


Preview text:
Vùng Tây Bắc Việt Nam gồm những tỉnh nào?
1. Vị trí vùng núi Tây Bắc?
Như chúng ta đã biết, vị trí địa lý của vùng Tây Bắc là vùng núi phía Tây Bắc Bộ Việt Nam, vùng
núi Tây Bắc này có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc. Vùng này đôi khi được gọi là
Tây Bắc Việt Nam và là một trong ba tiểu vùng địa lý tự nhiên của Bắc Bộ Việt Nam, hai tiểu
vùng còn lại là Đông Bắc và Đồng bằng sông Hồng.
Căn cứ vào vị trí địa lý ta thấy không gian địa lý vùng Tây Bắc chưa được xác định một cách nhất
định. Có người cho đó là khu vực phía nam (hữu ngạn) sông Hồng. Có người cho đó là vùng phía
Nam của dãy Hoàng Liên Sơn. Một số nhà địa lý cho rằng, vùng Tây Bắc được giới hạn ở phía
Đông bởi dãy Hoàng Liên Sơn và phía Tây là dãy Sông Mã, với vị trí địa lý này, vùng núi Tây Bắc
cũng có những thế mạnh và hạn chế cụ thể được xác định như sau: Về điểm nổi bật:
- Tập trung nhiều loại khoáng sản: Đồng, chì, kẽm ở Sơn La; đất hiếm tại Lai Châu; … thuận lợi
cho phát triển công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản.
– Có diện tích rừng lớn, đất đai đa dạng thuận lợi cho phát triển lâm nghiệp, cây công nghiệp,
cây ăn quả và chăn nuôi. Có trữ lượng thủy điện lớn, có thể phát triển thủy điện, cung cấp
nguồn điện cho phát triển công nghiệp, kinh tế và đời sống.
- Tập trung nhiều danh lam thắng cảnh như: hang động, thác nước, hồ Ba Bể, cây cối, cây cổ
thụ, một số nơi có khí hậu mát mẻ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch. Về mặt hạn chế:
- Một trong những hạn chế của đất đai ở đây là đất cao, cắt xẻ, có nhiều hẻm vực, độ dốc lớn
khiến cho việc khai thác tài nguyên thiên nhiên bị ảnh hưởng nghiêm trọng, việc phát triển cơ
sở hạ tầng, phát triển giao thông gặp nhiều khó khăn.
- Với địa hình này, tần suất sạt lở đất, đá do lũ quét gây ra ảnh hưởng đến giao thông, người và tài sản tăng cao.
– Ở những nơi địa hình không bằng phẳng có thể xảy ra động đất.
– Thường xuyên xảy ra thiên tai như lốc xoáy, mưa đá, sương muối.
2. Vùng núi tây bắc gồm các tỉnh nào?
Về mặt hành chính, Tây Bắc gồm 6 tỉnh: Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình.
Tổng diện tích vùng Tây Bắc khoảng 5,645 triệu ha, chiếm 10,5% diện tích cả nước. Do địa hình
chủ yếu là đồi núi ở phía Tây Bắc nên dân số Tây Bắc chỉ khoảng 4,5 triệu người. Một số phần
của Phú Thọ và 2 tỉnh Lào Cai, Yên Bái nằm ở hữu ngạn sông Hồng, nhưng vành đai hành chính
của vùng Tây Bắc không bao gồm Phú Thọ, đôi khi có cả tỉnh Lào Cai và Yên Bái. . Đông Bắc. Tuy
nhiên, hiện nay, trụ sở Ban Chỉ đạo Tây Bắc đặt tại thành phố Yên Bái, tỉnh lỵ tỉnh Yên Bái nên
Yên Bái vẫn thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam.
3. Vị trí vùng núi Tây bắc có đặc điểm gì?
Thứ nhất, đặc điểm về địa hình:
Về địa hình hiểm trở, điển hình ở đây là vùng núi Tây Bắc do có nhiều khối núi, núi cao trải dài
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Với chiều dài của dãy Hoàng Liên Sơn lên tới 180km, rộng
30km, có một số đỉnh cao 2800-3000 m. Cụ thể, trong địa hình này có dãy núi Sông Mã dài
500km, có đỉnh cao trên 1800m và ngoài ra, giữa hai dãy núi này là vùng đồi núi thấp thuộc lưu
vực sông Đà (còn gọi là lòng sông Đà). . Bên cạnh các sông lớn như sông Đà, ở Tây Bắc chỉ có các
sông suối nhỏ, trong đó có thượng nguồn sông Mã.
Không chỉ vậy, ở vùng trũng sông Đà có một điểm rất đặc biệt và thú vị là một dãy cao nguyên
đá vôi kéo dài từ Phong Thổ đến Thanh Hóa, có thể chia nhỏ thành cao nguyên Tà Phình và cao
nguyên Mộc. Châu, Nà Sản. Ngoài ra còn có các lưu vực như Điện Biên, Nghĩa Lộ, Mường Thanh.
Có thể nói, địa hình Tây Bắc với lịch sử hình thành của vùng Tây Bắc đã bắt đầu từ 500 triệu năm
trước và không ngừng biến đổi theo thời gian. Thứ nhất, ở khu vực này, biển ở đây chỉ có một
số đỉnh núi thuộc dãy Hoàng Liên Sơn và dãy sông Mã, là những địa hình được kiến tạo và nâng
lên mặt biển, sau đó biển rút và lại lấn vào hàng trăm triệu. trong nhiều năm và trong quá trình
này đã xảy ra hiện tượng sụt lún mạnh, góp phần hình thành các tầng đá phiến sét và đá vôi.
Sau đó tiếp tục hình thành vào cuối đại Cổ sinh (cách đây khoảng 300 triệu năm), dãy Hoàng
Liên Sơn và dãy sông Mã được nâng lên hoàn toàn. Do đó, địa hình lòng máng sông Đà lúc đó
vẫn chìm dưới biển, cách đây 150 triệu năm, chu kỳ tạo núi ở Đông Dương từ từ đưa hai bờ
lòng máng xích lại gần nhau khiến trầm tích trong lòng máng để uốn thành những nếp uốn
khổng lồ, đồng thời tạo cho địa tầng đá vôi có tuổi cổ xưa. rồi trồi lên trên lớp đá phiến sét, tạo
thành các cao nguyên đá vôi ngày nay. Trong quá trình tạo núi còn có sự xâm nhập của magma.
Theo đó, phía tây bắc được nâng lên với biên độ 1000 mét. Do là vỏ trái đất rỗng, rất động nên
Tây Bắc là khu vực chịu nguy cơ động đất cao nhất ở Việt Nam.
Thứ hai, đặc điểm về khí hậu
Ở vùng Tây Bắc với địa hình như vậy, tuy nhìn chung khí hậu không có sự khác biệt nhiều giữa
các vùng nhưng biểu hiện của nó không giống nhau theo phương ngang và phương thẳng đứng
ở đây với các dãy núi. Dãy núi cao Hoàng Liên Sơn trải dài thành một khối theo hướng Tây Bắc -
Đông Nam, đóng vai trò là bức tường thành ngăn gió mùa đông (hướng Đông Bắc - Tây Nam)
thổi qua. vào Tây Bắc không bị phong tỏa, yếu hơn nhiều, khác với khu vực Đông Bắc có hệ
thống các vòng cung kéo dài theo hình nan quạt, tạo điều kiện cho các đợt rét tràn xuống đồng
bằng sông Hồng và xa hơn về phía Nam. Vì vậy, trừ khi do ảnh hưởng của độ cao, nhìn chung khí
hậu phía Tây Bắc ấm hơn phía Đông Bắc, mức chênh lệch có thể lên tới 2-3oC.
Về khí hậu vùng núi có khí hậu ẩm với chế độ nóng ẩm, sườn đón gió (sườn đông) đón lượng
mưa lớn trong khi sườn tây đón gió “phơn” thuận lợi. được gọi là "gió Lào") được hình thành do
thổi ở các thung lũng, đặc biệt là ở phía tây bắc.
Tóm lại ta cũng thấy một phần do ảnh hưởng của địa hình đến điều kiện của vùng trung du và
miền núi nên việc nghiên cứu khí hậu là rất quan trọng vì sự biến đổi khí hậu xảy ra ở từng khu
vực nhỏ nên cũng có những hiện tượng khí hậu cực đoan. sự kiện. ở miền núi, nhất là khi độ
che phủ rừng giảm và độ che phủ đất bị suy thoái. Mưa lớn, tập trung gây lũ lụt, nhưng kết hợp
với một số điều kiện nhất định sẽ xảy ra lũ quét; Hạn hán trong mùa khô thường xuyên xảy ra
nhưng cũng có khi hạn hán kéo dài vượt quá sức chịu đựng của cây cối.
Thứ ba, đặc điểm về dân cư:
Về cơ bản, vùng Tây Bắc là không gian văn hóa của người Thái, nổi tiếng với điệu xòe đặc trưng,
rất nổi tiếng và được nhiều người biết đến. Người Mường là dân tộc đông dân nhất trong vùng.
Ngoài ra còn có khoảng 20 dân tộc khác như Mông, Dao, Tày, Kinh, Nùng, v.v. Nơi đây cũng là
một địa điểm tham quan rất đẹp, nếu đã từng đến Tây Bắc, chúng ta không thể quên hình ảnh
những cô gái Thái với bộ váy óng ả đặc trưng của Tây Bắc.
Tây Bắc là khu vực có sự phân bố dân cư rất đặc thù theo đặc điểm địa hình cao thấp, chính xác
hơn là ở vùng cao (đỉnh núi) nơi cư trú của các dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Mông –
Dao, Tạng Miến, với các Phương thức sản xuất chính là trồng trọt, thuận theo tự nhiên, vùng
giữa (sườn núi) là nơi cư trú của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn. Người Khmer, phương
thức lao động sản xuất chính là trồng lúa nhờ nước mưa, chăn nuôi gia súc và một số nghề thủ
công, còn ở các thung lũng và chân núi là nơi sinh sống của các dân tộc thuộc các nhóm ngôn
ngữ Việt – Mường và Thái.– Kadai, điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn phục vụ phát triển nông
nghiệp và các ngành công nghiệp khác. Sự khác biệt về điều kiện sống và phương thức sản xuất
cũng dẫn đến sự khác biệt lớn về văn hóa, ngay cả khi chủ thể và văn hóa tiêu biểu là văn hóa dân tộc Mường.