



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 47270246  LỜI CẢM ƠN    Chào quý Thầy/Cô, 
Nhóm em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý Thầy/Cô đã dành thời gian quý báu tham dự buổi thuyết 
trình của nhóm em về chủ đề “Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH.” 
Đối với nhóm em, đây không chỉ là một đề tài nghiên cứu mà còn là một hành trình ý nghĩa giúp chúng 
em hiểu sâu sắc hơn về vai trò của gia đình trong sự phát triển của đất nước. Gia đình không chỉ là tế bào 
của xã hội mà còn là nền tảng vững chắc cho quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong 
bối cảnh chuyển đổi, khi đất nước ta đang từng bước hướng tới CNXH, gia đình Việt Nam đứng trước cả 
cơ hội và thách thức, đòi hỏi sự đổi mới nhưng vẫn giữ gìn những giá trị truyền thống tốt đẹp. 
Thông qua dự án này, nhóm em đã có cơ hội tìm hiểu về những biến đổi trong cấu trúc, chức năng và 
vai trò của gia đình hiện đại, cũng như các chính sách và giải pháp để xây dựng một gia đình hạnh phúc, 
tiến bộ, phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước. Chúng em nhận thức rõ rằng việc phát triển gia 
đình bền vững không chỉ là trách nhiệm của từng cá nhân mà còn cần đến sự chung tay của toàn xã hội, từ 
chính sách hỗ trợ đến ý thức gìn giữ những giá trị cốt lõi trong đời sống gia đình. 
Nhóm em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến quý Thầy/Cô đã truyền đạt kiến thức và khích lệ chúng em 
trong suốt quá trình thực hiện dự án. Sự đồng hành và chỉ dẫn của Thầy/Cô không chỉ giúp nhóm hoàn thiện 
bài nghiên cứu mà còn góp phần định hướng tư duy khoa học, tạo nền tảng cho những bước đi sau này trên 
con đường học tập và cống hiến. 
Cuối cùng, nhóm 10 chúng em xin gửi lời tri ân đến quý Thầy/Cô và các bạn đã luôn là nguồn động viên 
lớn lao. Chúng em hy vọng rằng bài nghiên cứu này sẽ mang đến những góc nhìn mới mẻ, góp phần nâng 
cao nhận thức về vai trò của gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đồng thời hướng đến một xã hội phát 
triển bền vững và nhân văn.  Xin trân trọng cảm ơn!            1        lOMoAR cPSD| 47270246        MỤC LỤC   
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................................. 1 
MỤC LỤC ....................................................................................................................................... 2 
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ......................................................................................................... 3 
A. PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................................  4 
1. Bối cảnh và ý nghĩa. ..................................................................................................................  4 
2. Mục tiêu và hướng tiếp cận. ......................................................................................................  4 
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu ............................................................................................. 5 
4. Đóng góp - kỳ vọng của đề tài. ................................................................................................. 5  B. PHẦN  NỘI  DUNG 
..................................................................................................................... 6 
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ QUÁ 
ĐỘ LÊN CNXH. .......................................................................................................................... 6  1. 
Khái niệm về gia đình và vai trò của gia đình trong xã hội 
................................................... 6  2. 
Quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình trong  CNXH 
 ...................................................................................................................................................  8  3. 
Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH 
.................................... 9 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 
........................................................................................................... 13 
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH.  2        lOMoAR cPSD| 47270246 
 .....................................................................................................................................................  14  1. 
Cơ sở kinh tế - xã hội 
........................................................................................................... 14  2. 
Cơ sở chính trị - xã hội 
........................................................................................................ 14  3.  Cơ sở văn hóa 
...................................................................................................................... 15  4. 
Cơ sở pháp lý - chế độ hôn nhân và gia đình 
...................................................................... 16 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 
........................................................................................................... 18 
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ 
QUÁ ĐỘ LÊN CNXH. .............................................................................................................. 19 
1. Những thực trạng gia đình ở Việt Nam. ...........................................................................  19 
2. Những hạn chế trong việc xây dựng gia đình Việt Nam thời kì quá độ lên CNXH. ........  22 
3. Nguyên nhân của các thực trạng trên ................................................................................  23 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 
........................................................................................................... 24 
CHƯƠNG 4. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM 
TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH. ............................................................................. 24 
1. Định hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ  lên 
CNXH. ..................................................................................................................................... 24 
2. Gia đình Việt Nam trong thời hiện đại: Kế thừa giá trị truyền thống, tiếp thu tiến bộ  xã 
hội và hướng tới phát triển bền vững lâu dài. .......................................................................... 25 
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4 ........................................................................................................... 27 
LIÊN HỆ .................................................................................................................................... 28 
C. KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 29 
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. ........................................................................... 29  3        lOMoAR cPSD| 47270246          DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT    STT  KÝ HIỆU    NGUYÊN NGHĨA  1  CNXH  Chủ nghĩa xã hội                  A. PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Bối cảnh và ý nghĩa. 
Gia đình từ lâu đã được xem là tế bào của xã hội, là nền tảng hình thành nhân cách, giáo dục thế hệ trẻ 
và góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, gia đình 
không chỉ là nơi nuôi dưỡng con người về mặt thể chất và tinh thần mà còn là một đơn vị kinh tế – văn hóa 
quan trọng, gắn liền với sự hưng thịnh của xã hội. Tuy nhiên, trước những biến đổi sâu sắc của nền kinh tế 
– xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH, gia đình Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức  và cơ hội mới. 
Bối cảnh hiện nay được định hình bởi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày 
càng sâu rộng. Kinh tế thị trường định hướng XHCN đã tạo ra những thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu lao 
động, phương thức sản xuất, hệ thống giáo dục và đời sống văn hóa – xã hội. Những thay đổi này không 
chỉ tác động đến từng cá nhân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến gia đình, dẫn đến sự biến đổi trong cấu trúc, 
chức năng và mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Bên cạnh đó, tác động của khoa học – công 
nghệ, đặc biệt là cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, càng làm gia tăng những thách thức đối với mô hình  gia đình truyền thống.  4        lOMoAR cPSD| 47270246 
Trong bối cảnh đó, xây dựng gia đình Việt Nam theo định hướng XHCN không chỉ là một yêu cầu khách 
quan mà còn mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Gia đình hạnh 
phúc, tiến bộ, văn minh không chỉ góp phần nâng cao chất lượng sống của mỗi cá nhân mà còn tạo nền tảng 
vững chắc để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và nhân văn. Do đó, nghiên cứu về quá trình xây 
dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH không chỉ giúp hiểu rõ hơn về sự thay đổi của thiết 
chế gia đình mà còn góp phần đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm bảo vệ và phát huy giá trị gia đình 
trong xã hội hiện đại. 
2. Mục tiêu và hướng tiếp cận. 
Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích thực trạng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH, 
nhận diện những cơ hội và thách thức mà gia đình đang đối mặt, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm xây 
dựng một mô hình gia đình phù hợp với định hướng phát triển của đất nước. Việc nghiên cứu không chỉ 
giúp hiểu rõ sự biến đổi về mặt cấu trúc và chức năng của gia đình mà còn tạo cơ sở để đưa ra những đề 
xuất cụ thể nhằm phát triển gia đình theo hướng bền vững, hiện đại nhưng vẫn giữ được những giá trị truyền  thống tốt đẹp. 
Để đạt được mục tiêu này, nghiên cứu sẽ tập trung vào việc hệ thống hóa những quan điểm lý luận về 
gia đình trong chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nghị quyết của Đảng liên quan đến 
vấn đề này. Đồng thời, nghiên cứu cũng đi sâu phân tích sự biến đổi của gia đình Việt Nam dưới tác động 
của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và tiến bộ công nghệ. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sẽ đánh giá các 
vấn đề đang đặt ra đối với mô hình gia đình truyền thống và hiện đại, từ đó đề xuất những giải pháp xây 
dựng gia đình theo hướng văn minh, hạnh phúc, phù hợp với đặc trưng của một xã hội đang chuyển mình 
theo con đường xã hội chủ nghĩa. 
Về hướng tiếp cận, nghiên cứu sẽ sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống và lịch sử để đánh giá sự thay 
đổi của gia đình qua các giai đoạn phát triển của xã hội Việt Nam. Đồng thời, cách tiếp cận liên ngành sẽ 
được áp dụng, kết hợp giữa chính trị học, xã hội học và kinh tế học để có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề  nghiên cứu. 
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu này tập trung vào gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH, với trọng tâm là sự 
biến đổi về cấu trúc, chức năng, vai trò của gia đình cũng như những vấn đề mới nảy sinh trong bối cảnh 
xã hội hiện đại. Thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam được xác định bắt đầu từ công cuộc đổi mới năm 
1986, do đó nghiên cứu sẽ tập trung phân tích các vấn đề của gia đình trong giai đoạn từ sau đổi mới đến 
nay, khi đất nước đang phát triển theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và ngày càng 
hội nhập sâu rộng với thế giới. 
Về phạm vi không gian, nghiên cứu sẽ xem xét gia đình Việt Nam trong bối cảnh chung của toàn quốc, 
nhưng đặc biệt chú trọng đến sự khác biệt giữa gia đình ở nông thôn và thành thị, giữa các tầng lớp lao 
động khác nhau, cũng như sự khác biệt trong quan niệm về gia đình giữa các thế hệ. Sự chuyển đổi của mô  5        lOMoAR cPSD| 47270246 
hình gia đình từ truyền thống sang hiện đại sẽ được xem xét trong mối quan hệ với các yếu tố kinh tế, văn 
hóa, xã hội và chính sách của Nhà nước. 
Nội dung nghiên cứu sẽ tập trung vào những thay đổi trong mô hình gia đình, sự điều chỉnh trong vai trò 
của các thành viên, các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới, giáo dục con cái, ảnh hưởng của công nghệ và 
toàn cầu hóa đến đời sống gia đình. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sẽ đề xuất những giải pháp để xây dựng một 
mô hình gia đình phù hợp với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. 
4. Đóng góp - kỳ vọng của đề tài. 
Nghiên cứu này mang lại những đóng góp quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, 
nghiên cứu góp phần hệ thống hóa các quan điểm về gia đình trong chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Hồ 
Chí Minh và các văn kiện quan trọng của Đảng, từ đó làm rõ vai trò của gia đình trong sự nghiệp xây dựng 
CNXH ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng giúp hiểu rõ hơn về các mô hình gia đình trong lịch sử phát triển của 
xã hội Việt Nam, đồng thời phân tích sự thay đổi của gia đình dưới tác động của những yếu tố kinh tế, chính 
trị, văn hóa và công nghệ. 
Về mặt thực tiễn, nghiên cứu đưa ra những đánh giá khách quan về thực trạng gia đình Việt Nam trong 
thời kỳ hiện nay, nhận diện những thách thức và cơ hội đối với sự phát triển của gia đình trong bối cảnh đất 
nước đang công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm phát 
triển gia đình theo hướng bền vững, đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và ổn định đời sống gia đình. 
Các giải pháp này có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho việc hoạch định chính sách về gia đình, 
hướng tới xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, trong đó gia đình thực sự là nền tảng cho sự phát triển 
bền vững của đất nước.  B. PHẦN NỘI DUNG   
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN  CNXH. 
1. Khái niệm về gia đình và vai trò của gia đình trong xã hội  1.1. Khái niệm gia đình 
Gia đình là tổ ấm nơi con người sinh ra, lớn lên và gắn bó suốt cuộc đời. Trong xã hội, gia đình là một 
đơn vị xã hội nhỏ nhất. Gia đình cũng là nơi bắt đầu mọi giá trị về tình yêu thương, trách nhiệm và sự sẻ 
chia. Gia đình không chỉ bao gồm những mối quan hệ ruột thịt mà còn được ví như nơi mọi thành viên cùng 
nhau xây dựng hạnh phúc, cùng vượt qua khó khăn. Với mỗi người, khái niệm về gia đình luôn mang ý 
nghĩa đặc biệt cũng như không thể thay thế. 
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, tồn tại trong mọi hình thái kinh tế – xã hội và có vai trò quan 
trọng trong việc duy trì, tái sản xuất và phát triển xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin, gia  6        lOMoAR cPSD| 47270246 
đình được xem là một hình thức tổ chức xã hội đặc biệt, xuất hiện và biến đổi theo tiến trình phát triển lịch 
sử của loài người. Friedrich Engels trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước 
(1884) đã chỉ ra rằng gia đình không chỉ là đơn vị kinh tế – xã hội cơ bản mà còn phản ánh sự vận động của 
các phương thức sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử. 
Khi đề cập đến gia đình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cho rằng: “Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào 
quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những 
người khác, sinh sôi, nảy nở, đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”. Gia đình 
là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Cơ sở hình 
thành gia đình là quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống. Quan hệ hôn nhân là cơ sở, nền tảng hình thành 
nên các mối quan hệ khác trong gia đình. Hôn nhân là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của mỗi gia đình. Quan 
hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cùng một dòng máu. Quan hệ huyết thông nảy sinh từ quan hệ 
hôn nhân. Đây là mối quan hệ tự nhiên, là yếu tố mạnh mẽ nhất gắn kết cácthành viên trong gia đình với 
nhau. Các quan hệ này tồn tại trong sự gắn bó và phụ thuộc với nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm 
của mỗi người, được quy định bằng pháp lý. 
Ở Việt Nam, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 định nghĩa: “Gia đình là tập hợp những người gắn 
bó với nhau do quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng, cùng chung sống và giúp đỡ nhau 
về vật chất, tinh thần nhằm xây dựng một tổ ấm bền vững” (Điều 3, Khoản 1). Theo đó, gia đình không chỉ 
là một tổ chức mang tính sinh học mà còn có ý nghĩa kinh tế, văn hóa và chính trị sâu sắc. 
1.2. Vai trò của gia đình trong xã hội 
Gia đình giữ vai trò quan trọng trong việc tái sản xuất con người, đảm bảo sự kế thừa và phát triển của 
xã hội. Đối với cá nhân, gia đình là môi trường đầu tiên hình thành nhân cách, giáo dục đạo đức, và truyền 
thụ các giá trị văn hóa. Trong nền kinh tế, gia đình không chỉ đóng vai trò là đơn vị tiêu dùng mà còn là 
nguồn cung lao động, góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội. Đặc biệt, trong xã hội chủ nghĩa, gia đình 
được xem là hạt nhân của xã hội, nơi giáo dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức và truyền bá hệ giá trị XHCN. 
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2022, quy mô trung bình của hộ gia đình Việt Nam hiện nay 
là 3,6 người/hộ, phản ánh xu hướng thu nhỏ quy mô gia đình do tác động của đô thị hóa và sự thay đổi trong 
quan niệm về hôn nhân, sinh con. Tuy nhiên, gia đình vẫn giữ vai trò trung tâm trong hệ thống an sinh xã 
hội, khi hơn 80% người cao tuổi sống cùng con cháu và trên 70% lao động trẻ vẫn dựa vào gia đình về mặt 
kinh tế trước khi có khả năng tự lập (Tổng cục Thống kê, 2022). 
Gia đình là môi trường đầu tiên và quan trọng nhất đối với sự phát triển của một cá nhân. Đây là nơi mỗi 
người được sinh ra, chăm sóc và phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần. Gia đình cung cấp những điều kiện 
cần thiết để nuôi dưỡng con cái, đảm bảo trẻ em có đủ dinh dưỡng, sức khỏe để phát triển toàn diện. Theo 
UNICEF (2022), 90% sự phát triển não bộ của trẻ em diễn ra trong 5 năm đầu đời, trong đó vai trò chăm 
sóc của gia đình là yếu tố then chốt quyết định đến tương lai của trẻ. Gia đình là môi trường giáo dục đầu 
tiên, nơi trẻ học được những kỹ năng cơ bản như ngôn ngữ, hành vi ứng xử, đạo đức và nhân cách. Các 
nghiên cứu cho thấy, 80% sự hình thành nhân cách của một đứa trẻ chịu ảnh hưởng từ cha mẹ và gia đình  7        lOMoAR cPSD| 47270246 
(Tổng cục Dân số, 2021). Gia đình không chỉ là nơi truyền đạt kiến thức sơ khai mà còn giúp trẻ rèn luyện 
kỹ năng sống, định hướng tư duy và nhân sinh quan. Trẻ em sinh ra trong môi trường gia đình ổn định, cha 
mẹ có phương pháp giáo dục tốt sẽ có nền tảng vững chắc hơn trong học tập và cuộc sống. 
Một trong những chức năng cốt lõi của gia đình là bảo vệ các thành viên khỏi những nguy cơ bên ngoài 
và tạo ra một môi trường an toàn. Bảo vệ về thể chất: Gia đình đảm bảo an toàn cho trẻ nhỏ, người già, 
người khuyết tật và các thành viên dễ bị tổn thương trước các mối nguy như bệnh tật, tai nạn hay bạo lực. 
Ở Việt Nam, theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2023), trẻ em sống trong môi trường 
gia đình ổn định có nguy cơ bị xâm hại thấp hơn 40% so với trẻ em sống xa gia đình hoặc trong các cơ sở 
bảo trợ xã hội. Bảo vệ về tinh thần: Gia đình là chỗ dựa tinh thần quan trọng, giúp các thành viên vượt qua 
áp lực trong cuộc sống. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, người trưởng thành sống trong gia đình gắn kết có tỷ 
lệ mắc trầm cảm thấp hơn 30% so với người bị cô lập xã hội (WHO, 2021). Hỗ trợ khi gặp khó khăn: Gia 
đình là nơi đầu tiên mà mỗi cá nhân tìm đến khi gặp phải khó khăn về tài chính, sức khỏe hoặc các vấn đề 
xã hội. Điều này đặc biệt quan trọng đối với người già, trẻ em, người khuyết tật và những người mất khả  năng lao động. 
Gia đình là môi trường quan trọng để gìn giữ và truyền bá bản sắc văn hóa của dân tộc. Mỗi gia đình là 
một "trường học nhỏ" giúp các thế hệ sau hiểu và duy trì các giá trị truyền thống. Trẻ em sinh ra trong một 
gia đình được tiếp xúc với ngôn ngữ mẹ đẻ, học cách giao tiếp và ứng xử theo chuẩn mực văn hóa. Ví dụ, 
trong các gia đình Việt Nam, trẻ em từ nhỏ đã được dạy về tôn ti trật tự, kính trên nhường dưới, và hiếu 
thảo với ông bà cha mẹ. Gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc thực hành và bảo tồn các lễ nghi truyền 
thống như Tết Nguyên Đán, giỗ tổ Hùng Vương, hay các phong tục tập quán vùng miền. Điều này giúp giữ 
gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tạo nên sự gắn kết giữa các thế hệ. Gia đình giúp hình thành nhân cách và 
phẩm chất đạo đức thông qua việc dạy dỗ về lòng trung thực, trách nhiệm, lòng biết ơn và sự tôn trọng. 
Theo khảo sát của Viện Xã hội học Việt Nam (2022), hơn 85% thanh niên cho rằng gia đình có ảnh hưởng 
quyết định đến quan điểm sống và hành vi đạo đức của họ. 
Gia đình không chỉ có vai trò đối với các cá nhân mà còn đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng và 
xã hội. Gia đình là nơi nuôi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế. Một xã hội có nhiều gia đình 
tốt sẽ có lực lượng lao động khỏe mạnh, có đạo đức và trách nhiệm. Gia đình gắn kết giúp hạn chế các tệ 
nạn xã hội như bạo lực, nghiện ngập và tội phạm. Theo Bộ Công an (2023), hơn 70% tội phạm vị thành 
niên có xuất thân từ gia đình thiếu sự quan tâm, giáo dục đúng đắn. Gia đình không chỉ chăm lo cho chính 
mình mà còn có trách nhiệm với cộng đồng. Các gia đình tham gia vào các hoạt động từ thiện, bảo vệ môi 
trường và hỗ trợ những người có hoàn cảnh khó khăn là những ví dụ tiêu biểu về trách nhiệm xã hội của  gia đình. 
2. Quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình trong CNXH 
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin về gia đình 
Karl Marx và Friedrich Engels đã phân tích sự hình thành và biến đổi của gia đình trong các giai đoạn 
phát triển của xã hội loài người. Trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước",  8        lOMoAR cPSD| 47270246 
Engels đã đưa ra những luận điểm quan trọng về sự biến đổi của gia đình từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ 
hệ, đồng thời nhấn mạnh sự tác động của chế độ tư hữu đối với sự hình thành các quan hệ gia đình. 
Theo quan điểm của Marx và Engels, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, gia đình không còn mang bản chất 
thuần túy của một tổ chức xã hội mà bị biến thành một đơn vị kinh tế, nơi người phụ nữ bị bóc lột cả về lao 
động gia đình lẫn lao động xã hội. Gia đình trong xã hội tư bản chủ nghĩa là nơi duy trì và tái sản xuất lực 
lượng lao động phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản. Điều này dẫn đến sự bất bình đẳng trong gia đình, đặc 
biệt là đối với phụ nữ, khi họ phải chịu sự áp bức của chế độ gia trưởng và gánh vác trách nhiệm nội trợ mà 
không được thừa nhận về mặt kinh tế và xã hội. 
Marx và Engels cũng dự báo rằng, khi CNXH ra đời, gia đình sẽ không còn bị ràng buộc bởi chế độ tư 
hữu và bất bình đẳng giai cấp. Quan hệ gia đình sẽ chuyển sang nền tảng của sự bình đẳng, tự do, tôn trọng 
lẫn nhau và cùng nhau đóng góp vào sự phát triển của xã hội. 
Vladimir Lenin, người đặt nền móng cho nhà nước Xô Viết, tiếp thu và phát triển quan điểm của Marx 
và Engels về gia đình trong bối cảnh cách mạng vô sản và xây dựng CNXH. Ông nhấn mạnh rằng, trong xã 
hội xã hội chủ nghĩa, vai trò của gia đình phải được giải phóng khỏi sự áp bức của chế độ tư hữu và gia  trưởng. 
Lenin khẳng định rằng, để xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, cần phải giải phóng phụ nữ khỏi 
sự lệ thuộc kinh tế vào gia đình bằng cách tạo điều kiện cho họ tham gia lao động sản xuất và các hoạt động 
xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có trách nhiệm hỗ trợ gia đình thông qua các chính sách về giáo 
dục, y tế, phúc lợi xã hội và bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. 
Trong các bài viết và bài phát biểu của mình, Lenin nhấn mạnh rằng, sự tiến bộ của gia đình xã hội chủ 
nghĩa gắn liền với sự phát triển của nhà nước vô sản. Nhà nước cần thực hiện các biện pháp để thay thế 
những chức năng truyền thống của gia đình (như giáo dục con cái, chăm sóc sức khỏe, cung cấp nhu yếu 
phẩm) bằng các thiết chế xã hội công bằng và tiến bộ hơn, đảm bảo mọi công dân đều có điều kiện phát  triển toàn diện. 
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình 
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, luôn nhấn mạnh vai trò quan 
trọng của gia đình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Người không chỉ tiếp thu những tư 
tưởng của chủ nghĩa Marx – Lenin về gia đình mà còn vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt 
Nam, phù hợp với đặc điểm văn hóa, lịch sử và truyền thống dân tộc. 
Gia đình là nền tảng của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, Người khẳng định: “Nhiều gia đình 
cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình mới tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt”. Theo Người, gia 
đình không chỉ là nơi nuôi dưỡng và giáo dục thế hệ trẻ mà còn là một tế bào quan trọng góp phần vào sự  9        lOMoAR cPSD| 47270246 
phát triển chung của đất nước. Một xã hội vững mạnh phải được xây dựng trên nền tảng của những gia đình 
tốt đẹp, nơi các giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa được duy trì và phát huy. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, gia đình trong xã hội xã hội chủ nghĩa phải được xây dựng dựa 
trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau xây dựng cuộc sống hạnh phúc. Người đặc biệt 
quan tâm đến vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội, nhấn mạnh rằng nam nữ bình đẳng là yếu tố quan 
trọng để xây dựng gia đình hạnh phúc và xã hội tiến bộ. Người khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam 
có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường 
quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Câu nói này nhấn 
mạnh tầm quan trọng của giáo dục gia đình trong việc hình thành nhân cách và phát triển con người, từ đó 
tạo nên một thế hệ công dân có ý thức trách nhiệm với đất nước. 
Mỗi gia đình phải là một tế bào lành mạnh của xã hội, đồng thời phải có trách nhiệm đóng góp vào sự 
nghiệp cách mạng. Người căn dặn: “Mỗi người dân phải hiểu rằng, yêu nước là yêu gia đình, yêu gia đình 
là yêu nước”. Gia đình trong xã hội xã hội chủ nghĩa không chỉ là nơi chăm lo đời sống cá nhân mà còn có 
trách nhiệm giáo dục con em trở thành những công dân tốt, có ích cho xã hội. 
Vị lãnh tụ vĩ đại đặc biệt coi trọng các giá trị đạo đức truyền thống trong gia đình Việt Nam, nhấn mạnh 
lòng hiếu thảo, tinh thần yêu thương, đoàn kết giữa các thế hệ. Người cho rằng, trong xã hội xã hội chủ 
nghĩa, các giá trị truyền thống tốt đẹp này cần được kế thừa và phát huy, đồng thời loại bỏ những tư tưởng 
lạc hậu như trọng nam khinh nữ, tư tưởng gia trưởng hay áp đặt quyền lực trong gia đình. 
3. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH 
Gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH mang những đặc điểm riêng biệt, phản ánh sự chuyển đổi từ xã 
hội cũ sang xã hội mới, nơi các quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế, tư tưởng văn hóa và lối sống đang từng 
bước thay đổi theo hướng tiến bộ. Đặc điểm của gia đình trong giai đoạn này không chỉ chịu tác động của 
các yếu tố khách quan từ sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn phản ánh những xu hướng vận động nội tại  bên trong từng gia đình. 
3.1. Sự biến đổi về cấu trúc gia đình 
Sự biến đổi về quy mô và kết cấu của gia đình Việt Nam hiện nay phản ánh quá trình chuyển đổi từ xã 
hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội công nghiệp hiện đại. Trong bối cảnh này, cấu trúc gia đình truyền 
thống dần bị thay thế bởi những mô hình mới, phù hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội đương thời. Một 
trong những xu hướng rõ nét là sự phổ biến ngày càng tăng của mô hình gia đình hạt nhân, không chỉ ở đô 
thị mà còn ở cả khu vực nông thôn, thay thế cho mô hình gia đình truyền thống từng chiếm ưu thế trong xã  hội Việt Nam. 
So với trước đây, quy mô gia đình có xu hướng thu nhỏ lại, số lượng thành viên trong mỗi gia đình giảm 
đi đáng kể. Nếu như trước kia, gia đình truyền thống thường có ba đến bốn thế hệ cùng chung sống, thì hiện 
nay, mô hình gia đình phổ biến nhất chỉ bao gồm hai thế hệ: cha mẹ và con cái. Bên cạnh đó, số lượng con 
trong mỗi gia đình cũng giảm dần, phù hợp với chính sách dân số và điều kiện kinh tế - xã hội hiện đại.  10        lOMoAR cPSD| 47270246 
Một số trường hợp xuất hiện mô hình gia đình đơn thân, nhưng nhìn chung, gia đình hạt nhân vẫn là loại  hình chiếm ưu thế. 
Việc thu nhỏ quy mô gia đình đáp ứng những yêu cầu của thời đại mới, góp phần thúc đẩy bình đẳng 
giới, tạo điều kiện để cá nhân có cuộc sống riêng tư hơn và giảm thiểu những mâu thuẫn thường gặp trong 
gia đình truyền thống. Quá trình này không chỉ làm thay đổi bản thân gia đình mà còn có tác động tích cực 
đến sự vận động và thích nghi của toàn bộ hệ thống xã hội trong thời kỳ hiện đại hóa. 
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, sự biến đổi này cũng mang lại không ít hệ lụy. Việc thu hẹp 
quy mô gia đình có thể dẫn đến khoảng cách không gian giữa các thành viên, làm suy giảm sự gắn kết tình 
cảm và khó khăn trong việc duy trì các giá trị văn hóa truyền thống. Khi xã hội phát triển, con người ngày 
càng bận rộn với công việc và mưu sinh, thời gian dành cho gia đình bị thu hẹp, tình cảm giữa các thành 
viên có nguy cơ trở nên xa cách. Xu hướng này có thể khiến mối quan hệ gia đình trở nên rời rạc, lỏng lẻo, 
làm giảm đi vai trò gắn kết vốn có của gia đình trong đời sống xã hội. 
3.2. Sự thay đổi về chức năng của gia đình và chức năng kinh tế. 
Sự biến đổi của các chức năng gia đình phản ánh quá trình chuyển đổi kinh tế - xã hội và những tác động 
của chính sách nhà nước, khoa học công nghệ đối với đời sống gia đình Việt Nam trong thời kỳ hiện đại. 
Chức năng tái sản xuất con người của gia đình đã có những thay đổi đáng kể nhờ các tiến bộ y học và 
chính sách dân số. Việc sinh con không còn mang tính tự nhiên và bắt buộc như trước mà trở thành một 
quyết định chủ động của các cặp vợ chồng, chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội và chính sách 
nhà nước. Nếu như trong xã hội truyền thống, nhu cầu sinh con gắn liền với quan niệm "trọng nam khinh 
nữ", mong muốn có con trai để nối dõi và duy trì lao động trong nền sản xuất nông nghiệp, thì ngày nay, 
quan điểm này dần thay đổi. Gia đình hiện đại không còn đặt nặng áp lực về số lượng con cái hay giới tính, 
mà tập trung hơn vào chất lượng nuôi dạy và điều kiện sống của con trẻ. Chính sách dân số của Việt Nam 
cũng có sự điều chỉnh phù hợp với bối cảnh xã hội, từ việc kiểm soát mức sinh vào cuối thế kỷ XX sang 
khuyến khích sinh đủ hai con trong thế kỷ XXI để ứng phó với nguy cơ già hóa dân số. 
Bên cạnh chức năng tái sản xuất con người, chức năng kinh tế của gia đình cũng có sự biến đổi rõ rệt. 
Gia đình không còn là một đơn vị sản xuất khép kín với mô hình kinh tế tự cấp, tự túc như trước đây, mà 
đã chuyển sang sản xuất hàng hóa để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập 
kinh tế quốc tế, kinh tế gia đình Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc chuyển đổi sang mô 
hình sản xuất chuyên sâu, cạnh tranh với các sản phẩm trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, quy mô 
nhỏ, khả năng tiếp cận vốn và công nghệ còn hạn chế khiến nhiều hộ gia đình gặp khó khăn trong việc nâng 
cao năng suất và mở rộng thị trường. 
Ngoài ra, sự thay đổi về chức năng kinh tế của gia đình cũng dẫn đến sự biến đổi trong tổ chức tiêu dùng. 
Gia đình hiện đại không chỉ tiêu dùng các sản phẩm do chính mình làm ra mà ngày càng phụ thuộc vào 
hàng hóa và dịch vụ từ bên ngoài. Sự gia tăng thu nhập bằng tiền mặt tạo điều kiện để các gia đình tiếp cận 
nhiều hơn với các sản phẩm của nền kinh tế thị trường, từ nhu yếu phẩm đến dịch vụ y tế, giáo dục và giải  11        lOMoAR cPSD| 47270246 
trí. Điều này phản ánh sự chuyển đổi trong cách thức tổ chức đời sống của các gia đình Việt Nam, hướng 
tới một mô hình tiêu dùng hiện đại, phù hợp với sự phát triển của xã hội. 
3.3. Giáo dục và nuôi dưỡng con cái ( xã hội hóa ) 
Sự thay đổi trong chức năng giáo dục của gia đình Việt Nam phản ánh quá trình chuyển đổi của xã hội 
từ mô hình truyền thống sang hiện đại, trong đó giáo dục gia đình không còn là nền tảng duy nhất mà phải 
thích ứng với những yêu cầu của giáo dục xã hội. Nếu như trong xã hội truyền thống, giáo dục trong gia 
đình đóng vai trò then chốt trong việc hình thành nhân cách, đạo đức và truyền thống gia tộc, thì ngày nay, 
giáo dục xã hội đã bao trùm và định hướng phần lớn quá trình giáo dục trong gia đình. Hệ thống giáo dục 
hiện đại không chỉ chú trọng đến kiến thức khoa học mà còn đặt ra các yêu cầu mới về kỹ năng, tư duy và 
sự hòa nhập vào thế giới, khiến cho các bậc cha mẹ phải đầu tư nhiều hơn vào giáo dục con cái, cả về tài  chính lẫn phương pháp. 
Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của giáo dục xã hội cũng đặt ra thách thức đối với vai trò giáo dục của 
gia đình. Khi cha mẹ ngày càng ít thời gian dành cho con cái do áp lực kinh tế và công việc, vai trò giáo 
dục truyền thống của gia đình có xu hướng suy giảm. Đồng thời, sự gia tăng các vấn đề tiêu cực như bạo 
lực học đường, trẻ em bỏ học, nghiện hút ma túy và mại dâm cho thấy rằng hệ thống giáo dục xã hội chưa 
thể thay thế hoàn toàn chức năng giáo dục của gia đình. Mâu thuẫn giữa kỳ vọng của phụ huynh đối với 
nhà trường và thực tế giáo dục đạo đức, nhân cách của trẻ em vẫn chưa được giải quyết triệt để. 
Việc gia đình không còn giữ vai trò trung tâm trong giáo dục trẻ em như trước đã đặt ra yêu cầu phải 
có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa gia đình và nhà trường, giữa giáo dục truyền thống và giáo dục hiện đại. 
Gia đình vẫn cần đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng giá trị, giáo dục đạo đức, truyền thống 
văn hóa, trong khi nhà trường và xã hội đảm nhận nhiệm vụ trang bị kiến thức, kỹ năng và tạo điều kiện 
cho trẻ phát triển toàn diện. Chỉ khi có sự kết hợp hài hòa giữa hai hệ thống giáo dục này, gia đình mới có 
thể thực hiện hiệu quả chức năng xã hội hóa và giúp thế hệ trẻ phát triển một cách lành mạnh. 
3.4. Sự biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm 
Những biến đổi trong chức năng của gia đình Việt Nam hiện nay phản ánh sự tác động mạnh mẽ của 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa đến cấu trúc và mối quan hệ gia đình. Nếu như trong xã hội 
truyền thống, gia đình chủ yếu được duy trì nhờ các mối quan hệ trách nhiệm và nghĩa vụ giữa vợ - chồng, 
cha mẹ - con cái, thì trong xã hội hiện đại, độ bền vững của gia đình ngày càng phụ thuộc vào sự hòa hợp 
tình cảm giữa các thành viên. Gia đình đang dần chuyển từ một đơn vị kinh tế sang đơn vị tình cảm, nơi mà 
nhu cầu thỏa mãn tâm lý - tình cảm trở thành một yếu tố quan trọng quyết định sự ổn định và hạnh phúc 
gia đình. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra nhiều thách thức, đặc biệt trong bối cảnh tỷ lệ gia đình chỉ có một 
con ngày càng gia tăng, khiến cho đời sống tình cảm của trẻ em và cả người lớn trở nên ít phong phú hơn 
do thiếu đi sự gắn kết với anh chị em ruột. 
Bên cạnh đó, sự phân hóa giàu nghèo do tác động của công nghiệp hóa và toàn cầu hóa ngày càng sâu 
sắc, làm cho một số hộ gia đình có cơ hội phát triển sản xuất và tích lũy tài sản, trong khi phần lớn các gia 
đình khác rơi vào tình trạng làm thuê, mất đất đai và không có điều kiện mở rộng sản xuất. Điều này đòi  12        lOMoAR cPSD| 47270246 
hỏi Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ hiệu quả để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và bảo đảm sự 
phát triển bền vững cho các gia đình lao động. 
Một thách thức quan trọng khác trong quá trình biến đổi gia đình Việt Nam là sự thay đổi quan niệm về 
giới và vai trò của con trai trong việc phụng dưỡng cha mẹ, thờ cúng tổ tiên. Quan niệm truyền thống về 
việc con trai là người duy nhất gánh vác trách nhiệm này cần được thay đổi theo hướng bình đẳng giới, 
trong đó cả con trai và con gái đều có trách nhiệm ngang nhau trong chăm sóc cha mẹ già và duy trì các giá  trị gia đình. 
Nhà nước cũng cần có những giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm an toàn tình dục, giáo dục giới tính và sức 
khỏe sinh sản cho thế hệ trẻ, những người sẽ trở thành chủ gia đình trong tương lai. Đồng thời, việc củng 
cố chức năng xã hội hóa của gia đình, xây dựng các mô hình giáo dục gia đình phù hợp với thời đại mới 
cũng là một yêu cầu cấp thiết. Cần có những biện pháp giúp các bậc cha mẹ định hướng trong việc giáo dục 
con cái, tránh sự đứt gãy giữa các thế hệ và giải quyết mâu thuẫn giữa quan niệm truyền thống với những 
giá trị hiện đại về tự do và bình đẳng giới. Việc thiết lập các chuẩn mực mới để bảo đảm sự hài hòa lợi ích 
giữa các thành viên trong gia đình cũng như giữa gia đình và xã hội sẽ là yếu tố then chốt để xây dựng một 
gia đình Việt Nam ổn định, phát triển bền vững trong thời kỳ quá độ lên CNXH. 
3.5. Sự biến đổi quan hệ gia đình 
Những biến đổi trong quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng tại Việt Nam hiện nay phản ánh những tác 
động sâu sắc của kinh tế thị trường, khoa học - công nghệ hiện đại và toàn cầu hóa. Nếu như trong xã hội 
truyền thống, hôn nhân được duy trì dựa trên nền tảng trách nhiệm, nghĩa vụ và quan niệm gia đình bền 
chặt, thì hiện nay, những tác động từ đời sống hiện đại đã làm gia tăng tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình, 
chung sống không kết hôn cũng như nhiều hiện tượng tiêu cực như bạo hành gia đình, xâm hại tình dục, sự 
cô đơn của người cao tuổi và sự ích kỷ trong thế hệ trẻ. Điều này đặt ra thách thức lớn đối với việc bảo vệ 
và duy trì những giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam trong bối cảnh mới. 
Một trong những thay đổi quan trọng trong quan hệ gia đình hiện nay là sự biến đổi mô hình chủ gia 
đình. Trong xã hội truyền thống, người chồng giữ vai trò trụ cột, có quyền quyết định mọi vấn đề quan 
trọng, bao gồm cả tài sản và giáo dục con cái. Tuy nhiên, trong gia đình hiện đại, bên cạnh mô hình người 
chồng làm chủ, còn tồn tại mô hình người vợ làm chủ gia đình hoặc mô hình vợ chồng cùng chia sẻ trách 
nhiệm. Người chủ gia đình hiện nay không chỉ được đánh giá dựa trên giới tính mà còn phụ thuộc vào phẩm 
chất, năng lực và đóng góp kinh tế. Sự thay đổi này phản ánh sự chuyển dịch từ hệ thống gia đình phụ hệ 
sang các mô hình gia đình bình đẳng hơn, phù hợp với bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập toàn cầu. 
Bên cạnh đó, quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình Việt Nam cũng có nhiều thay đổi. Nếu như trong 
gia đình truyền thống, trẻ em lớn lên dưới sự dạy bảo thường xuyên của ông bà, cha mẹ, thì hiện nay, phần 
lớn việc giáo dục con cái được phó mặc cho nhà trường, khiến cho sự gắn kết giữa các thế hệ suy giảm. 
Đồng thời, khi quy mô gia đình thay đổi, người cao tuổi không còn được sống cùng con cháu như trước 
đây, dẫn đến tình trạng cô đơn và thiếu thốn tình cảm. Mâu thuẫn giữa các thế hệ cũng trở nên căng thẳng 
hơn do sự khác biệt về quan niệm sống: người già thường có xu hướng bảo thủ, giữ gìn các giá trị truyền 
thống, trong khi giới trẻ lại tiếp thu nhanh các giá trị hiện đại, dễ dàng phủ nhận những yếu tố cũ. Sự gia  13        lOMoAR cPSD| 47270246 
tăng các gia đình nhiều thế hệ càng làm cho mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình trở nên phức tạp  hơn. 
Sự biến đổi trong cấu trúc gia đình còn kéo theo nhiều hệ lụy khác như gia tăng bạo lực gia đình, ly hôn, 
sống thử, ngoại tình, buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới, nghiện hút... Những yếu tố này không chỉ 
làm suy yếu sự gắn kết trong gia đình mà còn đặt ra nhiều thách thức đối với xã hội trong việc duy trì các 
giá trị gia đình truyền thống. Để giải quyết những vấn đề này, cần có những chính sách và biện pháp cụ thể 
nhằm củng cố vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức, nhân cách cho con cái; hỗ trợ các mô hình gia 
đình phù hợp với bối cảnh xã hội hiện đại; đồng thời xây dựng những chuẩn mực văn hóa gia đình mới, bảo 
đảm sự hài hòa giữa truyền thống và hiện đại trong đời sống gia đình Việt Nam.  TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 
Chương 1 đã trình bày cơ sở lý luận về xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH, làm rõ quan 
điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, chức năng của gia đình. Gia đình 
không chỉ là thiết chế xã hội nền tảng mà còn là môi trường nuôi dưỡng con người mới xã hội chủ nghĩa. 
Dưới tác động của kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa, gia đình Việt Nam có 
nhiều biến đổi, đặc biệt trong quan hệ hôn nhân và quan hệ giữa các thế hệ. Mô hình gia đình truyền thống 
dần được thay thế bởi các mô hình bình đẳng hơn, trong khi sự gắn kết giữa các thế hệ suy giảm, dẫn đến 
nhiều mâu thuẫn. Các vấn đề như ly hôn, sống thử, bạo lực gia đình và người cao tuổi cô đơn đang đặt ra 
những thách thức lớn. Do đó, cần có các chính sách phù hợp nhằm củng cố vai trò của gia đình, bảo vệ giá 
trị đạo đức và tăng cường sự gắn kết giữa các thành viên. 
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH. 
1. Cơ sở kinh tế - xã hội 
Việc xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH dựa trên nền tảng phát triển của lực lượng sản 
xuất và tương ứng với đó là sự hình thành quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi 
của quan hệ sản xuất này chính là sự thay thế dần dần chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bằng chế 
độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, tạo tiền đề kinh tế quan trọng cho việc xóa bỏ áp bức, bóc lột và bất bình đẳng 
trong xã hội cũng như trong gia đình. Quá trình này không chỉ đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành viên 
trong gia đình mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giải phóng phụ nữ, giúp họ tham gia sâu rộng hơn 
vào các hoạt động xã hội và kinh tế. 
V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng bước quan trọng nhất để đạt được sự bình đẳng thực sự là thủ tiêu 
chế độ tư hữu đối với ruộng đất, công xưởng và nhà máy, bởi chỉ khi đó, nền kinh tế gia đình cá thể mới có 
thể được thay thế bằng nền kinh tế xã hội hóa quy mô lớn. Điều này có ý nghĩa quyết định trong việc xóa 
bỏ sự thống trị kinh tế của nam giới trong gia đình, vốn là nguyên nhân sâu xa dẫn đến bất bình đẳng giới 
và sự phụ thuộc của phụ nữ vào đàn ông. Khi tư liệu sản xuất trở thành tài sản chung, lao động trong gia 
đình không còn mang tính chất riêng lẻ mà trở thành một phần của lao động xã hội, qua đó nâng cao vị thế 
của phụ nữ trong xã hội.  14        lOMoAR cPSD| 47270246 
Quan điểm này cũng được Ph. Ăngghen khẳng định khi ông cho rằng sự chuyển đổi tư liệu sản xuất 
thành sở hữu chung sẽ khiến gia đình cá thể không còn là đơn vị kinh tế cơ bản của xã hội nữa. Thay vào 
đó, các hoạt động nuôi dạy con cái và chăm sóc gia đình sẽ được xã hội đảm nhiệm, tạo điều kiện để phụ 
nữ tham gia vào đời sống kinh tế - xã hội một cách bình đẳng. Đây cũng chính là cơ sở để hôn nhân trong 
xã hội chủ nghĩa được thiết lập dựa trên tình yêu và sự tự nguyện, thay vì bị chi phối bởi các yếu tố kinh tế, 
địa vị hay những tính toán thực dụng. 
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam đã tạo ra nhiều thay 
đổi đối với gia đình. Theo Tổng cục Thống kê (2023), tính đến năm 2022, tỷ lệ hộ gia đình tham gia vào 
các hoạt động kinh tế chiếm hơn 60% tổng số hộ gia đình tại Việt Nam. Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế 
hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước đã tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt 
ra không ít thách thức. Một mặt, sự phát triển kinh tế giúp cải thiện điều kiện sống, nâng cao thu nhập và 
khả năng tiếp cận các dịch vụ thiết yếu như y tế, giáo dục. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2022) cho thấy 
thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt 4.100 USD/năm, góp phần nâng cao mức sống gia đình. 
Mặt khác, sự phân hóa giàu nghèo, áp lực công việc và nguy cơ thất nghiệp do tự động hóa đã ảnh hưởng 
đến sự ổn định của gia đình, đặc biệt ở các khu vực nông thôn và trong tầng lớp lao động phổ thông. 
2. Cơ sở chính trị - xã hội 
Cơ sở chính trị cho việc xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH được xác lập thông qua sự 
ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nơi giai cấp công nhân và nhân dân lao động lần đầu tiên trong lịch 
sử có thể thực hiện quyền lực của mình một cách thực sự, không có sự phân biệt về giới tính. Nhà nước xã 
hội chủ nghĩa đóng vai trò quyết định trong việc xóa bỏ các luật lệ lạc hậu vốn đè nặng lên vai người phụ 
nữ, đồng thời triển khai các biện pháp nhằm giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. V.I. Lênin đã 
từng khẳng định rằng chính quyền Xô Viết là chính quyền đầu tiên trên thế giới hoàn toàn xóa bỏ những 
đạo luật tư sản bất công, vốn đặt phụ nữ vào vị trí bất bình đẳng so với nam giới, đồng thời loại bỏ mọi đặc 
quyền gắn liền với chế độ tư hữu và sự thống trị của nam giới trong gia đình. 
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, với tư cách là nền tảng chính trị cho việc xây dựng gia đình trong thời kỳ 
quá độ, thể hiện vai trò quan trọng nhất thông qua hệ thống pháp luật và chính sách xã hội. Trong đó, Luật 
Hôn nhân và Gia đình cùng với các chính sách về bình đẳng giới, dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã hội… 
giữ vai trò định hướng và thúc đẩy sự phát triển của mô hình gia đình mới phù hợp với quá trình đi lên 
CNXH. Những chính sách này không chỉ bảo vệ lợi ích của công dân và các thành viên trong gia đình mà 
còn góp phần tạo ra môi trường thuận lợi để duy trì hạnh phúc gia đình trên nền tảng công bằng và tiến bộ. 
Tuy nhiên, mức độ thành công của việc xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ phụ thuộc nhiều vào sự 
hoàn thiện của hệ thống pháp luật và chính sách xã hội. Khi các chính sách này chưa đầy đủ hoặc chưa thực 
sự hiệu quả, việc đảm bảo hạnh phúc gia đình và thực hiện bình đẳng giới trong thực tế vẫn còn gặp nhiều  hạn chế. 
Tại Việt Nam, Đảng Cộng sản luôn coi gia đình là "tế bào của xã hội", đóng vai trò quan trọng trong 
việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên, nơi truyền bá tư tưởng  15        lOMoAR cPSD| 47270246 
cách mạng, hình thành đạo đức con người mới xã hội chủ nghĩa. Các chính sách của Đảng và Nhà nước 
luôn nhấn mạnh việc xây dựng gia đình tiến bộ, bình đẳng và văn minh, coi đây là nền tảng để xây dựng  CNXH. 
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia 
đình, đảm bảo tính bình đẳng giới và bảo vệ quyền trẻ em. Ngoài ra, các tổ chức chính trị - xã hội như Hội 
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đóng vai trò quan trọng trong việc 
tuyên truyền, giáo dục về trách nhiệm gia đình, phát huy truyền thống gia đình Việt Nam trong bối cảnh 
phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.  3. Cơ sở văn hóa 
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đời sống văn hóa và tinh thần có những biến đổi sâu sắc song hành 
cùng với sự chuyển đổi trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Những giá trị văn hóa mới, được xây dựng trên 
nền tảng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, từng bước hình thành và dần dần giữ vai trò chi phối đời sống 
tinh thần của xã hội. Đồng thời, những phong tục tập quán lạc hậu và các yếu tố văn hóa cũ không còn phù 
hợp với xu thế phát triển tiến bộ của xã hội từng bước bị loại bỏ, góp phần tạo nên một nền văn hóa mới 
mang tính nhân văn và tiến bộ hơn. 
Sự phát triển của hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc 
nâng cao trình độ dân trí, cung cấp kiến thức khoa học và công nghệ hiện đại cho toàn xã hội. Những tiến 
bộ này không chỉ giúp nâng cao nhận thức của mỗi cá nhân mà còn góp phần định hình các giá trị và chuẩn 
mực mới trong gia đình, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình theo hướng phù hợp với sự phát triển của 
CNXH. Khi trình độ dân trí được nâng cao, nhận thức về bình đẳng giới, trách nhiệm nuôi dạy con cái và 
xây dựng gia đình hạnh phúc cũng sẽ được củng cố, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của 
gia đình trong bối cảnh xã hội mới. 
Tuy nhiên, nếu không có một nền tảng văn hóa vững chắc hoặc nếu sự phát triển văn hóa không đồng 
bộ với những tiến bộ trong kinh tế và chính trị, quá trình xây dựng gia đình theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa sẽ gặp nhiều khó khăn và có thể dẫn đến những lệch lạc trong việc thiết lập các giá trị gia đình. Vì 
vậy, bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế và pháp luật, việc xây dựng nền tảng văn hóa 
lành mạnh, tiến bộ, gắn liền với mục tiêu phát triển xã hội chủ nghĩa là điều kiện không thể thiếu để bảo 
đảm cho sự phát triển hài hòa và bền vững của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ. 
Gia đình Việt Nam từ lâu đã gắn liền với các giá trị truyền thống như hiếu nghĩa, kính trên nhường dưới, 
đoàn kết và trách nhiệm với cộng đồng. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, văn hóa gia đình đang 
chịu nhiều tác động từ văn hóa phương Tây, công nghệ số và sự thay đổi về lối sống của thế hệ trẻ. Một 
khảo sát của Viện Nghiên cứu Gia đình (2022) cho thấy, 78% người trẻ Việt Nam cho rằng họ chịu ảnh 
hưởng từ văn hóa phương Tây trong lối sống và tư duy, trong khi 62% số người lớn tuổi bày tỏ lo ngại về 
sự mai một của các giá trị truyền thống.  16        lOMoAR cPSD| 47270246 
Chính phủ đã có nhiều chương trình nhằm bảo tồn văn hóa gia đình, bao gồm Ngày Gia đình Việt Nam 
(28/6), các chương trình giáo dục đạo đức trong trường học, và khuyến khích các hoạt động văn hóa truyền 
thống trong cộng đồng. Để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH, cần có sự kết hợp giữa truyền 
thống và hiện đại, giữa chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế, phù hợp với những yêu cầu mới của sự 
phát triển xã hội chủ nghĩa. 
4. Cơ sở pháp lý - chế độ hôn nhân và gia đình  4.1 Hôn nhân tự nguyện 
Hôn nhân tiến bộ trong thời kỳ quá độ lên CNXH là hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân 
chính giữa nam và nữ. Tình yêu là một khát vọng tự nhiên của con người trong mọi thời đại, là nền tảng 
quan trọng để duy trì sự bền vững và hạnh phúc trong gia đình. Khi hôn nhân không xuất phát từ tình yêu, 
mối quan hệ vợ chồng có nguy cơ trở thành sự ràng buộc mang tính hình thức, thiếu sự gắn kết về tinh thần 
và tình cảm, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến hạnh phúc gia đình và xã hội. 
Hôn nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự nguyện, trong đó nam và nữ có quyền tự do 
lựa chọn bạn đời mà không bị áp đặt bởi gia đình hay các yếu tố bên ngoài. Điều này phản ánh bước tiến 
lớn trong nhận thức xã hội về quyền con người, đặc biệt là quyền của phụ nữ trong quyết định hôn nhân 
của mình. Tuy nhiên, hôn nhân tự nguyện không có nghĩa là loại bỏ hoàn toàn vai trò của gia đình trong 
việc định hướng, khuyên răn, giúp đỡ con cái đưa ra quyết định đúng đắn, phù hợp với đạo đức, văn hóa và  trách nhiệm cá nhân. 
Bên cạnh quyền tự do kết hôn, một hôn nhân tiến bộ cũng phải đảm bảo quyền tự do ly hôn khi tình 
yêu giữa vợ và chồng không còn tồn tại. Việc duy trì một cuộc hôn nhân không có tình yêu không chỉ làm 
suy giảm chất lượng cuộc sống của hai bên mà còn có thể dẫn đến những hệ lụy tiêu cực như bạo lực gia 
đình, căng thẳng tâm lý và ảnh hưởng tiêu cực đến con cái. Tuy nhiên, quyền ly hôn cần được thực hiện 
trên cơ sở trách nhiệm và cân nhắc kỹ lưỡng, tránh tình trạng lạm dụng hoặc đưa ra quyết định ly hôn vì 
những lý do vụ lợi, ích kỷ. Xã hội cần có những biện pháp nhằm hỗ trợ các cặp vợ chồng trong việc giải 
quyết mâu thuẫn, bảo vệ quyền lợi của các bên, đặc biệt là quyền lợi của con cái sau ly hôn. 
Hôn nhân tiến bộ không chỉ dừng lại ở tình yêu và sự tự nguyện mà còn bao hàm trách nhiệm của các 
bên trong việc xây dựng và duy trì một gia đình hạnh phúc, bền vững. Điều này phù hợp với quan điểm của 
CNXH, trong đó con người được giải phóng khỏi những ràng buộc bất công và có quyền tự do phát triển 
trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng và yêu thương lẫn nhau. 
Trong thực tế, theo số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam (2022), tỷ lệ kết hôn dựa trên tình yêu và sự 
tự nguyện chiếm đến 85%, phản ánh sự thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức của xã hội về hôn nhân hiện đại. 
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những trường hợp ép buộc hôn nhân, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, nơi mà tập 
quán truyền thống vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ.  17        lOMoAR cPSD| 47270246 
4.2 Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng 
Bản chất của tình yêu là sự gắn kết sâu sắc và không thể chia sẻ, do đó, hôn nhân một vợ một chồng là 
kết quả tất yếu của một mối quan hệ xuất phát từ tình yêu chân chính. Đây không chỉ là điều kiện đảm bảo 
hạnh phúc gia đình mà còn phù hợp với quy luật tự nhiên, tâm lý, đạo đức và tình cảm của con người. Chế 
độ hôn nhân một vợ một chồng tạo nền tảng vững chắc cho sự chung thủy, trách nhiệm và tôn trọng lẫn 
nhau giữa hai vợ chồng, từ đó góp phần xây dựng gia đình ổn định và xã hội phát triển lành mạnh. 
Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử loài người, đặc biệt khi chế độ tư hữu 
ra đời và thay thế chế độ công hữu nguyên thủy. Tuy nhiên, trong các xã hội trước đây, chế độ này chủ yếu 
mang tính bất bình đẳng khi chỉ áp dụng với phụ nữ, trong khi nam giới vẫn có quyền duy trì nhiều mối 
quan hệ khác. Điều này xuất phát từ mong muốn bảo vệ tài sản và duy trì dòng dõi của người đàn ông. 
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, việc thực hiện hôn nhân một vợ một chồng mang một ý nghĩa mới: không 
chỉ là sự ràng buộc về pháp lý mà còn thể hiện sự bình đẳng giữa vợ và chồng. Đây là bước tiến quan trọng 
trong việc giải phóng phụ nữ, khẳng định quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau giữa hai giới trong đời sống  gia đình và xã hội. 
Quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng không chỉ giới hạn trong tình yêu và trách nhiệm chung mà còn mở 
rộng sang các lĩnh vực khác như công việc, học tập, hoạt động xã hội và quyết định cá nhân. Mỗi người đều 
có quyền tự do lựa chọn sự nghiệp, đóng góp vào các hoạt động xã hội mà không bị áp đặt bởi quan niệm 
gia trưởng truyền thống. Tuy nhiên, bên cạnh sự độc lập, vợ chồng cũng cần thống nhất trong các vấn đề 
chung của gia đình như quản lý tài chính, nuôi dạy con cái và duy trì nền nếp gia đình. Sự phối hợp hài hòa 
giữa tự do cá nhân và trách nhiệm chung là yếu tố quan trọng giúp gia đình phát triển bền vững. 
Bình đẳng trong quan hệ vợ chồng cũng là nền tảng để xây dựng quan hệ bình đẳng giữa cha mẹ và con 
cái, cũng như giữa anh chị em trong gia đình. Nếu như cha mẹ có nghĩa vụ yêu thương, giáo dục con cái thì 
ngược lại, con cái cũng cần thể hiện lòng biết ơn, kính trọng và lắng nghe lời khuyên bảo của cha mẹ. Tuy 
nhiên, sự khác biệt về thế hệ, nhu cầu và sở thích cá nhân có thể dẫn đến những mâu thuẫn trong gia đình. 
Giải quyết những mâu thuẫn này đòi hỏi sự lắng nghe, chia sẻ và tôn trọng lẫn nhau giữa các thành viên, 
nhằm tạo ra môi trường gia đình hài hòa, nơi mỗi cá nhân đều có cơ hội phát triển và đóng góp vào sự tiến  bộ chung của xã hội. 
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 khẳng định: "Nam, nữ có quyền bình đẳng trong mọi mặt của đời sống 
xã hội và gia đình." Điều này được cụ thể hóa trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, trong đó nghiêm 
cấm hành vi đa thê, bạo lực gia đình và phân biệt đối xử giới tính. Một khảo sát của Viện Nghiên cứu Gia 
đình và Giới (2021) cho thấy, 76% phụ nữ tại Việt Nam cảm thấy quyền lợi của họ trong hôn nhân được 
tôn trọng hơn so với thế hệ trước, mặc dù vẫn còn nhiều thách thức trong việc xóa bỏ định kiến giới và bạo  lực gia đình. 
4.3 Hôn nhân được đảm bảo về mặt pháp lý  18        lOMoAR cPSD| 47270246 
Quan hệ hôn nhân và gia đình không chỉ đơn thuần là vấn đề riêng tư của mỗi cặp vợ chồng mà còn 
mang tính chất xã hội sâu sắc. Tình yêu giữa nam và nữ là quyền tự do cá nhân, xã hội không can thiệp, 
nhưng khi hai người quyết định kết hôn, quan hệ riêng tư này đã bước vào phạm vi quan hệ xã hội và cần 
được xã hội thừa nhận. Sự thừa nhận này được thể hiện qua các thủ tục pháp lý trong hôn nhân, nhằm đảm 
bảo tính hợp pháp của quan hệ vợ chồng cũng như trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với gia đình và cộng  đồng. 
Việc thực hiện các thủ tục pháp lý trong hôn nhân không chỉ thể hiện sự tôn trọng tình yêu, trách nhiệm 
giữa nam và nữ mà còn là yếu tố quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và công bằng trong xã hội. Điều 
này góp phần ngăn chặn những hành vi lợi dụng quyền tự do kết hôn hoặc ly hôn vì mục đích cá nhân không 
chính đáng, bảo vệ quyền lợi của mỗi cá nhân cũng như hạnh phúc gia đình. Đồng thời, thủ tục pháp lý 
không phải là rào cản đối với quyền tự do kết hôn hay ly hôn chính đáng, mà ngược lại, chính là cơ sở pháp 
lý để đảm bảo những quyền đó được thực hiện một cách đầy đủ, minh bạch và công bằng. 
Luật Hôn nhân và Gia đình (2014) quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng, cũng như quyền lợi 
của con cái và các quy định liên quan đến ly hôn, tài sản chung - riêng trong hôn nhân. Việc đảm bảo pháp 
lý giúp hạn chế những bất công trong quan hệ hôn nhân và tạo ra một nền tảng vững chắc cho sự phát triển 
của gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Theo Bộ Tư pháp, số lượng vụ ly hôn do bất bình đẳng về tài 
chính và quyền lợi trong hôn nhân đã giảm từ 38% (năm 2015) xuống còn 27% (năm 2022), cho thấy tác 
động tích cực của các chính sách pháp lý trong việc bảo vệ gia đình.  TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 
Chương 2 đã phân tích các cơ sở quan trọng cho việc xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên 
CNXH, bao gồm kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội, văn hóa và pháp lý. Sự phát triển của nền kinh tế thị 
trường, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa đã tạo ra những điều kiện thuận lợi nhưng 
cũng đặt ra nhiều thách thức đối với gia đình. Về chính trị - xã hội, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định vai 
trò của gia đình trong sự nghiệp xây dựng CNXH, đề ra nhiều chính sách nhằm bảo vệ và phát huy giá trị 
của gia đình Việt Nam. Về văn hóa, gia đình vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc truyền thừa các giá trị 
truyền thống, đồng thời tiếp thu những yếu tố tiến bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Về pháp lý, 
chế độ hôn nhân và gia đình được đảm bảo thông qua nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, một vợ một chồng, 
bình đẳng giữa vợ và chồng, cùng với sự bảo vệ của pháp luật. Những cơ sở này tạo nền tảng cho sự ổn 
định và phát triển của gia đình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đồng thời đặt ra yêu cầu tiếp tục hoàn 
thiện các chính sách, pháp luật nhằm xây dựng gia đình bền vững, văn minh, phù hợp với định hướng xã  hội chủ nghĩa. 
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ  LÊN CNXH. 
1. Những thực trạng gia đình ở Việt Nam.  1.1. Về số lượng.  19        lOMoAR cPSD| 47270246 
Cùng với sự gia tăng dân số, số lượng hộ gia đình ở Việt Nam cũng không ngừng phát triển, phản ánh 
những thay đổi về cấu trúc và mô hình tổ chức gia đình trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện đại. Theo dữ 
liệu từ các cuộc tổng điều tra dân số qua các thời kỳ, số lượng hộ gia đình tại Việt Nam đã không ngừng 
tăng lên, đặc biệt trong những thập niên gần đây. Nếu như vào năm 1989, cả nước có khoảng 12,9 triệu hộ 
gia đình thì đến năm 1999, con số này đã tăng lên hơn 16,6 triệu hộ, ghi nhận mức tăng trưởng khoảng 
2,5% mỗi năm. Xu hướng này tiếp tục duy trì khi đến năm 2009, số hộ gia đình đạt gần 22,4 triệu hộ và đến 
năm 2019, con số này đã lên tới hơn 26,8 triệu hộ, tăng gấp hơn 2 lần so với năm 1989. 
Sự gia tăng số lượng hộ gia đình phản ánh nhiều yếu tố tác động. Một trong những yếu tố chính là tốc 
độ đô thị hóa và công nghiệp hóa, thúc đẩy sự phân tán dân cư và làm gia tăng các hộ gia đình nhỏ, độc lập. 
Xu hướng gia đình hạt nhân (bao gồm cha mẹ và con cái) dần trở nên phổ biến hơn so với mô hình gia đình 
truyền thống ba thế hệ cùng chung sống. Ngoài ra, sự thay đổi trong nhận thức về hôn nhân và gia đình 
cũng dẫn đến sự xuất hiện của các mô hình gia đình mới như gia đình đơn thân, gia đình ly hôn, hoặc những 
cá nhân chọn sống độc lập mà không lập gia đình. 
Tuy nhiên, bên cạnh sự gia tăng về số lượng, gia đình Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều thách thức 
trong việc duy trì sự ổn định và gắn kết. Sự phát triển kinh tế mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng kéo theo 
áp lực lớn về chi phí sinh hoạt, nhà ở và việc làm, khiến nhiều gia đình trẻ gặp khó khăn trong việc xây 
dựng một cuộc sống ổn định. Điều này đặt ra yêu cầu cần có những chính sách hỗ trợ phù hợp nhằm đảm 
bảo sự phát triển bền vững của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH.  1.2. Về chất lượng. 
Cùng với sự thay đổi của nền kinh tế - xã hội, chất lượng gia đình ở Việt Nam cũng trải qua nhiều biến 
chuyển đáng kể, đặc biệt là trong các chức năng cơ bản như giáo dục, chăm sóc, kinh tế và tình cảm. Trong 
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, sự thay đổi về môi trường sống và điều kiện lao 
động đã làm biến đổi đáng kể vai trò của từng thành viên trong gia đình. Nếu như trước đây, gia đình truyền 
thống đóng vai trò là nơi gắn kết các thế hệ, đảm bảo sự nuôi dưỡng, giáo dục con cái và duy trì những giá 
trị truyền thống, thì ngày nay, sự chuyên môn hóa trong lao động cùng với nhịp sống hiện đại đã làm giảm 
bớt sự gắn kết nội bộ giữa các thành viên. 
Bên cạnh đó, mô hình gia đình cũng có sự thay đổi. Các gia đình hạt nhân (chỉ gồm cha mẹ và con cái) 
ngày càng trở nên phổ biến, trong khi mô hình gia đình nhiều thế hệ sống chung dưới một mái nhà đang 
dần thu hẹp lại. Điều này phản ánh sự tác động của xu hướng đô thị hóa, nhu cầu di cư lao động và sự thay 
đổi trong quan niệm về cuộc sống gia đình của giới trẻ. Ngoài ra, mô hình gia đình đơn thân cũng ngày 
càng gia tăng, phần lớn xuất phát từ tỷ lệ ly hôn cao hơn so với trước đây. Theo số liệu từ Tổng cục Thống 
kê, số vụ ly hôn ở Việt Nam đã tăng từ 51.361 vụ năm 2000 lên khoảng 120.000 vụ vào năm 2020, với xu 
hướng tiếp tục gia tăng. 
Mặt khác, chất lượng đời sống gia đình còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa và công nghệ. Sự 
giao thoa văn hóa trong thời kỳ hội nhập đã mang đến nhiều ảnh hưởng tích cực, giúp các gia đình có cơ 
hội tiếp cận với những chuẩn mực giáo dục, sinh hoạt và lối sống tiên tiến. Tuy nhiên, điều này cũng dẫn 
đến sự mai một của một số giá trị truyền thống, khi giới trẻ ngày càng có xu hướng đề cao chủ nghĩa cá  20