lOMoARcPSD| 61429799
4. Việt Nam và WTO
4.1 Quá trình Việt Nam gia nhập WTO
4.1.1. Bối cảnh chung nền kinh tế Việt Nam trước khi gia nhập
WTO
Trước khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua một quá trình chuyển đổi sâu sắc
từ hình kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thtrường định hướng xã hội chủ nghĩa.
thể chia thành 3 giai đoạn chính:
Giai đoạn 1976–1986: Kinh tế bao cấp, trì trệ và khủng hoảng
- Việt Nam áp dụng mô hình kinh tế XHCN, ưu ên công nghiệp nặng, loại bỏ kinh tế tư
nhân, phân phối theo tem phiếu.
- Hệ thống quản mang nh bao cấp, quan liêu, thiếu linh hoạt không phản ánh
đúng thực ễn.
- Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam (1982) đã thừa nhận thất bại trong giai đon
trước: năng suất thấp, mất cân đối lớn, đời sống nhân dân khó khăn.
Giai đoạn 1986–1995: Đổi mới và chuyển sang kinh tế thị trường
- Đại hội VI (1986) khởi xướng công cuộc Đổi mới, thừa nhận kinh tế nhiều thành phn
và cơ chế thị trường có squản lý của nhà nước.
- Thị trường dần hình thành, rào cản thương mại nội địa được g bỏ, nông nghiệp phát
triển mạnh nhờ chính sách "khoán 10".
- Việt Nam tự cung cấp được lương thực bắt đầu xuất khẩu; xuất hiện khu vực
nhân, đầu tư nước ngoài gia tăng.
Giai đoạn 1995–2006: Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế
- Việt Nam gia nhập ASEAN (1995), ASEM, (1996) APEC (1998) nhiều hiệp định
thương mại song phương và đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế.
- Kinh tế tăng trưởng ổn định, kiểm soát được lạm phát, cải thiện cán cân thương mại.
- Tuy nhiên, vẫn tồn tại những hạn chế như: năng suất thấp, doanh nghiệp ni yếu,năng
lực cạnh tranh còn kém.
4.1.2. Quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam
Quá trình gia nhập Tchức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam là một chặng đường dài,
đầy nỗ lực cải cách và hội nhập, được chia thành ba giai đoạn chính:
Giai đoạn nộp đơn xin gia nhập
- Ngày 1/1/1995, Việt Nam chính thức nộp đơn xin gia nhập WTO và trở thành quan sát
viên của tổ chức này.
lOMoARcPSD| 61429799
- Tháng 8/1996, Việt Nam đệ trình “Bị vong lục về chính sách thương mại” lên Ban Thư
ký WTO, cung cấp tổng quan về nền kinh tế, chính sách mô, thương mại hàng hóa,
dịch vụ và quyn sở hữu trí tuệ.
Giai đoạn đàm phán gia nhập
- Năm 1996, Việt Nam bắt đầu đàm phán với Mỹ về Hiệp định Thương mại Song phương
(BTA), chỉ rõ các điều khoản được dựa trên cơ sở các nguyên tắc ca WTO. Vì vậy, việc
đàm phán thành công hiệp định này được đánh giá như một cuộc “tập dượttrước
khi bước vào sân chơi toàn cầu. Hiệp định này được ký ngày 13/7/2000, có hiệu lực từ
2001.
- 1998–2000, Việt Nam cũng ến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về minh
bạch hóa các chính sách thương mại Việt Nam ến hành các phiên họp đa phương
nhằm minh bạch hóa chính sách thương mại, từ đó cơ bản hoàn thành qtrình minh
bạch hóa và chuyển sang hướng đàm phán mở cửa thị trường.
- Tháng 1/2002, Việt Nam đưa ra bản chào đầu ên về mở cửa thị trường hàng hóa
dịch vụ; các bản sửa đổi ếp theo được cập nhật trong các năm 2004, 2005 và 2006.
- Sau khi đạt được ến triển trong đàm phán đa phương Hiệp định BTA hiệu lực
năm 2001, Việt Nam bước vào giai đoạn đàm phán song phương với các thành viên
WTO. Ban đầu hơn 40 ớc yêu cầu đàm phán, nhưng nhnỗ lực ngoại giao, con
số này giảm xuống còn 28 nước, bao gồm những đối tác quan trọng nMỹ, EU
Trung Quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho ến trình gia nhập WTO.
- Tháng 5/2006, Việt Nam Mỹ ký kết thỏa thuận kết thúc đàm phán song phương, Mỹ
trao quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR), chấm dứt các rào cản pháp lý
và bình thường hóa hoàn toàn quan hệ kinh tế song phương. Giai đoạn kết nạp
- Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức tr thành thành viên th150 của T chc
Thương mại Thế giới (WTO).
- Ngày 12/1/2007, Việt Nam bắt đầu thực thi đầy đủ các quyền và nghĩa vụ với tư cách
là thành viên chính thức của WTO.
4.1.3. Cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO
a, Cam kết về thuế quan
Trong khuôn khTchức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã cam kết cắt giảm thuế
quan trên toàn bộ 10.600 dòng thuế, kéo mức thuế suất trung bình từ 17,5% xuống còn 11,4%
vào năm 2019. Cụ th, thuế suất đối với hàng nông nghiệp giảm từ 22,4% xuống 20,9%, trong
khi hàng phi nông nghiệp giảm từ 13,1% xuống 12,6%. Việt Nam cũng tham gia Hiệp định Công
nghệ Thông n (ITA), theo đó cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng công nghệ
thông n nằm trong danh mục ITA. Thực tế cho thấy, Việt Nam triển khai ltrình giảm thuế
nhanh hơn so với cam kết. Đến năm 2012, mức thuế nhập khẩu trung bình đã giảm còn 10,4%,
lOMoARcPSD| 61429799
thấp hơn nhiều so với mốc đặt ra. Nhiều ngành như thủy sản, dệt may, gỗ, giấy, thép, điện tử
các sản phẩm chế biến khác được cắt giảm thuế đáng kể, thậm chí trước thời hạn. Tuy
nhiên, với các mặt hàng nhạy cảm như trứng, đường, thuốc muối, Việt Nam vẫn tuân
thủ đúng lộ trình đã thỏa thuận.
b, Những cam kết khác về thương mại hàng hoá
Về thương mại hàng hóa, bên cạnh việc cam kết cắt giảm thuế quan, Việt Nam còn thực hiện
nhiều nghĩa vụ liên quan đến các biện pháp phi thuế theo quy định của WTO. Những cam kết
này bao gồm quyền xuất nhập khẩu, thuế nội địa, trợ cấp, doanh nghiệp nhà nước và quản lý
giá. Dưới đây là nội dung được trình bày lại với cách diễn đạt khác:
- Thuế nội địa: Việt Nam đã điều chỉnh quy định để đảm bảo không phân biệt đối xử
giữa hàng hóa nhập khẩu hàng sản xuất trong nước, tuân thnguyên tắc đối xử
quốc gia theo GATT. Đối với một số mặt hàng nhy cảm như rượu, bia – vốn được bảo
lưu nghĩa vụ trong ba năm Việt Nam đã hoàn tất cam kết sớm hơn dự kiến. Chẳng
hạn, năm 2009, Việt Nam đã điều chỉnh thuế êu thụ đặc biệt, chỉ sau hai năm gia
nhập WTO.
- Trcấp: Việt Nam đã thực hiện xóa bỏ toàn bộ trcấp xuất khẩu cho cả sản phẩm
nông nghiệp và phi nông nghiệp. Tuy nhiên, theo quy định của Hiệp định Nông nghiệp
trong WTO, nước ta vẫn được phép duy trì hai hình thức hỗ trchi phí ếp thị
chi phí vận chuyển quốc tế cho hàng xuất khẩu.
- Quyền xuất nhập khẩu: Kể từ ngày 1/1/2007, Việt Nam cam kết cho phép các doanh
nghiệp trong và ngoài nước, cũng như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIEs),
được quyền nhập khẩu bình đẳng, ngoại trừ một số mặt hàng được phép bảo lưu
quyn nhập khẩu đến năm 2009 hoặc vĩnh viễn.
- Hải quan: Việt Nam đã tuân thủ các chuẩn mực của WTO liên quan đến phí xác định
trị giá hải quan theo Hiệp định định giá hải quan. Đồng thời, nước ta ch cực đơn giản
hóa và hài hòa hóa thủ tục hải quan để tạo thuận lợi thương mại. Hiện nay, Việt Nam
vẫn đang ếp tục soát hệ thống pháp luật để chuẩn bị cho việc thực thi Hiệp định
Tạo thuận lợi thương mại của WTO – một hiệp định đã được thông qua từ năm 2014
nhưng chưa chính thức có hiệu lực tại thời điểm đó.
- Phòng vệ thương mại: Trước khi tham gia WTO, Việt Nam chưa hthống pháp
bài bản về phòng vệ thương mại. Sau khi gia nhập, Việt Nam đã xây dựng cơ sở pháp
phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến. Các
công cụ phòng vệ chính bao gồm:
Chống bán phá giá: Cho phép điều tra và áp thuế đối với hàng nhập khẩu có giá thấp hơn giá
thông thường và gây thiệt hại cho sản xuất nội địa. Ví dvụ áp thuế với thép không gcán
nguội nhập từ Trung Quốc, Malaysia, Indonesia và Đài Loan.
lOMoARcPSD| 61429799
Chống trợ cấp: Việt Nam có quyền áp dụng thuế chống trợ cấp nếu phát hiện hàng hóa nhp
khẩu được hỗ trợ tài chính từ ớc xuất khẩu, gây thiệt hại cho ngành trong nước, như trong
vụ điều tra đường nhập từ Thái Lan năm 2020.
Biện pháp tự vệ: Cho phép áp dụng thuế khi lượng hàng nhập tăng đột biến không cần
chứng minh gian lận thương mại. Điển hình là biện pháp tự vệ toàn cầu với phân bón DAP và
MAP năm 2017.
Quản giá: Việt Nam đã cải cách chế quản giá theo hướng phù hợp với kinh tế th
trường. Nghị định 75/2008/NĐ-CP được ban hành để trao quyền định giá dần dần cho doanh
nghiệp. Đến năm 2013, Luật Giá 2012 chính thức thay thế Pháp lệnh Giá, thu hẹp đáng k
phạm vi áp dụng các biện pháp đăng ký và kê khai giá.
Để thực thi hiệu quả các công cụ này, Việt Nam đã ban hành các văn bản pháp luật p hợp
như Luật Quản lý Ngoại thương 2017 và các nghị định hướng dẫn (Nghị định 10/2018/NĐ-
CP, 11/2018/NĐ-CP, 42/2019/NĐ-CP), đồng thời thành lập Cục Phòng vệ Thương mại thuộc
Bộ Công Thương với chức năng điều tra, vấn xử tranh chấp. c, Những cam kết về
thương mại dịch vụ
Trong quá trình hội nhập với Tchức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã cam kết mở
cửa thị trường dịch vụ trong 11 lĩnh vực, tương ứng khoảng 110 trên tổng số 155 phân ngành
theo phân loại của WTO. Đối với các lĩnh vực đã cam kết, Việt Nam phải thực hiện mở cửa ít
nhất theo đúng mức độ và ến độ đã thỏa thuận. Với những phân ngành chưa đưa vào cam
kết, Việt Nam quyền tự quyết về phạm vi thời gian mở cửa tùy theo điều kiện trong
ớc. Việc thực hiện cam kết mở cửa dịch vụ được triển khai theo hai ớng chính:
- Ban hành các quy định pháp lý mới, chi ết và cụ thhơn cho các lĩnh vực đã cam
kết, như trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, chứng khoán và phân phối.
- Áp dụng trực ếp các quy định của điều ước quốc tế đối với những dịch vụ pháp
luật Việt Nam chưa điều chỉnh hoặc không phân biệt đối xử giữa nhà cung cấp trong
và ngoài nước. Một số lĩnh vực êu biểu:
Ngân hàng: Tnăm 2011, các quy định hạn chế hoạt động huy động ền gửi bằng Vtại các
chi nhánh ngân hàng ớc ngoài đã bdỡ bỏ. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép
thành lập và hoạt động tại Việt Nam như ngân hàng trong nước, hoàn tất đầy đủ cam kết với
WTO. Các tổ chức n dụng nước ngoài có thể tham gia thị trường thông qua nhiều hình thc
như chi nhánh, công ty liên doanh hoặc văn phòng đại diện.
Bảo hiểm chứng khoán: Việt Nam đã cho phép thành lập công ty bảo hiểm công ty chứng
khoán 100% vốn nước ngoài dưới mô hình công ty cổ phn. Ngoài ra, các doanh nghiệp nước
ngoài trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ chứng khoán cũng được phép mchi nhánh
tại Việt Nam, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các nhà đầu tư quốc tế.
Viễn thông: Nhà đầu tư nước ngoài có thể tham gia cung cấp dịch vụ thông qua hình thức liên
doanh. Với dịch vụ có hạ tầng mạng, tỷ lệ sở hữu nước ngoài bị giới hạn mức 49% (đối với
lOMoARcPSD| 61429799
dịch vụ bản) 50% (đối với dịch vụ giá trị gia tăng). Trong khi đó, với dịch vụ không sử
dụng hạ tầng mạng, tỷ lệ sở hữu tối đa là 70% cho dịch vụ mạng riêng ảo và 65% cho các dịch
vụ khác.
Phân phối: Tny 1/1/2009, doanh nghiệp 100% vốn đầu nước ngoài đã được phép
thành lập tại Việt Nam. Đối với hoạt động bán lẻ, Thông 08/2013/TT-BCT đã nới lỏng một
số quy định, miễn yêu cầu kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT) đối với các cơ sở bán lẻ thhai trở
đi nếu có diện ch dưới 500m² và nằm trong quy hoạch thương mại đã được phê duyệt.
d, Thực thi các cam kết về Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
Trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại, Việt Nam đã triển khai đầy đủ
các quy định của Hiệp định TRIPS thông qua việc ban hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Sau
khi gia nhập WTO, hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã được Hội đồng TRIPS
ến hành rà soát vào năm 2008. Để ếp tục hoàn thiện khung pháp lý trong lĩnh vực này, Việt
Nam đã sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ và Bộ luật Hình sự vào năm 2009.
4.1.4. Lộ trình thực thi WTO của Việt Nam
Giai đoạn 1: Chuẩn bị và đàm phán (1995-2006). Năm 1995: Việt Nam chính thức nộp đơn xin
gia nhập Tchức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 11, thể hiện rõ định hướng hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu mong muốn thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế.
Giai đoạn 1997 – 2006): Việt Nam ến hành các vòng đàm phán song phương và đa phương
với các thành viên WTO để thống nhất các cam kết gia nhập. Nội dung đàm phán bao gồm:
- Thương mại hàng hóa: Việt Nam cam kết hdần thuế nhập khẩu, loại bỏ rào cản phi
thuế quan, và minh bạch hóa các quy định liên quan đến nhập khẩu;
- Dịch vụ: Mở cửa thị trường cho các lĩnh vực như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông
y dựng, với lộ trình và điều kiện cụ thể về mức độ mở cửa;
- Đầu tư: Đề xuất các biện pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, đảm bảo quyền lợi
chính đáng cho nhà đầu nước ngoài. Tháng 11/2006: Việt Nam kết thúc qtrình
đàm phán và ký kết đầy đủ các cam kết về thương mại hàng hóa và dịch vụ tại Hội nghị
APEC tổ chc Nội. Đây là dấu mốc quan trọng, mở ra thời kỳ hội nhập toàn diện
vào hệ thống thương mại quốc tế. Giai đoạn 2: Triển khai các cam kết (2007-2010)
Năm 2007
- Tháng 1: Việt Nam chính thức gia nhập Tchức Thương mại Thế giới (WTO) với cách
thành viên th150. Việc trở thành thành viên đánh dấu bước ngoặt quan trọng, mở
ra hội hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu thúc đẩy tự do hóa thương
mại.
- Tháng 2: Chính phủ ban hành Nghđịnh 23/2007/NĐ-CP nhằm triển khai thực hiện các
cam kết khi gia nhập WTO. Nghđịnh này đóng vai trò nền tảng pháp cho các hot
lOMoARcPSD| 61429799
động kinh tế theo hướng hội nhập, quy định ràng việc cắt giảm thuế quan loi
bỏ các rào cản phi thuế.
- Tháng 6: Một hội nghị quốc gia về hội nhập kinh tế quốc tế được tổ chức để tuyên
truyền, phổ biến nội dung các cam kết WTO. Đây là diễn đàn trao đổi, cập nhật thông
n giữa các cơ quan nhà nước,
cộng đồng doanh nghiệp và chuyên gia trong và ngoài nước về cách thức thực thi cam
kết và thích ứng với bối cnh mới.
Năm 2008
Việt Nam bắt đầu triển khai chính sách cắt giảm thuế nhập khẩu theo đúng cam kết WTO, giúp
hàng hóa nhập khẩu có giá cạnh tranh hơn, đồng thời tạo động lực cho sản xuất trong nước
nâng cao năng lực cạnh tranh.
Công tác bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ cán bqun nhà nước cộng đồng doanh nghiệp
được chú trọng, thông qua các chương trình đào tạo chuyên sâu, nhằm nâng cao hiểu biết
năng lực thực thi hiệu quả các quy định trong khuôn khổ WTO.
Năm 2009
- Tháng 3: Việt Nam chính thức công bố Kế hoạch hành động quốc gia nhằm cụ thhóa
việc thực hiện các cam kết WTO trong các lĩnh vực then chốt như thương mại hàng hóa,
dịch vụ và đầu tư.
- Tháng 8: Các chương trình tập huấn, đào tạo ếp tục được triển khai, hướng đến nâng
cao kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho cán bộ doanh nghiệp, đặc biệt các
doanh nghiệp nhỏ và vừa – nhóm dễ bị ảnh hưởng trong quá trình mở cửa thị trường.
Cải cách và điều chỉnh (2011-2015)
Năm 2011
- Tháng 6: Việt Nam đề ra chiến lược phát triển kinh tế - hội giai đoạn 2011–2020,
với mục êu hội nhập kinh tế quốc tế cải cách thể chế để thực thi cam kết WTO.
Chiến lược nhấn mạnh việc cải cách các ngành, lĩnh vực để tăng nh cạnh tranh
phát triển bền vững.
- Chính phủ ến hành cải cách thể chế trong công tác quản lý nhà nước, nâng cao hiệu
qucủa các quan chức năng trong việc thực hiện cam kết. Đồng thời, các chính sách
được ban hành nhằm cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh.
Năm 2012
- Việt Nam thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu, bao gồm hỗ trợ tài
chính, đào tạo vấn, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh mrộng thị trường
xuất khẩu.
lOMoARcPSD| 61429799
- Công tác đánh giá ến độ thực hiện cam kết WTO được ến hành để xác định các vn
đề tồn đọng đề xuất giải pháp khắc phục, bảo đảm việc thực hiện cam kết đúng
theo các quy định đã ký kết.
Năm 2015
- Tháng 8: Việt Nam hoàn tất đàm phán và ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với
Liên minh châu Âu (EU), mrộng thị trường xuất khẩu Việt Nam vào châu Âu, đồng
thời giảm thuế và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.
Tăng cường hội nhập (2016-2020)
Năm 2016
- Tháng 2: Việt Nam kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) tại New
Zealand, mở ra cơ hội hợp tác kinh tế giữa các thành viên, giúp doanh nghiệp Việt Nam
mở rộng xuất khẩu và ếp cận công nghệ ên ến.
- Tháng 10: Quốc hội thông qua Luật Đầu Luật Doanh nghiệp sửa đổi, nhằm cải
thiện môi trường đầu tư, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt trong việc đơn giản hóa thủ tục đăng kinh
doanh và đầu tư.
Năm 2017
- Tháng 3: Chính phthực hiện các cam kết trong TPP, đưa ra các biện pháp hỗ trdoanh
nghiệp, đặc biệt trong các lĩnh vực nông sản dệt may, nhằm thúc đẩy sản xuất
xuất khẩu.
- Tháng 11: Tchức hội nghị quốc tế về phát triển bền vững, thảo luận các giải pháp ứng
phó với biến đổi khí hậu trong bối cảnh hội nhập kinh tế. Các chuyên gia trong ngoài
ớc chia sẻ kinh nghiệm về phát triển bền vững.
Năm 2020
- Tháng 1: Hiệp định EVFTA (Việt Nam - EU) chính thức có hiệu lực, mang lại lợi ích lớn
cho xuất khẩu Việt Nam vào EU, giúp giảm thuế thúc đẩy đầu tư, đồng thời nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Tháng 11: Chính phếp tục thực hiện các biện pháp cải cách đầu tư và thương mại,
nâng cao khnăng cạnh tranh của nền kinh tế. Các biện pháp cải cách thủ tục hành
chính nâng cao chất lượng dịch vụ công cũng được triển khai để phù hợp với êu
chuẩn quốc tế.
Giai đoạn 5: Đánh giá và điều chỉnh (2021-nay)
- Tháng 9/2021: Việt Nam công bkế hoạch phát triển kinh tế - hội cho giai đoạn
2021-2025, với trọng tâm là hội nhập quốc tế nhm
lOMoARcPSD| 61429799
thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Các chêu cụ thđược đề ra nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, đặc biệt chú trọng vào đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ,
từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Năm 2022
- Tháng 4: Tchức hội nghị quốc tế v đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, nhằm khuyến
khích các doanh nghiệp và nền kinh tế đẩy mạnh chuyển đổi số, qua đó cải thiện khả
năng cạnh tranh và sự thích ứng với thị trường toàn cầu.
- Tháng 11: Chính phủ công bố các chính sách ứng phó với đại dịch COVID-19, bao gồm
các gói hỗ trợ tài chính, chính sách thuế và hỗ trợ đào tạo, giúp các doanh nghiệp duy
trì hoạt động trong thời kỳ khó khăn.
Năm 2023
- Tháng 9: Chính phủ tập trung vào việc cải cách thể chế và nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia, đặc biệt chú trọng vào việc thu t đầu nước ngoài phát triển bền vững.
Các ngành mũi nhọn được xác định và tập trung vào phát triển.
- Tháng 10: Việt Nam triển khai chiến lược phát triển bền vững xanh, với mục êu
đáp ứng các êu chuẩn quốc tế về bảo vệ môi trường phát triển kinh tế. Các chương
trình bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên được ưu ên.
- Lộ trình thực hiện cam kết WTO của Việt Nam thể hiện sự nỗ lực bền bỉ ca chính phủ
cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tgiai đoạn
chuẩn bị, đàm phán đến triển khai và cải cách, Việt Nam đã thực hiện nhiều bước đi
quan trọng, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Các chính sách cải cách, đào tạo
hỗ trợ doanh nghiệp đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện cam kết và nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
4.2 Thực trạng VN sau khi gia nhập WTO tới nay 4.2.1. Kinh tế
a, Thương mại, đầu tư và tăng trưởng kinh tế
Thương mại hàng hoá
Kim ngạch xuất nhập khẩu:Việc gia nhập WTO đã tạo hội cho Việt Nam mở rộng ếp cận
thị trường quốc tế, tận dụng các ưu đãi thuế quan, qua đó thúc đẩy tăng trưởng thương mại.
Vào năm 2006, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt 84,7 tỷ USD, trong đó xuất
khẩu chiếm 39,8 tỷ USD. Đến năm 2024, tổng kim ngạch này đã tăng lên 786,29 tUSD, gấp
gần 9,3 lần so với năm 2006. Kim ngạch xuất khẩu trong năm 2024 đạt 405,53 tỷ USD, tăng
14,3% so với năm 2023, trong khi kim ngạch nhập khẩu đạt 380,76 tỷ USD, tăng 16,7%. Việt
Nam duy trì xu hướng xuất siêu với thặng dư thương mại lên tới 24,77 tỷ USD, điều này phản
ánh sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế sau khi gia nhập WTO, nhờ vào các cải
cách kinh tế và việc tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA).
lOMoARcPSD| 61429799
cấu hàng hóa xuất nhập khẩu: Sau khi gia nhập WTO, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt
Nam đã thay đổi đáng kể, chuyển từ các mặt hàng nguyên liệu thô sang các sản phẩm chế
biến và công nghiệp giá trị gia tăng cao. Trước năm 2007, các mặt hàng chủ yếu của Việt
Nam là nông sản như gạo, cà phê, hạt điều, cao su và các sản phẩm thô như dầu thô và than
đá. Tuy nhiên, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm chế biến,
đặc biệt là các mặt hàng công nghiệp chế tạo, chiếm hơn 85% tổng kim ngạch xuất khẩu vào
năm 2024. Những mặt hàng như điện thoại, linh kiện điện tử, y móc thiết bị, dệt may
giày dép chiếm tỷ trọng lớn trong tổng xuất khẩu. Vnhập khẩu, máy móc, thiết bị và nguyên
vật liệu phục vụ sản xuất chiếm phần lớn trong kim ngạch nhập khẩu, với nhóm hàng tư liu
sản xuất chiếm 93,6% tổng giá trị nhập khẩu năm 2024.
Thtrường xuất nhập khẩu: Việc gia nhập WTO cũng giúp Việt Nam mở rộng và đa dạng hóa
các thị trường xuất nhập khẩu, giảm sự phthuộc vào một số đối tác truyền thống. Hoa K
vẫn thtrường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất
khẩu. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kđạt 142,4 tỷ USD vào năm 2024, chủ
yếu gồm các mặt hàng như điện thoại, linh kiện điện tử, dệt may và giày dép. EU cũng đóng
vai trò quan trọng, với kim ngạch xuất khẩu đạt 48,4 tỷ USD nhờ vào các hiệp định thương mại
tự do như EVFTA. Khu vực ASEAN đối tác xuất khẩu quan trọng với kim ngạch đạt 34,5 tỷ
USD trong năm 2024. Trong khi đó, Trung Quốc ếp tục đối tác nhập khẩu lớn nhất, cung
cấp chủ yếu linh kiện điện tử, máy móc thiết bị, nguyên liệu thô và sản phẩm êu dùng giá rẻ.
Các quốc gia như Hàn Quốc Nhật Bản cũng cung cấp nhiều sản phẩm phục vụ sản xuất công
nghiệp, giúp duy trì sphát triển của ngành công nghiệp chế biến tại Việt Nam. Sự mở rộng
và đa dạng hóa thị trường giúp Việt Nam giảm thiểu rủi ro từ biến động thương mại quốc tế.
Đầu tư
Kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam đã chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ về thu hút đầu tư trực
ếp nước ngoài (FDI), đặc biệt trong các năm 2007 và 2008. Năm 2007, tổng vốn đăng ký đạt
21,3 tỷ USD, và vào năm 2008, con số này tăng mạnh lên 60,3 tỷ USD, đạt mức cao nhất kể từ
khi Luật Đầu trực ếp nước ngoài được thông qua. Tuy nhiên, sau giai đoạn phát triển
nhanh chóng, dòng vốn FDI vào Việt Nam đã có sự thay đổi. Vào năm 2010, vốn thực hiện đạt
11.000 triệu USD, đến năm 2015, con số y tăng lên 15.400 triệu USD. Đến năm 2019, vn
thực hiện đạt 20.380 triệu USD, tăng gn gấp đôi so với năm 2010. Tuy nhiên, do tác động của
đại dịch COVID-19, trong năm 2020, vốn FDI vào Việt Nam chỉ đạt 23,5 tỷ USD, giảm 19,4% so
với năm trước.
Trong giai đoạn 2014-2023, Việt Nam đã thu hút tổng cộng 302,92 tỷ USD vn FDI, với 25.364
dự án được cấp phép, trong đó tỷ lệ giải ngân đạt 61,1%. Đặc biệt, trong năm 2023, tổng vốn
FDI đăng vào Việt Nam đạt 36,61 tỷ USD, tăng 32,1% so với năm trước, với vốn thực hiện
đạt mức kỷ lục 23,18 tỷ USD. Về cơ cấu đầu tư, khu vực FDI đã đóng góp 16,1% o tổng vốn
đầu tư toàn xã hội trong năm 2023, góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các ngành
công nghiệp chế biến có giá trị gia tăng cao, như công nghiệp phụ trợ.
lOMoARcPSD| 61429799
Tăng trưởng kinh tế
Trong năm 2007, GDP của Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng 8,5%, cho thấy nền kinh tế
đang phát triển mạnh mẽ ổn định. Tuy nhiên, năm 2008, khủng hoảng tài chính toàn cầu
đã tác động êu cực, làm giảm tốc độ tăng trưởng xuống còn 6,23%. Từ năm 2009 đến 2019,
nền kinh tế Việt Nam duy trì mức tăng trưởng ổn định từ 6% đến 7% mỗi năm, với sự đóng
góp đáng kể từ các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và xuất khẩu sau khi gia nhập các hiệp
định thương mại tự do. chu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch COVID-19, nền kinh tế Vit
Nam vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91% trong năm 2020. Đến năm 2022 2023, nền kinh tế
phục hồi mạnh mẽ với c mức tăng trưởng lần lượt là 8,02% và 7,09%, nhờ vào sự phc hồi
nhanh chóng của các ngành công nghiệp, xuất khẩu dịch vụ. Đến năm 2024, mặc Việt
Nam vẫn duy trì đà tăng trưởng, nhưng nền kinh tế vẫn đối mặt với các thách thức, bao gồm
nh trạng lạm phát và sự bất ổn của chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ổn định kinh tế vĩ mô và tài chính
Năm 2007, tỷ lệ lạm phát (nh theo chsố giá êu dùng CPI so với tháng 12 năm trước)
12,6%, và năm 2008 đạt 19,98%, đây mức lạm phát cao nhất trong vòng hơn 10 năm qua
ktừ năm 1995. Nguyên nhân chủ yếu là do sự thiếu hiệu quả trong quản chính sách kinh
tế mô, đặc biệt trong giai đoạn 2007 quý I năm 2008, đã làm nh hình thêm căng
thẳng. Việc nhập khẩu tăng nhanh chóng dẫn đến thâm hụt thương mại hàng hóa lên tới 14,1
tỷ USD trong năm 2007 17,5 tUSD trong năm 2008, mặc dù thâm hụt này xu hướng
giảm dần trong các tháng sau. Tuy nhiên, nhờ sự gia tăng mạnh mẽ của kiều hối, FDI, ODA, và
đầu gián ếp, cán cân thanh toán quốc tế vẫn thặng hơn 10 tỷ USD vào năm 2007.
Nhưng sang nửa đầu năm 2008, việc tài trợ cho thâm hụt thương mại trở nên không bền
vững, mặc dù cán cân thanh toán quốc tế vẫn thặng dư, nhưng chỉ còn khoảng 0,5 tỷ USD.
Trong giai đoạn 2006-2007, thtrường chứng khoán, các hoạt động tài chính ngân hàng
Việt Nam đã sự phát triển mạnh mẽ. Các chỉ số như n dụng/GDP M2/GDP, cùng với
quy thị trường chứng khoán, đều đạt mức tăng cao. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng đi
kèm với nguy tài chính gia tăng, đặc biệt rủi ro từ sự bất ổn trong hthng ngân hàng,
khi một số ngân hàng gặp khó khăn về thanh khoản và tỷ lệ nợ xu gia tăng.
Mặc dù thu ngân sách nhà nước (NSNN) trong năm 2007 và 2008 có sự tăng trưởng đáng k,
đặc biệt là thu từ xuất nhập khẩu, với mức tăng 15,4% trong năm 2007 và 53,7% trong 6 tháng
đầu năm 2008, do nhập khẩu tăng mạnh, nhưng vẫn còn sự bất ổn lớn vnguồn thu này. Đồng
thời, sức ép từ chi êu ngân sách, nhất cho chi đầu vào sở htầng, vẫn rất cao, làm
cho nh hình tài chính công gặp nhiều khó khăn.
Thchế kinh tế
Sau khi gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam đã triển khai một loạt các ci cách quan trọng
nhằm hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế. Những cải cách này chủ yếu bao gồm việc sửa đổi
bổ sung các quy định pháp đđảm bảo phù hợp với các cam kết quốc tế, cùng với việc
cải cách bộ máy nhà nước và các thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
lOMoARcPSD| 61429799
nghiệp. Tuy nhiên, quá trình thực hiện các cải cách này chưa thật sự đồng đều gặp phải
không ít khó khăn, đặc biệt là sự chậm trễ trong việc xác định rõ chức năng của các bộ, ngành,
và việc giám sát cũng như đánh giá hiệu quả thực hiện các cam kết WTO. Một ví dụ điển hình
sự ra đời của Nghị định 13/2008/NĐ-CP, quy định tổ chức các quan chuyên môn thuc
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, điều này phần nào phản ánh sự thiếu nhanh
nhạy trong việc triển khai những thay đổi cần thiết. Những vấn đề này đã dẫn đến việc hiệu
quhoạt động của một số quan nhà nước chính quyền địa phương chưa đạt được kết
quả như mong đợi.
Tuy nhiên, cho đến nay, thể chế kinh tế của Việt Nam đã có những bước chuyển ch cực. Các
quan hành pháp và lập pháp ngày càng chú trọng hơn trong việc cập nhật và điều chỉnh các
quy định pháp để phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế. Mặc vậy, việc triển khai các
chính sách vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế chưa đạt hiệu quả cao, vậy, cần những giải
pháp mạnh mẽ và quyết liệt hơn để thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, đảm bảo sự phát
triển bền vững của nền kinh tế.
4.2.2. Văn hoá - Xã hội a, Văn hoá
Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam không chỉ tập trung vào việc cải cách kinh tế mà còn đặc bit
chú trng đến việc bảo vệ phát triển bản sắc văn hóa trong quá trình hội nhập quốc tế. Mặc
hội nhập mang lại hội giao lưu văn hóa, nhưng ng đặt ra những thách thức, khi các
giá trị văn hóa truyền thống nguy bmai một. Chính phủ đã triển khai nhiều chương
trình nhằm bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa, bao gồm việc tăng cường giáo dục văn
hóa, bảo vệ di sản khuyến khích sáng tạo nghệ thuật. Một ví dụ rõ rệt là các chính sách bo
vệ di sản văn hóa hỗ trsáng tác nghệ thuật thông qua các Quhỗ trnghệ thuật, cũng
như tổ chức các sự kiện văn hóa quốc tế để thúc đẩy sự giao thoa văn hóa. Các tchức quc
tế và các địa phương cũng đã triển khai các sáng kiến văn hóa mang tầm quốc tế, từ đó nâng
cao vị thế của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. b, Xã hội
Vmặt xã hội, việc gia nhập WTO đã mở ra cơ hội giúp Việt Nam đạt được tăng trưởng kinh
tế mạnh mẽ. Tmức GDP bình quân đầu người khoảng 730 USD vào năm 2006, con số này đã
tăng lên 2.587 USD vào năm 2018, tương đương khoảng 7.650 USD theo sức mua tương
đương. Tuy nhiên, sự tăng trưởng nhanh chóng này cũng kéo theo sự chênh lệch thu nhập
giữa các vùng miền. Các thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM phát triển mạnh mẽ, trong khi
nhiều khu vực nông thôn miền núi vẫn gặp khó khăn về việc làm thu nhập. Hội nhp
quốc tế cũng thúc đẩy cải cách trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nghề, với nlực nâng cao
chất lượng giáo dục để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Tuy vậy, sự chênh lệch về
chất lượng giáo dục giữa các vùng miền vẫn là vấn đề cần giải quyết, ảnh hưởng đến khả năng
cạnh tranh của lao động Việt Nam trên trường quốc tế.
Hội nhập vào WTO cũng yêu cầu Việt Nam thực hiện cải cách các chính sách an sinh hội
để bảo đảm công bằng hội. Chính phủ đã thực hiện những cải cách quan trọng trong hệ
thống bảo hiểm xã hội và y tế, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc bảo vệ
các nhóm yếu thế như lao động nông thôn và dân tộc thiểu số. Sự chênh lệch trong việc ếp
lOMoARcPSD| 61429799
cận các dịch vụ cơ bản giữa khu vực đô thị và nông thôn vẫn là một thách thức lớn cần được
giải quyết. 4.2 Tác động ch cực
Việc hội nhập sâu rộng vào thị trường quốc tế, cụ thể là sau khi gia nhp
Tchức Thương mại thế giới WTO đã thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam. Cùng việc
tham gia WTO từ năm 2007, việc thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã góp phần
thúc đẩy GDP của Việt Nam tăng hơn 300%. Nền kinh tế luôn xu hướng tăng trưởng dương;
điển hình vào năm 2010 khi nn kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng, tăng trưởng GDP của
Việt Nam vẫn đạt trên 5%, và Việt Nam trở thành một trong 20 nước có tăng trưởng dương.
Điển hình, trong cuộc khủng hoảng do đại dịch Covid-19 diễn ra từ cuối năm 2019, hầu hết
các quốc gia phải đóng cửa biên giới, thực hiện giãn cách xã hội, dẫn đến GDP của nhiều nước
bị âm, nhưng Việt Nam vẫn là một trong số ít quốc gia đạt tăng trưởng dương, vẫn là nơi thu
hút và hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế.
Vxuất khẩu, xuất khẩu ca Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ từ sau khi gia nhập WTO. Điều
này thể hiện qua các chỉ êu như tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao duy trì qua các năm (từ
mức 48,5 tỷ USD vào năm 2007, kim ngạch xuất khẩu đã tăng lên đến khoảng 264 tỷ USD vào
năm 2019, tức là tăng hơn 5 lần trong vòng 12 năm). Các thị trường xuất khẩu mở rộng mạnh
mẽ ến nay, Việt Nam đã xuất khẩu hàng hóa tới hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Những
thị trường lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc và Nhật Bản đã trở thành đối tác thương mại chủ lực)
Cùng đó, yếu tố tăng trưởng xuất khẩu giúp cải thiện rõ rệt cán cân thương mại của Việt Nam
từ chthường xuyên nhập siêu trước khi gia nhập WTO đã dần chuyển sang xuất siêu, đặc
biệt trong giai đoạn từ 2011 trở đi. Điều này chứng tỏ năng lực sản xuất và cung ứng của Việt
Nam được cải thiện, nhờ vào cơ hội thương mại mà WTO mang lại.
Thu hút đầu trực ếp nước ngoài (FDI): Việt Nam hiện trở thành một trong những điểm
đến đầu hấp dẫn nhất trên thế giới. Ngay sau khi gia nhập WTO năm 2007, Việt Nam đã
đón một số lượng vốn FDI đăng ký lên tới 64 tỷ USD vào năm 2008, cao gấp 3 lần so với năm
2007. Cùng với việc tham gia các FTA, Việt Nam ếp tục thu t đều một số lượng lớn FDI qua
các năm. Đặc biệt năm 2020, Việt Nam lọt vào tốp 20 quốc gia thu t nhiều FDI nhất trên thế
giới, đứng vị trí thứ 19, tăng 5 bậc so với năm 2019 (theo UNCTAD, 2021). Tính lũy kế đến hết
năm 2021, Việt Nam đã thu hút được 34.527 dự án FDI từ 140 quốc gia và vùng lãnh thổ, với
tổng số vốn đăng ký là 408,9 tỷ USD(8). Nhiều dự án FDI có tổng số vốn đăng ký lớn, tập trung
vào các ngành có nh cạnh tranh cao như điện thoại, điện tử,...
lOMoARcPSD| 61429799
Nguồn ảnh: Báo cáo nh hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2024
Về đối tác đầu tư, năm 2024 Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư gần 10,21 tỷ USD, chiếm
26,7% tổng vốn, tăng 31,4% so với năm 2023.
Vđịa bàn đầu tư, Bắc Ninh dẫn đầu với gần 5,12 tỷ USD, gấp hơn 2,8 lần so với năm 2023.
Hải Phòng và TPHCM lần lượt đứng thứ 2 và 3 với hơn 4,94 tỷ USD và 3,04 tỷ USD.
Gia nhập WTO là một cú hích mạnh cho FDI vào Việt Nam, có ý nghĩa không chỉ ở khía cạnh sẽ
đem lại một nguồn vốn bổ sung khổng lồ bên cạnh nguồn vốn đầu tư huy động từ trong nước,
thậm chí còn quan trọng hơn thế, tác dụng ch cực đến cải thiện năng suất nh cạnh
tranh của toàn bnền kinh tế. Với một lực lượng lao động dồi dào, tương đối trình độ
chi phí rất cạnh tranh, lại ít rủi ro về chính trị, sức thu hút của Việt Nam trong mắt các nhà đầu
tư nước ngoài như là một công trường để sản xuất cho thị trường thế giới càng được khẳng
định.
Việc gia nhập WTO cũng giúp cho việc Cải thiện môi trường pháp thể chế. Dấu ấn sâu
đậm nhất của việc tham gia WTO và hội nhập quốc tế đối với Việt Nam góp phần đổi mới
duy chính sách, hoàn thiện chuẩn mực quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp, định hình
khung khổ pháp c chuẩn mực phát triển các thể chế kinh tế-thương mại, tạo sở
pháp lý vững chắc làm cầu nối và xung lực ch cực để đất nước từng bước mở cửa, mở rộng
quy thtrường hàng hóa dịch vụ, cải thiện cấu nâng cao hiệu quả hoạt động
thương mại quốc tế theo các thỏa thuận đa phương và song phương đã cam kết.
Để chuẩn bị gia nhập WTO, Việt Nam đã viết lại trên 60 văn bản luật để thực thi cam kết WTO
hàng trăm nghđịnh, thông hướng dẫn cũng đã được sửa đổi. Do đó, khuôn khpháp
áp dụng cho hợp đồng, quyền sở hữu giải quyết tranh chấp thương mại đã được đơn
giản hóa hiện đại hóa đáng kể (Ngân hàng Thế giới, 2006). Hơn nữa, khi gia nhập WTO, Việt
lOMoARcPSD| 61429799
Nam đã cam kết dành cho các doanh nghiệp nước ngoài sự đối xgiống ncác doanh nghiệp
trong nước. Vì vậy, một luật kinh doanh mới đã được thông qua vào năm 2005 để áp dụng
cùng một khuôn khổ pháp lý cho các công ty trong nước và nước ngoài. Sau khi là thành viên
WTO, hệ thống luật pháp Việt Nam ếp tục được hoàn thiện để thực hiện cam kết với WTO
theo lộ trình đối với ngành lĩnh vực kinh tế. Cả hai giai đoạn sửa đổi hoàn thiện luật pháp
trước sau khi gia nhập WTO đã chứng minh rằng, đó quá trình đấu tranh giữa đổi mới
với bảo thủ, giữa tự do hóa thương mại với bảo hộ mậu dịch, giữa tôn trọng quyền kinh doanh
của doanh nghiệp với duy trì chế xin-cho”, giữa phương thức điều hành của nhà nước điện
tử, nhà nước kiến tạo với duy trì nhà ớc tập trungquan liêu. Ngay sau khi gia nhập WTO,
Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 16 với kế hoạch hành động chi ết, bao gồm
việc cải thiện quy trình lập pháp. Trong năm 2007, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua 10
luật quan trọng, đồng thời thu thập ý kiến từ đại biểu Quốc hội và công chúng để hoàn thiện
nhiều dự thảo luật khác như Luật Ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật (sửa đổi) Lut
Quản , Sử dụng Tài sản Nhà nước. Việc lấy ý kiến công khai trong quá trình xây dựng pháp
luật đã trở thành một bước ến lớn, giúp tăng nh minh bạch và sự tham gia của các bên liên
quan.
Một điểm ch cực trong việc gia nhập WTO Việt Nam hội Mở rộng quan hệ kinh tế
với các nước và các tổ chức quốc tế. Việt Nam ếp cận đến môi trường thương mại toàn cầu
sau khi trở thành thành viên chính thức của Tchức Thương mại Thế giới, giúp thtrường xuất
khẩu hàng hóa và các mối quan hệ kinh tế, thương mại, đầu được mở rộng. Bởi vì, khi đó
Việt Nam sđược hưởng quy chế tối huệ quốc, quy chế đối xử quốc gia, sẽ không bị phân biệt
đối xử trong thương mại quốc tế và được hưởng những thành quđàm phán suốt mấy chục
năm của GATT WTO, cụ thgiảm mạnh hàng rào thuế quan phi thuế quan, tạo điều
kiện cho một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam như hàng dệt may, nông sản và sau này là các
mặt hàng công nghiệp chế tạo dễ dàng xâm nhập vào thị trường thế giới, nhất các thị trường
lớn và khó nh như Mỹ, Nhật và EU. Ngoài ra, khi gia nhập WTO, Việt Nam có thể được hưởng
chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP),mức ưu đãi cao nhất do các nước công nghiệp phát
triển dành cho các nước đang phát triển khi xuất khẩu hàng hóa công nghiệp chế biến vào các
ớc này không đòi hỏi điều kiện đi lại. Nắm bắt hội này, nước ta đã thiết lập
quan hệ thương mại, kinh tế với hơn 200 quốc gia vùng lãnh thổ khắp các châu lục; đồng
thời có hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thcó dự án đầu Việt Nam và các doanh nghiệp
Việt Nam có dự án đầu tư ở hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Là một thành viên của Tchức Thương mại Thế giới, Việt Nam có cơ hội mở rộng quan hệ với
các tổ chức tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF),
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu Châu Âu (EIB). Mối quan hmt
thiết giữa WTO các tổ chức này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc ếp cn
nguồn vốn ưu đãi các nguồn tài chính khác. Trong nhiều năm qua, World Bank đã tài trợ
cho Việt Nam khoảng 25 tỷ USD vào các dán phát triển kinh tế xã hội. Hiện ngân hàng này
đề xuất cho Việt Nam vay ếp 11 tỷ USD trong 5 năm tới để thực hiện các dán phát thải
thấp, đường sắt đô thị, năng lượng sạch. WB không chỉ cho vay với lãi suất ưu đãi còn
lOMoARcPSD| 61429799
cung cấp công nghệ, hỗ try dựng thể chế, nâng cao năng lực quản trị, đào tạo nhân lực,
vấn chính sách... nhằm thúc đẩy tăng trưởng bền vững, nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế, thực hiện các mục êu phát triển đất nước và hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế
toàn cầu.
Gia nhập WTO cũng làm tăng đáng kể Cải thiện đời sống người dân. Đời sống nhân dân được
cải thiện trên nhiều phương diện ktừ khi nước ta gia nhập WTO: nhiều cơ hội việc làm hơn,
mức lương cao hơn, người êu dùng ếp cận được đa dạng các loại hàng hóa với chất lượng
cao hơn giá rẻ hơn, người dân ếp cận được nhiều nền văn hóa hơn giúp nâng cao đi
sống nh thần. Cụ thể, sau khi trở thành thành viên WTO vào năm 2007, xuất khẩu của Việt
Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ, tạo điều kiện cho sự mở rộng của các ngành sản xuất như dệt
may, da giày, và điện tử, tạo việc làm với thu nhập hấp dẫn cho hàng triệu người lao động, đặc
biệt là ở các khu vực nông thôn. Theo báo cáo của Bộ Lao động- Thương binh & Xã hội, riêng
với ngành dệt may, ngành này đã tạo việc làm cho khoảng 2,5 triệu người vào năm 2020, thu
nhập bình quân của người lao động hưởng lương đã tăng lên khoảng 8,5 triệu đồng/tháng
vào năm 2022, tăng 1,9 triệu đồng so với năm 2020. Việt Nam là nước hoàn thành sớm mục
êu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc được Cộng đồng quốc tế công nhận đang ch cc
chuyển sang giai đoạn thực hiện mục êu mới. Tlệ hộ nghèo đã giảm từ 9,88% cuối năm
2015 xuống 1,93% vào năm 2024, với mức giảm trung bình hơn 1,4%/năm. Sphát triển
thương mại quốc tế đã thúc đẩy các ngành dịch vụ như logiscs, tài chính và ngân hàng. Xuất
nhập khẩu tăng trưởng mạnh tạo hội việc làm trong vận tải, chuỗi cung ứng, đồng thời
nâng cao nhu cầu về dịch vụ tài chính. Việc gia nhập WTO giúp Việt Nam mở rộng thị trường,
ếp cận hàng hóa chất lượng cao với giá cạnh tranh, từ đó cải thiện đời sống người dân. Ngoài
ra, WTO còn tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu rộng về công nghệ, văn hóa và du lịch,
góp phần nâng cao kiến thức và đời sống nh thần của người dân.
4.4 Tác động êu cực
Gia tăng sức ép cho các ngành sản xuất
Việc cắt giảm hoặc loại bỏ hàng rào thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu đã khiến các doanh
nghiệp trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt ngay trên thị trường nội địa. Theo
các cam kết khi gia nhập WTO, nhiều hình thức hỗ trtừ Nhà nước dành cho một số nnh
kinh tế trước đây không còn được phép duy trì. Ví dụ, các chính sách ưu đãi như htrlãi
suất, n dụng ưu đãi cho ngành dệt may, ưu đãi thuế theo tỷ lệ nội địa hóa trong ngành
khí, hay thưởng cho hoạt động xuất khẩu sang thị trường mới đều bị xóa bỏ. Điều này buộc
doanh nghiệp Việt Nam phải thích nghi và nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại trong bối
cảnh hội nhập sâu rộng và áp lực cạnh tranh ngày càng lớn. Số lượng doanh nghiệp Việt Nam
tuy đông, khoảng 930.000 doanh nghiệp đang hoạt động vào đầu năm 2025 nhưng 94% tổng
số doanh nghiệp là doanh nghiệp nhỏ siêu nh, chỉ với 3,5% là doanh nghiệp vừa 2,5%
doanh nghiệp lớn, vậy năng lực cạnh tranh vốn đã hạn chế. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu
đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa nước ngoài, với lợi thế về giá thành, chất lượng
mẫu đa dạng, ddàng ếp cận thị trường Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với việc các
lOMoARcPSD| 61429799
doanh nghiệp nhỏ trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh trực ếp gay gắt ngay trên
thị trường nội địa.
Gia tăng sự lệ thuộc vào bên ngoài
Kể từ khi gia nhập WTO vào năm 2007, xuất khẩu của Việt Nam đã tăng mạnh mẽ từ 48,5 tỷ
USD lên đến 371 tỷ USD vào năm 2022. Điều này cho thấy sự phthuộc ngày càng lớn vào
hoạt động xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Tính đến tháng 5 năm 2024, Việt Nam
đã ký kết, thực thi và đang đàm phán tổng cộng là 19 Hiệp định thương mại tự do (Free Trade
Agreement- FTA) . Trong đó, 16 FTA đã ký kết và thực thi và 3 FTA đang đàm phán. Những năm
tới, khi quy mô nền kinh tế gia tăng, nền kinh tế mở hơn khi các FTA có hiệu lực đầy đủ, Việt
Nam sẽ có khả năng bphthuộc nhiều hơn vào thị trường thế giới, nhất là Mỹ, EU và Trung
Quốc. Các tác động êu cực bên ngoài gồm khủng hoảng kinh tế; giá dầu, lạm phát cao; dịch
chuyển dòng vốn đầu tư… đối với kinh tế Vit Nam sẽ ngày càng sâu sắc hơn. Khi các ớc đối
tác thương mại lớn của Việt Nam gặp phải các sốc kinh tế (suy thoái, khủng hoảng), nhu
cầu êu dùng đầu của họ giảm xuống. Điều này trực ếp làm giảm nhu cầu nhập khẩu
hàng hóa từ Việt Nam, y ảnh hưởng êu cực đến các ngành sản xuất và xuất khẩu chủ lực
như dệt may, da giày, điện tử, nông sản. Điển hình như cuộc khủng hoảng tài chính xuất phát
từ Mỹ 2008 đã tác động tới nền kinh tế Việt Nam. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, kim
ngạch xuất khẩu quý
IV/2008 chỉ còn gần 14,2 tỷ USD, giảm hơn 3,6 tỷ USD, tương ứng với 20,6% so với quý III/2008
chỉ còn tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2007, trong khi quý III/2008 còn tăng 44,8%. Vit
Nam nhập khẩu nhiều mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, phân bón, nguyên liệu sản xuất từ
các nước trên thế giới. vậy, các sốc bên ngoài có thđẩy giá các mặt hàng này lên cao,
gây ra lạm phát trong nước, tăng chi phí sản xuất cho doanh nghiệp giảm sức mua của
người dân. Cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine khoảng đầu năm 2022 đã đẩy giá nguyên nhiên
liệu đầu vào, nhất là giá xăng dầu liên tục tăng cao. Cũng theo báo cáo của Tổng cục thống kê,
nửa đầu năm 2022, Việt Nam đã trải qua hơn 10 lần điều chỉnh giá xăng dầu. Giá xăng RON
95 có lúc chạm ngưỡng hơn 32.000 đồng/lít. Sự biến động về giá này đã gây hiện tượng lạm
phát. Bình quân 5 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá êu dùng (CPI) tăng 2,25% so với ng kỳ
năm trước, cao hơn mức tăng 1,29% của năm tháng đầu năm 2021. CPI tăng chủ yếu do
ảnh hưởng từ giá xăng dầu.
Tác động đến nguồn thu ngân sách quốc gia
Các cam kết của WTO yêu cầu cắt giảm hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan khiến thu ngân sách
nhà nước bị ảnh hưởng lớn. Điều này làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước, bởi thuế xut
nhập khẩu chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng thu ngân sách. Mức thu bình quân từ hot
động xuất nhập khẩu giai đoạn 2001-2006 Việt Nam đạt 258,75 nghìn tỷ đồng; sau khi gia
nhập WTO mức thu ngân sách cao nhất chỉ đạt 239 nghìn tỷ đồng vào năm 2014 và đến 2017,
đạt trên 297 nghìn tđồng. Để đắp cho sự sụt giảm nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu,
Việt Nam đã tăng cường thu nội địa thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập
nhân, và thuế giá trị gia tăng, vì vậy, tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách nhà nước
lOMoARcPSD| 61429799
ngày càng tăng. cấu thu ngân sách nhà nước từ năm 2007 đến nay chuyển dịch theo hướng
tăng dần tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách nhà nước, tạo nguồn thu đắp cho
phần giảm thuế nhập khẩu hàng hoá. Ngay sau khi chính thức gia nhập WTO, từ tháng 1/2007,
ớc ta đã ch động thực hiện cam kết: công bố cắt giảm 1.812 dòng thuế nhập khẩu với mức
thuế suất giảm bình quân 14,5%. Do giảm thuế suất theo cam kết WTO, cơ cấu thuế trong
giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam giảm đáng kể, vậy ngân sách nhà nước cũng giảm một
nguồn thu tương ứng (ước nh năm 2007 giảm khoảng 11-12 nghìn tỷ đồng).
Ô nhiễm môi trường gia tăng
Tham gia WTO mang lại những hiệu quả về kinh tế, mở ra hội phát triển nền kinh tế
xanh nhưng trước mắt, việc gia nhập WTO giúp đẩy mạnh hoạt động của các ngành kinh
doanh, dịch vụ khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên như khoáng sản, dầu mỏ, gỗ, thủy
sản để đáp ứng nhu cầu sản xuất xuất khẩu. Việc khai thác quá mức không bền vững
chính nguyên nhân làm suy kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, mất đa dạng sinh học, ô
nhiễm môi trường và nhiều vấn đề xã hội khác. WTO thúc đẩy xuất khẩu, dẫn đến sự mở rộng
nhanh chóng của các ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu như dệt may, da giày,
điện tử, chế biến thủy sản. Quá trình sản xuất y thường êu thụ nhiều năng lượng và i
nguyên, đồng thời thải ra lượng lớn chất thải công nghiệp, khí thải y hiệu ứng nhà kính
các chất ô nhiễm khác vào không khí, nước và đất. Hơn nữa, sự gia ng các khu công nghiệp
đầu nước ngoài vào Việt Nam một cách nhanh chóng, trong thời gian qua, làm gia tăng ô
nhiễm môi trường do xả thải từ hoạt động xây dựng, sản xuất. Một số sự cố môi trường
nghiêm trọng có thể kđến như Vedan, Miwon và nặng nề nhất là sự cố Formosa xả thải trái
phép ra biển miền Trung.
Gây khó khăn cho ngành nông nghiệp và nông dân
Thực hiện cam kết với WTO, Nhà nước phải cắt bỏ trợ cấp xuất khẩu các mặt hàng nông sản.
Khi nghề nông đang là nguồn sinh kế chính của 61,5% dân số cc, có ảnh hưởng trực ếp
đến hơn 2/3 hgia đình nông thôn trong đó 44% số hộ thuộc diện còn khó khăn. Các
doanh nghiệp xuất khẩu nông sản không được hưởng lợi từ việc trợ cấp của Nhà nước như
trước đây cũng thdẫn đến nh trạng doanh nghiệp hạ giá thu mua nông sản. Trong khi
chi phí sản xuất của người nông dân còn cao thdẫn đến nh trạng nếu không bán thì
không đầu ra cho sản phẩm bán thì bdoanh nghiệp ép giá. Ngoài ra, việc miễn, giảm
thuế nhập khẩu các mặt hàng nông sản từ các nước khác khi vào thị trường nước ta buộc
hàng nông sản trong nước phải cạnh tranh ngày càng khốc liệt đối với hàng nông sản nhập
khẩu. Để các mặt hàng nông sản có sức cạnh tranh cao, cần phải sản xuất các sản phẩm theo
nhu cầu của thị trường với chất lượng cao... Thực trạng hiện nay, nông nghiệp nước ta là sản
xuất manh mún, chất lượng còn kém một số mặt hàng nông sản đã bị lấn sân bởi hàng
nhập khẩu.
Mặt khác, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế không trực ếp gây nên sự nghèo đói, nhưng lại
làm tăng khoảng cách giàu nghèo, đẩy nhanh tốc độ phân cực giữa các nhóm lao động khác
nhau. Việc phân cực này có nhiều nguyên nhân của nền kinh tế thtrường, một trong những
lOMoARcPSD| 61429799
nguyên nhân cơ bản là do sự phát triển mất cân đối giữa khu vực thành thị với khu vực nông
thôn, giữa các ngành nghề kinh tế và giữa cung và cầu lao động. Tự do hóa thương mại mang
lại những cơ hội tăng việc làm và thu nhập cho toàn bộ xã hội nhưng không phải là những cơ
hội ngang bằng cho tất cả người lao động, bởi điều kiện ếp cận hi các nhóm dân
khác nhau. Đối với lao động nông thôn, do trình độ văn hóa thấp, tay nghề kém, thiếu vốn và
kinh nghiệm nên khả năng cạnh tranh trong thị trường lao động, hàng hóa bị hạn chế. Khi sản
phẩm nông nghiệp bị cạnh tranh gay gắt chỉ các hộ vốn, tri thức, nhanh nhạy với thị
trường mới thể tạo ra các hàng hóa sức cạnh tranh với hàng ngoại, còn nông dân
không thể. Mặt khác, nông sản được nhập khẩu tự do làm cho sản xuất nông sản trong nước
bị dư thừa khiến thu nhập của nông dân bị giảm sút. Điều này không chtạo ra sự phân hóa
giàu - nghèo trong nội bộ nông thôn, còn khoét sâu thêm sbất bình đẳng về thu nhập,
mức sống giữa thành thị và nông thôn.
Gia tăng thách thức về văn hoá
Không thể phnhận những tác động ch cực mà quá trình hội nhập quốc tế đem lại cho nền
văn hóa dân tộc ta. Tuy nhiên, khi mở cửa, thách thức từ những yếu tố êu cực của quá trình
hội nhập đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc rất lớn. Mỗi khách du lịch doanh
nhân nước ngoài khi đến Việt Nam mang theo những lối sống và văn hóa khác nhau, tác động
đến quan niệm, lối sống, đặc biệtgiới trẻ. Mặcđiều này mở ra cơ hi ếp thu những yếu
tố mới, nhưng cũng dlàm mờ đi các giá trị văn hóa truyền thống, khiến giới trẻ dễ bảnh
ởng bởin hóa ngoại lai không phù hợp, thậm chí đối nghịch với bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, các sản phẩm văn hóa nước ngoài như sách báo, phim ảnh
sẽ tràn vào Việt Nam. Mặc dù những sản phẩm mang nh hoa văn hóa nhân loại, nhưng
không phải tất cả đều phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam. Quá trình toàn cầu hóa và
hội nhập giúp làm phong phú đời sống văn hóa, nhưng cũng dtạo ra xu hướng "nhất thể
hóa" văn hóa, khiến việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc gặp khó khăn.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61429799
4. Việt Nam và WTO
4.1 Quá trình Việt Nam gia nhập WTO
4.1.1. Bối cảnh chung nền kinh tế Việt Nam trước khi gia nhập WTO
Trước khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua một quá trình chuyển đổi sâu sắc
từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Có
thể chia thành 3 giai đoạn chính:
Giai đoạn 1976–1986: Kinh tế bao cấp, trì trệ và khủng hoảng
- Việt Nam áp dụng mô hình kinh tế XHCN, ưu tiên công nghiệp nặng, loại bỏ kinh tế tư
nhân, phân phối theo tem phiếu.
- Hệ thống quản lý mang tính bao cấp, quan liêu, thiếu linh hoạt và không phản ánh đúng thực tiễn.
- Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam (1982) đã thừa nhận thất bại trong giai đoạn
trước: năng suất thấp, mất cân đối lớn, đời sống nhân dân khó khăn.
Giai đoạn 1986–1995: Đổi mới và chuyển sang kinh tế thị trường
- Đại hội VI (1986) khởi xướng công cuộc Đổi mới, thừa nhận kinh tế nhiều thành phần
và cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
- Thị trường dần hình thành, rào cản thương mại nội địa được gỡ bỏ, nông nghiệp phát
triển mạnh nhờ chính sách "khoán 10".
- Việt Nam tự cung cấp được lương thực và bắt đầu xuất khẩu; xuất hiện khu vực tư
nhân, đầu tư nước ngoài gia tăng.
Giai đoạn 1995–2006: Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế
- Việt Nam gia nhập ASEAN (1995), ASEM, (1996) và APEC (1998) ký nhiều hiệp định
thương mại song phương và đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế.
- Kinh tế tăng trưởng ổn định, kiểm soát được lạm phát, cải thiện cán cân thương mại.
- Tuy nhiên, vẫn tồn tại những hạn chế như: năng suất thấp, doanh nghiệp nội yếu,năng lực cạnh tranh còn kém.
4.1.2. Quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam
Quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam là một chặng đường dài,
đầy nỗ lực cải cách và hội nhập, được chia thành ba giai đoạn chính:
Giai đoạn nộp đơn xin gia nhập
- Ngày 1/1/1995, Việt Nam chính thức nộp đơn xin gia nhập WTO và trở thành quan sát viên của tổ chức này. lOMoAR cPSD| 61429799
- Tháng 8/1996, Việt Nam đệ trình “Bị vong lục về chính sách thương mại” lên Ban Thư
ký WTO, cung cấp tổng quan về nền kinh tế, chính sách vĩ mô, thương mại hàng hóa,
dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ.
Giai đoạn đàm phán gia nhập
- Năm 1996, Việt Nam bắt đầu đàm phán với Mỹ về Hiệp định Thương mại Song phương
(BTA), chỉ rõ các điều khoản được dựa trên cơ sở các nguyên tắc của WTO. Vì vậy, việc
đàm phán thành công hiệp định này được đánh giá như một cuộc “tập dượt” trước
khi bước vào sân chơi toàn cầu. Hiệp định này được ký ngày 13/7/2000, có hiệu lực từ 2001.
- 1998–2000, Việt Nam cũng tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về minh
bạch hóa các chính sách thương mại Việt Nam tiến hành các phiên họp đa phương
nhằm minh bạch hóa chính sách thương mại, từ đó cơ bản hoàn thành quá trình minh
bạch hóa và chuyển sang hướng đàm phán mở cửa thị trường.
- Tháng 1/2002, Việt Nam đưa ra bản chào đầu tiên về mở cửa thị trường hàng hóa và
dịch vụ; các bản sửa đổi tiếp theo được cập nhật trong các năm 2004, 2005 và 2006.
- Sau khi đạt được tiến triển trong đàm phán đa phương và Hiệp định BTA có hiệu lực
năm 2001, Việt Nam bước vào giai đoạn đàm phán song phương với các thành viên
WTO. Ban đầu có hơn 40 nước yêu cầu đàm phán, nhưng nhờ nỗ lực ngoại giao, con
số này giảm xuống còn 28 nước, bao gồm những đối tác quan trọng như Mỹ, EU và
Trung Quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình gia nhập WTO.
- Tháng 5/2006, Việt Nam và Mỹ ký kết thỏa thuận kết thúc đàm phán song phương, Mỹ
trao quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR), chấm dứt các rào cản pháp lý
và bình thường hóa hoàn toàn quan hệ kinh tế song phương. Giai đoạn kết nạp
- Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO).
- Ngày 12/1/2007, Việt Nam bắt đầu thực thi đầy đủ các quyền và nghĩa vụ với tư cách
là thành viên chính thức của WTO.
4.1.3. Cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO
a, Cam kết về thuế quan
Trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã cam kết cắt giảm thuế
quan trên toàn bộ 10.600 dòng thuế, kéo mức thuế suất trung bình từ 17,5% xuống còn 11,4%
vào năm 2019. Cụ thể, thuế suất đối với hàng nông nghiệp giảm từ 22,4% xuống 20,9%, trong
khi hàng phi nông nghiệp giảm từ 13,1% xuống 12,6%. Việt Nam cũng tham gia Hiệp định Công
nghệ Thông tin (ITA), theo đó cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng công nghệ
thông tin nằm trong danh mục ITA. Thực tế cho thấy, Việt Nam triển khai lộ trình giảm thuế
nhanh hơn so với cam kết. Đến năm 2012, mức thuế nhập khẩu trung bình đã giảm còn 10,4%, lOMoAR cPSD| 61429799
thấp hơn nhiều so với mốc đặt ra. Nhiều ngành như thủy sản, dệt may, gỗ, giấy, thép, điện tử
và các sản phẩm chế biến khác được cắt giảm thuế đáng kể, thậm chí trước thời hạn. Tuy
nhiên, với các mặt hàng nhạy cảm như trứng, đường, thuốc lá và muối, Việt Nam vẫn tuân
thủ đúng lộ trình đã thỏa thuận.
b, Những cam kết khác về thương mại hàng hoá
Về thương mại hàng hóa, bên cạnh việc cam kết cắt giảm thuế quan, Việt Nam còn thực hiện
nhiều nghĩa vụ liên quan đến các biện pháp phi thuế theo quy định của WTO. Những cam kết
này bao gồm quyền xuất nhập khẩu, thuế nội địa, trợ cấp, doanh nghiệp nhà nước và quản lý
giá. Dưới đây là nội dung được trình bày lại với cách diễn đạt khác:
- Thuế nội địa: Việt Nam đã điều chỉnh quy định để đảm bảo không phân biệt đối xử
giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước, tuân thủ nguyên tắc đối xử
quốc gia theo GATT. Đối với một số mặt hàng nhạy cảm như rượu, bia – vốn được bảo
lưu nghĩa vụ trong ba năm – Việt Nam đã hoàn tất cam kết sớm hơn dự kiến. Chẳng
hạn, năm 2009, Việt Nam đã điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt, chỉ sau hai năm gia nhập WTO.
- Trợ cấp: Việt Nam đã thực hiện xóa bỏ toàn bộ trợ cấp xuất khẩu cho cả sản phẩm
nông nghiệp và phi nông nghiệp. Tuy nhiên, theo quy định của Hiệp định Nông nghiệp
trong WTO, nước ta vẫn được phép duy trì hai hình thức hỗ trợ là chi phí tiếp thị và
chi phí vận chuyển quốc tế cho hàng xuất khẩu.
- Quyền xuất nhập khẩu: Kể từ ngày 1/1/2007, Việt Nam cam kết cho phép các doanh
nghiệp trong và ngoài nước, cũng như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIEs),
được quyền nhập khẩu bình đẳng, ngoại trừ một số mặt hàng được phép bảo lưu
quyền nhập khẩu đến năm 2009 hoặc vĩnh viễn.
- Hải quan: Việt Nam đã tuân thủ các chuẩn mực của WTO liên quan đến phí và xác định
trị giá hải quan theo Hiệp định định giá hải quan. Đồng thời, nước ta tích cực đơn giản
hóa và hài hòa hóa thủ tục hải quan để tạo thuận lợi thương mại. Hiện nay, Việt Nam
vẫn đang tiếp tục rà soát hệ thống pháp luật để chuẩn bị cho việc thực thi Hiệp định
Tạo thuận lợi thương mại của WTO – một hiệp định đã được thông qua từ năm 2014
nhưng chưa chính thức có hiệu lực tại thời điểm đó.
- Phòng vệ thương mại: Trước khi tham gia WTO, Việt Nam chưa có hệ thống pháp lý
bài bản về phòng vệ thương mại. Sau khi gia nhập, Việt Nam đã xây dựng cơ sở pháp
lý phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến. Các
công cụ phòng vệ chính bao gồm:
Chống bán phá giá: Cho phép điều tra và áp thuế đối với hàng nhập khẩu có giá thấp hơn giá
thông thường và gây thiệt hại cho sản xuất nội địa. Ví dụ là vụ áp thuế với thép không gỉ cán
nguội nhập từ Trung Quốc, Malaysia, Indonesia và Đài Loan. lOMoAR cPSD| 61429799
Chống trợ cấp: Việt Nam có quyền áp dụng thuế chống trợ cấp nếu phát hiện hàng hóa nhập
khẩu được hỗ trợ tài chính từ nước xuất khẩu, gây thiệt hại cho ngành trong nước, như trong
vụ điều tra đường nhập từ Thái Lan năm 2020.
Biện pháp tự vệ: Cho phép áp dụng thuế khi lượng hàng nhập tăng đột biến mà không cần
chứng minh gian lận thương mại. Điển hình là biện pháp tự vệ toàn cầu với phân bón DAP và MAP năm 2017.
Quản lý giá: Việt Nam đã cải cách cơ chế quản lý giá theo hướng phù hợp với kinh tế thị
trường. Nghị định 75/2008/NĐ-CP được ban hành để trao quyền định giá dần dần cho doanh
nghiệp. Đến năm 2013, Luật Giá 2012 chính thức thay thế Pháp lệnh Giá, thu hẹp đáng kể
phạm vi áp dụng các biện pháp đăng ký và kê khai giá.
Để thực thi hiệu quả các công cụ này, Việt Nam đã ban hành các văn bản pháp luật phù hợp
như Luật Quản lý Ngoại thương 2017 và các nghị định hướng dẫn (Nghị định 10/2018/NĐ-
CP, 11/2018/NĐ-CP, 42/2019/NĐ-CP), đồng thời thành lập Cục Phòng vệ Thương mại thuộc
Bộ Công Thương với chức năng điều tra, tư vấn và xử lý tranh chấp. c, Những cam kết về
thương mại dịch vụ

Trong quá trình hội nhập với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã cam kết mở
cửa thị trường dịch vụ trong 11 lĩnh vực, tương ứng khoảng 110 trên tổng số 155 phân ngành
theo phân loại của WTO. Đối với các lĩnh vực đã cam kết, Việt Nam phải thực hiện mở cửa ít
nhất theo đúng mức độ và tiến độ đã thỏa thuận. Với những phân ngành chưa đưa vào cam
kết, Việt Nam có quyền tự quyết về phạm vi và thời gian mở cửa tùy theo điều kiện trong
nước. Việc thực hiện cam kết mở cửa dịch vụ được triển khai theo hai hướng chính:
- Ban hành các quy định pháp lý mới, chi tiết và cụ thể hơn cho các lĩnh vực đã có cam
kết, như trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, chứng khoán và phân phối.
- Áp dụng trực tiếp các quy định của điều ước quốc tế đối với những dịch vụ mà pháp
luật Việt Nam chưa điều chỉnh hoặc không phân biệt đối xử giữa nhà cung cấp trong
và ngoài nước. Một số lĩnh vực tiêu biểu:
Ngân hàng: Từ năm 2011, các quy định hạn chế hoạt động huy động tiền gửi bằng VNĐ tại các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã bị dỡ bỏ. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép
thành lập và hoạt động tại Việt Nam như ngân hàng trong nước, hoàn tất đầy đủ cam kết với
WTO. Các tổ chức tín dụng nước ngoài có thể tham gia thị trường thông qua nhiều hình thức
như chi nhánh, công ty liên doanh hoặc văn phòng đại diện.
Bảo hiểm và chứng khoán: Việt Nam đã cho phép thành lập công ty bảo hiểm và công ty chứng
khoán 100% vốn nước ngoài dưới mô hình công ty cổ phần. Ngoài ra, các doanh nghiệp nước
ngoài trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và chứng khoán cũng được phép mở chi nhánh
tại Việt Nam, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các nhà đầu tư quốc tế.
Viễn thông: Nhà đầu tư nước ngoài có thể tham gia cung cấp dịch vụ thông qua hình thức liên
doanh. Với dịch vụ có hạ tầng mạng, tỷ lệ sở hữu nước ngoài bị giới hạn ở mức 49% (đối với lOMoAR cPSD| 61429799
dịch vụ cơ bản) và 50% (đối với dịch vụ giá trị gia tăng). Trong khi đó, với dịch vụ không sử
dụng hạ tầng mạng, tỷ lệ sở hữu tối đa là 70% cho dịch vụ mạng riêng ảo và 65% cho các dịch vụ khác.
Phân phối: Từ ngày 1/1/2009, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài đã được phép
thành lập tại Việt Nam. Đối với hoạt động bán lẻ, Thông tư 08/2013/TT-BCT đã nới lỏng một
số quy định, miễn yêu cầu kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT) đối với các cơ sở bán lẻ thứ hai trở
đi nếu có diện tích dưới 500m² và nằm trong quy hoạch thương mại đã được phê duyệt.
d, Thực thi các cam kết về Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
Trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại, Việt Nam đã triển khai đầy đủ
các quy định của Hiệp định TRIPS thông qua việc ban hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Sau
khi gia nhập WTO, hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã được Hội đồng TRIPS
tiến hành rà soát vào năm 2008. Để tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý trong lĩnh vực này, Việt
Nam đã sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ và Bộ luật Hình sự vào năm 2009.
4.1.4. Lộ trình thực thi WTO của Việt Nam
Giai đoạn 1: Chuẩn bị và đàm phán (1995-2006). Năm 1995: Việt Nam chính thức nộp đơn xin
gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 11, thể hiện rõ định hướng hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu và mong muốn thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế.
Giai đoạn 1997 – 2006): Việt Nam tiến hành các vòng đàm phán song phương và đa phương
với các thành viên WTO để thống nhất các cam kết gia nhập. Nội dung đàm phán bao gồm:
- Thương mại hàng hóa: Việt Nam cam kết hạ dần thuế nhập khẩu, loại bỏ rào cản phi
thuế quan, và minh bạch hóa các quy định liên quan đến nhập khẩu;
- Dịch vụ: Mở cửa thị trường cho các lĩnh vực như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông và
xây dựng, với lộ trình và điều kiện cụ thể về mức độ mở cửa;
- Đầu tư: Đề xuất các biện pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, đảm bảo quyền lợi
chính đáng cho nhà đầu tư nước ngoài. Tháng 11/2006: Việt Nam kết thúc quá trình
đàm phán và ký kết đầy đủ các cam kết về thương mại hàng hóa và dịch vụ tại Hội nghị
APEC tổ chức ở Hà Nội. Đây là dấu mốc quan trọng, mở ra thời kỳ hội nhập toàn diện
vào hệ thống thương mại quốc tế. Giai đoạn 2: Triển khai các cam kết (2007-2010)  Năm 2007
- Tháng 1: Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với tư cách
là thành viên thứ 150. Việc trở thành thành viên đánh dấu bước ngoặt quan trọng, mở
ra cơ hội hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu và thúc đẩy tự do hóa thương mại.
- Tháng 2: Chính phủ ban hành Nghị định 23/2007/NĐ-CP nhằm triển khai thực hiện các
cam kết khi gia nhập WTO. Nghị định này đóng vai trò nền tảng pháp lý cho các hoạt lOMoAR cPSD| 61429799
động kinh tế theo hướng hội nhập, quy định rõ ràng việc cắt giảm thuế quan và loại
bỏ các rào cản phi thuế.
- Tháng 6: Một hội nghị quốc gia về hội nhập kinh tế quốc tế được tổ chức để tuyên
truyền, phổ biến nội dung các cam kết WTO. Đây là diễn đàn trao đổi, cập nhật thông
tin giữa các cơ quan nhà nước,
cộng đồng doanh nghiệp và chuyên gia trong và ngoài nước về cách thức thực thi cam
kết và thích ứng với bối cảnh mới. • Năm 2008
Việt Nam bắt đầu triển khai chính sách cắt giảm thuế nhập khẩu theo đúng cam kết WTO, giúp
hàng hóa nhập khẩu có giá cạnh tranh hơn, đồng thời tạo động lực cho sản xuất trong nước
nâng cao năng lực cạnh tranh.
Công tác bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp
được chú trọng, thông qua các chương trình đào tạo chuyên sâu, nhằm nâng cao hiểu biết và
năng lực thực thi hiệu quả các quy định trong khuôn khổ WTO. • Năm 2009
- Tháng 3: Việt Nam chính thức công bố Kế hoạch hành động quốc gia nhằm cụ thể hóa
việc thực hiện các cam kết WTO trong các lĩnh vực then chốt như thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư.
- Tháng 8: Các chương trình tập huấn, đào tạo tiếp tục được triển khai, hướng đến nâng
cao kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho cán bộ và doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa – nhóm dễ bị ảnh hưởng trong quá trình mở cửa thị trường.
Cải cách và điều chỉnh (2011-2015)  Năm 2011
- Tháng 6: Việt Nam đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011–2020,
với mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách thể chế để thực thi cam kết WTO.
Chiến lược nhấn mạnh việc cải cách các ngành, lĩnh vực để tăng tính cạnh tranh và phát triển bền vững.
- Chính phủ tiến hành cải cách thể chế trong công tác quản lý nhà nước, nâng cao hiệu
quả của các cơ quan chức năng trong việc thực hiện cam kết. Đồng thời, các chính sách
được ban hành nhằm cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh.  Năm 2012
- Việt Nam thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu, bao gồm hỗ trợ tài
chính, đào tạo và tư vấn, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu. lOMoAR cPSD| 61429799
- Công tác đánh giá tiến độ thực hiện cam kết WTO được tiến hành để xác định các vấn
đề tồn đọng và đề xuất giải pháp khắc phục, bảo đảm việc thực hiện cam kết đúng
theo các quy định đã ký kết.  Năm 2015
- Tháng 8: Việt Nam hoàn tất đàm phán và ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với
Liên minh châu Âu (EU), mở rộng thị trường xuất khẩu Việt Nam vào châu Âu, đồng
thời giảm thuế và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.
Tăng cường hội nhập (2016-2020)  Năm 2016
- Tháng 2: Việt Nam ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) tại New
Zealand, mở ra cơ hội hợp tác kinh tế giữa các thành viên, giúp doanh nghiệp Việt Nam
mở rộng xuất khẩu và tiếp cận công nghệ tiên tiến.
- Tháng 10: Quốc hội thông qua Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp sửa đổi, nhằm cải
thiện môi trường đầu tư, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt trong việc đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh và đầu tư.  Năm 2017
- Tháng 3: Chính phủ thực hiện các cam kết trong TPP, đưa ra các biện pháp hỗ trợ doanh
nghiệp, đặc biệt trong các lĩnh vực nông sản và dệt may, nhằm thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu.
- Tháng 11: Tổ chức hội nghị quốc tế về phát triển bền vững, thảo luận các giải pháp ứng
phó với biến đổi khí hậu trong bối cảnh hội nhập kinh tế. Các chuyên gia trong và ngoài
nước chia sẻ kinh nghiệm về phát triển bền vững.  Năm 2020
- Tháng 1: Hiệp định EVFTA (Việt Nam - EU) chính thức có hiệu lực, mang lại lợi ích lớn
cho xuất khẩu Việt Nam vào EU, giúp giảm thuế và thúc đẩy đầu tư, đồng thời nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Tháng 11: Chính phủ tiếp tục thực hiện các biện pháp cải cách đầu tư và thương mại,
nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Các biện pháp cải cách thủ tục hành
chính và nâng cao chất lượng dịch vụ công cũng được triển khai để phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Giai đoạn 5: Đánh giá và điều chỉnh (2021-nay) -
Tháng 9/2021: Việt Nam công bố kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho giai đoạn
2021-2025, với trọng tâm là hội nhập quốc tế nhằm lOMoAR cPSD| 61429799
thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Các chỉ tiêu cụ thể được đề ra nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, đặc biệt chú trọng vào đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ,
từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.  Năm 2022
- Tháng 4: Tổ chức hội nghị quốc tế về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, nhằm khuyến
khích các doanh nghiệp và nền kinh tế đẩy mạnh chuyển đổi số, qua đó cải thiện khả
năng cạnh tranh và sự thích ứng với thị trường toàn cầu.
- Tháng 11: Chính phủ công bố các chính sách ứng phó với đại dịch COVID-19, bao gồm
các gói hỗ trợ tài chính, chính sách thuế và hỗ trợ đào tạo, giúp các doanh nghiệp duy
trì hoạt động trong thời kỳ khó khăn.  Năm 2023
- Tháng 9: Chính phủ tập trung vào việc cải cách thể chế và nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia, đặc biệt chú trọng vào việc thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển bền vững.
Các ngành mũi nhọn được xác định và tập trung vào phát triển.
- Tháng 10: Việt Nam triển khai chiến lược phát triển bền vững và xanh, với mục tiêu
đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế. Các chương
trình bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên được ưu tiên.
- Lộ trình thực hiện cam kết WTO của Việt Nam thể hiện sự nỗ lực bền bỉ của chính phủ
và cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Từ giai đoạn
chuẩn bị, đàm phán đến triển khai và cải cách, Việt Nam đã thực hiện nhiều bước đi
quan trọng, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Các chính sách cải cách, đào tạo và
hỗ trợ doanh nghiệp đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện cam kết và nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
4.2 Thực trạng VN sau khi gia nhập WTO tới nay 4.2.1. Kinh tế
a, Thương mại, đầu tư và tăng trưởng kinh tế
Thương mại hàng hoá
Kim ngạch xuất nhập khẩu:Việc gia nhập WTO đã tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng tiếp cận
thị trường quốc tế, tận dụng các ưu đãi thuế quan, qua đó thúc đẩy tăng trưởng thương mại.
Vào năm 2006, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt 84,7 tỷ USD, trong đó xuất
khẩu chiếm 39,8 tỷ USD. Đến năm 2024, tổng kim ngạch này đã tăng lên 786,29 tỷ USD, gấp
gần 9,3 lần so với năm 2006. Kim ngạch xuất khẩu trong năm 2024 đạt 405,53 tỷ USD, tăng
14,3% so với năm 2023, trong khi kim ngạch nhập khẩu đạt 380,76 tỷ USD, tăng 16,7%. Việt
Nam duy trì xu hướng xuất siêu với thặng dư thương mại lên tới 24,77 tỷ USD, điều này phản
ánh sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế sau khi gia nhập WTO, nhờ vào các cải
cách kinh tế và việc tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA). lOMoAR cPSD| 61429799
Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu: Sau khi gia nhập WTO, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt
Nam đã thay đổi đáng kể, chuyển từ các mặt hàng nguyên liệu thô sang các sản phẩm chế
biến và công nghiệp có giá trị gia tăng cao. Trước năm 2007, các mặt hàng chủ yếu của Việt
Nam là nông sản như gạo, cà phê, hạt điều, cao su và các sản phẩm thô như dầu thô và than
đá. Tuy nhiên, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm chế biến,
đặc biệt là các mặt hàng công nghiệp chế tạo, chiếm hơn 85% tổng kim ngạch xuất khẩu vào
năm 2024. Những mặt hàng như điện thoại, linh kiện điện tử, máy móc thiết bị, dệt may và
giày dép chiếm tỷ trọng lớn trong tổng xuất khẩu. Về nhập khẩu, máy móc, thiết bị và nguyên
vật liệu phục vụ sản xuất chiếm phần lớn trong kim ngạch nhập khẩu, với nhóm hàng tư liệu
sản xuất chiếm 93,6% tổng giá trị nhập khẩu năm 2024.
Thị trường xuất nhập khẩu: Việc gia nhập WTO cũng giúp Việt Nam mở rộng và đa dạng hóa
các thị trường xuất nhập khẩu, giảm sự phụ thuộc vào một số đối tác truyền thống. Hoa Kỳ
vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất
khẩu. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 142,4 tỷ USD vào năm 2024, chủ
yếu gồm các mặt hàng như điện thoại, linh kiện điện tử, dệt may và giày dép. EU cũng đóng
vai trò quan trọng, với kim ngạch xuất khẩu đạt 48,4 tỷ USD nhờ vào các hiệp định thương mại
tự do như EVFTA. Khu vực ASEAN là đối tác xuất khẩu quan trọng với kim ngạch đạt 34,5 tỷ
USD trong năm 2024. Trong khi đó, Trung Quốc tiếp tục là đối tác nhập khẩu lớn nhất, cung
cấp chủ yếu linh kiện điện tử, máy móc thiết bị, nguyên liệu thô và sản phẩm tiêu dùng giá rẻ.
Các quốc gia như Hàn Quốc và Nhật Bản cũng cung cấp nhiều sản phẩm phục vụ sản xuất công
nghiệp, giúp duy trì sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến tại Việt Nam. Sự mở rộng
và đa dạng hóa thị trường giúp Việt Nam giảm thiểu rủi ro từ biến động thương mại quốc tế. Đầu tư
Kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam đã chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ về thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt trong các năm 2007 và 2008. Năm 2007, tổng vốn đăng ký đạt
21,3 tỷ USD, và vào năm 2008, con số này tăng mạnh lên 60,3 tỷ USD, đạt mức cao nhất kể từ
khi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thông qua. Tuy nhiên, sau giai đoạn phát triển
nhanh chóng, dòng vốn FDI vào Việt Nam đã có sự thay đổi. Vào năm 2010, vốn thực hiện đạt
11.000 triệu USD, và đến năm 2015, con số này tăng lên 15.400 triệu USD. Đến năm 2019, vốn
thực hiện đạt 20.380 triệu USD, tăng gần gấp đôi so với năm 2010. Tuy nhiên, do tác động của
đại dịch COVID-19, trong năm 2020, vốn FDI vào Việt Nam chỉ đạt 23,5 tỷ USD, giảm 19,4% so với năm trước.
Trong giai đoạn 2014-2023, Việt Nam đã thu hút tổng cộng 302,92 tỷ USD vốn FDI, với 25.364
dự án được cấp phép, trong đó tỷ lệ giải ngân đạt 61,1%. Đặc biệt, trong năm 2023, tổng vốn
FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 36,61 tỷ USD, tăng 32,1% so với năm trước, với vốn thực hiện
đạt mức kỷ lục 23,18 tỷ USD. Về cơ cấu đầu tư, khu vực FDI đã đóng góp 16,1% vào tổng vốn
đầu tư toàn xã hội trong năm 2023, góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các ngành
công nghiệp chế biến có giá trị gia tăng cao, như công nghiệp phụ trợ. lOMoAR cPSD| 61429799
Tăng trưởng kinh tế
Trong năm 2007, GDP của Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng 8,5%, cho thấy nền kinh tế
đang phát triển mạnh mẽ và ổn định. Tuy nhiên, năm 2008, khủng hoảng tài chính toàn cầu
đã tác động tiêu cực, làm giảm tốc độ tăng trưởng xuống còn 6,23%. Từ năm 2009 đến 2019,
nền kinh tế Việt Nam duy trì mức tăng trưởng ổn định từ 6% đến 7% mỗi năm, với sự đóng
góp đáng kể từ các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và xuất khẩu sau khi gia nhập các hiệp
định thương mại tự do. Dù chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch COVID-19, nền kinh tế Việt
Nam vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91% trong năm 2020. Đến năm 2022 và 2023, nền kinh tế
phục hồi mạnh mẽ với các mức tăng trưởng lần lượt là 8,02% và 7,09%, nhờ vào sự phục hồi
nhanh chóng của các ngành công nghiệp, xuất khẩu và dịch vụ. Đến năm 2024, mặc dù Việt
Nam vẫn duy trì đà tăng trưởng, nhưng nền kinh tế vẫn đối mặt với các thách thức, bao gồm
tình trạng lạm phát và sự bất ổn của chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ổn định kinh tế vĩ mô và tài chính
Năm 2007, tỷ lệ lạm phát (tính theo chỉ số giá tiêu dùng CPI so với tháng 12 năm trước) là
12,6%, và năm 2008 đạt 19,98%, đây là mức lạm phát cao nhất trong vòng hơn 10 năm qua
kể từ năm 1995. Nguyên nhân chủ yếu là do sự thiếu hiệu quả trong quản lý chính sách kinh
tế vĩ mô, đặc biệt là trong giai đoạn 2007 và quý I năm 2008, đã làm tình hình thêm căng
thẳng. Việc nhập khẩu tăng nhanh chóng dẫn đến thâm hụt thương mại hàng hóa lên tới 14,1
tỷ USD trong năm 2007 và 17,5 tỷ USD trong năm 2008, mặc dù thâm hụt này có xu hướng
giảm dần trong các tháng sau. Tuy nhiên, nhờ sự gia tăng mạnh mẽ của kiều hối, FDI, ODA, và
đầu tư gián tiếp, cán cân thanh toán quốc tế vẫn có thặng dư hơn 10 tỷ USD vào năm 2007.
Nhưng sang nửa đầu năm 2008, việc tài trợ cho thâm hụt thương mại trở nên không bền
vững, mặc dù cán cân thanh toán quốc tế vẫn thặng dư, nhưng chỉ còn khoảng 0,5 tỷ USD.
Trong giai đoạn 2006-2007, thị trường chứng khoán, các hoạt động tài chính và ngân hàng
Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ. Các chỉ số như tín dụng/GDP và M2/GDP, cùng với
quy mô thị trường chứng khoán, đều đạt mức tăng cao. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng đi
kèm với nguy cơ tài chính gia tăng, đặc biệt là rủi ro từ sự bất ổn trong hệ thống ngân hàng,
khi một số ngân hàng gặp khó khăn về thanh khoản và tỷ lệ nợ xấu gia tăng.
Mặc dù thu ngân sách nhà nước (NSNN) trong năm 2007 và 2008 có sự tăng trưởng đáng kể,
đặc biệt là thu từ xuất nhập khẩu, với mức tăng 15,4% trong năm 2007 và 53,7% trong 6 tháng
đầu năm 2008, do nhập khẩu tăng mạnh, nhưng vẫn còn sự bất ổn lớn về nguồn thu này. Đồng
thời, sức ép từ chi tiêu ngân sách, nhất là cho chi đầu tư vào cơ sở hạ tầng, vẫn rất cao, làm
cho tình hình tài chính công gặp nhiều khó khăn. Thể chế kinh tế
Sau khi gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam đã triển khai một loạt các cải cách quan trọng
nhằm hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế. Những cải cách này chủ yếu bao gồm việc sửa đổi
và bổ sung các quy định pháp lý để đảm bảo phù hợp với các cam kết quốc tế, cùng với việc
cải cách bộ máy nhà nước và các thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh lOMoAR cPSD| 61429799
nghiệp. Tuy nhiên, quá trình thực hiện các cải cách này chưa thật sự đồng đều và gặp phải
không ít khó khăn, đặc biệt là sự chậm trễ trong việc xác định rõ chức năng của các bộ, ngành,
và việc giám sát cũng như đánh giá hiệu quả thực hiện các cam kết WTO. Một ví dụ điển hình
là sự ra đời của Nghị định 13/2008/NĐ-CP, quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, điều này phần nào phản ánh sự thiếu nhanh
nhạy trong việc triển khai những thay đổi cần thiết. Những vấn đề này đã dẫn đến việc hiệu
quả hoạt động của một số cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương chưa đạt được kết quả như mong đợi.
Tuy nhiên, cho đến nay, thể chế kinh tế của Việt Nam đã có những bước chuyển tích cực. Các
cơ quan hành pháp và lập pháp ngày càng chú trọng hơn trong việc cập nhật và điều chỉnh các
quy định pháp lý để phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế. Mặc dù vậy, việc triển khai các
chính sách vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và chưa đạt hiệu quả cao, vì vậy, cần có những giải
pháp mạnh mẽ và quyết liệt hơn để thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, đảm bảo sự phát
triển bền vững của nền kinh tế.
4.2.2. Văn hoá - Xã hội a, Văn hoá
Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam không chỉ tập trung vào việc cải cách kinh tế mà còn đặc biệt
chú trọng đến việc bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa trong quá trình hội nhập quốc tế. Mặc
dù hội nhập mang lại cơ hội giao lưu văn hóa, nhưng cũng đặt ra những thách thức, khi các
giá trị văn hóa truyền thống có nguy cơ bị mai một. Chính phủ đã triển khai nhiều chương
trình nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, bao gồm việc tăng cường giáo dục văn
hóa, bảo vệ di sản và khuyến khích sáng tạo nghệ thuật. Một ví dụ rõ rệt là các chính sách bảo
vệ di sản văn hóa và hỗ trợ sáng tác nghệ thuật thông qua các Quỹ hỗ trợ nghệ thuật, cũng
như tổ chức các sự kiện văn hóa quốc tế để thúc đẩy sự giao thoa văn hóa. Các tổ chức quốc
tế và các địa phương cũng đã triển khai các sáng kiến văn hóa mang tầm quốc tế, từ đó nâng
cao vị thế của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. b, Xã hội
Về mặt xã hội, việc gia nhập WTO đã mở ra cơ hội giúp Việt Nam đạt được tăng trưởng kinh
tế mạnh mẽ. Từ mức GDP bình quân đầu người khoảng 730 USD vào năm 2006, con số này đã
tăng lên 2.587 USD vào năm 2018, tương đương khoảng 7.650 USD theo sức mua tương
đương. Tuy nhiên, sự tăng trưởng nhanh chóng này cũng kéo theo sự chênh lệch thu nhập
giữa các vùng miền. Các thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM phát triển mạnh mẽ, trong khi
nhiều khu vực nông thôn và miền núi vẫn gặp khó khăn về việc làm và thu nhập. Hội nhập
quốc tế cũng thúc đẩy cải cách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo nghề, với nỗ lực nâng cao
chất lượng giáo dục để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Tuy vậy, sự chênh lệch về
chất lượng giáo dục giữa các vùng miền vẫn là vấn đề cần giải quyết, ảnh hưởng đến khả năng
cạnh tranh của lao động Việt Nam trên trường quốc tế.
Hội nhập vào WTO cũng yêu cầu Việt Nam thực hiện cải cách các chính sách an sinh xã hội
để bảo đảm công bằng xã hội. Chính phủ đã thực hiện những cải cách quan trọng trong hệ
thống bảo hiểm xã hội và y tế, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc bảo vệ
các nhóm yếu thế như lao động nông thôn và dân tộc thiểu số. Sự chênh lệch trong việc tiếp lOMoAR cPSD| 61429799
cận các dịch vụ cơ bản giữa khu vực đô thị và nông thôn vẫn là một thách thức lớn cần được
giải quyết. 4.2 Tác động tích cực
Việc hội nhập sâu rộng vào thị trường quốc tế, cụ thể là sau khi gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới WTO đã thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam. Cùng việc
tham gia WTO từ năm 2007, việc thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã góp phần
thúc đẩy GDP của Việt Nam tăng hơn 300%. Nền kinh tế luôn có xu hướng tăng trưởng dương;
điển hình vào năm 2010 khi nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng, tăng trưởng GDP của
Việt Nam vẫn đạt trên 5%, và Việt Nam trở thành một trong 20 nước có tăng trưởng dương.
Điển hình, trong cuộc khủng hoảng do đại dịch Covid-19 diễn ra từ cuối năm 2019, hầu hết
các quốc gia phải đóng cửa biên giới, thực hiện giãn cách xã hội, dẫn đến GDP của nhiều nước
bị âm, nhưng Việt Nam vẫn là một trong số ít quốc gia đạt tăng trưởng dương, vẫn là nơi thu
hút và hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế.
Về xuất khẩu, xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ từ sau khi gia nhập WTO. Điều
này thể hiện qua các chỉ tiêu như tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao và duy trì qua các năm (từ
mức 48,5 tỷ USD vào năm 2007, kim ngạch xuất khẩu đã tăng lên đến khoảng 264 tỷ USD vào
năm 2019, tức là tăng hơn 5 lần trong vòng 12 năm). Các thị trường xuất khẩu mở rộng mạnh
mẽ (đến nay, Việt Nam đã xuất khẩu hàng hóa tới hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Những
thị trường lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc và Nhật Bản đã trở thành đối tác thương mại chủ lực)
Cùng đó, yếu tố tăng trưởng xuất khẩu giúp cải thiện rõ rệt cán cân thương mại của Việt Nam
từ chỗ thường xuyên nhập siêu trước khi gia nhập WTO đã dần chuyển sang xuất siêu, đặc
biệt trong giai đoạn từ 2011 trở đi. Điều này chứng tỏ năng lực sản xuất và cung ứng của Việt
Nam được cải thiện, nhờ vào cơ hội thương mại mà WTO mang lại.
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Việt Nam hiện trở thành một trong những điểm
đến đầu tư hấp dẫn nhất trên thế giới. Ngay sau khi gia nhập WTO năm 2007, Việt Nam đã
đón một số lượng vốn FDI đăng ký lên tới 64 tỷ USD vào năm 2008, cao gấp 3 lần so với năm
2007. Cùng với việc tham gia các FTA, Việt Nam tiếp tục thu hút đều một số lượng lớn FDI qua
các năm. Đặc biệt năm 2020, Việt Nam lọt vào tốp 20 quốc gia thu hút nhiều FDI nhất trên thế
giới, đứng vị trí thứ 19, tăng 5 bậc so với năm 2019 (theo UNCTAD, 2021). Tính lũy kế đến hết
năm 2021, Việt Nam đã thu hút được 34.527 dự án FDI từ 140 quốc gia và vùng lãnh thổ, với
tổng số vốn đăng ký là 408,9 tỷ USD(8). Nhiều dự án FDI có tổng số vốn đăng ký lớn, tập trung
vào các ngành có tính cạnh tranh cao như điện thoại, điện tử,... lOMoAR cPSD| 61429799
Nguồn ảnh: Báo cáo tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2024
Về đối tác đầu tư, năm 2024 Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư gần 10,21 tỷ USD, chiếm
26,7% tổng vốn, tăng 31,4% so với năm 2023.
Về địa bàn đầu tư, Bắc Ninh dẫn đầu với gần 5,12 tỷ USD, gấp hơn 2,8 lần so với năm 2023.
Hải Phòng và TPHCM lần lượt đứng thứ 2 và 3 với hơn 4,94 tỷ USD và 3,04 tỷ USD.
Gia nhập WTO là một cú hích mạnh cho FDI vào Việt Nam, có ý nghĩa không chỉ ở khía cạnh sẽ
đem lại một nguồn vốn bổ sung khổng lồ bên cạnh nguồn vốn đầu tư huy động từ trong nước,
mà thậm chí còn quan trọng hơn thế, có tác dụng tích cực đến cải thiện năng suất và tính cạnh
tranh của toàn bộ nền kinh tế. Với một lực lượng lao động dồi dào, tương đối có trình độ và
chi phí rất cạnh tranh, lại ít rủi ro về chính trị, sức thu hút của Việt Nam trong mắt các nhà đầu
tư nước ngoài như là một công trường để sản xuất cho thị trường thế giới càng được khẳng định.
Việc gia nhập WTO cũng giúp cho việc Cải thiện môi trường pháp lý và thể chế. Dấu ấn sâu
đậm nhất của việc tham gia WTO và hội nhập quốc tế đối với Việt Nam là góp phần đổi mới
tư duy chính sách, hoàn thiện chuẩn mực quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp, định hình
khung khổ pháp lý và các chuẩn mực phát triển các thể chế kinh tế-thương mại, tạo cơ sở
pháp lý vững chắc làm cầu nối và xung lực tích cực để đất nước từng bước mở cửa, mở rộng
quy mô thị trường hàng hóa và dịch vụ, cải thiện cơ cấu và nâng cao hiệu quả hoạt động
thương mại quốc tế theo các thỏa thuận đa phương và song phương đã cam kết.
Để chuẩn bị gia nhập WTO, Việt Nam đã viết lại trên 60 văn bản luật để thực thi cam kết WTO
và hàng trăm nghị định, thông tư hướng dẫn cũng đã được sửa đổi. Do đó, khuôn khổ pháp
lý áp dụng cho hợp đồng, quyền sở hữu và giải quyết tranh chấp thương mại đã được đơn
giản hóa và hiện đại hóa đáng kể (Ngân hàng Thế giới, 2006). Hơn nữa, khi gia nhập WTO, Việt lOMoAR cPSD| 61429799
Nam đã cam kết dành cho các doanh nghiệp nước ngoài sự đối xử giống như các doanh nghiệp
trong nước. Vì vậy, một luật kinh doanh mới đã được thông qua vào năm 2005 để áp dụng
cùng một khuôn khổ pháp lý cho các công ty trong nước và nước ngoài. Sau khi là thành viên
WTO, hệ thống luật pháp Việt Nam tiếp tục được hoàn thiện để thực hiện cam kết với WTO
theo lộ trình đối với ngành và lĩnh vực kinh tế. Cả hai giai đoạn sửa đổi và hoàn thiện luật pháp
trước và sau khi gia nhập WTO đã chứng minh rằng, đó là quá trình đấu tranh giữa đổi mới
với bảo thủ, giữa tự do hóa thương mại với bảo hộ mậu dịch, giữa tôn trọng quyền kinh doanh
của doanh nghiệp với duy trì “cơ chế xin-cho”, giữa phương thức điều hành của nhà nước điện
tử, nhà nước kiến tạo với duy trì nhà nước tập trungquan liêu. Ngay sau khi gia nhập WTO,
Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 16 với kế hoạch hành động chi tiết, bao gồm
việc cải thiện quy trình lập pháp. Trong năm 2007, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua 10
luật quan trọng, đồng thời thu thập ý kiến từ đại biểu Quốc hội và công chúng để hoàn thiện
nhiều dự thảo luật khác như Luật Ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật (sửa đổi) và Luật
Quản lý, Sử dụng Tài sản Nhà nước. Việc lấy ý kiến công khai trong quá trình xây dựng pháp
luật đã trở thành một bước tiến lớn, giúp tăng tính minh bạch và sự tham gia của các bên liên quan.
Một điểm tích cực trong việc gia nhập WTO là Việt Nam có cơ hội Mở rộng quan hệ kinh tế
với các nước và các tổ chức quốc tế. Việt Nam tiếp cận đến môi trường thương mại toàn cầu
sau khi trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới, giúp thị trường xuất
khẩu hàng hóa và các mối quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư được mở rộng. Bởi vì, khi đó
Việt Nam sẽ được hưởng quy chế tối huệ quốc, quy chế đối xử quốc gia, sẽ không bị phân biệt
đối xử trong thương mại quốc tế và được hưởng những thành quả đàm phán suốt mấy chục
năm của GATT và WTO, cụ thể là giảm mạnh hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tạo điều
kiện cho một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam như hàng dệt may, nông sản và sau này là các
mặt hàng công nghiệp chế tạo dễ dàng xâm nhập vào thị trường thế giới, nhất là các thị trường
lớn và khó tính như Mỹ, Nhật và EU. Ngoài ra, khi gia nhập WTO, Việt Nam có thể được hưởng
chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), là mức ưu đãi cao nhất do các nước công nghiệp phát
triển dành cho các nước đang phát triển khi xuất khẩu hàng hóa công nghiệp chế biến vào các
nước này mà không đòi hỏi điều kiện có đi có lại. Nắm bắt cơ hội này, nước ta đã thiết lập
quan hệ thương mại, kinh tế với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ khắp các châu lục; đồng
thời có hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư ở Việt Nam và các doanh nghiệp
Việt Nam có dự án đầu tư ở hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Là một thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, Việt Nam có cơ hội mở rộng quan hệ với
các tổ chức tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF),
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), và Ngân hàng Đầu tư Châu Âu (EIB). Mối quan hệ mật
thiết giữa WTO và các tổ chức này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc tiếp cận
nguồn vốn ưu đãi và các nguồn tài chính khác. Trong nhiều năm qua, World Bank đã tài trợ
cho Việt Nam khoảng 25 tỷ USD vào các dự án phát triển kinh tế xã hội. Hiện ngân hàng này
đề xuất cho Việt Nam vay tiếp 11 tỷ USD trong 5 năm tới để thực hiện các dự án phát thải
thấp, đường sắt đô thị, năng lượng sạch. WB không chỉ cho vay với lãi suất ưu đãi mà còn lOMoAR cPSD| 61429799
cung cấp công nghệ, hỗ trợ xây dựng thể chế, nâng cao năng lực quản trị, đào tạo nhân lực,
tư vấn chính sách... nhằm thúc đẩy tăng trưởng bền vững, nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế, thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước và hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế toàn cầu.
Gia nhập WTO cũng làm tăng đáng kể Cải thiện đời sống người dân. Đời sống nhân dân được
cải thiện trên nhiều phương diện kể từ khi nước ta gia nhập WTO: nhiều cơ hội việc làm hơn,
mức lương cao hơn, người tiêu dùng tiếp cận được đa dạng các loại hàng hóa với chất lượng
cao hơn và giá rẻ hơn, người dân tiếp cận được nhiều nền văn hóa hơn giúp nâng cao đời
sống tinh thần. Cụ thể, sau khi trở thành thành viên WTO vào năm 2007, xuất khẩu của Việt
Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ, tạo điều kiện cho sự mở rộng của các ngành sản xuất như dệt
may, da giày, và điện tử, tạo việc làm với thu nhập hấp dẫn cho hàng triệu người lao động, đặc
biệt là ở các khu vực nông thôn. Theo báo cáo của Bộ Lao động- Thương binh & Xã hội, riêng
với ngành dệt may, ngành này đã tạo việc làm cho khoảng 2,5 triệu người vào năm 2020, thu
nhập bình quân của người lao động hưởng lương đã tăng lên khoảng 8,5 triệu đồng/tháng
vào năm 2022, tăng 1,9 triệu đồng so với năm 2020. Việt Nam là nước hoàn thành sớm mục
tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc được Cộng đồng quốc tế công nhận và đang tích cực
chuyển sang giai đoạn thực hiện mục tiêu mới. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 9,88% cuối năm
2015 xuống 1,93% vào năm 2024, với mức giảm trung bình là hơn 1,4%/năm. Sự phát triển
thương mại quốc tế đã thúc đẩy các ngành dịch vụ như logistics, tài chính và ngân hàng. Xuất
nhập khẩu tăng trưởng mạnh tạo cơ hội việc làm trong vận tải, chuỗi cung ứng, đồng thời
nâng cao nhu cầu về dịch vụ tài chính. Việc gia nhập WTO giúp Việt Nam mở rộng thị trường,
tiếp cận hàng hóa chất lượng cao với giá cạnh tranh, từ đó cải thiện đời sống người dân. Ngoài
ra, WTO còn tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu rộng về công nghệ, văn hóa và du lịch,
góp phần nâng cao kiến thức và đời sống tinh thần của người dân.
4.4 Tác động tiêu cực
Gia tăng sức ép cho các ngành sản xuất
Việc cắt giảm hoặc loại bỏ hàng rào thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu đã khiến các doanh
nghiệp trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt ngay trên thị trường nội địa. Theo
các cam kết khi gia nhập WTO, nhiều hình thức hỗ trợ từ Nhà nước dành cho một số ngành
kinh tế trước đây không còn được phép duy trì. Ví dụ, các chính sách ưu đãi như hỗ trợ lãi
suất, tín dụng ưu đãi cho ngành dệt may, ưu đãi thuế theo tỷ lệ nội địa hóa trong ngành cơ
khí, hay thưởng cho hoạt động xuất khẩu sang thị trường mới đều bị xóa bỏ. Điều này buộc
doanh nghiệp Việt Nam phải thích nghi và nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại trong bối
cảnh hội nhập sâu rộng và áp lực cạnh tranh ngày càng lớn. Số lượng doanh nghiệp Việt Nam
tuy đông, khoảng 930.000 doanh nghiệp đang hoạt động vào đầu năm 2025 nhưng 94% tổng
số doanh nghiệp là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, chỉ với 3,5% là doanh nghiệp vừa và 2,5%
doanh nghiệp lớn, vì vậy năng lực cạnh tranh vốn đã hạn chế. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu
đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa nước ngoài, với lợi thế về giá thành, chất lượng và
mẫu mã đa dạng, dễ dàng tiếp cận thị trường Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với việc các lOMoAR cPSD| 61429799
doanh nghiệp nhỏ trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp và gay gắt ngay trên thị trường nội địa.
Gia tăng sự lệ thuộc vào bên ngoài
Kể từ khi gia nhập WTO vào năm 2007, xuất khẩu của Việt Nam đã tăng mạnh mẽ từ 48,5 tỷ
USD lên đến 371 tỷ USD vào năm 2022. Điều này cho thấy sự phụ thuộc ngày càng lớn vào
hoạt động xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Tính đến tháng 5 năm 2024, Việt Nam
đã ký kết, thực thi và đang đàm phán tổng cộng là 19 Hiệp định thương mại tự do (Free Trade
Agreement- FTA) . Trong đó, 16 FTA đã ký kết và thực thi và 3 FTA đang đàm phán. Những năm
tới, khi quy mô nền kinh tế gia tăng, nền kinh tế mở hơn khi các FTA có hiệu lực đầy đủ, Việt
Nam sẽ có khả năng bị phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường thế giới, nhất là Mỹ, EU và Trung
Quốc. Các tác động tiêu cực bên ngoài gồm khủng hoảng kinh tế; giá dầu, lạm phát cao; dịch
chuyển dòng vốn đầu tư… đối với kinh tế Việt Nam sẽ ngày càng sâu sắc hơn. Khi các nước đối
tác thương mại lớn của Việt Nam gặp phải các cú sốc kinh tế (suy thoái, khủng hoảng), nhu
cầu tiêu dùng và đầu tư của họ giảm xuống. Điều này trực tiếp làm giảm nhu cầu nhập khẩu
hàng hóa từ Việt Nam, gây ảnh hưởng tiêu cực đến các ngành sản xuất và xuất khẩu chủ lực
như dệt may, da giày, điện tử, nông sản. Điển hình như cuộc khủng hoảng tài chính xuất phát
từ Mỹ 2008 đã tác động tới nền kinh tế Việt Nam. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, kim ngạch xuất khẩu quý
IV/2008 chỉ còn gần 14,2 tỷ USD, giảm hơn 3,6 tỷ USD, tương ứng với 20,6% so với quý III/2008
và chỉ còn tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2007, trong khi quý III/2008 còn tăng 44,8%. Việt
Nam nhập khẩu nhiều mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, phân bón, nguyên liệu sản xuất từ
các nước trên thế giới. Vì vậy, các cú sốc bên ngoài có thể đẩy giá các mặt hàng này lên cao,
gây ra lạm phát trong nước, tăng chi phí sản xuất cho doanh nghiệp và giảm sức mua của
người dân. Cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine khoảng đầu năm 2022 đã đẩy giá nguyên nhiên
liệu đầu vào, nhất là giá xăng dầu liên tục tăng cao. Cũng theo báo cáo của Tổng cục thống kê,
nửa đầu năm 2022, Việt Nam đã trải qua hơn 10 lần điều chỉnh giá xăng dầu. Giá xăng RON
95 có lúc chạm ngưỡng hơn 32.000 đồng/lít. Sự biến động về giá này đã gây hiện tượng lạm
phát. Bình quân 5 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 2,25% so với cùng kỳ
năm trước, cao hơn mức tăng 1,29% của năm tháng đầu năm 2021. CPI tăng chủ yếu là do
ảnh hưởng từ giá xăng dầu.
Tác động đến nguồn thu ngân sách quốc gia
Các cam kết của WTO yêu cầu cắt giảm hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan khiến thu ngân sách
nhà nước bị ảnh hưởng lớn. Điều này làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước, bởi thuế xuất
nhập khẩu chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng thu ngân sách. Mức thu bình quân từ hoạt
động xuất nhập khẩu giai đoạn 2001-2006 ở Việt Nam đạt 258,75 nghìn tỷ đồng; sau khi gia
nhập WTO mức thu ngân sách cao nhất chỉ đạt 239 nghìn tỷ đồng vào năm 2014 và đến 2017,
đạt trên 297 nghìn tỷ đồng. Để bù đắp cho sự sụt giảm nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu,
Việt Nam đã tăng cường thu nội địa thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập
cá nhân, và thuế giá trị gia tăng, vì vậy, tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách nhà nước lOMoAR cPSD| 61429799
ngày càng tăng. Cơ cấu thu ngân sách nhà nước từ năm 2007 đến nay chuyển dịch theo hướng
tăng dần tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách nhà nước, tạo nguồn thu bù đắp cho
phần giảm thuế nhập khẩu hàng hoá. Ngay sau khi chính thức gia nhập WTO, từ tháng 1/2007,
nước ta đã chủ động thực hiện cam kết: công bố cắt giảm 1.812 dòng thuế nhập khẩu với mức
thuế suất giảm bình quân là 14,5%. Do giảm thuế suất theo cam kết WTO, cơ cấu thuế trong
giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam giảm đáng kể, vì vậy ngân sách nhà nước cũng giảm một
nguồn thu tương ứng (ước tính năm 2007 giảm khoảng 11-12 nghìn tỷ đồng).
Ô nhiễm môi trường gia tăng
Tham gia WTO dù mang lại những hiệu quả về kinh tế, mở ra cơ hội phát triển nền kinh tế
xanh nhưng trước mắt, việc gia nhập WTO giúp đẩy mạnh hoạt động của các ngành kinh
doanh, dịch vụ khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên như khoáng sản, dầu mỏ, gỗ, thủy
sản để đáp ứng nhu cầu sản xuất và xuất khẩu. Việc khai thác quá mức và không bền vững
chính là nguyên nhân làm suy kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, mất đa dạng sinh học, ô
nhiễm môi trường và nhiều vấn đề xã hội khác. WTO thúc đẩy xuất khẩu, dẫn đến sự mở rộng
nhanh chóng của các ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu như dệt may, da giày,
điện tử, chế biến thủy sản. Quá trình sản xuất này thường tiêu thụ nhiều năng lượng và tài
nguyên, đồng thời thải ra lượng lớn chất thải công nghiệp, khí thải gây hiệu ứng nhà kính và
các chất ô nhiễm khác vào không khí, nước và đất. Hơn nữa, sự gia tăng các khu công nghiệp
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam một cách nhanh chóng, trong thời gian qua, làm gia tăng ô
nhiễm môi trường do xả thải từ hoạt động xây dựng, sản xuất. Một số sự cố môi trường
nghiêm trọng có thể kể đến như Vedan, Miwon và nặng nề nhất là sự cố Formosa xả thải trái phép ra biển miền Trung.
Gây khó khăn cho ngành nông nghiệp và nông dân
Thực hiện cam kết với WTO, Nhà nước phải cắt bỏ trợ cấp xuất khẩu các mặt hàng nông sản.
Khi nghề nông đang là nguồn sinh kế chính của 61,5% dân số cả nước, có ảnh hưởng trực tiếp
đến hơn 2/3 hộ gia đình ở nông thôn trong đó có 44% số hộ thuộc diện còn khó khăn. Các
doanh nghiệp xuất khẩu nông sản không được hưởng lợi từ việc trợ cấp của Nhà nước như
trước đây cũng có thể dẫn đến tình trạng doanh nghiệp hạ giá thu mua nông sản. Trong khi
chi phí sản xuất của người nông dân còn cao có thể dẫn đến tình trạng nếu không bán thì
không có đầu ra cho sản phẩm mà bán thì bị doanh nghiệp ép giá. Ngoài ra, việc miễn, giảm
thuế nhập khẩu các mặt hàng nông sản từ các nước khác khi vào thị trường nước ta buộc
hàng nông sản trong nước phải cạnh tranh ngày càng khốc liệt đối với hàng nông sản nhập
khẩu. Để các mặt hàng nông sản có sức cạnh tranh cao, cần phải sản xuất các sản phẩm theo
nhu cầu của thị trường với chất lượng cao... Thực trạng hiện nay, nông nghiệp nước ta là sản
xuất manh mún, chất lượng còn kém và một số mặt hàng nông sản đã bị lấn sân bởi hàng nhập khẩu.
Mặt khác, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế không trực tiếp gây nên sự nghèo đói, nhưng lại
làm tăng khoảng cách giàu nghèo, đẩy nhanh tốc độ phân cực giữa các nhóm lao động khác
nhau. Việc phân cực này có nhiều nguyên nhân của nền kinh tế thị trường, một trong những lOMoAR cPSD| 61429799
nguyên nhân cơ bản là do sự phát triển mất cân đối giữa khu vực thành thị với khu vực nông
thôn, giữa các ngành nghề kinh tế và giữa cung và cầu lao động. Tự do hóa thương mại mang
lại những cơ hội tăng việc làm và thu nhập cho toàn bộ xã hội nhưng không phải là những cơ
hội ngang bằng cho tất cả người lao động, bởi điều kiện tiếp cận cơ hội ở các nhóm dân cư
khác nhau. Đối với lao động nông thôn, do trình độ văn hóa thấp, tay nghề kém, thiếu vốn và
kinh nghiệm nên khả năng cạnh tranh trong thị trường lao động, hàng hóa bị hạn chế. Khi sản
phẩm nông nghiệp bị cạnh tranh gay gắt chỉ các hộ có vốn, có tri thức, nhanh nhạy với thị
trường mới có thể tạo ra các hàng hóa có sức cạnh tranh với hàng ngoại, còn nông dân là
không thể. Mặt khác, nông sản được nhập khẩu tự do làm cho sản xuất nông sản trong nước
bị dư thừa khiến thu nhập của nông dân bị giảm sút. Điều này không chỉ tạo ra sự phân hóa
giàu - nghèo trong nội bộ nông thôn, mà còn khoét sâu thêm sự bất bình đẳng về thu nhập,
mức sống giữa thành thị và nông thôn.
Gia tăng thách thức về văn hoá
Không thể phủ nhận những tác động tích cực mà quá trình hội nhập quốc tế đem lại cho nền
văn hóa dân tộc ta. Tuy nhiên, khi mở cửa, thách thức từ những yếu tố tiêu cực của quá trình
hội nhập đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là rất lớn. Mỗi khách du lịch và doanh
nhân nước ngoài khi đến Việt Nam mang theo những lối sống và văn hóa khác nhau, tác động
đến quan niệm, lối sống, đặc biệt là giới trẻ. Mặc dù điều này mở ra cơ hội tiếp thu những yếu
tố mới, nhưng cũng dễ làm mờ đi các giá trị văn hóa truyền thống, khiến giới trẻ dễ bị ảnh
hưởng bởi văn hóa ngoại lai không phù hợp, thậm chí đối nghịch với bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, các sản phẩm văn hóa nước ngoài như sách báo, phim ảnh
sẽ tràn vào Việt Nam. Mặc dù có những sản phẩm mang tinh hoa văn hóa nhân loại, nhưng
không phải tất cả đều phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam. Quá trình toàn cầu hóa và
hội nhập giúp làm phong phú đời sống văn hóa, nhưng cũng dễ tạo ra xu hướng "nhất thể
hóa" văn hóa, khiến việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc gặp khó khăn.