-
Thông tin
-
Quiz
Xung đột và hợp tác quốc tế song phương trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu hiện nay thực tiễn mối quan hệ – song phương giữa Nga – Trung Quốc | Tiểu luận Quan hệ quốc tế
Trên thực tế, thế giới đã trải qua những thay đổi to lớn trong vài năm qua, đặc biệt là từ năm 2020, những thay đổi diễn ra rất nhanh và rất phức tạp. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng còn nhiều khó khăn trở ngại, cạnh tranh chiến lược, mâu thuẫn cục bộ giữa các cường quốc tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức phức tạp. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Quan hệ quốc tế 26 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Xung đột và hợp tác quốc tế song phương trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu hiện nay thực tiễn mối quan hệ – song phương giữa Nga – Trung Quốc | Tiểu luận Quan hệ quốc tế
Trên thực tế, thế giới đã trải qua những thay đổi to lớn trong vài năm qua, đặc biệt là từ năm 2020, những thay đổi diễn ra rất nhanh và rất phức tạp. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng còn nhiều khó khăn trở ngại, cạnh tranh chiến lược, mâu thuẫn cục bộ giữa các cường quốc tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức phức tạp. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Quan hệ quốc tế 26 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ TIỂU L Ậ U N Ế K T THÚC HỌC PHẦN MÔN QUAN HỆ QUỐC TẾ ĐỀ TÀI
XUNG ĐỘT VÀ HỢP TÁC SONG PHƯƠNG TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TOÀN CẦU HIỆN NAY – THỰC TIỄN MỐI
QUAN HỆ SONG PHƯƠNG GIỮA NGA – TRUNG QUỐC. Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Trang Mã sinh viên: 2055370059 Lớp: QLHCNN K40 Giảng viên: Lưu Thuý Hồng
Hà Nội ngày 30 tháng 12 năm 2021 PHỤ LỤC
LỜI CÁM ƠN ................................................................................................. 1
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT VÀ HỢP TÁC SONG
PHƯƠNG TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TOÀN CẦU. ... 4
1.1. Xung đột, cơ chế xung đột và nguyên nhân ....................................... 4
1.2. Hợp tác song phương ........................................................................... 7
1.3. Các vấn đề toàn cầu .............................................................................. 8
1.4. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về hợp tác song phương ...... 10
CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ HỢP TÁC SONG PHƯƠNG NGA –
TRUNG QUỐC TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TOÀN CẦU HIỆN
NAY. ............................................................................................................... 12
2.1. Những nét mới trong quan hệ quốc tế hiện nay. ............................. 12
2.2. Thực trạng quan hệ quốc tế song phương Nga- Trung trong việc giải
quyết các vấn đề toàn cầu. ........................................................................ 14
CHƯƠNG 3: TRIỂN VỌNG VÀ HẠN CHẾ TRONG MỐI QUAN HỆ
NGA - TRUNG TÁC ĐỘNG ĐẾN CÁC VẤN ĐỀ TOÀN CẦU. ............. 18
3.1. Đánh giá và nhận xét mối quan hệ song phương Nga- Trung. ....... 18
3.2. Dự báo mối quan hệ Nga - Trung trong tương lai. .......................... 20
3.3 Việt Nam trong mối quan hệ song phương Nga – Trung. ............... 22
KẾT LUẬN ................................................................................................... 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 25 1 LỜI CÁM ƠN
Trước hết, cho phép em được gửi lời cảm ơn chân thành tới Học viện Báo
chí và Tuyên truyền đã đưa môn học “Quan hệ quốc tế” vào chương trình đào
tạo. Mặc dù không phải là sinh viên chuyên nghành nhưng qua môn học này
em đã tích luỹ thêm cho mình nhiều kiến thức, đặc biệt là những kiến thức vô
cùng thiết thực trong cuộc sống.
Em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo giảng viên phụ trách cô
Đào Thuý Hồng đã tận tâm, tận tình giảng dạy và truyền đạt những kiến thức
quý báu nhất cho em trong suốt thời gian học tập vừa qua. Thông qua những
giờ học “Quan hệ quốc tế” của cô, em đã tích luỹ thêm được cho bản thân rất
nhiều kiến thức bổ ích. Đó chính là nguồn kiến thức vô cùng quý giá, là hành
trang để em có thể vững bước trong tương lai.
Quan hệ quốc tế là một môn học thú vị, gần gũi với thực tế. Trong cuộc sống
chúng ta thường hay nghe các tin tức quốc tế, các mối liên minh hợp tác quốc tế
qua kênh tin tức thời sự, chắc hẳn cụm từ “ Quan hệ quốc tế” cũng không còn quá
xã lạ đối với chúng ta. Môn ọ
h c như đưa em sang một tầm cao mới, hướng suy
nghĩ và tư duy ra xa hơn, hiệu được phần nào các mối quan hệ hợp tác chiến lược quốc ế
t . Tuy nhiên do trình độ hiểu biết và khả năng tiếp thu thực tế còn hạn chế
và thời gian học tập chưa được lâu. Ngoài ra ảnh hưởng của đại dịch COVID-19,
khiến cho hiệu quả của việc học chưa cao. Việc học trực tuyến còn tồn tại nhiều
bất cập, mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng bài viết ẽ
s không tránh khỏi những sai
sót và còn tồn tại nhiều điểm chưa chính xác. Rất mong nhận được sự quan tâm
và góp ý để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn! 2 MỞ ĐẦU
Trên thực tế, thế giới đã trải qua những thay đổi to lớn trong vài năm qua,
đặc biệt là từ năm 2020, những thay đổi diễn ra rất nhanh và rất phức tạp. Hòa
bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng còn nhiều khó khăn trở ngại,
cạnh tranh chiến lược, mâu thuẫn cục bộ giữa các cường quốc tiếp tục diễn ra
dưới nhiều hình thức phức tạp. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục phát
triển, nhưng đang phải đối mặt với những thách thức từ sự cạnh tranh ảnh hưởng
giữa các cường quốc và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Luật pháp
quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu phải đối mặt với những thách thức
lớn. Mặc dù tình hình thế giới tiếp tục chuyển dịch theo hướng đa cực, đa trung
tâm, hợp tác và cạnh tranh giữa các cường quốc về cơ bản vẫn còn diễn ra,
nhưng sự đấu tranh, hạn chế lẫn nhau ngày càng gay gắt. Các ấ v n đề toàn ầ c u diễn b ế i n p ứ
h c tạp, nhấn mạnh hơn vào an ninh mạng,
biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường. Trong những năm gần đây,
các vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển trong tương lai của nhân loại. Sự xuất h ệ
i n của dịch bệnh COVID-19 là mối
đe doạ cho cả thế giới, bởi mức độ nguy hiểm của nó mang tính huỷ diệt loài người.
Biến đổi khí hậu ngày càng biểu hiện rõ hơn qua hiện tượng thiên tai, thời tiết khắc
nghiệt, nhiệt độ ngày càng tăng ca .
o Để góp phần khắc phục và đối phó với các
vấn đề toàn cầu trên thì giải pháp đối ưu hoá nhất chính là hợp tác quốc tế. Sự hợp
tác góp sức giữa các quốc gia, đặc biệt là giữa các quốc gia lớn, luôn là sự lựa chọn đúng ắ đ n đem ạ l i ậ h u quả cao n ấ
h t để giải quyết các vấn ề đ mang tính toàn
cầu hiện nay. Hợp tác song phương và hợp tác đa phương đều là những mô hình
hợp tác phổ biến trên thế giới hiện nay, mỗi mô hình đều mang những đặc điểm
và lợi ích riêng. Tất cả đều góp phần giải quyết những vấn đề chung giữa hai hay
nhiều quốc gia vì lợi ích chung của các quốc gia đó. Hợp tác đa phương đã quá
phổ biến và rõ ràng thông qua các tổ chức quốc tế. Hợp tác song phương thì quy
mô nhỏ và hẹp hơn, nó phụ thuộc vào tình hình hai nước và ố m i quan hệ giữa hai nước tr ớ
ư c khi tiến hành hợp tác. 3
Quan hệ quốc tế luôn vận động, chuyển biến không ngừng, dưới tác động
của toàn cầu hóa, quá trình đó lại diễn ra càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Xung
đột và hợp tác là một trong những quá trình cơ bản của quan hệ quốc tế. Có thể
hôm nay là bạn mai đã là kẻ thù hoặc cũng có thể hôm nay là kẻ thù, mai đã là
bạn, điển hình như mối quan hệ giữa Nga và Trung Quốc hiện nay. Trong thế
kỷ 21, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc cải cách, và
một “người khổng lồ Trung Quốc” đã dần hiện ra trước mắt thế giới. Nước Nga
dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đang vươn mình khỏi khủng hoảng và
dần lấy lại vị thế cường quốc trên trường quốc tế. Hoa Kỳ tuyên bố rằng Trung
Quốc và Nga là hai đối thủ mạnh nhất của họ. Trung Quốc và Nga thừa nhận
rằng hợp tác và thúc đẩy phát triển chung đóng vai trò to lớn trong việc kiểm
tra và cân bằng siêu cường Mỹ về mọi mặt, đồng thời sẽ tăng cường hơn nữa
quan hệ song phương trong thế kỷ 21.
Hiểu rõ về xung đột quốc tế nhất là xung đột và hợp tác song phương, cho
phép chúng ta nhận thức đúng đắn hơn để có thể ngăn chặn và giải quyết kịp
thời các tình huống, các nguy cơ xung đột và chủ động, tích cực đẩy mạnh hợp
tác quốc tế, hợp tác song phương giữa hai quốc gia. Đó cũng chính là lý do mà
em quyết định lựa chọn đề tài: “ Xung đột và hợp tác quốc tế song phương
trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu hiện nay – thực tiễn mối quan hệ
song phương giữa Nga – Trung Quốc” làm đề tài tiểu luận của mình. Để góp
phần làm rõ những tác động to lớn từ hợp tác song phương đến việc giải quyết
các vấn đề toàn cầu hiện nay. 4 CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT VÀ HỢP TÁC SONG PHƯƠNG
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TOÀN CẦU.
1.1. Xung đột, cơ chế xung đột và nguyên nhân
1.1.1. Xung đột và cơ chế xung đột
Xung đột quốc tế là tình trạng xã hội nảy sinh khi hai hay nhiều chủ thể
của quan hệ quốc tế có những mâu thuẫn với nhau trong cùng một khía cạnh,
một vấn đề liên quan. Mâu thuẫn giữa các chủ thể quan hệ quốc tế hoàn toàn
có thể nảy sinh và hiện diện trong mọi yếu tố cấu thành nên quan hệ quốc tế đó
bao gồm: động cơ, hành vi, kết quả, các yếu tố bên trong và bên ngoài:
- Trong động cơ là khi các chủ thể quan hệ quốc tế có sự bất đồng trong
cách nhìn nhận hay có quan điểm trái ngược nhau về một vấn đề nào đó.
- Trong hành vi là khi các bên có những hành vi đối đầu nhau trong cùng một vấn đề.
- Trong kết quả là khi kết quả tương tác không làm hài lòng ít nhất một bên nào đó.
- Đối với các yếu tố bên trong, đó là khi các mâu thuẫn đối nội tác động
hoặc được chuyển hóa thành mâu thuẫn đối ngoại.
- Đối với các yếu tố bên ngoài, đó là sự tác động và chuyển hóa mâu thuẫn
từ môi trường quốc tế vào thành mẫu thuẫn giữa các chủ thể.
Minh chứng điển hình: Xung đột Israel – Palestine
Xung đột đẫm máu này bắt nguồn từ việc một nhóm người Palestine bị đẩy
khỏi nơi sinh sống ở Jerusalem để lấy chỗ cho người Do Thái. Bắt đầu từ giữa thế
kỷ 20. Căn nguyên sâu xa của cuộc xung đột nằm ở mâu thuẫn sắc tộc giữa người
Do Thái và người Ả Rập trong Lãnh thổ Uỷ trị Palestine. Đây được gọi là cuộc
xung đột phức tạp nhất trên thế giới. Bất chấp tiến trình hòa bình kéo dài và những
nỗ lực hòa giải chung giữa Israel với Ai Cập và Jordan, Israel và Palestine đã
không đạt được thỏa thuận hòa bình cuối cùng. Để thực hiện cái gọi là "kế hoạch
hai nhà nước", một nhà nước Palestine độc lập sẽ ra đời và cùng tồn tại với nhà
nước Israel được thành lập từ năm 1948. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để đạt 5
được mục tiêu này. Tuy nhiên, “giải pháp hai nhà nước” vẫn còn nhiều thách thức.
Cả hai bên đều phản đối. Trong xã hội Israel và Palestine, xung đột đã nảy sinh
nhiều luồng ý kiến. Trong nhiều thập kỷ, nó đã làm trầm trọng thêm sự chia rẽ sâu
sắc giữa người Israel và người Palestine. 1.1.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân của xung đột quốc tế rất phong phú và đa dạng, do nhiều
nguyên nhân, nhưng chủ yếu tập trung ở các khía cạnh sau:
Nguyên nhân cơ bản là do các tiêu chí để xem xét vị trí của một quốc gia
trong hệ thống chính trị thế giới chưa cân đối. Một quốc gia có thể ở vị trí cao
trong một hệ thống tiêu chuẩn này, nhưng ở vị trí yếu hoặc thấp trong một hệ
thống tiêu chuẩn khác, xung đột quốc tế có thể xảy ra. Tranh chấp lãnh thổ giữa
các quốc gia, các vấn đề biên giới, lãnh thổ thường gắn liền với quá trình lịch
sử lâu dài và phức tạp giữa các quốc gia, dân tộc.
Ví dụ, tranh chấp lãnh thổ chính giữa Ấn Độ và Pakistan nổ ra ngay sau khi
Ấn Độ chia cắt năm 1947-Pakistan tách ra và trở thành một quốc gia độc lập.
- Sự khác biệt về hệ tư tưởng và hệ thống chính trị. Các cuộc bạo loạn,
đảo chính đã và đang diễn ra ở Trung Á, Trung Đông và Bắc Phi ngày nay là
nhân chứng điển hình của những xung đột có nguyên nhân chính trị.
- Hành vi thiếu trách nhiệm, vụ lợi, có thái độ, liều lĩnh, làm tổn hại đến
lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và lợi ích chính của cộng đồng quốc tế
trong quan hệ quốc tế, như: không tôn trọng hoặc không tuân thủ các chuẩn
mực, chuẩn mực quốc tế. Ích kỷ, thừa nhận và thực hiện lợi ích quốc gia, ảnh
hưởng đến lợi ích hợp pháp của cộng đồng quốc tế và của các quốc gia khác.
Có những hành vi gây tổn hại đến hòa bình và an ninh khu vực, thiếu chân
thành hoặc không sẵn sàng giải quyết các tranh chấp quốc tế. Không muốn
đóng góp hoặc đóng góp không tương xứng vào các nỗ lực quốc tế nhằm giải
quyết các mối nguy toàn cầu.
Ví dụ: Ấn Độ cáo buộc Pakistan che đậy thiếu trách nhiệm và tạo điều
kiện cho các cuộc tấn công khủng bố trên lãnh thổ Ấn Độ, đặc biệt là các cuộc
tấn công đẫm máu vào các thành phố. Phố Mubai cuối năm 2008. Nhà nước 6
Taliban ở Áp-ga-ni-xtan cũng đã bị tố cáo che trở là nuôi dưỡng mạng lưới
khủng bố AL Qeada, những kẻ cầm đầu thực hiện vụ tấn công đấu máu 11/9 tại Mỹ năm 2001.
Nguyên nhân tôn giáo, sắc tộc
Xung đột tôn giáo cũng rất phức tạp và khó giải quyết vì liên quan đến đạo
đức và chuẩn mực giá trị của các cộng đồng dân tộc, có lịch sử lâu đời và thường
liên quan đến các khu vực khác nhau ở nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới.
Ví dụ: Sự cạnh tranh giữa các tôn giáo lớn để giành lấy Đất Thánh ở Jerusalem:
Đối với những người theo đạo Thiên Chúa, Jerusalem là nơi chúa Jesus chết, và ở
đây có rất nhiều di tích cổ. Người Hồi giáo tin rằng Jerusalem là nơi nhà tiên tri
Muhammad lên trời, trong khi người Do Thái cho rằng Jerusalem là bản sắc của
toàn thể dân tộc Do Thái và là nơi đặt đền thờ của vua Solomon. Nguyên nhân thương mại
Khi một quốc gia tin rằng một quốc gia khác đã vi phạm một thỏa thuận
đã hứa, và các mục tiêu và nguyên tắc cùng có lợi trong quan hệ thương mại
không được đảm bảo, xung đột sẽ xảy ra. Xung đột, mâu thuẩn diễn ra khi có
sự khác biệt về tập quán kinh doanh giữa các quốc gia. Ví dụ: Từ năm 1995
đến nay, Việt Nam đã phải đối mặt với khoảng hơn 30 vụ kiện bán phá giá,
điển hình là năm 2002 khi Hoa Kỳ khởi kiện vụ kiện cá tra – basa và tôm. Năm
2005 EU khởi kiện vụ kiện giầy da, năm 2009 Canada đã tiến hành vụ điều tra
chống bán phá giá đối với giầy không thấm nước.
Và một số nguyên nhân khác như:
- Sự phát triển chênh lệch về điều kiện kinh tế và văn hoá giữa các cá địa
phương trái ngược với sự tập trung cao độ ở trung ương.
- Những quốc gia trải qua những thay đổi to lớn về chính trị và kinh tế đã
sinh ra những lực lượng chính trị và kinh tế mới.
- Bộ máy lãnh đạo còn nhiều hạn chế, văn hóa hòa giải trong xã hội còn
tồn tại nhiều bất cập, cơ cấu dân chủ có vai trò đảm bảo sự điều phối và giải
quyết các tình huống xung đột, nhất là sự yếu kém của hệ thống pháp luật. Hòa
giải không thể giải quyết các xung đột và vấn đề khi chúng mới xuất hiện. 7
- Đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội còn nhiều khó khăn, các quyền cơ bản
của con người về tự do, dân chủ, tín ngưỡng bị hạn chế để đối phó với bạo loạn và xung đột. 1.2. Hợp tác song phương
Hợp tác là một hình thức tương tác có lợi cho sự phát triển. Không một cá
nhân hay quốc gia nào có đủ nguồn lực để phát triển. Để phát triển, chúng ta phải
hợp tác. Hợp tác giúp điều phối các nguồn lực, thống nhất các lực lượng, nâng cao
khả năng giải quyết vấn đề và tìm kiếm sự phát triển. Vì vậy, hợp tác quốc tế ngày
càng trở thành phương thức cơ bản để hiện thực hóa lợi ích này. Thực tế lịch sử
cũng cho thấy, hợp tác và phát triển có quan hệ mật thiết với nhau. Phạm vi hợp
tác càng rộng thì cơ hội và điều kiện phát triển càng nhiều và khả năng đạt được
lợi ích phát triển càng lớn.
Phân theo số lượng thành viên tham gia, có hai loại: hợp tác song phương
giữa hai chủ thể quan hệ quốc tế và hợp tác đa phương có từ ba chủ thể trở lên.
Mối quan hệ song phương là mối quan hệ chính trị, kinh tế hoặc văn hóa giữa
hai quốc gia có chủ quyền. Khi các quốc gia công nhận nhau là quốc gia có chủ
quyền và đồng ý thiết lập quan hệ ngoại giao, họ thiết lập quan hệ song phương.
Các nước có quan hệ song phương sẽ cử đại sứ và các đại diện ngoại giao khác
tới thăm nhau để thúc đẩy đối thoại và hợp tác.
Hợp tác song phương giúp duy trì sự sống còn và đảm bảo an toàn cho
người dân và đất nước. Cuộc sống phải đối mặt với quá nhiều mối đe dọa mà
con người không thể một mình đương đầu. Thế giới đang ngày càng phải đối
mặt với nhiều hiểm họa chung đe dọa sự tồn vong của nhân loại, những hiểm
họa này không thể từng quốc gia giải quyết được. Vì sự tồn tại của mình, con
người và quốc gia buộc phải tham gia vào các nhóm. Nếu không có sự hợp tác,
nhóm không thể tồn tại. Các nhóm không tồn tại, người dân và đất nước khó
có thể duy trì an ninh và sự tồn tại của chính họ. Hợp tác vì an ninh và tồn tại
đã được lịch sử nhân loại chứng minh. Kể từ khi loài người ra đời, loài người
đã hợp tác để ứng phó với các mối đe dọa, các vấn đề toàn cầu. 8
Hợp tác và hội nhập có thể giúp giảm xung đột và giữ gìn hòa bình. Nhờ
đó, có thể giảm thiểu các nguyên nhân và điều kiện dẫn đến xung đột. Hợp tác
và hội nhập tạo ra mối quan hệ lợi ích và phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khả năng
xảy ra xung đột và bạo lực dễ kiểm soát hơn. Thông qua hợp tác và hội nhập,
sức mạnh của quản lý chung được hình thành. Điều này giúp giảm bớt tình
trạng vô chính phủ do xung đột và chiến tranh gây ra. Không chỉ vậy, hợp tác
và hội nhập còn là cách giải quyết xung đột.
Ví dụ: Các hiệp định kinh tế như hiệp định thương mại tự do (FTA) hoặc
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mà hai nước ký kết là những ví dụ phổ biến
của hợp tác song phương. Do hầu hết các hiệp định kinh tế được ký kết theo
đặc điểm cụ thể của các bên ký kết và đem lại lợi ích chung cho các bên nên
chúng không phải là những quy định chung, mà cần được đặt ra tùy theo các tình huống khác nhau.
Do đó, thông qua chủ nghĩa song phương, các quốc gia có thể đạt được
nhiều thỏa thuận và nghĩa vụ có mục tiêu hơn chỉ áp dụng cho các bên ký kết
cụ thể. Tuy nhiên, các quốc gia sẽ phải đối mặt với sự đánh đổi do chi phí giao
dịch lãng phí hơn là một chiến lược đa phương. Trong chiến lược song phương,
một hợp đồng mới phải được đàm phán cho mỗi quốc gia tham gia. Do đó, nó
có xu hướng được ưu tiên hơn khi chi phí giao dịch thấp và thặng dư thành viên
tương ứng với thặng dư của nhà sản xuất kinh tế cao. Ngoài ra, nếu một quốc
gia có ảnh hưởng muốn kiểm soát một quốc gia nhỏ theo quan điểm tự do, điều
này sẽ hiệu quả vì một loạt các thỏa thuận song phương với một quốc gia nhỏ
có thể làm tăng ảnh hưởng của quốc gia đó.
1.3. Các vấn đề toàn cầu
Ngày nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đang phải gánh chịu những vấn
đề toàn cầu như già hóa dân số, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng năng lượng,
nghèo đói, khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, phổ biến vũ khí hủy
diệt, thiên tai, thảm họa sinh thái, nghèo đói và dịch bệnh, an ninh lương thực,
và tài nguyên nước. An ninh mạng, an ninh mạng ... những vấn đề toàn cầu
đang là những vấn đề ảnh hưởng đến thế giới. Những vấn đề này phá vỡ khuôn 9
khổ tự nhiên của con người và phá vỡ tiến bộ kinh tế và xã hội. Trong số những
vấn đề cấp bách và thách thức lớn này, tình trạng cạn kiệt tài nguyên, đặc biệt
là tài nguyên nước và năng lượng đang là vấn đề nổi cộm, ảnh hưởng đến an
ninh và sự phát triển của nhiều quốc gia và khu vực. Nhu cầu về nguồn lực của
các nền kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển sẽ tăng
vọt, dẫn đến sự cạnh tranh về nguồn lực ngày càng gay gắt hơn. Ngoài những
vấn đề đe dọa an ninh toàn cầu nói trên, an ninh hàng hải cũng sẽ nổi lên trong
tương lai. An toàn hàng hải không chỉ liên quan đến an toàn các tuyến đường
biển mà ngày càng mở rộng ra các khía cạnh khác như an toàn môi trường biển,
tài nguyên biển. Bị ảnh hưởng bởi những diễn biến an ninh phi truyền thống
như gia tăng tranh chấp biển đảo, an ninh hàng hải sẽ trở thành một trong những
vấn đề chi phối quan hệ giữa các quốc gia.
Thế giới đang ở trong một thời ỳ k vô cùng xáo trộn. C ủ h nghĩa dân tộc rất
mạnh, chủ nghĩa bè phái đang phát triển, và các tư tưởng và hành vi cực đoan đang
gia tăng. Và “các cuộc cách mạng màu” đã tàn phá một số quốc gia ở Trung Đông
và Bắc Phi, hồi đó chủ nghĩa cực đoan và c ủ h nghĩa khủng ố b quốc ế t chưa bao
giờ phức tạp hơn thế. C ủ
h nghĩa khủng bố, điển hình là ISIS vẫn đang hoạt động
mạnh ở Iraq, Syria và một ố
s nước khác, không chỉ gây bất ổn về chính trị, quốc
phòng, an ninh ở nhiều nước, mà còn lôi k o
é nhiều nước trong và ngoài khu vực
vào “nồi lẩu thập cẩm” này. Nguy hiểm hơn, các nhóm khủng bố ngày càng mở
rộng hoạt động sang châu Âu và châu Á, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Các cuộc tấn công vào Pháp, Bỉ, Anh và Nga, đã ảnh hưởng đến một số quốc gia
ở Đông Nam Á như Philippines và Indonesia, cho thấy tất cả những điều này
không thể giải quyết trong một sớm một chiều mà sẽ kéo dài mãi mãi và không kém phần phức tạp.
Báo cáo do Mạng Tin tức Năng lượng và Biến đổi Khí hậu (Christian Aid)
công bố ngày 28 tháng 12 năm 2021, cho biết tính toán thiệt hại năm 2021 -
một năm tàn khốc do biến đổi khí hậu cho thấy khí hậu gây thiệt hại nặng nề
nhất trong 15 năm thiên tai. Mười trong số những sự cố đó dẫn đến thiệt hại từ
1,5 tỷ đô la trở lên. Hầu hết các ước tính này chỉ dựa trên tổn thất được bảo 10
hiểm, có nghĩa là thiệt hại kinh tế thực sự có thể cao hơn. Chúng bao gồm cơn
bão Ida, đổ bộ vào Hoa Kỳ vào tháng 8, gây thiệt hại 65 tỷ USD và giết chết 95
người. Lũ lụt ở châu Âu vào tháng Bảy gây thiệt hại 43 tỷ USD và giết chết
240 người, trong khi lũ lụt ở tỉnh Hà Nam của Trung Quốc gây thiệt hại 17,5 tỷ
USD, giết chết 320 người và hơn một triệu người phải di dời.
Những hiện tượng thời tiết cực đoan này gây thiệt hại nặng nề cho nhân
loại như mất an ninh lương thực, hạn hán và các hiện tượng thời tiết cực đoan
dẫn đến thiệt hại về nhân mạng và di dời. hàng loạt. Nam Sudan đã trải qua
những trận lũ lụt kinh hoàng khiến hơn 850.000 người phải rời bỏ nhà cửa,
nhiều người trong số họ đã phải di dời đến các vùng khác của đất nước, trong
khi Đông Phi tiếp tục bị tàn phá bởi hạn hán, càng làm nổi bật những bất công
do khủng hoảng khí hậu gây ra.
Điều đáng lo ngại là thiệt hại do biến đổi khí hậu này sẽ tiếp diễn nếu hành
động không được thực hiện để giảm lượng khí thải. Madagascar là quốc gia
đầu tiên phải đối mặt với tình trạng khan hiếp, cạn kiện về lương thực liên quan
đến hiện tượng nóng lên toàn cầu. Khủng hoảng nạn đói hoành hành hơn một
năm qua ở miền Nam đất nước có khả năng còn tồi tệ hơn trong những tháng
tới. Thực tế của con người về cuộc khủng hoảng khí hậu toàn cầu. Phụ nữ, trẻ
em và các gia đình đang ăn xương rồng hoặc cào cào để vượt qua đợt hạn hán
này, và hơn nửa triệu trẻ em bị suy dinh dưỡng nghiêm trọng. Điều này đang
xảy ra ở các quốc gia ít có khả năng gây ra biến đổi khí hậu nhất.
1.4. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về hợp tác song phương
Trưởng ban đối ngoại Trung ương nêu rõ, chính sách đối ngoại trong một
thời gian tới là “tăng cường quan hệ song phương, nâng tầm đa phương”, tức
là phấn đấu làm cho quan hệ song phương có hiệu quả hơn và có hiệu lực hơn.
Đặc biệt là nâng cao sự tin cậy lẫn nhau về chính trị, củng cố nền tảng hữu nghị,
thực hiện quan hệ hợp tác ngày càng đạt kết quả cao hơn.
Đại hội đại biểu toàn quốc nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam lần
thứ 13 quyết định trong bối cảnh tình hình quốc tế tiếp tục có những biến động
lớn, nhanh chóng, phức tạp, khó lường, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc 11
đứng trước cả thời cơ và thách thức. Phát huy hết vai trò chủ đạo của ngoại giao
trong việc tạo dựng, duy trì môi trường hòa bình, ổn định và huy động các
nguồn lực bên ngoài để thúc đẩy phát triển đất nước, trong đó phát huy sức
mạnh tổng hợp của ngoại giao toàn diện trên ba trụ cột là ngoại giao Đảng,
ngoại giao Nhà nước và nhân dân- đối ngoại nhân dân.
Triển khai mạnh mẽ các hoạt động ngoại giao song phương giữa Việt Nam
với các nước, nhất là các nước láng giềng, bạn bè truyền thống và đối tác quan
trọng, sử dụng có hiệu quả các kênh thông tin trực tuyến các cấp thông qua
nhiều hình thức linh hoạt. Trong bối cảnh tình hình an ninh chính trị, kinh tế -
xã hội diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường; cạnh tranh chiến lược giữa các
cường quốc gia tăng, căng thẳng và xung đột trên nhiều lĩnh vực leo thang, dịch
bệnh COVID-19, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, khủng bố, tội phạm có
tổ chức và các thách thức an ninh truyền thống khác tiếp tục phát triển trong
bình diện "thế giới", trở nên phức tạp hơn và khó có thể quản lý được.
Trước tình hình đại dịch Covid-19 diễn biến ngày càng nguy hiểm và phức
tạp như hiện nay. Việt Nam nhận định: chúng ta cần phải, tích cực chủ động
đóng góp vào sự nỗ lực chung của quốc tế trong phòng, chống dịch Covid-19,
đồng thời tranh thủ, thu hút, kê gọi sự hỗ trợ của bạn bè quốc tế về vaccine và
các trang thiết bị y tế, thuốc điều trị. Đảm bảo vừa phòng chống dịch vừa đảm
bảo phát triển kinh tế xã hội. 12 CHƯƠNG 2
MỐI QUAN HỆ HỢP TÁC SONG PHƯƠNG NGA – TRUNG QUỐC
TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TOÀN CẦU HIỆN NAY.
2.1. Những nét mới trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Sau khi Hoa Kỳ được thay thế bởi một tổng thống mới, thế giới bị ảnh
hưởng mạnh bởi bầu không khí căng thẳng tột độ và gần như đối đầu toàn diện
trên các lĩnh vực. Một ranh giới đỏ đã được hình thành giữa trục quan hệ giữa
Hoa Kỳ và Tây Âu, và Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga. Nhiều nhà quan sát thậm chí
còn dự đoán rằng sẽ có một cuộc chiến tranh lạnh mới giữa Hoa Kỳ và Trung
Quốc. Ngoài ra, toàn bộ thế giới gần như bị bao trùm trong bầu không khí bi
quan và thất vọng, và đại dịch Covid-19 gần như không có lối thoát. Tình hình
thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, song nhiều biện
pháp cho chúng ta thấy một xu thế mới đang dần hình thành. Xu hướng tăng
cường hợp tác, đối thoại, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế, được coi trọng
và sử dụng như một phương tiện để giải quyết nhiều mâu thuẫn. Quan trọng
hơn cả là chính sách của các cường quốc và khối nước được điều chỉnh theo
hướng nới lỏng, thư giãn.
Trục quan hệ Trung - Mỹ là trục quan ệ
h chính chi phối các mối quan ệ h
quốc tế. Hai bên vẫn cố gắng hết sức để kìm hãm, cản trở và không cho đối phương vượt lên ẫ
d n trước. Họ vẫn duy trì các biện pháp trừng phạt và chỉ trích lẫn nhau,
tất cả đều tìm cách gia tăng ảnh hưởng và đoàn kết đồng minh. Tuy nhiên, không
có quốc gia nào đủ sức mạnh để đè bẹp hoặc áp đảo quốc gia khác. Quan trọng nhất, do ẫ
v n còn nhiều yếu tố và lợi ích chi phối về kinh tế, chính trị, thương mại và an ninh, nên cả Hoa ỳ
K và Trung Quốc đều cho rằng cần phải điều chỉnh các
yếu tố liên quan, điều chỉnh và hợp tác trong các lĩnh vực mà họ có thể hợp tác,
đặc biệt , không cho phép Cạnh tranh biến thành xung đột.
Đồng thời, quan hệ Nga - Mỹ cũng đang có dấu hiệu hạ nhiệt. Tuy nhiên,
hai bên đã đồng ý tổ chức hội nghị thượng đỉnh vào giữa tháng 5 khi Hoa Kỳ
tiếp tục gia hạn Start 2 và dỡ bỏ các lệnh trừng phạt đối với dự án Nord Stream 13
2. Sáu năm qua ở Geneva đã cho chúng ta một cái nhìn khác về lời nói và việc
làm. Có vẻ như Mỹ đang cố gắng mềm dẻo hơn với Nga để làm đối trọng với
Trung Quốc. Tại hội nghị thượng đỉnh gần đây, Hoa Kỳ và Nga đã đồng ý ra
một tuyên bố chung về đối thoại ổn định chiến lược, trong đó thể hiện rõ sự cần
thiết phải tiếp tục đối thoại. Quan trọng nhất, hai bên đã xác định sơ bộ các lĩnh
vực mà lợi ích quốc gia của họ là tối ưu, và cùng nhau thúc đẩy và làm cho thế
giới an toàn hơn. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho các mối quan hệ quốc tế.
Một đặc điểm nổi bật khác của quan hệ quốc tế trước đây là phối hợp và
hợp tác trong khuôn khổ đa phương để giải quyết các thách thức toàn cầu. Đã
có nhiều dấu hiệu cho thấy cơ cấu quản trị đa phương đã khôi phục lòng tin,
phù hợp với sự lựa chọn và lợi ích của nhiều nước và các nước lớn. Xu hướng
hợp tác quốc tế và hợp tác tập thể để chống dịch tăng nhanh. Không chỉ những
quốc gia có tiềm lực mạnh mới thể hiện được điều này, nhiều quốc gia nhỏ và
khó khăn như Việt Nam cũng đã hỗ trợ rất nhiều cho các quốc gia lớn như Hoa
Kỳ và Châu Âu trong giai đoạn đầu của dịch. Chưa kể "kế hoạch thời chiến"
của G20 để ứng phó với dịch bệnh. Đây là một ví dụ điển hình, thể hiện sự gắn
kết giữa các nước giàu và đang phát triển, kể cả những nước mà giữa hai bên
còn nhiều mâu thuẫn (giàu và nghèo).
Tuy nhiên, không phải là thách thức duy nhất hiện nay mà thế giới đang
gặp phải là Covid-19. Có một thách thức không kém phần khó vượt qua là biến
đổi khí hậu và hậu quả của nó là trái đất ấm dần lên. Đối diện với thách thức
này chúng ta cũng lại chứng kiến một xu thế hợp tác mới. Đó là sự lên ngôi
hoặc sự quay trở lại của chủ nghĩa đa phương. Bắt đầu bằng việc Mỹ quay trở
lại Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu. Điều này cho thấy các cường quốc như
Mỹ, Trung, Nga, EU, Nhật Bản, Anh và Pháp có thể cùng hợp tác với nhau
trong một lĩnh vực mới. Đó là ngăn chặn sự nóng lên của trái đất, phối hợp, đầu
tư vào một nền kinh tế sạch sẽ hơn và bền vứng hơn. 14
2.2. Thực trạng quan hệ quốc tế song phương Nga- Trung trong việc giải
quyết các vấn đề toàn cầu.
2.2.1. Xung đột Nga - Trung Quốc
Quan hệ Trung-Nga có lịch sử lâu đời. Trước đây, khi các nước xã hội chủ
nghĩa còn tồn tại với vai trò trụ cột của hòa bình, dân c ủ h và c ủ h nghĩa xã hội thì
Liên Xô và Trung Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa lớn nhất, có vị trí, vai trò
quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với sự củng cố và phát triển của cách mạng thế
giới. vận động và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, hai nước cũng có những mâu thuẫn,
nhất là về quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội và đối ngoại.
Về lịch sử phát triển của mỗi quốc gia đều có những bước thăng trầm khác nhau,
như cuộc xung đột biên giới Xô - Trung những năm 1960-1920. Sự bất đồng này
lên đến đỉnh điểm, ảnh hưởng đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, và
hình ảnh của phe xã hội chủ nghĩa trên trường quốc tế.
Mối bất hòa sâu sắc trong quan hệ Trung-Xô trong những năm 1970 đã
thúc đẩy Trung Quốc phải liên kết với Hoa Kỳ, và xung đột biên giới giữa hai
nước trở nên nghiêm trọng vào năm 1969. Năm 1972, quan hệ Trung-Xô xấu
đi, chuyển từ lạnh nhạt sang đóng băng hoàn toàn khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ
Henry Kissinger thăm Trung Quốc. Sự chia ẽ
r Trung-Xô là một cuộc xung đột chính t ị r và ý thức ệ h lớn giữa
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết
(Liên Xô) trong Chiến tranh Lạnh. Sự chia ẽ
r bắt đầu vào cuối những năm 1950
và tiến tới xung đột biên giới Trung-Xô vào tháng 4 và tháng 5 năm 1962, với
đỉnh điểm là các cuộc đụng độ đẫm máu giữa hai nước vào mùa xuân năm 1969.
Kể từ đó, hai bên coi nhau như kẻ thù. Sự chia rẽ này đã phát triển theo nhiều cách
khác nhau cho đến cuối những năm 1980. Điều này ẫ d n ế đ n sự chia ẽ
r song song trong phong trào cộng sản quốc tế,
mặc dù điều này có thể liên quan nhiều hơn đến lợi ích quốc gia của cả Trung
Quốc và Liên Xô cũng như ý t ứ
h c hệ cộng sản của họ. gia đình.
Năm 1959, Khrushchev tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh với Tổng thống Hoa
Kỳ Dwight Eisenhower. Liên Xô đã thất hứa giúp Trung Quốc phát triển vũ khí 15
hạt nhân. Liên Xô và Trung Quốc từng có nhiều xung đột về các vấn ề đ lãnh thổ
và biên giới. Một trong số đó là về Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ. Các nhà lãnh
đạo Trung Quốc đã có ý định kết hợp Mông Cổ vào Trung Quốc. Điều này đã bị
Liên Xô và chính Mông Cổ phản đối.
Từ năm 1960 đến năm 1969, sự khác biệt và mâu thuẫn trong nội bộ các nước ộ
c ng sản, đặc biệt là giữa Liên Xô và Trung Quốc (sau hai cuộc họp năm
1957 và 1960) không hề lắng xuống mà ngày càng t ở
r nên nghiêm trọng và công
khai hơn. Các cuộc tranh luận gay gắt và sự khác biệt giữa hai đảng về các vấn
đề lý luận và đường lối chung của phong trào cộng sản quốc tế đã dẫn đến sự
chia rẽ thực sự của phong trào cộng sản thành hai phe. Hai đảng lớn, hai cường
quốc tranh giành vị trí trung tâm, công kích lẫn nhau: đảng nào cũng muốn độc
chiếm chân lý, tranh giành quyền lãnh đạo nhà nước xã hội chủ nghĩa và phong
trào cộng sản cả nước. Sự chia rẽ và sáp nhập của hai đảng lớn ngày càng trở
nên gay gắt và công khai. Một số đảng cộng sản ở một số nước cũng được tổ
chức thành hai đảng theo hai khuynh hướng trên.
Trung Quốc bắt tay với Mỹ, tăng cường chống Liên Xô, ra sức xây dựng
ba cường quốc trên thế giới theo công thức “thế giới đa cực” của Henry
Kissinger, một trong số đó là Trung Quốc. Mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên
Xô hình thành sau Thế chiến thứ hai, đồng thời dùng vấn đề Việt Nam để đánh
đổi với việc Hoa Kỳ rút khỏi Đài Loan.
2.2.2. Hợp tác song phương Nga - Trung giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Quan hệ Trung Quốc - Nga đã được cải thiện kể từ những năm sau Chiến
tranh Lạnh, quan hệ giữa hai nước bắt đầu tan băng vào đầu những năm 1980
và bình thường hóa vào tháng 5/1989. Nga và Trung Quốc đã học được những
bài học và kinh nghiệm từ mối quan hệ song phương của họ, kiên quyết bảo vệ
hệ thống quốc tế với Liên hợp quốc là cốt lõi, phản đối mọi âm mưu, hành động
hay một tư duy về Chiến tranh Lạnh hay bất kỳ toan tính nào kiềm chế quá trình
mở ra một kỷ nguyên mới và gây ra một Chiến tranh Lạnh mới trong quan hệ
quốc tế. Về ngoại giao, Putin khẳng định: Quan hệ Trung Quốc – Nga đang 16
phát triển với tốc độ chưa từng có trong lịch sử, Tập Cận Bình: Quan hệ hai
nước phát triển liên tục, ổn định và vững chắc ở mức cao, mức tốt nhất trong
lịch sử trong những năm gần đây.
Các chuyến thăm cấp cao liên tiếp: Chuyến thăm Trung Quốc của Putin
vào tháng 6/2018. Tháng 6/2019: Chuyến thăm Nga của Tập Cận Bình. Trên
cơ sở quan hệ đối tác chiến lược toàn diện được ký kết ngày 5/6/2012, hai nước
đã ký “Tuyên bố chung về thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện cho kỷ
nguyên mới”. Kể từ năm 2012, Putin và Tập Cận Bình đã gặp nhau 30 lần. Vừa
qua (19/5/2021), Tổng thống Putin và Chủ tịch Tập Cận Bình đã tham gia lễ
động thổ Tổ máy 78 và 3 của Nhà máy điện hạt nhân Tianwan trên mạng. Trung
Quốc. Đặc biệt nhân kỷ niệm 20 năm ký Hiệp ước láng giềng hữu nghị tốt đẹp
28/6/2021, hai nước đã quyết định gia hạn Hiệp ước thêm 5 năm.
An ninh quân sự: Một kế hoạch hợp tác ba năm đã được ký kết vào năm
2017. Hai bên đã tổ chức cuộc tập trận quy mô lớn Vostok-2018, và Nga đã mời
Trung Quốc tham gia cuộc tập trận Tsentr-2019. Ngoài ra, hai nước cũng đã tiến
hành các cuộc tập trận chung với Iran ở Vịnh Oman và Ấn Độ Dương. Hạn chế
hợp tác quân sự: Nga phàn nàn rằng Trung Quốc đã sao chép công nghệ quân sự
của Nga, và Trung Quốc đã giảm mua vũ khí của Nga.
Kinh tế: Kim ngạch thương mại năm 2018 tăng 27,15% so với năm 2017,
đạt 107 tỷ USD. Năm 2019 tăng 4,5%, đạt 110,8 tỷ đô la Mỹ. Đã hoàn thành dự
án đường ống dẫn dầu khí "Sức mạnh của Siberia" và cầu đường bộ qua sông
Amua. Hơn 2 triệu du khách Trung Quốc đã đến thăm Nga và 2,6 triệu khách Nga
đã đến thăm Trung Quốc. Triển khai sử dụng đồng rúp và nhân dân tệ để thanh
toán. Ngoài ra, hợp tác kinh tế giữa Liên minh Kinh tế Á-Âu và Trung Quốc cũng được triển khai.
Nga và Trung Quốc cùng giải quyết các vấn đề và thách thức toàn cầu,
đồng thời thúc đẩy cải cách và hoàn thiện hệ thống quản trị toàn cầu. Nga và
Trung Quốc nhấn mạnh cam kết của họ đối với chủ nghĩa đa phương, phản đối
chủ nghĩa đơn phương và kêu gọi nỗ lực duy trì thẩm quyền của cơ chế đa
phương, nâng cao hiệu quả của hệ thống đa phương và cải thiện hệ thống. Quản 17
trị toàn cầu, cùng nhau duy trì hòa bình và ổn định chiến lược, cũng như thúc
đẩy sự phát triển của nền văn minh nhân loại, đồng thời, đảm bảo rằng tất cả
các quốc gia đều được tiếp cận bình đẳng với các kết quả phát triển.
Trước đại dịch COVID-19 chưa từng có trong 100 năm qua, Nga và Trung
Quốc ủng hộ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) với vai trò điều phối hợp tác toàn
cầu phòng chống dịch COVID-19, đẩy nhanh nghiên cứu và đưa vào sử dụng
phòng, chống dịch COVID-19 thuốc đặc trị và vắc xin phòng dịch, chung sức
khống chế và đánh bại dịch, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong phòng, chống dịch
COVID-19 thông qua các hành động thiết thực. Thúc đẩy cải cách Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB), cùng thúc đẩy việc thành lập các
tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Phát triển Mới (NDB), bổ sung và cải
thiện hệ thống quản lý tài chính toàn cầu ban đầu. Duy trì vị trí hàng đầu của
WTO trong việc thúc đẩy tự do hóa thương mại, điều phối và xây dựng các quy
tắc thương mại toàn cầu, ủng hộ cơ chế thương mại đa phương do WTO làm
trung tâm, duy trì an ninh và ổn định của chuỗi cung ứng và sản xuất toàn cầu,
đồng thời thúc đẩy sự liên kết của sáng kiến "Vành đai, Con đường" với Liên
minh Châu Âu. Ngoài ra, hai bên cũng hợp tác chặt chẽ trên các nền tảng đa
phương như nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G-20) và Diễn đàn
Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). 18 CHƯƠNG 3
TRIỂN VỌNG VÀ HẠN CHẾ TRONG MỐI QUAN HỆ NGA - TRUNG
TÁC ĐỘNG ĐẾN CÁC VẤN ĐỀ TOÀN CẦU.
3.1. Đánh giá và nhận xét mối quan hệ song phương Nga- Trung. 3.1.1. Triển vọng. Là hai cường quốc lớ
n trên thế giới, Nga và Trung Quốc được coi là những
quốc gia đóng vai trò then chốt đối với sự ổn định và phát triển của thế giới. Quan
hệ vững chắc giữa Nga và Trung Quố
c không chỉ phục vụ lợi ích của cả hai bên,
mà còn là bảo đảm quan trọng cho việc duy trì cân bằng chiến lược quốc tế, hòa
bình và ổn định thế giới. Duy trì và phát triển mối quan hệ song phương ổn định
và lành mạnh hiện là mục tiêu chung của Nga và Trung Quốc. Bỏ qua một số vấn
đề song phương chưa được giải quyết, Trung Quốc và Nga đã xây dựng lòng tin
lẫn nhau và đạt được đồng thuận trong nhiều vấn đề quốc tế, không ngừng tìm
kiếm và mở rộng các lợi ích chung. Hợp tác chiến lược Nga-Trung là không giới
hạn, kết bạn mà không hình thành liên minh, đối thoại không đối đầu, một kiểu
quan hệ nước lớn mới. Kiên trì phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị và láng giềng
tốt đẹp Nga - Trung Quốc phù hợp với lợi ích của cả hai bên, góp phần tạo môi
trường quốc tế hòa bình, ổn định ở khu vực và toàn cầu. Nó cũng phản ánh nhu
cầu tất yếu của hợp tác song phương và cùng có lợi. Tuân thủ sự phát triển của
quan hệ hợp tác Nga – Trung phù hợp với lợi ích của hai bên, góp phần tạo môi
trường quốc tế hòa bình, ổn định cho khu vực và thế giới.
Các nhà quan sát cho rằng những lo ngại chung về tình trạng bất ổn ở Trung
Á sau khi Mỹ rút khỏi Afghanistan có thể khiến Trung Quốc và Nga tăng cường
hợp tác chống khủng bố. Afghanistan phải đối mặt với một tương lai an ninh khó
khăn hơn ngay cả sau ba năm xung đột. Các vấn đề rất thực tế đã thúc đẩy Trung
Quốc và Nga hợp tác về an ninh. Nga cần duy trì an ninh và kiểm soát ma túy ở
sân sau của mình, trong khi Trung Quốc nên ngăn phong trào Đông Turkistan tiến vào Tân Cương.