt động, những mô hình
cấu trúc trong lĩnh vực kinh tế và cả khoa học kỹ thuật. Trong đó, các nước đang phát
triển tham gia với động lực cơ bản là nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo mối liên
kết thương mại giữa các quốc gia, các khu vực với nhiều hình thức phong phú hoạt động
có hiệu quả. Và cho đến nay, một số cách quốc gia đang phát triển đã đạt được những
tiến bộ vượt bậc ví như: ở khu vực Đông Nam Á có Thái Lan, Malaysia, Singapore đã
chuyển mạnh sang kinh tế hướng về xuất khẩu và thu được những thành quả tốt.
Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế, điều chúng ta thấy rõ là thị trường vốn có
mối quan hệ mối liên kết chặt chẽ hơn nhiều. Các nước đang phát triển có cơ hội hội nhập
với thị trường tài chính toàn cầu. Nhờ vậy mà bỏ việc kiểm soát đối với đồng vốn chảy
vào ,đồng thời cũng bãi bỏ dần những hạn chế trong thanh toán và giao dịch thông qua tài
khoản. Hiện nay, nhiều nước đã chấp nhận thả nổi đồng tiền đã làm cho đồng vốn đổ vào
các nước này tăng mạnh.
Mặt khác, hội nhập kinh tế trong thời gian qua có tác động tích cực đến việc ổn định
kinh tế vĩ mô. Nhiều quốc gia đang phát triển đã mở cửa thị trường thu hút vốn, một mặt
thúc đẩy công nghiệp hóa, một mặt tăng tích lũy từ đó cải thiện mức thâm hụt ngân sách.
Chính sự ổn định kinh tế vĩ mô này đã tạo niềm tin cho các chương trình phát triển hỗ trợ
cho những quốc gia thành công trong cải cách kinh tế và mở cửa. Ngoài ra, hội nhập kinh
tế tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
Chính những mặt thuận lợi này mà hội nhập kinh tế quốc tế có sức mạnh to lớn. Nó
kéo tất cả các quốc gia dù lớn, dù nhỏ, dù giàu hay nghèo đều bị cuốn vào. Tuy nhiên,
điều đáng nói ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về vốn và công nghệ đang ráo
riết thực hiện ý đồ chiến lược đến quá trình toàn cầu hóa nói chung và toàn cầu hóa kinh
tế nói riêng thành quá trình tự do hóa kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
nghĩa. Bởi vậy, tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển đều phải tìm kiếm các
đối sách để thích ứng với quá trình toàn cầu hóa đa bình diện và đầy nghịch lý.
Sau hàng thế kỷ đấu tranh kiên cường, anh dũng, các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc
đã thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân đế quốc, giành được độc lập dân tộc và
chủ quyền. Mặc dù vậy, bức tranh kinh tế - xã hội của các nước chậm phát triển và đang
phát triển vẫn đang ngày càng có nhiều biểu hiện đáng lo ngại về sự tụt hậu so với trình
độ của các nước phát triển. Khoảng cách ấy không những không được khắc phục, rút
ngắn mà còn thật sự trở thành nguy cơ chia cắt thế giới làm hai nửa khác biệt: vài chục
quốc gia tiên tiến đã vượt hơn 100 quốc gia thuộc” thế giới thứ ba” hàng vài thập niên
phát triển hoặc gấp trăm lần chênh lệch về thu nhập bình quân GDP tính theo đầu người.
Các nước này tuy đã giành được độc lập, đó là một thành quả vô cùng quan trọng,
song các nước này hầu hết lại là các nước nghèo, còn lạc hậu. Cho nên, họ vẫn bị phụ
thuộc vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản :từ khai thác - sử dụng tài nguyên, quy
trình sản xuất, vốn, kỹ thuật - công nghệ đến thị trường tiêu thụ cũng như phân công lao
động quốc tế,… Các nước đang phát triển đang phải đối diện trước thách thức của nguy
cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Bởi một cơ cấu kinh tế còn nhiều bất hợp lý, trong đó
tỷ trọng công nghiệp nhỏ bé trong tổng giá trị thu nhập quốc dân, cộng thêm với trình độ
thấp kém về năng suất lao động cho nên tốc độ phát triển kinh tế của đa số các nước đang
phát triển thấp và bấp bênh. Trong thập niên 60, các nước đang phát triển đạt mức tăng
trưởng 5,7%, thập niên 70 đạt 5,3% thì đến thập niên 80 là 2% và những năm vừa qua
của thập niên 90 tuy tình hình có được cải thiện, song cũng chỉ đạt mức trên 4% trong khi
tỷ lệ tăng dân số vẫn còn ở mức 2%/năm.
Không những thế, vấn đề về nợ nước ngoài cũng trở thành gánh nặng đối với các
nước đang phát triển. Số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy nợ nước ngoài của các
nước này đã tăng hơn 300 lần trong bốn thập niên qua: từ 6 tỉ năm 1995 lên trên 2000 tỷ
đầu năm 2000. Trong đó, có những nước mà tổng số nợ đã vượt xa so với tổng thu nhập
quốc dân. Những bi kịch về nợ nước ngoài của các nước đang phát triển không chỉ được
biểu hiện ở tổng số nợ khổng lồ mà còn là tình trạng nhiều nước không có khả năng thanh
toán dù chỉ là lãi suất hàng năm, trong khi đó tốc độ của các khoản vay vẫn gia tăng và
không hề có dấu hiệu giảm bớt.
Cùng với nợ nần là tình trạng bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch – thương mại
giữa các nước đang phát triển và phát triển. Chỉ tính riêng qua trao đổi không ngang giá,
các nước phát triển mỗi năm thu về món lợi hàng chục tỉ USD.
Mặt khác vẫn tiếp tục diễn ra sự phân biệt đối xử hàng hóa – sản phẩm của các nước
đang phát triển khi thâm nhập thị trường các nước phát triển. Qua con đường đầu tư,
chuyển giao kỹ thuật – công nghệ, các cường quốc tư bản không chỉ thu lợi do bán các Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
thiết bị công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm mà còn khống chế nhiều huyết mạch kinh tế
quan trọng của các nước đang phát triển. Còn các nước đang phát triển, do áp lực bức
bách của nhu cầu cải thiện đời sống kinh tế đã dễ dàng chấp nhận “chào đón” bất kỳ sự
cải tiến kỹ thuật - công nghệ nào, bất kỳ nguồn vốn tư bản nào. Sự đơn giản dễ dãi này,
mặc dù trước mắt có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, song rất có thể phải trả giá đắt bởi
các hậu quả kinh tế xã hội khó lường. Do vậy, lựa chọn kỹ thuật – công nghệ, cơ cấu kinh
tế, mô hình kinh tế - xã hội đang đặt ra những tiêu chuẩn phức tạp hơn để có thể tận dụng
mọi cơ hội phát triển cho cả ngày mai, không chỉ vì những cái lợi ích trước mắt.
Đó là những vấn đề trên con đường hợp tác giữa các nước đang phát triển và các
nước phát triển, vậy còn hợp tác giữa các nước đang phát triển với nhau thì sao? Con
đường này cũng gặp nhiều trở ngại bởi lẽ các nước này đều có sự tương đồng về trình độ
phát triển cũng như các lợi thế về nguồn tài nguyên, nhân lực và thị trường,… trong khi
tất cả đều thiếu vốn, kỹ thuật - công nghệ và tri thức quản lý hiện đại. Hơn nữa, những lợi
thế nêu trên dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa hiện
nay không có vai trò ý nghĩa nổi bật như các thập niên trước đây. Điều đó cho thấy, các
nước đang phát triển cần thiết phải có cách tiếp cận mới trong hợp tác cùng nhau. Chỉ có
như vậy, khuôn khổ và cơ chế hợp tác mới thực sự trở nên hữu ích và thiết thực đối với
các nước đang phát triển. Đồng thời, nó đóng góp vào việc phối hợp các nỗ lực chung của
các nước đang phát triển nhằm từng bước khắc phục và hạn chế những hậu quả tiêu cực
của toàn cầu hóa cũng như trong quá trình xúc tiến quan hệ với các nước phát triển.
3. Sự hình thành tất yếu của chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta
Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước không
phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và nhà nước ta. Nó là sự kế thừa, phát
triển và vận động sáng tạo và hoàn cảnh hiện nay của đất nước, những luận điểm mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi trước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày
23 tháng mười năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “chúng ta hoan nghênh những
người pháp muốn đem 4 bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai
khai thác,… Chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu
đến đây giúp việc cho chúng ta trong công cuộc kiến thiết quốc gia” (Hồ Chí Minh: toàn
tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, trang 74)
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những năm 70 của thế kỷ trước,
nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia Phong trào
không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản là đấu tranh cho một
trật tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan hệ với các nước trong cộng đồng xã Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
hội chủ nghĩa, nước ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các
nước tư bản chủ nghĩa mặc dầu lúc đó các thế lực thù địch thực hiện chính sách bao vây
về kinh tế, cô lập về chính trị tương đối với nước ta.
Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế
quốc tế càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội lần thứ VI của
Đảng họp tháng 12 - 1986 đã chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nhằm đưa nước
ta ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội. Việc triển khai Nghị quyết Đại hội lại
diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xô, Đông Âu xấu đi nhanh chóng và tới đầu những
năm 90 thì chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị xóa bỏ tại các nước này, Liên bang Xô Viết tan
rã, Hội đồng tương trợ kinh tế giải thể. Để phục vụ cho việc thực hiện đường lối đổi mới,
Đại hội và các hội nghị Trung ương tiếp theo, nhất là các Nghị quyết 13/5/1988 của Bộ
chính trị, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương VIII tháng 3/1990 đã phân tích sâu sắc
tình hình thế giới, đề ra các chủ trương và giải pháp ứng phó với những tiêu cực của tình
hình với nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính sách bao vây kinh tế, cô lập về chính trị đối
với nước ta, mở rộng quan hệ quốc tế. Cũng theo tinh thần đó, năm 1987, nước ta đã
thông qua Luật đầu tư với nước ngoài với những quy định khá thông thoáng.
Đại hội lần thứ VI học vào tháng 6/1991 mở ra bước đột phá mới: thông qua Cương
lĩnh của Đảng và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, đồng thời đưa
ra những đường lối đối ngoại mở rộng với khẩu hiệu: “Với chính sách đối ngoại rộng mở,
chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập, phát triển”. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khóa VII
đã ra Nghị quyết về chính sách đối ngoại, trong đó nêu ra tư tưởng chỉ đạo là “giữ vững
nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo. Năng
động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như
diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng của nước ta có
quan hệ.” Đồng thời, Nghị quyết cũng nêu ra bốn phương châm bảo đảm lợi ích dân tộc,
trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân; giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương
hóa các quan hệ đối ngoại; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế;
ưu tiên hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Đại hội lần thứ VIII họp tháng 6/1996 đã khẳng định chủ trương “xây dựng một nền
kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Hội nghị Trung
ương 4 khóa VIII nêu nhiệm vụ “tích cực chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường
quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với
Mỹ”, “gia nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA”. Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
4. Nhận định về những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trên con đường hội
nhập kinh tế quốc tế
4.1. Những cơ hội mà Việt Nam có được khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình “mở cửa” nền kinh tế, đưa các doanh nghiệp
trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh, quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta
có cơ hội tích lũy được những tiền đề, những điều kiện cho một trình độ phát triển mới.
Trước hết chúng ta có cơ hội thu hút vốn, khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh
nghiệm quản lý kinh tế từ bên ngoài và mở rộng thị trường để đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tiếp đó hội
nhập kinh tế tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở các hiệp định
thương mại đã ký kết với các nước, trong khu vực và toàn cầu. Tạo cơ hội giao lưu các
nguồn lực của nước ta với các nước, bởi chúng ta có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng nếu
không hội nhập thì việc sử dụng trong nước sẽ bị lãng phí, kém hiệu quả. Thông qua hội
nhập ta có thể xuất khẩu lao động qua hợp đồng gia công hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo
cơ hội để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế
mà ta chưa có. Mặt khác, mở cửa và hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh hơn nữa
quá trình cải cách, đổi mới xã hội, nhất là những cải cách về phương thức hoạt động của
hệ thống chính trị, về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh
cơ cấu sản xuất trong nước, tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế để tham gia ngày càng
nhiều hơn vào phân công lao động quốc tế và mở rộng quá trình dân chủ hóa xã hội. Với
một nền kinh tế yếu kém, nếu không tranh thủ được những cơ hội do toàn cầu hóa mang
lại – dù là toàn cầu hóa đang do chủ nghĩa tư bản chi phối – thì chúng ta không thể xây
dựng chủ nghĩa xã hội được. Chỉ riêng vấn đề “học hỏi” chủ nghĩa tư bản chứ chưa nói
đến tranh thủ những nguồn lực, phương tiện vật chất cần thiết, đã là một tất yếu khách
quan, một yêu cầu bắt buộc đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước chậm phát
triển và đang phát triển nói chung và ở nước ta nói riêng. Bởi vì như Lênin đã nói:
“chúng ta không hình dung một thức chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội
dựa trên cơ sở những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản thu được” (V.I
Lênin, Toàn tập, NXB Tiến bộ, M, 1977, trang 334).
4.2. Những thách thức mà chúng ta gặp phải trên con đường hội nhập
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích mà còn đặt nước ta
trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó tốt thì sự thua thiệt về
kinh tế và xã hội có thể rất lớn. Ngược lại, nếu chúng ta có chiến lược thông minh, chính Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
sách không khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt, dành được lợi ích nhiều hơn cho đất nước.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển. Mặc dù đã có những bước tiến
quan trọng về tăng trưởng kinh tế. Song chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sản xuất, sức
cạnh tranh của các sản phẩm, các doanh nghiệp và của nền kinh tế còn thấp.
- Tình trạng phổ biến hiện nay là sản xuất còn mang tính tự phát, chưa bám sát nhu cầu
thị trường. Nhiều sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao nên giá trị gia tăng
thấp, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, thậm chí có nhiều sản phẩm cung vượt quá
cầu, hàng tồn kho lớn. Năng lực cạnh tranh hàng hoá, dịch vụ của nước ta nói chung còn
thấp do trang thiết bị công nghệ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém, lạc hậu so với thế
giới từ 10 đến 30 năm, cộng thêm những yếu kém về quản lý, môi trường đầu tư kinh
doanh (thủ tục hành chính chưa thông thoáng, chính phủ đầu tư quá cao so với các nước
trong khu vực), hạn chế về cung cấp thông tin xúc tiến thương mại.
- Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, tỉ lệ số doanh nghiệp
kinh doanh thua lỗ liên tục còn nhiều thực trạng tài chính của nhiều doanh nghiệp thực sự
đáng lo ngại: nhìn chung thiếu vốn, nợ nần kéo dài, tổng số nợ phải thu của các doanh
nghiệp chiếm 24% doanh thu, nợ phải trả chiếm 133% tổng số vốn nhà nước các doanh
nghiệp. Nhiều doanh nghiệp không xác định tự lực phấn đấu vươn lên mà còn dựa vào sự
hỗ trợ, bảo hộ của nhà nước, chưa tích cực chuẩn bị theo yêu cầu tiến trình hội nhập khu vực và thế giới.
Tuy nhiên không thể đổ lỗi hoàn toàn cho các doanh nghiệp mà nó còn phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố khác. Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp còn lớn đang làm giảm
sức cạnh tranh của các sản phẩm của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ có thể giảm chi
phí đầu vào bằng cách đầu tư công nghệ mới, thay đổi phương thức quản lý triệt để tiết
kiệm. Song họ không thể ngăn chặn được sự gia tăng của chi phí đầu vào do sự leo thang
giá cả của không ít loại vật tư, nguyên liệu, điện nước, cước phí giao thông, viễn thông.
Nhất là cước phí của các ngành có tính độc quyền. Chẳng hạn như giá truy cập internet
trực tiếp có mức cước cao hơn các nước trong khu vực là 139%... Thêm vào đó hầu hết
các sản phẩm của ta dù để xuất khẩu hay tiêu dùng đều phải nhập ngoại nguyên, phụ liệu
nên chi phí đầu vào cao. Đã vậy hàng nhập khẩu ngoài việc phải chịu thuế nhập khẩu còn
phải chịu thuế VAT dù chưa có giá trị tăng thêm. Trong khi đó thời gian hoàn thuế giá trị
gia tăng lại chậm, do vậy làm khó khăn cho doanh nghiệp về vòng quay vốn, chịu lãi suất
ngân hàng. Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải chịu chi phí do sự sách nhiễu của một số
cán bộ nhà nước thoái hoá biến chất. Hơn nữa sự rườm rà về thủ tục hành chính, thanh
kiểm tra chồng chéo cũng làm tăng chi phí đầu vào của các doanh nghiệp. Do chi phí đầu Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
vào cao nên giá thành sản phẩm quá cao so với khu vực và thế giới, dẫn đến ứ đọng, khó
tiêu thụ, năng lực sản xuất không khai thác hết làm cho nhiều doanh nghiệp thua lỗ.
Điều đáng lo ngại nữa hiện nay là mặc dù thời điểm hội nhập với khu vực và thế
giới đang đến gần, song tư tưởng đòi bảo hộ, chưa tích cực chuẩn bị còn phổ biến ở nhiều
doanh nghiệp. Theo điều tra của phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam mới có
84% doanh nghiệp điều tra trả lời là có nhận được tin về hội nhập, 16% doanh nghiệp
chưa có hiểu biết về quá trình hội nhập. Trong các doanh nghiệp sản xuất hàng công
nghiệp chỉ có 23,8% doanh nghiệp có hàng hoá xuất khẩu, 13,7% doanh nghiệp có triển
vọng xuất khẩu và 62,5% doanh nghiệp hoàn toàn không có khả năng xuất khẩu. Việc
Trung Quốc, Đài Loan gia nhập WTO, việc 6 nước thành viên ASEAN cũ thực hiện
AFTA từ 1/1/2002 và gần đây Nhật Bản kí thoả thuận với Singapo về thành lập khu vực
tự do thương mại giữa hai nước, cũng như kế hoạch thành lập khu vực tự do thương mại
giữa Trung Quốc và ASEAN vào 2010 sẽ tạo ra 1 số tuận lợi, song sẽ làm tăng cạnh
tranh gay gắt về kinh tế giữa các nước trong khu vực cũng như đối với nền kinh tế nước
ta về thương mại, đầu tư.
- Môi trường kinh doanh đầu tư ở Việt Nam mặc dù đang được cải tiến song nhìn chung
còn chưa thuận lợi, còn nhiều khó khăn: khuôn khổ pháp lý chưa đảm bảo cho cạnh tranh
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sự độc quyền trong một số lĩnh vực của một số
tổng công ti nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng còn yếu kém, sự thiếu minh bạch về
cơ chế chính sách, chế độ thương mại còn nặng về bảo hộ, thủ tục hành chính còn rườm
rà, chưa thông thoáng. Các thể chế thị trường như thị trường vốn, sức lao động, thị trường
công nghệ, thị trường bất động sản... còn sơ khai, chưa hình thành đồng bộ.
- Nguồn nhân lực Việt Nam dồi dao nhưng tay nghề kém, lợi thế về lao động rẻ có xu
hướng đang mất dần. Trước mắt, do giá nhân công còn rẻ và đang có thị trường rộng lớn
nên ngành may mặc và giầy da là hai ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất trong nhóm
năm sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên lợi thế về nhân công rẻ
đang mất dần và giá nhân công các ngành này hiện đang cao hơn một số nước trong khu
vực. Hơn thế nữa, để đào tạo nghề, nâng cao kĩ năng, trình độ tay nghề cần phải chi phí
đầu tư lớn, điều này sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá.
Như vậy nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều yếu kém, sức cạnh tranh thấp.
5. Những quan điểm chủ đạo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta
Từ những điều nói trên, chúng ta có thể khái quát và nhấn mạnh một số quan điểm
chủ yếu cần quán triệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta như sau: Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
- Một là, lợi ích quốc gia là mục tiêu tối thượng của hội nhập kinh tế quốc tế, phải xử lý
linh hoạt, khôn khéo mối quan hệ đối tác và đối tượng; hợp tác và đấu tranh, bảo đảm độc
lập, tự chủ và lợi ích quốc gia, dân tộc trong hội nhập trên mọi cấp độ song phương, đa
phương, toàn cầu. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy tối đa nội lực, đi đôi
với thu hút sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, tạo thành sức mạnh tổng hợp của đất nước.
- Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, văn
hóa truyền thống và hiện đại, nên hội nhập nhưng không hòa tan, bảo đảm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
- Ba là, Nhà nước là chủ thể chính, có vai trò dẫn dắt xã hội trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, song không phải là chủ thể duy nhất. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của
toàn dân, của cả hệ thống chính trị, do vậy, các tổ chức, các doanh nghiệp, các địa
phương, cá nhân… cùng tham gia các hoạt động của hội nhập kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm trong quá trình hội nhập quốc tế. Xuất phát
từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều vấn đề đặt ra về chính trị, quốc phòng, an
ninh, môi trường, khí hậu,… nên cần thiết phải hội nhập toàn diện vào đời sống kinh tế -
xã hội thế giới, nhưng mục tiêu trọng tâm vẫn là hội nhập kinh tế. Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học PHẦN 2
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I. CÁC BƯỚC ĐI CỦA TA TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Năm 1993, chúng ta khai thông quan hệ với các tổ chúc tài chính, tiền tệ quốc tế như
IMF, WB, ADB, IMF, WB đã hỗ trợ cho ta thông qua Chương trình tín dụng trung han;
Chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAC) của WB và chương trình điều chỉnh cơ cấu mở
rộng (ESAF) của IMF. Nội dung đàm phán với các tổ chức này gắn bó mật thiết với
những yêu cầu của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong quan hệ với các tổ chức
này, chúng ta chỉ chấp nhận sự hỗ trợ tài chính nếu yêu cầu của họ không trái với đường
lối chính sách của ta; có năm điều kiện họ đưa ra vi phạm chủ quyền và lợi ích của ta nên ta không nhận.
Ngày 25/7/1995, nước ta đã chính thức gia nhập ASEAN, đồng thời tham gia khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Từ ngày 1/1/1996, chúng ta bắt đầu thực hiện
nghĩa vụ và các cam kết trong chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEFT)
của AFTA. Cụ thể, khi tham gia vào AFTA, Việt Nam có nghĩa vụ giảm thuế suất xuống
còn 0-5% vào năm 2006 và sau đó tiếp tục giảm thuế xuống 0% vào năm 2015. Bên cạnh
đó Việt Nam phải thực hiện lojoctrinhf loại bỏ các hạn chế về định lượng và hàng rào phi
thuế quan khác; xây đựng một danh mục biểu thuế quan chung ASEAN; xây dựng hệ
thống luồng xanh hải quan nhằm tạo điều kiện thúc đẩy thương mại. Ngoài ra chúng ta
còn tham gia đàm phán hiệp định thương mại dịch vụ, tham gia chương trình hợp tác
công nghiệp (AICO) và khu vực đầu tư ASEAN (AIA) cũng như các chương trình hợp
tác trong công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải… của ASEAN.
Tháng 3/1996 nước ta tham gia diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư cách là
thành viên sáng lập. Nội dung chủ yếu tập trung vào thuận lợi hóa thương mại, đầu tư và
hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp Á - Âu. Cam kết về tự do hóa thương mại đầu tư chưa được đặt ra.
Ngày 15/6/1996, Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á
- Thái Bình Dương (APEC). Tháng 11/1998 đã được công nhận là thành viên chính thức
của tổ chức này. APEC quyết định thực hiện hội nhập đầy đủ vào năm 2010 đối với thành Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
viên là nước phát triển và vào năm 2020 đối với các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam).
Tháng 12/1994, ta gửi đơn xin gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Mười
năm kể từ khi nộp đơn gia nhập tổ chức này, Việt Nam đã đạt được những bước tiến nhất
định. Và mới đây, chúng ta vừa mới kết thúc phiên đàm phán đa phương thứ 10 tại
Geneva (Thụy Sĩ). Tại phiên họp này chúng ta đã nhận được sự ủng hộ rất lớn của các
nước thành viên, đặc biệt là Trung Quốc. Việt Nam hiện đang ở ngưỡng cửa chính thức
bước vào ngôi nhà chung của đại gia đình 148 thành viên của Tổ chức thương mai lớn
nhất hành tinh này. Theo các chuyên gia nước ngoài để gia nhập WTO vào cuối năm nay
tại Hội nghị các Bộ trưởng WTO ở Hồng Kông chúng ta phải cơ bản kết thúc đàm phán
song phương và đa phương vào quãng tháng 6 – 7 trong đó có những đối tác rất lớn như
Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản. Tuy nhiên, việc này còn thực hiện còn nhiều khó khăn bới
vẫn còn nhiều đối tác nước ngoài muốn gây sức ép cho ta. Thế nên, đến giờ, thời hạn để
ta gia nhập WTO vẫn là một câu hỏi lớn. Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
II. CÁC KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐẠT ĐƯỢC CỦA NƯỚC TA TRONG TIẾN TÌNH HỘI NHẬP.
Trước tình hình kinh tế thế giới đang phát triển một cách mạnh mẽ, xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tất yếu của mối quan hệ kinh tế thế giới hiện đại.
Việt Nam không thể tránh khỏi tầm ảnh hưởng của xu thế tất yếu này và cũng không
muốn bị tụt lùi hơn nữa. Kết quả là sự thay đổi cơ chế, buộc Việt Nam phải bắt nhịp với
sự phát triển của thế giới. Một hệ thống chính trị đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
nhưng hoạt động kinh tế thị trường với chính sách hợp lí, mềm dẻo, mở cửa để hội nhập,
các hoạt động đối ngoại mở rộng, đa phương, song phương từng bước tham gia vào các
diễn đàn kinh tế lớn, mở rộng quan hệ ngoại giao, từ đó thiết lập các mối quan hệ hàng
hóa thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
Nhờ đó mà chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định mà trước hết là chúng ta
đã đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập, cấm vận của các thế lực thù dịch, tạo dựng
được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc,
nâng cao vị thế đất nước trên chính trường và thương trường thế giới.
Nước ta đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do Liên Xô và hệ
thống xã hội chũ nghĩa bị tan rã và cuốc khủng hoảng khu vực gây nên đồng thời mở
rộng thị trường xuất nhập khẩu.
Trong gần 20 năm đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu kinh tế rõ rệt, một
nền kinh tế thị trường đi theo định hướng xã hội chũ nghĩa đã dần được hình thành và
tiến từng bước tăng trưởng và phát triển.
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta tăng truongwre khá nhanh và toàn diện,
năm sau cao hơn năm trước. Năm 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 Tăng 6,21 6,81 7,08 7,02 2,91 2,58 8,02 GDP
Bảng tăng trưởng GDP cả nước giai đoạn 2016 - 2022 Khoa Đào tạo quốc tế Tiểu luận triết học
Bảng thể hiện tỉ lệ tăng trưởng kinh tế qua các năm. Như vậy là vào năm 2004, Việt
Nam đã đạt mực tăng trưởng cao của khu vực, tăng khá cao với thời gian trước đó và
cũng là mức cao nhất so với 6 năm trước đó. Đặc biệt là so với năm 1990 về giá trị GDP
lớn gấp 2,74 lần, về công nghiệp gấp gần 6,5 lần, về xuất khẩu gấp gần 10,8 lần. thu nhập
bình quân đầu người cũng nhờ thế mà tăng lên đáng kể, nếu năm……. Là 100USD/năm
thì đến năm 2004 đã đạt 400USD/người/năm. Kết quả nói trên có được là do nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là do việc chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế mang lại. Trong những năm qua cơ cấu ngành kinh tế đã chuyển dịch theo hướng:
tỷ trọng của khu vực nông lâm nghiệp – thủy sản đã giảm từ 38,74% năm xuống còn
21,76% năm 2004, tức là giảm trên 1,1%/năm. Trong khi đó tỉ trọng của khu vực công
nghiệp xây dựng đã tăng nhanh từ 22,67% năm 1990 lên 40,09% năm 2004, tức là tăng
gần 1,2%/ năm. Tỉ trọng dịch vụ đạt đỉnh cao nhất vào năm 1999 (44,06%) nhưng đã
giảm 8 năm liền: năm 2003 chỉ còn 38%, năm 2004 đã tăng lên 38,15% - đã có dấu hiệu
chặn được sút giảm tỉ trọng dịch vụ trong GDP.
Bên cạnh đó, chúng ta từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nên
kinh tế vào môi trường cạnh tranh, nhờ đó tạo được tư duy làm ăn mới, thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong quá trình hội
nhập quốc tế, nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng
cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh và phát triển, và
thực tế sức cạnh tranh của họ cũng được nâng lên đáng kể. Một tư duy mới, nột nếp làm
ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất và kinh doanh làm thước đo, một đội ngũ các doanh nghiệp
năng động sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành.
Hơn nữa chúng ta cũng đang từng bước tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ năng quản
lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh. Hội nhập kinh tế quốc
tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận với những thành quả của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền
sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tao nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất.
Cùng với đó thông qua các dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp
Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện đại.
Đồng thời, các lĩnh vực xã hội như giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của đông
đảo quần chúng nhân dân, phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao,
xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội cho các vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số đã
được quan tâm phát triển để từng bước đồng bộ với phát triển kinh tế. Cụ thể: mỗi năm
có hơn 1,2 triệu lao động mới có việc làm. Tỉ lệ hộ nghèo từ trên 30% phần tram còn
10%. Người có công với cách mạng, với đất nước được quan tâm, chăm sóc. Tỉ lệ tăng