Xã hội hóa giáo dục và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luân môn Xã hội học đại cương

Tiểu luân môn Xã hội học đại cương với đề tài: "Xã hội hóa giáo dục và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay" của Học viện Hành chính Quốc gia giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao cuối học phần.

Trường:

Học viện Hành chính Quốc gia 766 tài liệu

Thông tin:
24 trang 1 năm trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Xã hội hóa giáo dục và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luân môn Xã hội học đại cương

Tiểu luân môn Xã hội học đại cương với đề tài: "Xã hội hóa giáo dục và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay" của Học viện Hành chính Quốc gia giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao cuối học phần.

150 75 lượt tải Tải xuống
99TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA HTTT KINH TẾ & THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
BÀI TIỂU LUẬN
HỘI HÓA GIÁO DỤC NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI
VỚI HỆ THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY
Nhóm thực hiện : Nhóm 5
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Quỳnh Hương
Chuyên ngành : QTHTTT
Lớp học phần : 22122RLCP0421
Khóa : 2022-2026
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN…………………………………………………………………………………… 4
LỜI CAM ĐOAN……………………………………………………………………………….. 4
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………… 5
PHẦN I: HỘI HÓA GIÁO DỤC…………………………………………………………… 6
1. HỘI HÓA GIÁO DỤC GÌ?.......................................................................................... 6
2. BẢN CHẤT VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC HỘI HÓA GIÁO DỤC………………………….. 6
2.1. Bản chất của hội hóa công tác giáo dục………………………………………...………………… 6
2.2. Vai trò của hội hóa công tác giáo dục………………………………………...…….…………….. 6
2.3. Ý nghĩa của hội hóa công tác gióa dục……………………………………………...……………. 7
3. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN CÔNG TÁC HỘI HÓA GIÁO DỤC………………………………… 7
4. SỞ CHÍNH TRỊ, PHÁP CỦA CHÍNH SÁCH HỘI HÓA GIÁO DỤC………....……….. 8
5. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN HỘI HÓA GIÁO DỤC VIỆT NAM……………………………10
5.1. Những kết quả đạt được……………………………………………………………………. 10
5.2. Những hạn chế bất cập……………………………………………………………………... 12
PHẦN II: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HỆ THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM…. 14
1. THỰC TRẠNG NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY…………………………..…….………. 14
2. NGUYÊN NHÂN KHIẾN NỀN GIÁO DỤC VIÊT NAM YẾU KÉM……….…………….………. 20
3. GIẢI PHÁP…………………………………………………………………………………..………. 21
PHẦN III: KẾT LUẬN ĐỀ TÀI……………………………………………………………..…………. 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………………...………….. 24
LỜI CẢM ƠN
Trước khi bước vào bài thảo luận, nhóm 5 chúng em xin được gửi lời cảm ơn chân
thành nhất đến Trường Đại học Thương Mại, đã tạo hội cho chúng em được tiếp xúc,
học tập các môn học hay cùng bổ ích. Đặc biệt, chúng em cũng muốn gửi lời cảm
ơn sâu sắc tới giảng viên bộ môn Hội Học Đại Cương đã dày công tâm huyết truyền
đạt những kiến thức quý báu trong suốt thời gian học tập. Trong thời gian tham gia lớp
học của cô, chúng em đã trau dồi được cho bản thân rất nhiều bài học bổ ích, tăng thêm
tinh thần học tập ngày càng nghiêm túc, hiệu quả hơn. Đây chắc chắn sẽ những kiến
thức cùng quý giá, hành trang giúp em sự chuẩn bị tâm thế hơn để thể
vững bước sau này.
Bộ môn Hội Học Đại Cương một môn học cùng bổ ích tính thực tếrất
cao, thể cung cấp đủ kiến thức, gắn liền với nhu cầu thực tiễn của sinh viên hiện nay.
Tuy nhiên, do chúng em vẫn còn nhiều bỡ ngỡ khi mới được học tập, làm quen với bộ
môn nên vốn kiến thức khả năng tiếp thu thxực tế vẫn còn rất nhiều hạn chế, thiếu sự
chuẩn xác. Bài tiểu luận của nhóm 5 chúng em đã được hoàn thành với rất nhiều sự cố
gắng, nỗ lực của cả nhóm nhưng bên cạnh đó cũng sẽ không thể tránh khỏi những sai
sót. Kính mong xem xét thêm nhận xét, góp ý cho bài của nhóm chúng em được
hoàn thiện, đầy đủ hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan rằng bài thảo luận môn hội học với đề tài "Xã hội hoá
giáo dục những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay"
công trình nghiên c ứu của cả tập thể nhóm 5, cũng như nỗ lực của toàn bộ các thành
viên trong nhóm. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong bài thảo luận đều đã được
nêu trong phần tài liệu tham khảo. Các thông tin số liệu, kết quả trình bài trong bài
thảo luận được làm dựa trên sự trung thực toàn bộ công sức của các thành viên, nếu sai
chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm mọi kỉ luật của giáo viên bộ môn phía
Nhà trường đề ra.
Nội, ngày 16 tháng 11 năm 2022
3
LỜI MỞ ĐẦU
Đại diện nhóm 5
Giáo dục & Đào tạo quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, nhân tố chìa khóa, động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển tới
một hội tốt đẹp, điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền bình đẳng dân chủ, hợp tác
trí tuệ tin tưởng lẫn nhau. Vai trò của Giáo dục & Đào tạo đối với sự phát triển của đát
nước đã được Đảng Nhà nước ta luôn nhấn mạnh trong các văn bản chỉ đạo, Nghị
quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2, khóa VIII khẳng định: “Muốn
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi, phải phát triển Giáo dục & Đào tạo,
phát huy nguồn động lực con người, yếu tố bản của sự phát triển nhanh bền vững...
Cùng với khoa học công nghệ giáo dục được coi quốc sách hàng đầu”.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò của giáo dục đào tạo
đồng thời xác định hướng nâng cao hiệu quả đầu phát triển giáo dục đào tạo. Đặc
biệt, Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 của Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành
TW khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa
hội nhập quốc tế” đã xác định các quan điểm , mục tiêu phát triển giáo dục đạo
tạo phù hợp với hội nước nhà. Trên tinh thần đó, Đảng Nhà nước ta đã đề ra nhiều
giải pháp chiến lược, trong đó công tác hội hóa giáo dục được coi giải pháp giữ vai
trò chủ yếu trong quá trình phát triển sự nghiệp Giáo dục & Đào tạo.
Làm đề tài thảo luận này, với cách sinh viên, công dân của nước Cộng hòa hội
chủ nghĩa Việt Nam, một mặt chúng em muốn cùng mọi người tìm hiểu sâu hơn về “Xã
hội hóa giáo dục”. Mặt khác, chúng em cũng tìm hiểu quá trình xây dựng, định hướng
hội hóa nền giáo dục của Đảng Nhà nước ta.Xã hội hóa giáo dục một tưởng chiến
lược lớn của Đảng Nhà nước ta. Điều này được chúng em giải hơn trong phần nội
dung của đề tài “Xã hội hóa giáo dục những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục
Việt Nam hiện nay” . Để nghiên cứu hơn về đề tài chũng ta sẽ chia đề tài làm 3 phần:
PHẦN I: hội hóa giáo dục
PHẦN II: Những vẫn đề đặt ra đối với hệ thống Giá dục Việt
Nam PHẦN III: Kết luận đề tài
PHẦN I: HỘI HÓA GIÁO DỤC
1. hội hóa giáo dục ?
- hội hoá giáo dục huy động toàn hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân
dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản của Nhà nước để xây dựng
một hội học tập; việc thực hiện mối liên hệ phổ biến giữa hoạt động giáo dục
cộng đồng hội, làm cho giáo dục phù hợp với sự phát triển của hội, thích ứng với
hội, duy trì sự cân bằng giữa hoạt động giáo dục hội.
- hội hoá giáo dục làm cho hoạt động giáo dục mang tính hội. Trong đó người đi
giáo dục người được giáo dục trong mọi hoạt động về nội dung phương thức thực
hiện, kết quả đạt được đều mang tính hội, tính chuẩn mực hội rất cao. Giáo dục
nhằm bồi đắp cho người học tưởng, hình thành ý thức chính trị, nhân cách, bản lĩnh
dân tộc cùng với những tri thức khoa học, kỹ thuật, văn hoá, đạo đức, lối sống.
2. Bản chất vai trò của công tác hội hóa giáo dục
2.1. Bản chất của hội hóa công tác giáo dục
Mác quan niệm: “Con người tổng hòa các mối quan hệ hội”, nhân cách con người
hình thành dưới tác động các mối quan hệ hội thông qua các hoạt động giáo dục.
Đó sở khoa học để chứng minh rằng hội hóa công tác giáo dục việc làm thích
hợp để trả lại cho giáo dục bản chất hội vốn của nó.
hội được xem như sự hợp thành của các thành phần nhà trường, gia đình, hội.
Trong cấu trúc hội, giáo dục nằm trong các thành phần này, thế giáo dục không còn
trách nhiệm riêng một mình ngành giáo dục của tất cả mọi thành phần, đòi hỏi
sự tham gia, gánh vác của toàn hội.
Cho nên đa dạng hóa các loại hình cung cấp dịch vụ huy động, thu hút các tổ chức
chính trị hội, các ngành đoàn thể, các doanh nghiệp, các tổ chức, nhân,… cùng
tham gia vào sự nghiệp phát triển giáo dục dưới sự quản của Nhà nước để góp phần
giáo dục cho trẻ em trong độ tuổi. Đó bản chất của hội hóa công tác giáo dục.
2.2. Vai trò của hội hóa công tác giáo dục
hội hoá công tác giáo dục góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
hội hoá công tác giáo dục huy động được các nguồn lực, tiềm năng của hội,
khắc phục khó khăn trong quá trình phát triển giáo dục.
5
hội hoá công tác giáo dục tạo sự công bằng, trách nhiệm, dân chủ trong hưởng
thụ.
hội hoá công tác giáo dục góp phần nâng cao hiệu quả quản của Nhà nước
về giáo dục…
2.3. Ý nghĩa của việc thực hiện hội hóa công tác giáo dục
Thực hiện hội hóa công tác giáo dục tạo ra một “xã hội học tập” góp phần
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài cho cộng đồng. Mở rộng
hình thức giáo dục thường xuyên, tăng cường quy mô, hình thức dạy học cho toàn
dân phấn đấu thực hiện tốt giáo dục toàn diện: đức, trí, thể, mỹ, lao động.
Coi trọng giáo dục tưởng chính trị, chú ý hình thành duy sáng tạo năng lực
thực hành cho người học… hội hóa công tác giáo dục góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo, tạo nên những điều kiện vật chất tinh thần để nâng
cao chất lượng giáo dục; làm cho giáo dục thực sự phục vụ đắc lực cho sự phát
triển kinh tế hội địa phương, phục vụ trực tiếp lợi ích cho từng nhân; tạo
điều kiện cho mục đích của giáo dục phù hợp với mục đích của từng nhân tham
gia giáo dục.
Tạo điều kiện làm phong phú hơn cho nội dung phương pháp giáo dục; thực
hiện công bằng hội dân chủ hoá giáo dục, nhờ dân chủ hóa mở rộng
LLXH tham gia giáo dục, làm cho mọi người hiểu được giáo dục không chỉ
trách nhiệm của Nhà nước còn trách nhiệm của toàn hội, của mỗi gia
đình, từng nhân người đi học.
3. Điều kiện thực hiện công tác hội hóa giáo dục
- hội hoá giáo dục thực chất nhằm xóa bỏ mọi hình thức áp đặt của chế tập
trung, quan liêu, bao cấp, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, năng động nội lực to lớn trong
mọi tầng lớp nhân dân để thúc đẩy sự phát triển của giáo dục đào tạo phù hợp đáp
ứng sự phát triển của thời đại. Các điều kiện thực hiện hội hoá công tác giáo dục:
Dân chủ, công khai quá trình tổ chức quản
Nâng cao nhận thức thực hiện các văn bản, Nghị quyết của Đảng Nhà nước
về hội hóa công tác giáo dục
Đa dạng hóa giáo dục đào tạo
Xây dựng phát triển các tổ chức khuyến học
Xây dựng đẩy mạnh hoạt động phối hợp giữa hội với nhà trường gia đình
Tổ chức Đại hội ban đại diện cha mẹ học sinh các cấp
4. sở chính trị, pháp của chính sách hội hóa giáo dục
Trong tiến trình phát triển nhiều quốc gia, giáo dục được xem cách để giảm thiểu
rủi ro, nguy cho hội con đường hữu hiệu để chống đói nghèo. Ngày nay, khi
trí tuệ đã trở thành yếu tố hàng đầu thể hiện quyền lực sức mạnh của một quốc gia thì
chúng ta đều ý thức được rằng, giáo dục không chỉ phúc lợi hội, thực sự đòn
bẩy quan trọng để phát triển kinh tế, phát triển hội. Theo đó, các nước kém phát triển
cần quan tâm đến giáo dục đầu cho giáo dục bởi đây chính đầu cho phát triển,
quyết định vận mệnh của con người, hội, vận mệnh của dân tộc. thế, giáo dục, đào
tạo giữ vai trò trung tâm, then chốt để hội nhập phát triển của mỗi quốc gia.
So với các nước, kể cả các nước trình độ phát triển kinh tế cao hơn thì tỷ lệ chi tiêu
công cho giáo dục trên GDP của Việt Nam khá tưởng (khoảng 5% GDP) góp phần
đem lại những thành tựu quan trọng cho giáo dục nước nhà. Để thực hiện nguyên tắc hiến
định “phát triển giáo dục quốc sách hàng đầu”, Luật Giáo dục qua các thời kỳ đã xác
định hệ thống giáo dục quốc dân hệ thống giáo dục mở, liên thông gồm giáo dục
chính quy giáo dục thường xuyên. Trong đó, cấp học, trình độ đào tạo của hệ thống
giáo dục quốc dân bao gồm: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp giáo dục đại học. Để bảo đảm tính chất “đa mục tiêu của nền giáo dục, chúng
ta không thể chỉ dựa vào nguồn lực của Nhà nước, cần thực hiện giải pháp hội
hoá”.
hội hóa giáo dục một chủ trương được thực hiện rất nhiều quốc gia trên thế
giới, không chỉ những quốc gia nghèo, kém phát triển ngay cả các quốc gia phát
triển, công tác hội hóa giáo dục càng được thực hiện rộng rãi hiệu quả. Tuy
nhiên, qua các giai đoạn tùy từng quốc gia, dân tộc, thuật ngữ hội hóa giáo dục
nhiều cách hiểu với những nội hàm ít nhiều liên quan đến các khía cạnh như: phi tập
trung hóa (decentralization); giáo dục suốt đời (longlife education); hội học tập
(learning society); giáo dục cộng đồng (comunity education). Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) đã phân chia dịch vụ thương mại dịch vụ trên thế giới 12 nhóm lớn với
143 hạng mục dịch vụ. Trong 12 nhóm thương mại dịch vụ, thì dịch vụ giáo dục thuộc
nhóm thứ năm, dịch vụ nhóm này bao gồm: dịch vụ giáo dục tiểu học, dịch vụ giáo dục
trong học; dịch vụ giáo dục đại học cao đẳng; dịch vụ giáo dục cho người lớn các
dịch vụ giáo dục khác. muốn hay không thì thị trường dịch vụ (giáo dục) cũng đã
đang hình thành nước ta khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về định
hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nhiệm vụ đến năm 2000 đã chỉ rõ, Thể chế hoá chủ trương hội hoá giáo dục
đã ghi trong nghị quyết Đại hội VIII”.Thực hiện chủ trương hội hóa giáo dục đã nêu,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 về phương hướng chủ
trương hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá. Sau Nghị quyết Trung ương 2
khóa VIII nêu trên, Luật Giáo dục ra đời năm 1998, lần đầu tiên công nhận chế độ đa sở
hữu đối với các sở giáo dục, bao gồm công lập, bán công, dân lập thục.
Ngày 14/6/2005, Quốc hội đã thông qua Luật Giáo dục. Luật Giáo dục xác định phát
triển giáo dục quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài; phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế, hội:
“Phát triển giáo dục, xây dựng hội học tập sự nghiệp của Nhà nước của toàn
dân. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa
dạng hóa các loại hình trường các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động tạo
điều kiện để tổ chức, nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”.
Năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh hội
hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa thể dục thể thao, trong đó đặt mục tiêu định
hướng đến năm 2010, tỷ lệ học sinh nhà trẻ ngoài công lập chiếm 80%, mẫu giáo 70%,
trung học phổ thông 40%, trung học chuyên nghiệp 30%, các sở dạy nghề 60%, đại
học, cao đẳng khoảng 40%”
Năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 40/NQ-CP về hội hóa giáo dục.
Những năm gần đây, chủ trương hội hóa giáo dục còn được Trung ương chỉ đạo hơn
trong Nghị quyết số 29/NQ-TƯ ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
đào tạo. Trong phần Định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo, quan
điểm chỉ đạo, Nghị quyết xác định:
“Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của chế thị trường, bảo đảm
định hướng hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ
trợ giữa giáo dục công lập ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu phát
triển giáo dục đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên
giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa,
hội hóa giáo dục đào tạo”.
Ngày 14/6/2019, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua Luật Giáo dục
năm 2019. Với mục tiêu thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng pháp luật của
Nhà nước về đổi mới giáo dục, đào tạo, tạo hành lang pháp cho việc xây dựng nền
giáo dục Việt Nam phát triển toàn diện; Luật xác định:
“Thực hiện đa dạng hóa các loại hình sở giáo dục hình thức giáo dục; khuyến
khích, huy động tạo điều kiện để tổ chức, nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo
dục; khuyến khích phát triển sở giáo dục dân lập, thục đáp ứng nhu cầu hội về
giáo dục…”.
- thể nói rằng, các sở chính trị, pháp nêu trên căn cứ quan trọng để việc
hội hoá giáo dục được ghi nhận phát triển trở thành một phần không thể thiếu trong
bức tranh chung về phát triển giáo dục Việt Nam trong những năm qua.
5. Thực trạng thực hiện hội hóa giáo dục Việt Nam
5.1. Những kết quả đạt được
Về chương trình, Luật giáo dục năm 2005 xác định nguyên tắc, “Chương trình giáo
dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất, tính thực tiễn, tính hợp
kế thừa giữa các cấp học trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho sự phân luồng, liên
thông, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo hình thức giáo dục trong hệ
thống giáo dục quốc dân; sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện; đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế”.
Quy định này đã tiếp tục được ghi nhận, mở rộng trong Luật giáo dục năm 2019 với nội
dung: “Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính khoa học thực tiễn; kế thừa, liên
thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho phân luồng, chuyển đổi giữa
các trình độ đào tạo, ngành đào tạo hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc
dân để địa phương sở giáo dục chủ động triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp; đáp
ứng mục tiêu bình đẳng giới, yêu cầu hội nhập quốc tế”.
“Chương trình giáo dục sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện”.Với tính chất
này, chương trình giáo dục thống nhất chung không sự phân biệt, phân chia
giữa các trường công lập ngoài công lập. Tuy nhiên, với đòi hỏi của thực tế khi phải
cạnh tranh nên các trường ngoài công lập đã “sáng tạo” trong việc thực hiện chương trình
với nhiều hình học tập mới, phản ánh tính năng động về cách duy, cách đánh giá
tình huống vấn đề phức tạp trong cuộc sống của hội.
Các hoạt động này, ít nhiều đã hình thành phẩm chất, năng lực giải quyết vấn đề phù hợp
với thực tiễn, đem lại kết quả thực sự cho cuộc sống, làm cho các phương pháp giáo dục
truyền thống đang chịu nhiều thách thức, áp lực cạnh tranh đối với cả người dạy cả
người học. Điều này đã tạo ra những lợi ích hội nhất định khi đối tượng thụ hưởng
đó chính người học. Một số sở ngoài công lập khi đi vào hoạt động đã xác lập ngay
một số giá trị cốt lõi như nhân cách, trí tuệ, cảm xúc, đam mê, năng lượng… làm sở
xây dựng chương trình phương pháp giảng dạy phù hợp.
Về nguồn lực, các trường ngoài công lập chất lượng cao được nhân đầu mạnh mẽ
khang trang về sở vật chất, hiện đại về chương trình hứa hẹn sẽ tiếp tục phát triển
mạnh trong các năm tới bởi các tập đoàn kinh tế nhân. Quan điểm, “các thành phần
kinh tế đều bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác cạnh tranh theo pháp luật ”làm cho vai trò
của kinh tế nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa hội nhập
quốc tế ngày càng được nhận thức hơn đánh giá đúng hơn. Tỷ trọng trong
lGDP của khu vực kinh tế nhân, bao gồm cả kinh tế thể luôn duy trì ổn định trong
khoảng 40%. Bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế nhân quy
lớn, hoạt động đa ngành như Tập đoàn Vingroup, Trường Hải, FLC khả năng cạnh
tranh tốt hơn trên thị trường trong nước quốc tế. Mức độ đóng góp vào tổng sản phẩm
trong nước của kinh tế nhân luôn chiếm tỷ trọng lớn tăng liên tục trong những năm
qua.
Với những quan điểm về hội hoá giáo dục đã đang triển khai trong hơn hai thập
niên qua, hình giáo dục ngoài công lập gia tăng về số lượng điều đó cho thấy giáo
dục ngoài công lập đã sự phát triển cả sự “chấp nhận” của hội đặc biệt các
thành phố lớn của Việt Nam. dụ, những năm đầu thập kỷ 1990 tại Thành phố Hồ Chí
Minh chỉ số ít trường phổ thông dân lập với chưa tới 1.000 học sinh, sau đó, chưa đầy
10 năm đã tăng lên 130 trường với gần 30.000 học sinh cho cả 4 cấp: mầm non, tiểu học,
trung học sở trung học phổ thông, đến năm học 2018-2019 932 trường mầm
non, tiểu học, trung học sở trung học phổ thông dân lập với 280.118 học sinh, tăng
gần 10 lần so với 10 năm trước. Theo thống của Sở giáo dục thành phố Hồ Chí Minh,
số lượng trường công lập ngoài công lập của Thành phố tương đương nhau (110
113 trường) đây tỷ lệ cao hơn so với mặt bằng chung của cả nước.
5.2. Những hạn chế, bất cập
Về điều kiện thành lập: Quan điểm xếp giáo dục ngành nghề kinh doanh điều
kiện hoàn toàn hợp bởi tính chất đặc thù của lĩnh vực này. Thành lập sở giáo
dục của nhà đầu ngoài công lập tiền đề để hoạt động của một nhà trường. Tuy
nhiên, hồ thủ tục trong cấp phép thành lập trường được xem hành trình đầy “nan
giải” của nhà đầu tư. Thủ tục hành chính về cấp phép thành lập đã được quy định trong
Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Giáo dục nhưng về bản chất các quy định vẫn
dạng “luật khung”; thế, để thực thi được thì địa phương đã ban hành những quy định
riêng. Những quy định riêng đó đã làm cho bức tranh về thủ tục được cấp phép thành lập
trường ngoài công lập không thống nhất giữa các địa phương. Điều này đã làm tăng phát
sinh chi phí tuân thủ, gia tăng rào cản gia nhập thị trường giáo dục/ kinh doanh giáo dục
của nhà đầu tư. Đâu đó đã hiện tượng nhà đầu nản lòng, thậm chí rút lui khỏi thị
trường bởi hàng rào thủ tục hành chính nhiêu khê, rườm rà, phức tạp.
Về học phí: Các trường ngoài công lập do các nhà đầu tự bỏ vốn để thuê hoặc mua
các sở vật chất, trang thiết bị vận hành. Cả hai trường hợp này đều mức đầu
ban đầu không hề nhỏ, thế nếu không phải chủ thể tiềm lực tài chính đam
giáo dục thì khó thể thực hiện được. Chi phí đầu tư, xây dựng trường lớp, vận hành
do nhà đầu bỏ ra, nguồn thu duy nhất để đắp học phí. Vốn đầu ban đầu
nhiều, học phí lại không được bao cấp hoặc hỗ trợ từ các nguồn khác nên mức học phí
của trường dân lập cao hơn các trường công lập, làm ảnh hưởng tính tồn tại cạnh tranh
của các trường ngoài công lập.
dụ, học sinh lớp 1 trường công lập khu vực thành phố Nội trung bình mỗi tháng
phải nộp hơn một triệu đồng, gồm: tiền ăn 450.000 đồng, học hai buổi 100.000, dịch vụ
bán trú 130.000, tiếng Anh tăng cường 150.000, nước 12.000, cuối buổi 180.000 tiền
sữa học đường hơn 50.000 đồng. Riêng học phí được miễn, theo quy định của Luật Giáo
dục. Về các khoản phí đầu năm học, phụ huynh thường phải nộp khoảng 3-4 triệu đồng,
bao gồm tiền sở vật chất, đồng phục, bảo hiểm quỹ phụ huynh. Như vậy, nếu tính
theo cả năm học (9 tháng), tổng chi phí trường công lập cho một học sinh lớp 1
khoảng 14 triệu đồng. Cũng với 14 triệu đồng, nếu cho con học trường ngoài cônglập
phụ huynh chỉ đủ tiền nộp phí ghi danh chi phí trong 2-3 tháng học. Thậm chí, do bất
đồng quan điểm về cách tính học phí giữa phụ huynh nhà trường đã dẫn đến những
“lùm xùm” trong thời gian qua.
Về chính sách thuế: Các trường ngoài công lập không được Nhà nước đầu về sở
vật chất, không sử dụng đến ngân sách nhà nước dựa chủ yếu vào các nhà đầu tâm
huyết với giáo dục sự đóng góp của phụ huynh học sinh theo chế hội hóa giáo
dục.Ở một góc độ nào đó, việc yêu cầu các trường ngoài công lập phải đóng thuế thu
nhập doanh nghiệp coi các trường học như “doanh nghiệp chính hiệu” chưa hợp lý.
Việc thu thuế theo hướng “tận thu” đối với các trường ngoài công lập gián tiếp đánh
thuế người học. Điều này dẫn đến bất bình đẳng ngày càng lớn giữa hai loại hình trường
trường công lập ngoài công lập.
Về chương trình: Thực tế trong những năm qua cho thấy, phương pháp mới, lạ với
người học yếu tố thu hút người học của các trường ngoài công lập. Tuy nhiên, yêu cầu
chung vẫn phải đảm bảo nội đúng chương trình khung của đơn vị chủ quản, thế tính
hội hoá giáo dục mới chỉ dừng lại việc đầu sở vật chất chứ không phải độc
lập trong hoạt động (cho đó thể chương trình ưu điểm vượt trội). Thực tế ngay
cả các trường quốc tế khi hoạt động tại Việt Nam thì cũng gặp khó bởi “đầu ra” giáo dục
nước ta vẫn bị chi phối bởi tính nguyên tắc.
Về sở hạ tầng: thể nói rằng, sở hạ tầng của vùng, miền, địa phương hay
một quốc gia cũng tác động trực tiếp đến hoạt động đầu hay tiếp cận giáo dục của
người học. Cụ thể, khi người học đến từ vùng khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn được
miễn học phí, được trợ cấp bữa trưa, nhà nhưng đường đến trường xa khó đi thì tỷ lệ
bỏ học vẫn mức cao (điều này chúng ta thường thấy tại các vùng sâu, vùng xa, điều
kiện kinh tế, giao thông đi lại khó khăn như địa bàn một số tỉnh tây Bắc, tây Nguyên).
Trường hợp này khó khăn cho ngay cả các trường công lập trong việc thu hút người học,
mức độ khó lại càng tăng (thậm chí bất khả thi) đối với các trường ngoài công lập.
II NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HỆ THỐNG GIÁO DỤC
VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay
Thành tựu: 5 năm thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW trong lĩnh vực giáo dục đào tạo
đã mang lại nhiều kết quả nổi bật, đặc biệt trong bậc học mầm non bậc phổ thông.
bậc đào tạo đại học cũng nhiều đổi mới đạt được một số thành tựu nổi bật. Một số
trường đại học đã vươn lên được xếp hạng khu vực một số rất ít trường được xếp
hạng cấp
- Hệ thống giáo dục quốc dân được hoàn thiện hơn với các cấp, bậc học, trình độ đào
tạo, các loại hình phương thức giáo dục.
Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết : Giáo dục đào tạo quốc sách hàng đầu,
sự nghiệp của Đảng, Nhà nước của toàn dân. Đầu cho giáo dục đầu phát
triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội.
Sau 35 năm đổi mới, qua hơn 6 năm thực thi Nghị quyết số 29-NQ/TW ngành giáo
dục Việt Nam đã được được nhiều thành tựu quan trọng, giáo dục nước ta đã hình thành
được một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất đa dạng hoá
với đầy đủ các cấp học trình độ đào tạo từ mầm non đến sau đại học. Theo tinh thần
của nghị quyết: Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các
bậc học, trình độ giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa
giáo dục đào tạo. Mạng lưới các trường phổ thông được xây dựng rộng khắp trên toàn
quốc. Các trường, lớp trung tâm dạy nghề phát triển dưới nhiều hình thức, các lớp dạy
nghề ngắn hạn phát triển mạnh. Các trường đại học cao đẳng được thành lập hầu hết
các khu dân lớn của cả nước, các vùng, các địa phương. Mạng lưới sở giáo dục
được mở rộng đến hầu hết các xã, phường, thị trấn trong toàn quốc. Cả nước đã hoàn
thành công tác xoá chữ phổ cập giáo dục tiểu học hoàn thành phổ cập giáo dục
trung học sở, một số nơi đang thực hiện phổ cập giáo dục trung học phổ thông. Theo
báo cáo của trung tâm truyền thông giáo dục thuộc Bộ Giáo dục Đào tạo năm 2017, tất
cả 63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Chất
lượng phổ cập ngày càng được nâng cao. Tháng 8/2018, Chính phủ đã thống nhất chủ
trương thực hiện chính sách hỗ trợ miễn học phí đối với trẻ em mầm non 5 tuổi hỗ trợ
đóng học phí sở ngoài công lập đối với trẻ em diện phổ cập, nhất đối với các thôn,
đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Nhiều tỉnh
thành phố các cấp chính quyền đã hỗ trợ học phí cho học sinh từ bậc học mầm non tới
hết bậc phổ thông. sở vật chất kỹ thuật các trường được nâng cấp, cải thiện. Số
trường lớp được xây dựng mới theo chuẩn quốc gia ngày càng tăng. Đào tạo sau đại học
được hình thành phát triển vững chắc đang dần dần đảm đương trách nhiệm đào tạo
cán bộ khoa họC trình độ cao trong nước. Hệ thống giáo dục đã bước đầu được đa dạng
hoá cả về loại hình, phương thức nguồn lực, từng bước hội nhập với xu thế chung của
giáo dục thế giới.
- Quy giáo dục đã được coi trọng, giới hạn, chú trọng khâu đào tạo chất lượng
dạy nghề, bước đầu đáp ứng nhu cầu của hội, tránh tình trạng thừa thầy thiếu
thợ như giai đoạn những năm trước.
Cụ thể trong các bảng xếp hạng đại học quốc tế của các sở GDĐH Việt Nam ngày
càng được cải thiện. Nếu như trước năm 2014, cả Việt Nam chỉ duy nhất Đại học
Quốc gia Nội lọt vào bảng xếp hạng đại học châu Á của Tổ chức xếp hạng đại học QS
với vị trí trong nhóm 250 trường hàng đầu thì đến năm 2018, 7 sở GDĐH lọt top
500 của bảng xếp hạng đại học châu Á. Trong đó, Đại học Quốc gia Nội xếp vị trí
124 của châu Á. Đặc biệt, năm 2018, lần đầu tiên lĩnh vực Vật của Đại học Quốc gia
Nội được xếp hạng 502 trên thế giới theo US News.
Đến nay, Bộ GDĐT đã hoàn thành ban hành Chương trình giáo dục phổ thông tổng
thể, tổ chức thực nghiệm chương trình môn học trong chương trình giáo dục phổ thông
mới. Chương trình phổ thông mới thay đổi căn bản cách tiếp cận từ “theo nội dung” sang
theo hướng “phát triển năng lực phẩm chất”, dạy học “tích hợp” cấp dưới, dạy “phân
hóa” cấp trên, tăng cường các môn tự chọn.
- Công bằng hội trong giáo dục về bản được đảm bảo.
Hệ thống giáo dục quốc dân đã tạo điều kiện cho đại bộ phận nhân dân trong độ tuổi đi
học đạt trình độ xoá chữ phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung học sở, tiến
tới phổ cập trung học phổ thông, tạo hội những điều kiện bản để một bộ phận
nhân dân được học các cấp bậc học cao hơn theo nhu cầu khả năng, chú ý các khu
vực đặc biệt khó khăn (vùng cao, vùng sâu, vùng xa), đối tượng người dân tộc thiểu số,
người nghèo đối tượng chính sách hội. Về bản nước ta đã đạt được sự bình đẳng
nam nữ trong giáo dục sở các bậc học cao đẳng đại học. Công bằng hội
trong giáo dục được cải thiện, đặc biệt đối với trẻ em gái, người dân tộc thiểu số con
em các gia đình nghèo, các đối tượng bị thiệt thòi trong hội ngày càng được chú trọng.
- Điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được cải thiện.
Trong những năm qua, kết hợp nhiều nguồn vốn, ngành Giáo dục các địa phương đã
cố gắng tăng cường sở vật chất kỹ thuật nhà trường, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá
một bước sở vật chất kỹ thuật của các nhà trường các cấp bậc học, tạo điều kiện để
bảo đảm nâng cao chất lượng dạy học.
Đội ngũ giáo viên nhân tố quyết định sự nghiệp chất lượng giáo dục. Trong những
năm gần đây, điều kiện giáo dục đời sống giáo viên được cải thiện, những đổi mới
trong chính sách đối với giáo sinh đã thu hút ngày càng nhiều học sinh giỏi vào các
trường phạm, mức sống vật chất tinh thần của nhân dân được nâng lên những yếu
tố tác động tích cực đến chất lượng đội ngũ nhà giáo.
Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục 20% tổng chi ngân sách Nhà nước, chiếm 5%
GDP cả nước. Đây sự quan tâm lớn của Đảng Nhà nước đối với giáo dục. Nhiều địa
phương, bên cạnh ngân sách trung ương, còn thêm từ ngân sách địa phương đầu cho
giáo dục đã nhiều cố gắng cải tiến việc phân bổ, điều hành ngân sách; đồng thời
huy động nguồn lực của nhân dân để tăng cường sở vật chất kỹ thuật nhà trường, bảo
đảm
chất lượng dạy học.
Hạn chế: hiện nay chưa lộ trình cụ thể để thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW
chính sách kèm theo, song chính vẫn do phương pháp đào tạo đại học khá nhiều
trường vẫn mang tính hàn lâm với “tri thức hàn lâm”, quy trình đào tạo cũng theo “công
nghệ hàn lâm”, từ khâu tuyển sinh đến nội dụng, chương trình phương pháp đào tạo.
Do đó, việc đổi mới duy trong giáo dục theo hướng giáo dục mở như Nghị quyết 29-
NQ/TW yêu cầu rất chậm, rào cản chính trong việc phát triển hệ thống.
- Khâu tuyển sinh (mới được đổi mới một số năm gần đây song bản):
Không xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động; các trường hầu như thiếu tín hiệu từ thị
trường về cấu ngành nghề hội cần, về số lượng lao động cần tuyển, về trình độ,
năng lực người lao động cần có, về triển vọng ngành nghề. Tuyển sinh chủ yếu dựa vào
chỉ tiêu Bộ cho phép.
- Chương trình đào tạo
Một số trường đang nhiều đổi mới, theo hướng chương trình đào tạo năng động,
tính mở cao..., song nhìn chung:
+ Dạy thuyết nhiều, nhiều mục trong bài giảng bổ, thuyết suông, không gắn
với thực tế (ngay cả môn Toán, cố PGS.TS Văn Như Cương cũng thấy thừa nhiều nội
dung).
+ Sau giờ học, sinh viên không hoặc ít đến thư viện đọc sách, giáo viên giảng
xong hoàn thành nhiệm vụ.
+ Do quá tải nên không còn thời gian trau dồi kiến thức mới. Tóm lại học sinh thụ
động tiếp thu bài.
+ Trường ít liên hệ, mời giáo viên thực tế về giảng dạy, chương trình giảng dạy
khép kín, học sinh không được tiếp cận với thực tế hoặc nếu cũng rất ít thiếu
kinh phí.
+ Chương trình chưa bám sát quan điểm chỉ đạo: Thực học, thực nghiệp. Do đó, sau
khi ra trường cử nhân bỡ ngỡ với thực tiễn.
- Phương pháp giảng dạy
Nhiều trường đã đổi mới phương pháp giảng dạy. Song nhiều trường vẫn độc thoại,
thuyết trình chính, phương pháp này đã lỗi thời, cứng làm học sinh thụ động, máy
móc, học sinh không duy sáng tạo, không dám đổi mới, không tự tin khi ý tưởng
mới phải thuộc bài giảng của thầy, nếu không điểm thi sẽ kém.
+ Đọc, nhìn (do trường hiện nay đã sử dụng thiết bị tin học trong giảng dạy, song
trò cũng sử dụng máy điện thoại chụp lại bài của thầy), chép vẫn phổ biến, ít thảo luận
nhóm.
+ Phương pháp thi cử cũng đã lạc hậu bởi chưa tăng tính đối thoại trong thi cử.
+ Nhiều trường cũng đã áp dụng phương pháp dạy nêu vấn đề, thảo luận nhóm... nhưng
chưa phải số đông các trường. Phương pháp giảng dạy trực tuyến, E-learning... chưa
được nhiều trường áp dụng.
- sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, yếu kém
+ Nhiều trường thiếu hệ thống thư viện, phòng thí nghiệm, thiếu hạ tầng công nghệ
thông tin để triển khai áp dụng phương pháp đào tạo mới.
+ Thiếu lớp học.
+Tình trạng đầu dàn trải vẫn còn.
- Hệ thống bảng lương dành cho giáo viên còn bất cập
Lương giáo viên nhìn chung thấp (trừ các trường được giao tự chủ). Trình độ đội ngũ
chưa cao hệ thống đãi ngộ thấp cũng nguyên nhân ảnh hưởng đến việc sẵn sàng
chuyển sang giáo dục Mở xây dựng tài nguyên giáo dục Mở.
- Giáo dục chú trọng quan tâm đến số lượng nhiều hơn chất lượng
Thực hiện nghị quyết của Đảng, Chính phủ Bộ giáo dục đào tạo đã đưa ra nhiều
hình đào tạo đại học. Do vậy, tốc độ tăng của giáo dục đào tạo đại học tăng nhanh.
Hiện trên cả nước khoảng gần 90 sở đào tạo đại học bao gồm các trường đại học
quốc gia, đại học vùng, các trường đại học công lập, bán công, dân lập các học viện.
Tới đây sẽ thêm một số trường đại học thục ra đời. Lực lượng giảng viên không
ngừng nâng cao về chất lượng quy mô, số lượng sinh viên tăng đáng kể do đó làm
cho trình độ dân trí tăng lên rệt. Mặc như vậy, nhưng chất lượng giáo dục của Việt
Nam vẫn chưa cao, nói một cách nôm na số lượng thì tăng rất nhanh nhưng chất lượng
vẫn không tăng thậm chí còn tuột dốc, chưa theo kịp với sự đổi mới của thế giới.
Hiện nay khuynh hướng đề cao khái niệm “đại học quốc tế chất lượng cao”, bản
xây dựng đại học tốt điều kiện “cần có”, nhưng điều kiện “đủ” chúng ta phải bản
thân sinh viên những hạt giống tốt, nhân tố tốt. ràng lâu nay giáo dục Việt Nam
cũng chỉ lo đào tạo số lượng sinh viên đầu ra quên đi vấn đề quan trọng thế hệ
thanh niên thật sự đóng góp như thế nào vào sự nghiệp phát triển đất nước. Hàng loạt kỹ
sư, cử nhân Việt Nam ra trường nhưng thử hỏi bao nhiêu người đạt được trình độ kỹ
thuật của kỹ sư? Bao nhiêu người dùng được? Bao nhiêu người làm việc theo đúng ngành
nghề mình đã học, đó một sự lãng phí lớn. Xây dựng trường đại học mang tầm quốc tế
chỉ điều kiện “cần” nhưng chưa “đủ”. Trên thế giới người ta rất quan tâm đến những
thợ giỏi, chuyên viên kỹ thuật cao. Đất nước đang trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện
đại hóa sinh viên không chịu học kỹ thuật, chỉ tập trung không cân bằng vào các
ngành dễ được hội “chấp nhận” thì làm sao thể phát triển công nghiệp, làm sao hiện
đại hoá đất nước.
- Công tác hội hóa giáo dục vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc
Một số xã, phường, cấp ủy, chính quyền địa phương, đoàn thể phụ huynh học sinh
chưa chú trọng đến việc học tập của con em mình; chưa nhận thức đúng đắn về vị trí, tầm
quan trọng của giáo dục. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên một bộ phận học sinh phải
bỏ học để đi làm phụ giúp gia đình. Mặt khác, việc quản công tác hội hóa giáo dục
còn thiếu biện pháp phù hợp, tính khả thi chưa cao.
2. Nguyên nhân khiến nền giáo dục Việt Nam yếu kém
Ngôn ngữ: Thứ ngôn ngữ giảng dạy chính tiếng Việt, thứ ngôn ngữ chỉ người
Việt Nam dùng, đây thứ ngôn ngữ tính chất riêng biệt không khả năng hội nhập,
trong khi ngôn ngữ giao tiếp quốc tế tiếng Anh thì ít được chú trọng trong nhà trường
(nhất các trường công lập).
Chương trình, giáo trình giảng dạy hầu hết do giáo viên trong nước biên soạn, chưa
được tiêu chuẩn hoá công nhận trên quốc tế, dẫn đến việc bằng cấp cũng chưa được
công nhận đánh giá cho chuẩn, đúng mức, khiến sinh viên khó tham gia các chương
trình trao đổi giao lưu một năm với các trường đại học trên thế giới hoặc chuyển ngang
sang học tiếp tại các trường đại học quốc tế hoặc xét học tiếp các cấp độ cao hơn đối với
các học sinh đã tốt nghiệp trong nước.
Hệ thống thi cử đánh giá thực lực khả năng của học sinh còn bất cập: Chỗ khó, chỗ
dễ… khiến học sinh học lệnh, học tủ, quay cóp, dạy học thêm làm mất quá nhiều thời
gian của hội bao gồm cả học sinh phụ huynh.
Bệnh thành tích nguy quay trở lại sau vài năm đã được nêu đích danh biện
pháp ngăn chặn. Nguyên nhân sâu xa từ các cách tuyển chọn nhân sự của nhà nước: Tiêu
chuẩn hoá cán bộ dựa trên bằng cấp chứ không dựa vào thực tài…
Chương trình giáo dục còn coi nhẹ thực hành, vận dụng kiến thức; phương pháp giáo
dục, kiểm tra, thi đánh giá lạc hậu, thiếu thực chất; thiếu gắn kết giữa đào tạo với
nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú
trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống năng làm việc.
Đội ngũ nhà giáo cán bộ quản giáo dục còn nhiều bất cập về chất lượng, số lượng
cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới phát triển giáo dục, thiếu tâm
huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
3. Giải pháp
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
Cần đổi mới bản về duy phương thức quản theo hướng nâng cao hiệu lực,
hiệu quả. Thực hiện cải cách hành chính, thể chế hóa vai trò, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm quản GD&ĐT các cấp, các ban ngành.
Nhà quản tầm chỉ nên đóng vai trò của môt nhạc trưởng, thông qua đó
kiểm soát, vận hành kịp thời khắc phục những tồn tại, bất cập của hệ thống.
- Đa dạng hóa nguồn lực tài chính
lOMoARcPSD|27879799
Đa dạng hóa nguồn lực tài chính một trong những giải pháp bản để đảm bảo
nguồn lực vật chất cho việc nâng cao chất lượng GD&ĐT, thể thực hiện đa dạng hóa
nguồn lực tài chính thông qua việc xây dựng chính sách học phí phù hợp.
Với đặc điểm về điều kiện tự nhiên, về kinh tế - hội như Việt Nam, cần xây dựng
một chính sách học phí hợp không cào bằng, phân biệt vùng miền, theo từng nhóm
đối tượng, đa dạng hóa các loại hình trường lớp, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ phổ cập
giáo dục, đáp ứng yêu cầu giáo dục tiến tới toàn dân nhưng đồng thời tạo điều kiện để
người học nhiều hội lựa chọn.
- Từng bước cải thiện chất lượng GD&ĐT miền núi
Cần những chính sách mang tính đôt phá cho GD&ĐT miền núi nhằm tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao. Chính nguồn nhân lực ấy sẽ đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - hôi của các vùng miền này.
- Xây dựng trường đại học đạt chuẩn khu vực
Định hướng từng bước xây dựng môt số trường đại học đạt tiêu chuẩn khu vực, tiến
đến đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm dần khẳng định vị thế về GD&ĐT của Việt Nam trên
trường quốc tế hết sức cần thiết.
Cần chế chính sách phù hợp, nguồn lực tài chính phải đảm bảo. Đặc biệt, một
trường đạt chuẩn khu vực tiến tới đạt chuẩn quốc tế không thể không đạt chuẩn về
chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực đây không chỉ đội ngũ cán bộ quản lý,
giảng viên cả sinh viên.
Trước mắt, buộc phải tách mục tiêu hiệu quả kinh tế ra khỏi mục tiêu đảm bảo chất
lượng vượt trội thông qua việc chỉ tuyển chọn những sinh viên thực sự ưu tú. Về lâu dài,
đây mới sự đầu đúng hướng, bởi việc nghiêm ngặt, chuẩn hóa ngay từ khâu tuyển
chọn không những tạo điều kiện thuận lợi cho cả quá trình GD&ĐT, chính những sinh
viên này khi ra trường sẽ những căn cứ thực tiễn minh chứng hình mới hiệu quả,
sớm khẳng định vị thế của Việt Nam về GD&ĐT trên trường quốc tế.
- Thay đổi phương pháp dạy học
Đưa kiến thức thực tiễn vào bài giảng, giảm thiểu thuyết trên giấy.
21
l Sử dụng phương pháp dạy nêu vấn đề, thảo luận nhóm, nâng cao tính tự học của học
sinh.
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ đáp ứng yêu cầu đảm
bảo chất lượng giáo dục
Nâng cao phẩm chất, năng lực nghề nghiệp cho giáo viên, nhân viên; năng lực lãnh
đạo, quản của lãnh đạo nhà trường đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng giáo dục.
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực nghề nghiệp cho cán bộ quản lý, giáo
viên, bao gồm nâng cao về: kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, tưởng đạo đức, lối sống...;
khả năng sử dụng công nghệ mới trong giáo dục quản giáo dục
- Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra
Tổ chức các hoạt động mang tính trách nhiệm công dân, trách nghiệm hội cho học
sinh
Tổ chức các hoạt động nâng cao năng lực hiểu biết về các môn học; bồi dưỡng các kỹ
năng mềm, nâng cao đời sống tinh thần cho cho học sinh
Tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao lòng tôn trọng, gìn giữ, phát huy bản sắc dân
tộc các giá trị văn hóa khác
PHẦN III: KẾT LUẬN ĐỀ TÀI
Qua việc nghiên cứu đề tài trên, chúng ta đã tìm hiểu một cách sâu sắc hơn về vấn đề
Giáo dục Việt Nam hiện nay đặc biệt về vấn đề hội hóa giáo dục, đó một chủ
trương được thực hiện rất nhiều quốc gia trên thế giới, không chỉ những quốc gia
nghèo, kém phát triển ngay cả các quốc gia phát triển, công tác hội hóa giáo dục
càng được thực hiện rộng rãi hiệu quả. hội hoá công tác giáo dục góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục, huy động được các nguồn lực, tiềm năng của hội, khắc
phục khó 22
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
lOMoARcPSD|27879799
khăn trong quá trình phát triển giáo dục, tạo sự công bằng, trách nhiệm, dân chủ trong
hưởng thụ,... Việt Nam, hội hóa giáo dục cũng đã chính thức được đưa ra thực
hiện từ Nghị quyết số 90-CP ngày 21/8/1997 của Chính phủ còn vai trò cùng
quan trọng đối với sự phát triển của nền giáo dục nước ta.
Ngoài ra chúng ta còn thấy được những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục Việt
Nam hiện nay. thể thấy sau 35 năm đổi mới, hơn 6 năm thực thi Nghị quyết số
29-NQ/TW ngành giáo dục Việt Nam đã được được nhiều thành tựu quan trọng. Nhìn lại
đoạn đường phát triển của giáo dục nước nhà, trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt
Nam những bước phát triển, những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng
vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ đổi mới đất
nước. Nhưng đồng thời nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập, chính
những điều đã làm cho chúng ta đã lùi đi rất nhiều so với các nước trong khu vực quốc
tế. vậy mục tiêu giáo dục của ta hiện nay “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài”. Theo công bố của chương trình phát triển Liên hiệp quốc ( UNDP ) năm
1993 về chỉ tiêu quy phát triển giáo dục thì so với quốc tế ta đều thấp hơn về chỉ tiêu
phát triển giáo dục các bậc học. Về giáo dục phổ thông, ta chưa đạt mức trung bình, về
cao đẳng đại học ta còn thấp hơn nước phát triển chậm. vậy, muốn thực hiện được
mục tiêu giáo dục đề ra nâng cao chất lượng giáo dục chúng ta cần tích cực thực hiện
các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục như tăng cường nguồn lực cho giáo dục
đào tạo; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ đáp ứng yêu cầu đảm
bảo chất lượng giáo dục; tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục,... Đây chính
những vấn đề về giáo dục Việt Nam hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
https://123docz.net//document/7032542-luan-van-thac-si-quan-ly-hoat-dong-xa-hoi-hoa
giao-duc-tieu-hoc-o-huyen-thanh-tri-thanh-pho-ha-noi.htm
2. https://123docz.net//document/5104849-bai-thu-hoach-va-tieu-luan-hang-3.htm 3.
https://download.vn/bien-phap-huy-dong-xa-hoi-hoa-giao-duc-o-truong-tieu-hoc-41776
4. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Nghi-quyet-29-NQ-TW-nam-2013-doi
moian-ban-toan-dien-giao-duc-dao-tao-hoi-nhap-quoc-te-212441.aspx
5. Thực trạng chất lượng giáo dục Việt Nam hiện nay - Luận Văn A-Z (luanvanaz.com)
6. Một số vấn đề về đổi mới giáo dục Việt Nam trong bối cảnh hiện nay - THÁNH ĐỊA
VIỆT NAM HỌC (thanhdiavietnamhoc.com)
7. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo (lapphap.vn) 8. 7
nguyên nhân khiến giáo dục Việt Nam tiếp tục... tụt hậu | Giáo dục Việt Nam
(giaoduc.net.vn)
9. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY (daivietsaigon.edu.vn)
10. 6 hạn chế, yếu kém chủ yếu của ngành giáo dục đào tạo | Báo Dân trí (dantri.com.vn)
11.https://truongchinhtritohieu.haiphong.gov.vn/Bai-viet-chuyen-de/Nhung-thanh-tuu-va
han-che-cua-giao-duc-va-dao-tao-trong-qua-trinh-thuc-hien-Nghi-quyet-so-29-NQTW
ngay-04112013-86125.html
12.https://hdll.vn/vi/chuong-trinh---de-tai/nhung-van-de-dat-ra-va-giai-phap-phat-trien-gi
ao duc-va-dao-tao-o-viet-nam-trong-boi-canh-cach-mang-cong-nghiep-40.html
13.http://vanhoanghethuat.vn/mot-so-van-de-dat-ra-trong-doi-moi-giao-duc-va-dao-tao.ht
m
| 1/24

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI 99
KHOA HTTT KINH TẾ & THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ BÀI TIỂU LUẬN
XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI
VỚI HỆ THỐNG GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nhóm thực hiện : Nhóm 5
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Quỳnh Hương Chuyên ngành : QTHTTT
Lớp học phần : 22122RLCP0421 Khóa : 2022-2026 MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN…………………………………………………………………………………… 4
LỜI CAM ĐOAN……………………………………………………………………………….. 4
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………… 5
PHẦN I: XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC…………………………………………………………… 6
1. XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC LÀ GÌ?.......................................................................................... 6
2. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC………………………….. 6
2.1. Bản chất của xã hội hóa công tác giáo dục………………………………………...………………… 6
2.2. Vai trò của xã hội hóa công tác giáo dục………………………………………...…….…………….. 6
2.3. Ý nghĩa của xã hội hóa công tác gióa dục……………………………………………...……………. 7
3. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC………………………………… 7
4. CƠ SỞ CHÍNH TRỊ, PHÁP LÝ CỦA CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC………....……….. 8
5. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM……………………………10
5.1. Những kết quả đạt được……………………………………………………………………. 10
5.2. Những hạn chế bất cập……………………………………………………………………... 12
PHẦN II: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HỆ THỐNG GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM…. 14
1. THỰC TRẠNG NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY…………………………..…….………. 14
2. NGUYÊN NHÂN KHIẾN NỀN GIÁO DỤC VIÊT NAM YẾU KÉM……….…………….………. 20
3. GIẢI PHÁP…………………………………………………………………………………..………. 21
PHẦN III: KẾT LUẬN ĐỀ TÀI……………………………………………………………..…………. 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………………...………….. 24 LỜI CẢM ƠN
Trước khi bước vào bài thảo luận, nhóm 5 chúng em xin được gửi lời cảm ơn chân
thành nhất đến Trường Đại học Thương Mại, đã tạo cơ hội cho chúng em được tiếp xúc,
học tập các môn học hay và vô cùng bổ ích. Đặc biệt, chúng em cũng muốn gửi lời cảm
ơn sâu sắc tới giảng viên bộ môn Xã Hội Học Đại Cương đã dày công tâm huyết truyền
đạt những kiến thức quý báu trong suốt thời gian học tập. Trong thời gian tham gia lớp
học của cô, chúng em đã trau dồi được cho bản thân rất nhiều bài học bổ ích, tăng thêm
tinh thần học tập ngày càng nghiêm túc, hiệu quả hơn. Đây chắc chắn sẽ là những kiến
thức vô cùng quý giá, là hành trang giúp em có sự chuẩn bị tâm thế kĩ hơn để có thể vững bước sau này.

Bộ môn Xã Hội Học Đại Cương là một môn học vô cùng bổ ích và có tính thực tếrất
cao, có thể cung cấp đủ kiến thức, gắn liền với nhu cầu thực tiễn của sinh viên hiện nay.
Tuy nhiên, do chúng em vẫn còn có nhiều bỡ ngỡ khi mới được học tập, làm quen với bộ
môn nên vốn kiến thức và khả năng tiếp thu thxực tế vẫn còn rất nhiều hạn chế, thiếu sự
chuẩn xác. Bài tiểu luận của nhóm 5 chúng em đã được hoàn thành với rất nhiều sự cố
gắng, nỗ lực của cả nhóm nhưng bên cạnh đó cũng sẽ không thể tránh khỏi những sai
sót. Kính mong Cô xem xét và thêm nhận xét, góp ý cho bài của nhóm chúng em được
hoàn thiện, đầy đủ hơn.

Chúng em xin chân thành cảm ơn! LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan rằng bài thảo luận môn Xã hội học với đề tài "Xã hội hoá
giáo dục và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay"
công trình nghiên c ứu của cả tập thể nhóm 5, cũng như là nỗ lực của toàn bộ các thành
viên trong nhóm. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong bài thảo luận đều đã được
nêu rõ trong phần tài liệu tham khảo. Các thông tin số liệu, kết quả trình bài trong bài
thảo luận được làm dựa trên sự trung thực và toàn bộ công sức của các thành viên, nếu sai
chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm và mọi kỉ luật của giáo viên bộ môn và phía Nhà trường đề ra.
Hà Nội, ngày 16 tháng 11 năm 2022 3 LỜI MỞ ĐẦU Đại diện nhóm 5
Giáo dục & Đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển tới
một xã hội tốt đẹp, là điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền bình đẳng dân chủ, hợp tác
trí tuệ và tin tưởng lẫn nhau. Vai trò của Giáo dục & Đào tạo đối với sự phát triển của đát
nước đã được Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh trong các văn bản chỉ đạo, Nghị
quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2, khóa VIII khẳng định: “Muốn
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi, phải phát triển Giáo dục & Đào tạo,
phát huy nguồn động lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững...
Cùng với khoa học và công nghệ giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu”.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò của giáo dục và đào tạo
đồng thời xác định hướng nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo. Đặc
biệt, Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 của Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành
TW khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế” đã xác định rõ các quan điểm , mục tiêu phát triển giáo dục và đạo
tạo phù hợp với xã hội nước nhà. Trên tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều
giải pháp chiến lược, trong đó công tác Xã hội hóa giáo dục được coi là giải pháp giữ vai
trò chủ yếu trong quá trình phát triển sự nghiệp Giáo dục & Đào tạo.
Làm đề tài thảo luận này, với tư cách là sinh viên, công dân của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, một mặt chúng em muốn cùng mọi người tìm hiểu sâu hơn về “Xã
hội hóa giáo dục”.
Mặt khác, chúng em cũng tìm hiểu quá trình xây dựng, định hướng xã
hội hóa nền giáo dục của Đảng và Nhà nước ta.Xã hội hóa giáo dục là một tư tưởng chiến
lược lớn của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được chúng em lý giải rõ hơn trong phần nội
dung của đề tài “Xã hội hóa giáo dục và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục ở
Việt Nam hiện nay”
. Để nghiên cứu rõ hơn về đề tài chũng ta sẽ chia đề tài làm 3 phần:
PHẦN I: Xã hội hóa giáo dục
PHẦN II: Những vẫn đề đặt ra đối với hệ thống Giá dục ở Việt
Nam PHẦN III: Kết luận đề tài
PHẦN I: XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
1. Xã hội hóa giáo dục là gì ?
- Xã hội hoá giáo dục là huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân
dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước để xây dựng
một xã hội học tập; là việc thực hiện mối liên hệ phổ biến giữa hoạt động giáo dục và
cộng đồng xã hội, làm cho giáo dục phù hợp với sự phát triển của xã hội, thích ứng với xã
hội, duy trì sự cân bằng giữa hoạt động giáo dục và xã hội.
- Xã hội hoá giáo dục là làm cho hoạt động giáo dục mang tính xã hội. Trong đó người đi
giáo dục và người được giáo dục trong mọi hoạt động về nội dung và phương thức thực
hiện, kết quả đạt được đều mang tính xã hội, tính chuẩn mực xã hội rất cao. Giáo dục
nhằm bồi đắp cho người học tư tưởng, hình thành ý thức chính trị, nhân cách, bản lĩnh
dân tộc cùng với những tri thức khoa học, kỹ thuật, văn hoá, đạo đức, lối sống.
2. Bản chất và vai trò của công tác xã hội hóa giáo dục
2.1. Bản chất của xã hội hóa công tác giáo dục
Mác quan niệm: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, nhân cách con người
hình thành dưới tác động các mối quan hệ xã hội và thông qua các hoạt động giáo dục.
Đó là cơ sở khoa học để chứng minh rằng xã hội hóa công tác giáo dục là việc làm thích
hợp để trả lại cho giáo dục bản chất xã hội vốn có của nó.
Xã hội được xem như sự hợp thành của các thành phần là nhà trường, gia đình, xã hội.
Trong cấu trúc xã hội, giáo dục nằm trong các thành phần này, vì thế giáo dục không còn
là trách nhiệm riêng một mình ngành giáo dục mà là của tất cả mọi thành phần, đòi hỏi có
sự tham gia, gánh vác của toàn xã hội.
Cho nên đa dạng hóa các loại hình cung cấp dịch vụ và huy động, thu hút các tổ chức
chính trị – xã hội, các ngành đoàn thể, các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân,… cùng
tham gia vào sự nghiệp phát triển giáo dục dưới sự quản lý của Nhà nước để góp phần
giáo dục cho trẻ em trong độ tuổi. Đó là bản chất của xã hội hóa công tác giáo dục.
2.2. Vai trò của xã hội hóa công tác giáo dục
● Xã hội hoá công tác giáo dục góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
● Xã hội hoá công tác giáo dục huy động được các nguồn lực, tiềm năng của xã hội,
khắc phục khó khăn trong quá trình phát triển giáo dục. 5
● Xã hội hoá công tác giáo dục tạo sự công bằng, trách nhiệm, dân chủ trong hưởng thụ.
● Xã hội hoá công tác giáo dục góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về giáo dục…
2.3. Ý nghĩa của việc thực hiện xã hội hóa công tác giáo dục
● Thực hiện xã hội hóa công tác giáo dục là tạo ra một “xã hội học tập” góp phần
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho cộng đồng. Mở rộng
hình thức giáo dục thường xuyên, tăng cường quy mô, hình thức dạy học cho toàn
dân phấn đấu thực hiện tốt giáo dục toàn diện: đức, trí, thể, mỹ, lao động.
● Coi trọng giáo dục tư tưởng chính trị, chú ý hình thành tư duy sáng tạo và năng lực
thực hành cho người học… xã hội hóa công tác giáo dục góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo, tạo nên những điều kiện vật chất và tinh thần để nâng
cao chất lượng giáo dục; làm cho giáo dục thực sự phục vụ đắc lực cho sự phát
triển kinh tế – xã hội ở địa phương, phục vụ trực tiếp lợi ích cho từng cá nhân; tạo
điều kiện cho mục đích của giáo dục phù hợp với mục đích của từng cá nhân tham gia giáo dục.
● Tạo điều kiện làm phong phú hơn cho nội dung và phương pháp giáo dục; thực
hiện công bằng xã hội và dân chủ hoá giáo dục, nhờ dân chủ hóa mà mở rộng
LLXH tham gia giáo dục, làm cho mọi người hiểu được giáo dục không chỉ là
trách nhiệm của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi gia
đình, từng cá nhân người đi học.
3. Điều kiện thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục
- Xã hội hoá giáo dục thực chất là nhằm xóa bỏ mọi hình thức áp đặt của cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, năng động và nội lực to lớn trong
mọi tầng lớp nhân dân để thúc đẩy sự phát triển của giáo dục và đào tạo phù hợp và đáp
ứng sự phát triển của thời đại. Các điều kiện thực hiện Xã hội hoá công tác giáo dục:
● Dân chủ, công khai quá trình tổ chức và quản lý
● Nâng cao nhận thức và thực hiện các văn bản, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước
về xã hội hóa công tác giáo dục
● Đa dạng hóa giáo dục và đào tạo
● Xây dựng và phát triển các tổ chức khuyến học
● Xây dựng và đẩy mạnh hoạt động phối hợp giữa xã hội với nhà trường và gia đình
● Tổ chức Đại hội ban đại diện cha mẹ học sinh các cấp
4. Cơ sở chính trị, pháp lý của chính sách xã hội hóa giáo dục
– Trong tiến trình phát triển ở nhiều quốc gia, giáo dục được xem là cách để giảm thiểu
rủi ro, nguy cơ cho xã hội và là con đường hữu hiệu để chống đói nghèo. Ngày nay, khi
trí tuệ đã trở thành yếu tố hàng đầu thể hiện quyền lực và sức mạnh của một quốc gia thì
chúng ta đều ý thức được rằng, giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội, mà thực sự là đòn
bẩy quan trọng để phát triển kinh tế, phát triển xã hội. Theo đó, các nước kém phát triển
cần quan tâm đến giáo dục và đầu tư cho giáo dục bởi đây chính là đầu tư cho phát triển,
quyết định vận mệnh của con người, xã hội, vận mệnh của dân tộc. Vì thế, giáo dục, đào
tạo giữ vai trò trung tâm, then chốt để hội nhập và phát triển của mỗi quốc gia.
– So với các nước, kể cả các nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn thì tỷ lệ chi tiêu
công cho giáo dục trên GDP của Việt Nam khá lý tưởng (khoảng 5% GDP) góp phần
đem lại những thành tựu quan trọng cho giáo dục nước nhà. Để thực hiện nguyên tắc hiến
định “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”, Luật Giáo dục qua các thời kỳ đã xác
định rõ hệ thống giáo dục quốc dân là hệ thống giáo dục mở, liên thông gồm giáo dục
chính quy và giáo dục thường xuyên. Trong đó, cấp học, trình độ đào tạo của hệ thống
giáo dục quốc dân bao gồm: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp và giáo dục đại học. Để bảo đảm tính chất “đa mục tiêu” của nền giáo dục, chúng
ta không thể chỉ dựa vào nguồn lực của Nhà nước, mà cần thực hiện giải pháp “xã hội hoá”.
– Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương được thực hiện ở rất nhiều quốc gia trên thế
giới, không chỉ những quốc gia nghèo, kém phát triển mà ngay cả ở các quốc gia phát
triển, công tác xã hội hóa giáo dục càng được thực hiện rộng rãi và có hiệu quả. Tuy
nhiên, qua các giai đoạn và tùy từng quốc gia, dân tộc, thuật ngữ xã hội hóa giáo dục có
nhiều cách hiểu với những nội hàm ít nhiều liên quan đến các khía cạnh như: phi tập
trung hóa (decentralization); giáo dục suốt đời (longlife education); xã hội học tập
(learning society); giáo dục cộng đồng (comunity education). Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) đã phân chia dịch vụ và thương mại dịch vụ trên thế giới 12 nhóm lớn với
143 hạng mục dịch vụ. Trong 12 nhóm thương mại dịch vụ, thì dịch vụ giáo dục thuộc
nhóm thứ năm, dịch vụ nhóm này bao gồm: dịch vụ giáo dục tiểu học, dịch vụ giáo dục
trong học; dịch vụ giáo dục đại học và cao đẳng; dịch vụ giáo dục cho người lớn và các
dịch vụ giáo dục khác. Dù muốn hay không thì thị trường dịch vụ (giáo dục) cũng đã và
đang hình thành ở nước ta khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.
– Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về định
hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và nhiệm vụ đến năm 2000 đã chỉ rõ, “Thể chế hoá chủ trương xã hội hoá giáo dục
đã ghi trong nghị quyết Đại hội VIII”.Thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục đã nêu,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 về phương hướng và chủ
trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá. Sau Nghị quyết Trung ương 2
khóa VIII nêu trên, Luật Giáo dục ra đời năm 1998, lần đầu tiên công nhận chế độ đa sở
hữu đối với các cơ sở giáo dục, bao gồm công lập, bán công, dân lập và tư thục.
– Ngày 14/6/2005, Quốc hội đã thông qua Luật Giáo dục. Luật Giáo dục xác định phát
triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài; phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội:
“Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn
dân. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa
dạng hóa các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo
điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”.
– Năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội
hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao, trong đó đặt mục tiêu định
hướng đến năm 2010, “tỷ lệ học sinh nhà trẻ ngoài công lập chiếm 80%, mẫu giáo 70%,
trung học phổ thông 40%, trung học chuyên nghiệp 30%, các cơ sở dạy nghề 60%, đại
học, cao đẳng khoảng 40%”
– Năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 40/NQ-CP về xã hội hóa giáo dục.
Những năm gần đây, chủ trương xã hội hóa giáo dục còn được Trung ương chỉ đạo rõ hơn
trong Nghị quyết số 29/NQ-TƯ ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo. Trong phần Định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, quan
điểm chỉ đạo, Nghị quyết xác định:
“Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ
trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát
triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên
giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã
hội hóa giáo dục và đào tạo”.
– Ngày 14/6/2019, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua Luật Giáo dục
năm 2019. Với mục tiêu thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của
Nhà nước về đổi mới giáo dục, đào tạo, tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng nền
giáo dục Việt Nam phát triển toàn diện; Luật xác định:
“Thực hiện đa dạng hóa các loại hình cơ sở giáo dục và hình thức giáo dục; khuyến
khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo
dục; khuyến khích phát triển cơ sở giáo dục dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục…”.
- Có thể nói rằng, các cơ sở chính trị, pháp lý nêu trên là căn cứ quan trọng để việc xã
hội hoá giáo dục được ghi nhận và phát triển và trở thành một phần không thể thiếu trong
bức tranh chung về phát triển giáo dục Việt Nam trong những năm qua.
5. Thực trạng thực hiện xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam
5.1. Những kết quả đạt được
Về chương trình, Luật giáo dục năm 2005 xác định nguyên tắc, “Chương trình giáo
dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất, tính thực tiễn, tính hợp lý
và kế thừa giữa các cấp học và trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho sự phân luồng, liên
thông, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ
thống giáo dục quốc dân; là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện; đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế”.
Quy định này đã tiếp tục được ghi nhận, mở rộng trong Luật giáo dục năm 2019 với nội
dung: “Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính khoa học và thực tiễn; kế thừa, liên
thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho phân luồng, chuyển đổi giữa
các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc
dân để địa phương và cơ sở giáo dục chủ động triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp; đáp
ứng mục tiêu bình đẳng giới, yêu cầu hội nhập quốc tế”.
“Chương trình giáo dục là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện”.Với tính chất
này, chương trình giáo dục là thống nhất chung mà không có sự phân biệt, phân chia
giữa các trường công lập và ngoài công lập. Tuy nhiên, với đòi hỏi của thực tế khi phải
cạnh tranh nên các trường ngoài công lập đã “sáng tạo” trong việc thực hiện chương trình
với nhiều mô hình học tập mới, phản ánh tính năng động về cách tư duy, cách đánh giá
tình huống vấn đề phức tạp trong cuộc sống của xã hội.
Các hoạt động này, ít nhiều đã hình thành phẩm chất, năng lực giải quyết vấn đề phù hợp
với thực tiễn, đem lại kết quả thực sự cho cuộc sống, làm cho các phương pháp giáo dục
truyền thống đang chịu nhiều thách thức, áp lực cạnh tranh đối với cả người dạy và cả
người học. Điều này đã tạo ra những lợi ích xã hội nhất định khi mà đối tượng thụ hưởng
đó chính là người học. Một số cơ sở ngoài công lập khi đi vào hoạt động đã xác lập ngay
một số giá trị cốt lõi như nhân cách, trí tuệ, cảm xúc, đam mê, năng lượng… làm cơ sở
xây dựng chương trình và phương pháp giảng dạy phù hợp.
Về nguồn lực, các trường ngoài công lập chất lượng cao được tư nhân đầu tư mạnh mẽ
khang trang về cơ sở vật chất, hiện đại về chương trình và hứa hẹn sẽ tiếp tục phát triển
mạnh trong các năm tới bởi các tập đoàn kinh tế tư nhân. Quan điểm, “các thành phần
kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật ”làm cho vai trò
của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế ngày càng được nhận thức rõ hơn và đánh giá đúng hơn. Tỷ trọng trong
GDP của khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả kinh tế cá thể luôn duy trì ổn định trong l
khoảng 40%. Bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô
lớn, hoạt động đa ngành như Tập đoàn Vingroup, Trường Hải, FLC … có khả năng cạnh
tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế. Mức độ đóng góp vào tổng sản phẩm
trong nước của kinh tế tư nhân luôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng liên tục trong những năm qua.
– Với những quan điểm về xã hội hoá giáo dục đã và đang triển khai trong hơn hai thập
niên qua, mô hình giáo dục ngoài công lập gia tăng về số lượng điều đó cho thấy giáo
dục ngoài công lập đã có sự phát triển và cả sự “chấp nhận” của xã hội đặc biệt là ở các
thành phố lớn của Việt Nam. Ví dụ, những năm đầu thập kỷ 1990 tại Thành phố Hồ Chí
Minh chỉ có số ít trường phổ thông dân lập với chưa tới 1.000 học sinh, sau đó, chưa đầy
10 năm đã tăng lên 130 trường với gần 30.000 học sinh cho cả 4 cấp: mầm non, tiểu học,
trung học cơ sở và trung học phổ thông, đến năm học 2018-2019 có 932 trường mầm
non, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông dân lập với 280.118 học sinh, tăng
gần 10 lần so với 10 năm trước. Theo thống kê của Sở giáo dục thành phố Hồ Chí Minh,
số lượng trường công lập và ngoài công lập của Thành phố tương đương nhau (110 và
113 trường) đây là tỷ lệ cao hơn so với mặt bằng chung của cả nước.
5.2. Những hạn chế, bất cập
Về điều kiện thành lập: Quan điểm xếp giáo dục là ngành nghề kinh doanh có điều
kiện là hoàn toàn hợp lý bởi tính chất và đặc thù của lĩnh vực này. Thành lập cơ sở giáo
dục của nhà đầu tư ngoài công lập là tiền đề để hoạt động của một nhà trường. Tuy
nhiên, hồ sơ thủ tục trong cấp phép thành lập trường được xem là hành trình đầy “nan
giải” của nhà đầu tư. Thủ tục hành chính về cấp phép thành lập đã được quy định trong
Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Giáo dục nhưng về bản chất các quy định vẫn ở
dạng “luật khung”; vì thế, để thực thi được thì địa phương đã ban hành những quy định
riêng. Những quy định riêng đó đã làm cho bức tranh về thủ tục được cấp phép thành lập
trường ngoài công lập không thống nhất giữa các địa phương. Điều này đã làm tăng phát
sinh chi phí tuân thủ, gia tăng rào cản gia nhập thị trường giáo dục/ kinh doanh giáo dục
của nhà đầu tư. Đâu đó đã có hiện tượng nhà đầu tư nản lòng, thậm chí rút lui khỏi thị
trường bởi hàng rào thủ tục hành chính nhiêu khê, rườm rà, phức tạp.
Về học phí: Các trường ngoài công lập do các nhà đầu tư tự bỏ vốn để thuê hoặc mua
các cơ sở vật chất, trang thiết bị và vận hành. Cả hai trường hợp này đều có mức đầu tư
ban đầu là không hề nhỏ, vì thế nếu không phải là chủ thể có tiềm lực tài chính và đam
mê giáo dục thì khó có thể thực hiện được. Chi phí đầu tư, xây dựng trường lớp, vận hành
do nhà đầu tư bỏ ra, và nguồn thu duy nhất để bù đắp là học phí. Vốn đầu tư ban đầu
nhiều, học phí lại không được bao cấp hoặc hỗ trợ từ các nguồn khác nên mức học phí
của trường dân lập cao hơn các trường công lập, làm ảnh hưởng tính tồn tại và cạnh tranh
của các trường ngoài công lập.
Ví dụ, học sinh lớp 1 trường công lập khu vực thành phố Hà Nội trung bình mỗi tháng
phải nộp hơn một triệu đồng, gồm: tiền ăn 450.000 đồng, học hai buổi 100.000, dịch vụ
bán trú 130.000, tiếng Anh tăng cường 150.000, nước 12.000, cuối buổi 180.000 và tiền
sữa học đường hơn 50.000 đồng. Riêng học phí được miễn, theo quy định của Luật Giáo
dục. Về các khoản phí đầu năm học, phụ huynh thường phải nộp khoảng 3-4 triệu đồng,
bao gồm tiền cơ sở vật chất, đồng phục, bảo hiểm và quỹ phụ huynh. Như vậy, nếu tính
theo cả năm học (9 tháng), tổng chi phí ở trường công lập cho một học sinh lớp 1 là
khoảng 14 triệu đồng. Cũng với 14 triệu đồng, nếu cho con học ở trường ngoài cônglập
phụ huynh chỉ đủ tiền nộp phí ghi danh và chi phí trong 2-3 tháng học. Thậm chí, do bất
đồng quan điểm về cách tính học phí giữa phụ huynh và nhà trường đã dẫn đến những
“lùm xùm” trong thời gian qua.
Về chính sách thuế: Các trường ngoài công lập không được Nhà nước đầu tư về cơ sở
vật chất, không sử dụng đến ngân sách nhà nước mà dựa chủ yếu vào các nhà đầu tư tâm
huyết với giáo dục và sự đóng góp của phụ huynh học sinh theo cơ chế xã hội hóa giáo
dục.Ở một góc độ nào đó, việc yêu cầu các trường ngoài công lập phải đóng thuế thu
nhập doanh nghiệp là coi các trường học như “doanh nghiệp chính hiệu” là chưa hợp lý.
Việc thu thuế theo hướng “tận thu” đối với các trường ngoài công lập là gián tiếp đánh
thuế người học. Điều này dẫn đến bất bình đẳng ngày càng lớn giữa hai loại hình trường
trường công lập và ngoài công lập.
Về chương trình: Thực tế trong những năm qua cho thấy, phương pháp mới, lạ với
người học là yếu tố thu hút người học của các trường ngoài công lập. Tuy nhiên, yêu cầu
chung là vẫn phải đảm bảo nội đúng chương trình khung của đơn vị chủ quản, vì thế tính
xã hội hoá giáo dục mới chỉ dừng lại ở việc đầu tư cơ sở vật chất chứ không phải là độc
lập trong hoạt động (cho dù đó có thể là chương trình có ưu điểm vượt trội). Thực tế ngay
cả các trường quốc tế khi hoạt động tại Việt Nam thì cũng gặp khó bởi “đầu ra” giáo dục
ở nước ta vẫn bị chi phối bởi tính nguyên tắc.
Về cơ sở hạ tầng: Có thể nói rằng, cơ sở hạ tầng của vùng, miền, địa phương hay là
một quốc gia cũng có tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư hay tiếp cận giáo dục của
người học. Cụ thể, khi người học đến từ vùng khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn mà được
miễn học phí, được trợ cấp bữa trưa, nhà ở nhưng đường đến trường xa và khó đi thì tỷ lệ
bỏ học vẫn ở mức cao (điều này chúng ta thường thấy tại các vùng sâu, vùng xa, điều
kiện kinh tế, giao thông đi lại khó khăn như địa bàn một số tỉnh ở tây Bắc, tây Nguyên).
Trường hợp này khó khăn cho ngay cả các trường công lập trong việc thu hút người học,
và mức độ khó lại càng tăng (thậm chí bất khả thi) đối với các trường ngoài công lập.
II NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HỆ THỐNG GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay
Thành tựu: 5 năm thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW trong lĩnh vực giáo dục đào tạo
đã mang lại nhiều kết quả nổi bật, đặc biệt trong bậc học mầm non và bậc phổ thông. Ở
bậc đào tạo đại học cũng có nhiều đổi mới và đạt được một số thành tựu nổi bật. Một số
trường đại học đã vươn lên và được xếp hạng ở khu vực và một số rất ít trường được xếp hạng cấp
- Hệ thống giáo dục quốc dân được hoàn thiện hơn với các cấp, bậc học, trình độ đào
tạo, các loại hình và phương thức giáo dục.
Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết là: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là
sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát
triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
Sau 35 năm đổi mới, và qua hơn 6 năm thực thi Nghị quyết số 29-NQ/TW ngành giáo
dục Việt Nam đã được được nhiều thành tựu quan trọng, giáo dục nước ta đã hình thành
được một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng hoá
với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ mầm non đến sau đại học. Theo tinh thần
của nghị quyết: Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các
bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa
giáo dục và đào tạo. Mạng lưới các trường phổ thông được xây dựng rộng khắp trên toàn
quốc. Các trường, lớp trung tâm dạy nghề phát triển dưới nhiều hình thức, các lớp dạy
nghề ngắn hạn phát triển mạnh. Các trường đại học và cao đẳng được thành lập ở hầu hết
các khu dân cư lớn của cả nước, các vùng, các địa phương. Mạng lưới cơ sở giáo dục
được mở rộng đến hầu hết các xã, phường, thị trấn trong toàn quốc. Cả nước đã hoàn
thành công tác xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và hoàn thành phổ cập giáo dục
trung học cơ sở, một số nơi đang thực hiện phổ cập giáo dục trung học phổ thông. Theo
báo cáo của trung tâm truyền thông giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2017, tất
cả 63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Chất
lượng phổ cập ngày càng được nâng cao. Tháng 8/2018, Chính phủ đã thống nhất chủ
trương thực hiện chính sách hỗ trợ miễn học phí đối với trẻ em mầm non 5 tuổi và hỗ trợ
đóng học phí cơ sở ngoài công lập đối với trẻ em diện phổ cập, nhất là đối với các thôn,
xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Nhiều tỉnh
thành phố các cấp chính quyền đã hỗ trợ học phí cho học sinh từ bậc học mầm non tới
hết bậc phổ thông. Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường được nâng cấp, cải thiện. Số
trường lớp được xây dựng mới theo chuẩn quốc gia ngày càng tăng. Đào tạo sau đại học
được hình thành và phát triển vững chắc đang dần dần đảm đương trách nhiệm đào tạo
cán bộ khoa họC trình độ cao ở trong nước. Hệ thống giáo dục đã bước đầu được đa dạng
hoá cả về loại hình, phương thức và nguồn lực, từng bước hội nhập với xu thế chung của giáo dục thế giới.
- Quy mô giáo dục đã được coi trọng, có giới hạn, chú trọng khâu đào tạo chất lượng
và dạy nghề, bước đầu đáp ứng nhu cầu của xã hội, tránh tình trạng thừa thầy thiếu
thợ như giai đoạn những năm trước.
Cụ thể trong các bảng xếp hạng đại học quốc tế của các cơ sở GDĐH Việt Nam ngày
càng được cải thiện. Nếu như trước năm 2014, cả Việt Nam chỉ có duy nhất Đại học
Quốc gia Hà Nội lọt vào bảng xếp hạng đại học châu Á của Tổ chức xếp hạng đại học QS
với vị trí trong nhóm 250 trường hàng đầu thì đến năm 2018, có 7 cơ sở GDĐH lọt top
500 của bảng xếp hạng đại học châu Á. Trong đó, Đại học Quốc gia Hà Nội xếp vị trí
124 của châu Á. Đặc biệt, năm 2018, lần đầu tiên lĩnh vực Vật lý của Đại học Quốc gia
Hà Nội được xếp hạng 502 trên thế giới theo US News.
Đến nay, Bộ GDĐT đã hoàn thành và ban hành Chương trình giáo dục phổ thông tổng
thể, tổ chức thực nghiệm chương trình môn học trong chương trình giáo dục phổ thông
mới. Chương trình phổ thông mới thay đổi căn bản cách tiếp cận từ “theo nội dung” sang
theo hướng “phát triển năng lực và phẩm chất”, dạy học “tích hợp” ở cấp dưới, dạy “phân
hóa” ở cấp trên, tăng cường các môn tự chọn.
- Công bằng xã hội trong giáo dục về cơ bản được đảm bảo.
Hệ thống giáo dục quốc dân đã tạo điều kiện cho đại bộ phận nhân dân trong độ tuổi đi
học đạt trình độ xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung học cơ sở, tiến
tới phổ cập trung học phổ thông, tạo cơ hội và những điều kiện cơ bản để một bộ phận
nhân dân được học ở các cấp bậc học cao hơn theo nhu cầu và khả năng, chú ý các khu
vực đặc biệt khó khăn (vùng cao, vùng sâu, vùng xa), đối tượng là người dân tộc thiểu số,
người nghèo và đối tượng chính sách xã hội. Về cơ bản nước ta đã đạt được sự bình đẳng
nam nữ trong giáo dục cơ sở và ở các bậc học cao đẳng và đại học. Công bằng xã hội
trong giáo dục được cải thiện, đặc biệt đối với trẻ em gái, người dân tộc thiểu số và con
em các gia đình nghèo, các đối tượng bị thiệt thòi trong xã hội ngày càng được chú trọng.
- Điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được cải thiện.
Trong những năm qua, kết hợp nhiều nguồn vốn, ngành Giáo dục và các địa phương đã
cố gắng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá
một bước cơ sở vật chất kỹ thuật của các nhà trường ở các cấp bậc học, tạo điều kiện để
bảo đảm nâng cao chất lượng dạy và học.
Đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định sự nghiệp và chất lượng giáo dục. Trong những
năm gần đây, điều kiện giáo dục và đời sống giáo viên được cải thiện, những đổi mới
trong chính sách đối với giáo sinh đã thu hút ngày càng nhiều học sinh giỏi vào các
trường sư phạm, mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên là những yếu
tố tác động tích cực đến chất lượng đội ngũ nhà giáo.
Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục là 20% tổng chi ngân sách Nhà nước, chiếm 5%
GDP cả nước. Đây là sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục. Nhiều địa
phương, bên cạnh ngân sách trung ương, còn có thêm từ ngân sách địa phương đầu tư cho
giáo dục và đã có nhiều cố gắng cải tiến việc phân bổ, điều hành ngân sách; đồng thời
huy động nguồn lực của nhân dân để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường, bảo đảm
chất lượng dạy và học.
Hạn chế: hiện nay chưa có lộ trình cụ thể để thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW và
chính sách kèm theo, song chính vẫn là do phương pháp đào tạo đại học ở khá nhiều
trường vẫn mang tính hàn lâm với “tri thức hàn lâm”, quy trình đào tạo cũng theo “công
nghệ hàn lâm”, từ khâu tuyển sinh đến nội dụng, chương trình và phương pháp đào tạo.
Do đó, việc đổi mới tư duy trong giáo dục theo hướng giáo dục mở như Nghị quyết 29-
NQ/TW yêu cầu là rất chậm, là rào cản chính trong việc phát triển hệ thống.
- Khâu tuyển sinh (mới được đổi mới một số năm gần đây song cơ bản):
Không xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động; các trường hầu như thiếu tín hiệu từ thị
trường về cơ cấu ngành nghề xã hội cần, về số lượng lao động cần tuyển, về trình độ,
năng lực người lao động cần có, về triển vọng ngành nghề. Tuyển sinh chủ yếu dựa vào chỉ tiêu Bộ cho phép.
- Chương trình đào tạo
Một số trường đang có nhiều đổi mới, theo hướng chương trình đào tạo năng động,
tính mở cao..., song nhìn chung:
+ Dạy lý thuyết nhiều, nhiều mục trong bài giảng vô bổ, lý thuyết suông, không gắn
với thực tế (ngay cả môn Toán, cố PGS.TS Văn Như Cương cũng thấy thừa nhiều nội dung).
+ Sau giờ học, sinh viên không hoặc ít đến thư viện đọc sách, giáo viên giảng
xong là hoàn thành nhiệm vụ.
+ Do quá tải nên không còn thời gian trau dồi kiến thức mới. Tóm lại là học sinh thụ động tiếp thu bài.
+ Trường ít có liên hệ, mời giáo viên thực tế về giảng dạy, chương trình giảng dạy
khép kín, học sinh không được tiếp cận với thực tế hoặc nếu có cũng rất ít vì thiếu kinh phí.
+ Chương trình chưa bám sát quan điểm chỉ đạo: Thực học, thực nghiệp. Do đó, sau
khi ra trường cử nhân bỡ ngỡ với thực tiễn.
- Phương pháp giảng dạy
Nhiều trường đã đổi mới phương pháp giảng dạy. Song nhiều trường vẫn độc thoại,
thuyết trình là chính, phương pháp này đã lỗi thời, sơ cứng làm học sinh thụ động, máy
móc, học sinh không có tư duy sáng tạo, không dám đổi mới, không tự tin khi có ý tưởng
mới vì phải thuộc bài giảng của thầy, nếu không điểm thi sẽ kém.
+ Đọc, nhìn (do có trường hiện nay đã sử dụng thiết bị tin học trong giảng dạy, song
trò cũng sử dụng máy điện thoại chụp lại bài của thầy), chép vẫn là phổ biến, ít thảo luận nhóm.
+ Phương pháp thi cử cũng đã lạc hậu bởi chưa tăng tính đối thoại trong thi cử.
+ Nhiều trường cũng đã áp dụng phương pháp dạy nêu vấn đề, thảo luận nhóm... nhưng
chưa phải là số đông các trường. Phương pháp giảng dạy trực tuyến, E-learning... chưa
được nhiều trường áp dụng.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, yếu kém
+ Nhiều trường thiếu hệ thống thư viện, phòng thí nghiệm, thiếu hạ tầng công nghệ
thông tin để triển khai áp dụng phương pháp đào tạo mới. + Thiếu lớp học.
+Tình trạng đầu tư dàn trải vẫn còn.
- Hệ thống bảng lương dành cho giáo viên còn bất cập
Lương giáo viên nhìn chung thấp (trừ các trường được giao tự chủ). Trình độ đội ngũ
chưa cao và hệ thống đãi ngộ thấp cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến việc sẵn sàng
chuyển sang giáo dục Mở và xây dựng tài nguyên giáo dục Mở.
- Giáo dục chú trọng quan tâm đến số lượng nhiều hơn chất lượng
Thực hiện nghị quyết của Đảng, Chính phủ và Bộ giáo dục đào tạo đã đưa ra nhiều mô
hình đào tạo đại học. Do vậy, tốc độ tăng của giáo dục và đào tạo đại học tăng nhanh.
Hiện trên cả nước có khoảng gần 90 cơ sở đào tạo đại học bao gồm các trường đại học
quốc gia, đại học vùng, các trường đại học công lập, bán công, dân lập và các học viện.
Tới đây sẽ có thêm một số trường đại học tư thục ra đời. Lực lượng giảng viên không
ngừng nâng cao về chất lượng và quy mô, số lượng sinh viên tăng đáng kể và do đó làm
cho trình độ dân trí tăng lên rõ rệt. Mặc dù như vậy, nhưng chất lượng giáo dục của Việt
Nam vẫn chưa cao, nói một cách nôm na là số lượng thì tăng rất nhanh nhưng chất lượng
vẫn không tăng thậm chí là còn tuột dốc, chưa theo kịp với sự đổi mới của thế giới.
Hiện nay có khuynh hướng đề cao khái niệm “đại học quốc tế chất lượng cao”, cơ bản
xây dựng đại học tốt là điều kiện “cần có”, nhưng điều kiện “đủ” là chúng ta phải có bản
thân sinh viên là những hạt giống tốt, nhân tố tốt. Rõ ràng lâu nay giáo dục Việt Nam
cũng chỉ lo đào tạo số lượng sinh viên đầu ra mà quên đi vấn đề quan trọng là thế hệ
thanh niên thật sự đóng góp như thế nào vào sự nghiệp phát triển đất nước. Hàng loạt kỹ
sư, cử nhân Việt Nam ra trường nhưng thử hỏi có bao nhiêu người đạt được trình độ kỹ
thuật của kỹ sư? Bao nhiêu người dùng được? Bao nhiêu người làm việc theo đúng ngành
nghề mình đã học, đó là một sự lãng phí lớn. Xây dựng trường đại học mang tầm quốc tế
chỉ là điều kiện “cần” nhưng chưa “đủ”. Trên thế giới người ta rất quan tâm đến những
thợ giỏi, chuyên viên kỹ thuật cao. Đất nước đang trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện
đại hóa mà sinh viên không chịu học kỹ thuật, chỉ tập trung không cân bằng vào các
ngành dễ được xã hội “chấp nhận” thì làm sao có thể phát triển công nghiệp, làm sao hiện đại hoá đất nước.
- Công tác xã hội hóa giáo dục vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc
Một số xã, phường, cấp ủy, chính quyền địa phương, đoàn thể và phụ huynh học sinh
chưa chú trọng đến việc học tập của con em mình; chưa nhận thức đúng đắn về vị trí, tầm
quan trọng của giáo dục. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên một bộ phận học sinh phải
bỏ học để đi làm phụ giúp gia đình. Mặt khác, việc quản lí công tác xã hội hóa giáo dục
còn thiếu biện pháp phù hợp, tính khả thi chưa cao.
2. Nguyên nhân khiến nền giáo dục Việt Nam yếu kém
– Ngôn ngữ: Thứ ngôn ngữ giảng dạy chính là tiếng Việt, là thứ ngôn ngữ chỉ có người
Việt Nam dùng, đây là thứ ngôn ngữ có tính chất riêng biệt không có khả năng hội nhập,
trong khi ngôn ngữ giao tiếp quốc tế là tiếng Anh thì ít được chú trọng trong nhà trường
(nhất là các trường công lập).
– Chương trình, giáo trình giảng dạy hầu hết do giáo viên trong nước biên soạn, chưa
được tiêu chuẩn hoá và công nhận trên quốc tế, dẫn đến việc bằng cấp cũng chưa được
công nhận và đánh giá cho chuẩn, đúng mức, khiến sinh viên khó tham gia các chương
trình trao đổi giao lưu một năm với các trường đại học trên thế giới hoặc chuyển ngang
sang học tiếp tại các trường đại học quốc tế hoặc xét học tiếp các cấp độ cao hơn đối với
các học sinh đã tốt nghiệp trong nước.
– Hệ thống thi cử đánh giá thực lực khả năng của học sinh còn bất cập: Chỗ khó, chỗ
dễ… khiến học sinh học lệnh, học tủ, quay cóp, dạy và học thêm làm mất quá nhiều thời
gian của xã hội bao gồm cả học sinh và phụ huynh.
– Bệnh thành tích có nguy cơ quay trở lại sau vài năm đã được nêu đích danh và có biện
pháp ngăn chặn. Nguyên nhân sâu xa từ các cách tuyển chọn nhân sự của nhà nước: Tiêu
chuẩn hoá cán bộ dựa trên bằng cấp chứ không dựa vào thực tài…
– Chương trình giáo dục còn coi nhẹ thực hành, vận dụng kiến thức; phương pháp giáo
dục, kiểm tra, thi và đánh giá lạc hậu, thiếu thực chất; thiếu gắn kết giữa đào tạo với
nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú
trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kĩ năng làm việc.
– Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục còn nhiều bất cập về chất lượng, số lượng
và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm
huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp. 3. Giải pháp
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
 Cần đổi mới cơ bản về tư duy và phương thức quản lý theo hướng nâng cao hiệu lực,
hiệu quả. Thực hiện cải cách hành chính, thể chế hóa vai trò, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm quản lý GD&ĐT ở các cấp, các ban ngành.
 Nhà quản lý ở tầm vĩ mô chỉ nên đóng vai trò của môt nhạc trưởng, thông qua đó ̣
kiểm soát, vận hành và kịp thời khắc phục những tồn tại, bất cập của hệ thống.
- Đa dạng hóa nguồn lực tài chính lOMoARcPSD|27879799
 Đa dạng hóa nguồn lực tài chính là một trong những giải pháp cơ bản để đảm bảo
nguồn lực vật chất cho việc nâng cao chất lượng GD&ĐT, có thể thực hiện đa dạng hóa
nguồn lực tài chính thông qua việc xây dựng chính sách học phí phù hợp.
 Với đặc điểm về điều kiện tự nhiên, về kinh tế - xã hội như Việt Nam, cần xây dựng
một chính sách học phí hợp lý không cào bằng, có phân biệt vùng miền, theo từng nhóm
đối tượng, đa dạng hóa các loại hình trường lớp, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ phổ cập
giáo dục, đáp ứng yêu cầu giáo dục tiến tới toàn dân nhưng đồng thời tạo điều kiện để
người học có nhiều cơ hội lựa chọn.
- Từng bước cải thiện chất lượng GD&ĐT miền núi
 Cần có những chính sách mang tính đôt phá cho GD&ĐT miền núi nhằm tạo ̣ nguồn
nhân lực chất lượng cao. Chính nguồn nhân lực ấy sẽ là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hôi của các vùng miền này. ̣
- Xây dựng trường đại học đạt chuẩn khu vực
 Định hướng từng bước xây dựng môt số trường đại học đạt tiêu chuẩn khu vực, ̣ tiến
đến đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm dần khẳng định vị thế về GD&ĐT của Việt Nam trên
trường quốc tế là hết sức cần thiết.
 Cần có cơ chế chính sách phù hợp, nguồn lực tài chính phải đảm bảo. Đặc biệt, một
trường đạt chuẩn khu vực và tiến tới đạt chuẩn quốc tế không thể không đạt chuẩn về
chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực ở đây không chỉ là đội ngũ cán bộ quản lý,
giảng viên mà cả sinh viên.
 Trước mắt, buộc phải tách mục tiêu hiệu quả kinh tế ra khỏi mục tiêu đảm bảo chất
lượng vượt trội thông qua việc chỉ tuyển chọn những sinh viên thực sự ưu tú. Về lâu dài,
đây mới là sự đầu tư đúng hướng, bởi việc nghiêm ngặt, chuẩn hóa ngay từ khâu tuyển
chọn không những tạo điều kiện thuận lợi cho cả quá trình GD&ĐT, mà chính những sinh
viên này khi ra trường sẽ là những căn cứ thực tiễn minh chứng mô hình mới là hiệu quả,
sớm khẳng định vị thế của Việt Nam về GD&ĐT trên trường quốc tế.
- Thay đổi phương pháp dạy học
 Đưa kiến thức thực tiễn vào bài giảng, giảm thiểu lí thuyết trên giấy. 21
 Sử dụng phương pháp dạy nêu vấn đề, thảo luận nhóm, nâng cao tính tự học của học l sinh.
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ đáp ứng yêu cầu đảm
bảo chất lượng giáo dục
 Nâng cao phẩm chất, năng lực nghề nghiệp cho giáo viên, nhân viên; năng lực lãnh
đạo, quản lý của lãnh đạo nhà trường đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng giáo dục.
 Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực nghề nghiệp cho cán bộ quản lý, giáo
viên, bao gồm nâng cao về: kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, tư tưởng đạo đức, lối sống...;
khả năng sử dụng công nghệ mới trong giáo dục và quản lý giáo dục
- Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra
 Tổ chức các hoạt động mang tính trách nhiệm công dân, trách nghiệm xã hội cho học sinh
 Tổ chức các hoạt động nâng cao năng lực hiểu biết về các môn học; bồi dưỡng các kỹ
năng mềm, nâng cao đời sống tinh thần cho cho học sinh
 Tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao lòng tôn trọng, gìn giữ, phát huy bản sắc dân
tộc và các giá trị văn hóa khác
PHẦN III: KẾT LUẬN ĐỀ TÀI
Qua việc nghiên cứu đề tài trên, chúng ta đã tìm hiểu một cách sâu sắc hơn về vấn đề
Giáo dục ở Việt Nam hiện nay đặc biệt là về vấn đề xã hội hóa giáo dục, đó là một chủ
trương được thực hiện ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, không chỉ những quốc gia
nghèo, kém phát triển mà ngay cả ở các quốc gia phát triển, công tác xã hội hóa giáo dục
càng được thực hiện rộng rãi và có hiệu quả. Xã hội hoá công tác giáo dục góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục, huy động được các nguồn lực, tiềm năng của xã hội, khắc phục khó 22
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com) lOMoARcPSD|27879799
khăn trong quá trình phát triển giáo dục, tạo sự công bằng, trách nhiệm, dân chủ trong
hưởng thụ,... Ở Việt Nam, xã hội hóa giáo dục cũng đã chính thức được đưa ra và thực
hiện từ Nghị quyết số 90-CP ngày 21/8/1997 của Chính phủ và còn có vai trò vô cùng
quan trọng đối với sự phát triển của nền giáo dục nước ta.
Ngoài ra chúng ta còn thấy được những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục ở Việt
Nam hiện nay. Có thể thấy sau 35 năm đổi mới, và hơn 6 năm thực thi Nghị quyết số
29-NQ/TW ngành giáo dục Việt Nam đã được được nhiều thành tựu quan trọng. Nhìn lại
đoạn đường phát triển của giáo dục nước nhà, trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt
Nam có những bước phát triển, có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng
vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất
nước. Nhưng đồng thời nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập, chính
những điều đã làm cho chúng ta đã lùi đi rất nhiều so với các nước trong khu vực và quốc
tế. Vì vậy mục tiêu giáo dục của ta hiện nay là “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài”. Theo công bố của chương trình phát triển Liên hiệp quốc ( UNDP ) năm
1993 về chỉ tiêu quy mô phát triển giáo dục thì so với quốc tế ta đều thấp hơn về chỉ tiêu
phát triển giáo dục ở các bậc học. Về giáo dục phổ thông, ta chưa đạt mức trung bình, về
cao đẳng đại học ta còn thấp hơn nước phát triển chậm. Vì vậy, muốn thực hiện được
mục tiêu giáo dục đề ra và nâng cao chất lượng giáo dục chúng ta cần tích cực thực hiện
các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục như tăng cường nguồn lực cho giáo dục
đào tạo; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ đáp ứng yêu cầu đảm
bảo chất lượng giáo dục; tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục,... Đây chính
là những vấn đề về giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1.
https://123docz.net//document/7032542-luan-van-thac-si-quan-ly-hoat-dong-xa-hoi-hoa
giao-duc-tieu-hoc-o-huyen-thanh-tri-thanh-pho-ha-noi.htm 2.
https://123docz.net//document/5104849-bai-thu-hoach-va-tieu-luan-hang-3.htm 3.
https://download.vn/bien-phap-huy-dong-xa-hoi-hoa-giao-duc-o-truong-tieu-hoc-41776
4. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Nghi-quyet-29-NQ-TW-nam-2013-doi
moian-ban-toan-dien-giao-duc-dao-tao-hoi-nhap-quoc-te-212441.aspx
5. Thực trạng chất lượng giáo dục Việt Nam hiện nay - Luận Văn A-Z (luanvanaz.com)
6. Một số vấn đề về đổi mới giáo dục Việt Nam trong bối cảnh hiện nay - THÁNH ĐỊA
VIỆT NAM HỌC (thanhdiavietnamhoc.com)
7. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo (lapphap.vn) 8. 7
nguyên nhân khiến giáo dục Việt Nam tiếp tục... tụt hậu | Giáo dục Việt Nam (giaoduc.net.vn)
9. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY (daivietsaigon.edu.vn)
10. 6 hạn chế, yếu kém chủ yếu của ngành giáo dục đào tạo | Báo Dân trí (dantri.com.vn)
11.https://truongchinhtritohieu.haiphong.gov.vn/Bai-viet-chuyen-de/Nhung-thanh-tuu-va
han-che-cua-giao-duc-va-dao-tao-trong-qua-trinh-thuc-hien-Nghi-quyet-so-29-NQTW ngay-04112013-86125.html
12.https://hdll.vn/vi/chuong-trinh---de-tai/nhung-van-de-dat-ra-va-giai-phap-phat-trien-gi ao
duc-va-dao-tao-o-viet-nam-trong-boi-canh-cach-mang-cong-nghiep-40.html
13.http://vanhoanghethuat.vn/mot-so-van-de-dat-ra-trong-doi-moi-giao-duc-va-dao-tao.ht m