ý thức xã hội và trách nhiệm nâng cao ý thức xã hội trong sinh viên hiện nay | Tiểu luận cuối kỳ môn Triết học Mác – Lênin

Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là dạng cao của việc thể hiện của vật chất, hình thái đó chỉ con người mới có. Theo LêNin đã từng nói: "ý thức của con người là cơ năng" của cái khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ não con người. Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng sâu sắc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO QUỐC TẾ
 
CHỦ ĐỀ 27:
Ý THỨC XÃ HỘI VÀ TRÁCH NHIỆM NÂNG CAO Ý THỨC
XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
Tiểu luận cuối kỳ
Môn học: Triết học MÁC – LÊNIN
MÃ SỐ LỚP HP:
LLCT130105E_22_1_11FIE
GVHD: Nguyễn Văn Thiên
NHÓM THỰC HIỆN: Nhóm 1
HỌC KỲ: – NĂM 1 2022-2023
BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BÀI TIỂU
LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Lớp: 22110FIE5 Tên nhóm: 01
ĐỀ TÀI:Ý THỨC XÃ HỘI VÀ TÁCH NHIỆM NÂNG CAO Ý THỨC XÃ
HỘI CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
ST
T
MSSV Họ Tên
Nhiệm vụ được
phân công
Tỉ lệ
%
Ký tên Điểm
1 22110007 Nguyễn Nhật An Mục 1.2, 2.2 100%
2
22110010
Nguyễn Huỳnh
Quốc
Bảo
Mục 1.4, Phần
mở đầu
100%
3 22110012 Bạch Đức
Cản
h
Mục 1.3, 2.1 100%
4
22110013 Nguyễn Lê Tùng Chi
Mục 1.1, Phần
kết luận
100%
Họ và tên nhóm trưởng: Nguyễn Lê Tùng Chi
SĐT: 0702422998
Email: 22110013@student.hcmute.edu.vn
Nhận xét của GV:
GIẢNG VIÊN NHÓM TRƯỞNG
(ký và ghi rõ họ, tên) (ký và
ghi rõ họ, tên)
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU
………………………………………………………………………1
1. Lý do chọn đề
tài………………………………………………………………………1
2. Mục đích nghiên
cứu………………………………………………………………….
3. Nhiệm vụ nghiên
cứu…………………………………………………………………
4. Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu……………………………………………………
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên
cứu………………………………………….
6. Ý nghĩa lý luận và thực
tiễn………………………………………………………….
7. Kết cấu của tiểu
luận…………………………………………………………………
II. PHẦN NỘI DUNG
…………………………………………………………………...3 Chương 1. KHÁI
NIỆM, KẾT CẤU, HÌNH THÁI VÀ BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
…………………………………………………………………………………..3
1.1 Khái niệm của ý thức xã hội
……………………………………………………….. 3
1.2 Kết cấu của ý thức xã
hội…………………………………………………………... 7
1.2.1: Ý thức xã hội thông thường và ý thức xã hội lý luận
…………………………….. 7
1.2.2: Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội ........... 8
1.2.3: Quan hệ của tâm lý và hệ tư tưởng xã hội.
1.3 Các hình thái của ý thức xã
hội…............................................................................ 9
1.3.1 Ý thức chính
trị ................................................................................... 9
1.3.2 Ý thức pháp
quyền......................................................................................... 10
1.3.3 Ý thức đạo đức
1.3.4 Ý thức khoa học
1.3.5 Ý thức thẩm mĩ
1.3.6 Ý thức tôn giáo
1.3.7 Ý thức triết học
1.4 Bản chất ý
thức: ......................................................................................
.................. 9
1.4.1 Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết
định
1.4.2 Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với tồn
tại xã hội.
Chương 2. TRÁCH NHIỆM NÂNG CAO Ý THỨC XÃ HỘI CỦA SINH
VIÊN HIỆN NAY ................................ 12
2.1 Một số ví dụ về ý thức xã hội ............. 12
2.2 Trách nhiệm nâng cao ý thức xã hội của sinh viên hiện
nay................................. 14
2.2.1 Trách nhiệm của sinh viên đối với nhà trường ...............................
14
2.2.2 Trách nhiệm của sinh viên đối với xã
hội................................................................ 17
III. KẾT
LUẬN .....................................................................................
...................... 23
IV. TÀI LIỆU THAM
KHẢO ...................................................................................
24
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó
là dạng cao của việc thể hiện của vật chất, hình thái đó chỉ con người
mới có. Theo LêNin đã từng nói: "ý thức của con người là cơ năng" của
cái khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ não con
người. Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng sâu sắc.
Nó không chỉ là kim chỉ nam cho các hoạt động thực tế mà còn là cơ sở
lý luận. Sự thành công hoặc thất bại của con người, tác dụng tích cự
hay tiêu cực của nó đối với quá trình phát triển của tự nhiên, xã hội
đều phụ thuộc vào cuộc trò lãnh đạo của nhận thức mà thể hiện rõ là
vai trò của khoa học văn hoá và tư tưởng.
Trong một số lĩnh vực, cụ thể là trong giáo dục, nền giáo dục của chúng
ta bắt đầu xuất phát tại 1 điểm dừng tương đối lạc hậu so với các quốc
gia khác trong khi sự thay đổi về khoa học - kỹ thuật trên thế giới đang
xảy ra hết sức mạnh mẽ , liệu nước ta sẽ đạt được thành công nhất
định về khả năng xây dựng nên hệ thống giáo dục theo tiêu chuẩn
quốc tế trong một thời gian ngắn hơn không? Chúng ta phải làm thế
nào mới thoát khỏi sự tụt hậu so với một số quốc gia trong khu vực và
trên toàn cầu? Câu hỏi trên đặt thêm cho chúng ta một vấn đề mới đó
là việc chọn lựa chính sách và trật tự ưu tiên về khoa học-công nghệ
khi tương quan với nền giáo dục trong những thập niên tiếp theo. Như
vậy có nghĩa là ta cần phải có tri thức và tri thức là khoa học. Chúng ta
phải không ngừng nâng cao năng lực tư duy trong từng cá nhân. Tuy
nhiên nếu tri thức không biến trở thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng
không có vai trò gì trong cuộc sống hiện thực cả.Chỉ tập trung vào trí
tuệ mà bỏ qua lĩnh vực văn hoá-tư tưởng , chúng ta sẽ không khai thác
hết điểm mạnh truyền thống của dân tộc. Chức năng của những giá trị
văn hoá đã đem đến ý nghĩa và giá trị đạo đức. Không có tính đạo đức
thì tất cả những dạng giá trị (giá trị vật chất và tâm hồn) sẽ chiếm hết
mọi ý nghĩa. Còn cách mạng tư tưởng đóng góp vào thay đổi đời sống
tinh trị-xã hội, cải thiện mối liên hệ tư tưởng, cảm xúc của con người
với cương vị là chủ thể xây dựng đời sống tinh thần và mở thêm được
nhiều điều kiện cho việc phát triển tự do của con người.Mà có tự do thì
con người mới dám tham gia xây dựng vùng đất Vì thế, ý thức mà biểu
hiện trong toàn xã hội là các vấn đề khoa học-văn nghệ tưởng có vai
trò rất cần thiết. Tìm hiểu về ý thức và tri thức để có các biện pháp
thích hợp tạo điều kiện cho việc phát triển xã hội.
Bên cạnh đó, trách nhiệm xây dựng và nâng cao ý thức xã hội hiện nay
là vấn đề vô cùng bức thiết. Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và N
nước, sinh viên Việt Nam hiện tại cần phải nâng cao ý thức trách nhiệm
của bản thân trên cơ sở xây dựng và thúc đẩy phát triển văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác – Lênin nhằm không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội theo
hướng khoa học, cách mạng và tiến bộ. Đồng thời tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội mới nhằm thúc đẩy xã hội trở nên
dân chủ, công bằng và văn minh.
Vì thế, nhóm chúng em quyết định lựa chọn chủ đề “ý thức xã hội và
trách nhiệm nâng cao ý thức xã hội trong sinh viên hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nắm được nội dung cơ bản về khái niệm, kết cấu, hình thái cũng như
bản chất của ý thức xã hội, qua đó tìm hiểu về trách nhiệm nâng cao ý
thức xã hội cho học sinh và sinh viên trong thời đại hiện nay
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu những nội dung cơ bản của ý thức xã hội bao gồm: khái
niệm, kết cấu, hình thái và bản chất
Nghiên cứu trách nhiệm của sinh viên trong việc nâng tầm quan trọng
của ý thức xã hội lên một tâm cao mới, phát triển và thịnh hành hóa ý
thức xã hội trong cuộc sống hiện nay
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sinh viên Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: ở Việt Nam hiện nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: việc nghiên cứu và trình bày tiểu luận dựa trên cơ sở lí
luận và các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam có liên quan đến đề
tài. Ngoài ra, tiểu luận còn chọn lọc những tư tưởng của một số đề án,
công trình khoa học đi trước có nội dung liên quan được đề cập trong
bài tiểu luận.
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp triết học Mác – Lênin, đồng thời
còn sử dụng các phương pháp phân tích, hệ thống hóa những lý thuyết
thu thập và tổng hợp để đưa ra kết luận chung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đề tài đưa ra được những thực trạng của việc xây dựng ý thứ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay trong môi trường giáo giục cũng như
ngoài xã hội
7. Kết cấu của tiểu luận
Bài tiểu luận có 4 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận
và danh mục tài liệu kham khảo.
II. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM, KẾT CẤU, HÌNH THÁI VÀ BẢN
CHẤT CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
1.1 Khái niệm của ý thức xã hội
Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ các phương diện sinh hoạt của tinh
thần trong đời sống xã hội bao gồm những tư tưởng, quan điểm, tình
cảm, tâm trạng, thói quen, phong tục, tập quán, truyền thống … của
cộng đồng xã hội nảy sinh từ tồn tại xã hội của họ và phản ánh tồn tại
xã hội đó trong những giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định.
Giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân có sự thống nhất biện chứng
nhưng không đồng nhất. Mối quan hệ giữa ý thức xã hội và ý thức cá
nhân thuộc mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội có cấu trúc hết sức phức tạp. Có
thể tiếp cận kết cấu của ý thức xã hội từ những phương diện khác
nhau.
Cùng với khái niệm ý thức xã hội, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng bàn đến
khái niệm tồn tại xã hội. Theo các nhà kinh điển, tồn tại xã hội là quá
trình đời sống hiện thực của con người. Đó là quá trình hoạt động, sinh
sống vật chất của các cá nhân cùng với những điều kiện sinh hoạt vật
chất của họ. Trong toàn bộ sinh hoạt hiện thực của con người, trước hết
các ông nói đến vị trí, vai trò quan trọng quyết định của sản xuất vật
chất, đặc biệt là sự sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt. C.Mác và Ph.
Ănghen viết: “Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế
con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”
Khẳng định ý thức xã hội là sự phản ánh và do tồn tại xã hội quyết
định, triết học Mác - Lênin cũng đồng thời nhấn mạnh, ý thức xã hội
không phụ thuộc hoàn toàn vào tồn tại xã hội mà nó có tính độc lập
tương đối so với tồn tại xã hội. Quan điểm này được thể hiện rõ trong
những luận điểm phê phán chủ nghĩa duy tâm khi họ tuyệt đối hóa vai
trò của ý thức, ý thức xã hội. Trong Hệ tư tưởng Đức, C. Mác và Ph.
Ăngghen đã chỉ ra quan niệm duy tâm về lịch sử (thực chất là giải thích
sai lệch về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội) của cả
phái Hêghen trẻ và phái Hêghen già: “Phái Hêghen trẻ cho rằng những
quan niệm, ý niệm, khái niệm, nói chung những sản phẩm của ý thức
mà họ gán cho là có một sự tồn tại độc lập, đều là những xiềng xích
thật sự đối với con người, - giống như phái Hêghen già tuyên bố rằng
chúng là những sợi dây ràng buộc thực sự đối với xã hội loài người, -
cho nên dĩ nhiên phái Hêghen trẻ chỉ cần tiến hành đấu tranh chống lại
những ảo tưởng đó của ý thức mà thôi. Vì theo họ tưởng tượng, những
quan hệ của con người, tất cả mọi hành động và cử chỉ của con người...
đều là sản phẩm của ý thức của họ”
Theo C. Mác (Karl Heinrich Marx), con người tham gia vào những quan
hệ sản xuất hoặc kinh tế nhất định và những quan hệ này dẫn đến hình
thái ý thức xã hội. Marx nói:
“Trong quá trình sản xuất xã hội của đời sống, con người tham gia vào
những quan hệ nhất định tất yếu và không phụ thuộc vào ý chí của họ;
những quan hệ sản xuất này tương ứng với một giai đoạn phát triển
nhất định của lực lượng sản xuất của họ. Tổng cộng của những quan hệ
sản xuất này tạo thành cơ cấu kinh tế của xã hội – nền tảng hiện thực,
trên đó hình thành kiến trúc thượng tầng chính trị và pháp luật và
tương ứng với những hình thái ý thức xã hội nhất định. ý thức của con
người quyết định con người của họ, nhưng ngược lại, bản thể xã hội
của họ quyết định ý thức của họ.”
Không chỉ có pháp luật tác động đến cơ sở kinh tế, mà ngay cả hệ tư
tưởng chính trị, thông qua thiết chế xã hội tương ứng với nó là nhà
nước cũng tác động trở lại kinh tế. Cũng trong bức thư này, Ph.
Ăngghen đã viết: “Tác động ngược trở lại của quyền lực nhà nước đối
với sự phát triển kinh tế có thể có ba loại. Nó có thể tác động cùng
hướng - khi ấy sự phát triển diễn ra nhanh hơn; nó có thể tác động
ngược lại sự phát triển kinh tế - khi ấy thì hiện nay ở mỗi dân tộc lớn,
nó sẽ tan vỡ sau một khoảng thời gian nhất định, hoặc là nó có thể cản
trở sự phát triển kinh tế ở những hướng nào đó và thúc đẩy sự phát
triển ở những hướng khác. Trường hợp này rốt cuộc dẫn đến một trong
hai trường hợp trên. Tuy nhiên, rõ ràng là trong trường hợp thứ hai và
thứ ba, quyền lực chính trị có thể gây tác hại rất lớn cho phát triển kinh
tế và có thể gây ra sự lãng phí to lớn về sức lực vật chất”
1.2 Kết cấu của ý thức xã hội
Dựa trên các căn cứ khác nhau mà người ta chia ý thức xã hội thành
nhiều loại hình khác nhau, nhiều bộ phận khác nhau.
1.2.1: Ý thức xã hội thông thường và ý thức xã hội lý luận
Dựa vào phương thức, trình độ phản ánh đối với tồn tại xã hội thì ý thức
xã hội được chia thành: ý thức xã hội thông thường và ý thức xã hội lý
luận.
- Ý thức xã hội thông thường.
Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con
người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng
ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá thành lý luận. Ý thức xã
hội thường phản ánh cách sinh động, chân thực và cụ thể các khía
cạnh khác nhau của cuộc sống hàng ngày của con người. Ý thức xã hội
thông thường mặc dù thuộc trình độ thấp hơn ý thức lý luận nhưng lại
phong phú, đa dạng hơn ý thức lý luận. Chính những tri thức kinh
nghiệm rộng lớn của ý thức thông thường là vật liệu, là cơ sở và tiền đề
quan trọng cho sự hình thành ý thức lý luận.
- Ý thức xã hội lý luận.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hoá, khái
quát hoá thành học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái
niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng
phản ánh, đối chiếu hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc
và chính xác, chỉ ra các mối liên hệ khách quan, bản chất, tất yếu
mang tính quy luật và các quá trình xã hội của các sự vật và hiện
tượng.
1.2.2: Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội
Dựa vào hai phương thức, hai trình độ phản ánh đối với tồn tại xã hội
thì ý thức xã hội lại được chia thành: tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã
hội.
- Tâm lý xã hội.
Tâm lý xã hội là bộ phận của ý thức xã hội bao gồm tình cảm, ước
muốn, thói quen, tập quán… của con người, của một bộ phận xã hội
hoặc của toàn bộ xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời
sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó vì thế nó chỉ ghi chép
lại những gì dễ thấy, những thứ nằm trên bề mặt tồn tại của xã hội. Do
vậy, tâm lý xã hội phản ánh trực tiếp điều kiện sống của xã hội, phản
ánh có tính tự phát và tâm lý xã hội ghi lại những mặt bề ngoài không
có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ
xã hội. Tâm lý xã hội còn mang nặng tính kinh nghiệm, chưa được thể
hiện về mặt lý luận, yếu tố tình cảm đan xen yếu tố lý luận. Bên cạnh
đó, tâm lý xã hội có vai trò nhất định trong việc phát triển ý thức xã hội
như việc sớm nắm bắt dư luận hay nhu cầu xã hội của nhân dân.
- Hệ tư tưởng xã hội.
Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao của ý thức xã hội, phản ánh tồn
tại xã hội một cách gián tiếp, tự giác, khái quát hoá các kinh nghiệm xã
hội để hình thành những quan điểm, tư tưởng về chính trị, pháp luật,
triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, v.v.. Đặc điểm của hệ tư tưởng
có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội do vậy có khả
năng phản ánh sâu sắc những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Hệ tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khoa học, và tới
toàn bộ xã hội, biểu hiện ở chỗ, hệ tư tưởng là cơ sở lý luận để định
hướng sự phát triển của khoa học và các hoạt động cải tạo xã hội.
Trong lịch sử nhân loại đã và đang tồn tại cả hệ tư tưởng khoa học và
hệ tư tưởng không khoa học. Nếu hệ tư tưởng không khoa học phản
ánh các quan hệ vật chất một cách hư ảo, sai lầm hoặc xuyên tạc thì
ngược lại, hệ tư tưởng khoa học phản ánh các quan hệ, các quá trình
và hiện tượng xã hội một cách khách quan, chính xác. Ca hai loại tư
tưởng này đều có ảnh hưởng đối với sự phát triển của khoa học. Chẳng
hạn, hệ tư tưởng không khoa học, nhất là triết học đã từng kìm hãm sự
phát triển của khoa học tự nhiên suốt hàng chục thế kỷ ở thời Trung cổ
ở châu Âu.
1.2.3: Quan hệ của tâm lý và hệ tư tưởng xã hội.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức
phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối quan hệ
qua lại và tác động qua lại với nhau. Tâm lý xã hội là toàn bộ đời sống
tình cảm, tâm trạng, khát vọng, ý chí…. của những cộng đồng người
nhất định, phản ánh trực tiếp và tự phát đối với hoàn cảnh sống của
họ. Hệ tư tưởng xã hội là toàn bộ các hệ thống quan niệm, quan điểm
xã hội như: chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, …; là sự
phản ánh gián tiếp và tự giác đối với tồn tại xã hội.
1.3 Các hình thái của ý thức xã hội
Các hình thái ý thức xã hội thể hiện những phương thức khác nhau của
sự lĩnh hội hiện thực xã hội bằng tinh thần. Vì vậy, ý thức xã hội tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau. Các hình thái ý thức xã hội chủ yếu
bao gồm: ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức, ý thức
luận (hay ý thức khoa học), ý thức thẩm mỹ (hay ý thức nghệ thuật), ý
thức tôn giáo và ý thức triết học. Tính phong phú đa dạng của các hình
thái ý thức xã hội phản ánh tính phong phú, đa dạng của bản thân đời
sống xã hội.
1.3.1 Ý thức chính trị
Ý thức chính trị là trạng thái chính trị của một người. Trạng thái tinh
thần này dựa trên nhận thức cá nhân về chính trị, vị trí trong hệ thống
chính trị và lịch sử, và những hành động mà một người cho là sẵn sàng
thực hiện nhằm nỗ lực gây ảnh hưởng đến thực tế chính trị mà người
đó đang hoạt động.
Ý thức chính trị có liên quan chặt chẽ với các khái niệm về bản sắc
chính trị, sự tham gia chính trị, văn hóa chính trị và ý tưởng về khế ước
xã hội giữa người dân và chính phủ.
1.3.2 Ý thức pháp quyền
Ý thức pháp quyền là tổng thể các quan điểm, thái độ tư tưởng của một
giai cấp về bản chất, vai trò của pháp luật, về tính hợp pháp hay không
hợp pháp trong hành vi của con người, về quyền và nghĩa vụ. của các
thành viên trong xã hội.
Nó là hình thái ý thức xã hội thể hiện sự hiểu biết, đánh giá về những
chuẩn mực đã được chấp nhận trong một xã hội nhất định như quy luật
hoạt động kinh tế - xã hội của các chủ thể pháp luật. quyền khác nhau.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phân biệt một số khái niệm theo nghĩa
pháp lý: Pháp quyền – pháp chế – hệ tư tưởng pháp quyền.
1.3.3 Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là ý thức về hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực hành
vi phù hợp với các quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại. Mặt khác, nó
còn bao hàm cả những tình cảm, tình cảm đạo đức của con người.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức đạo đức là sự biểu
hiện thái độ nhận thức của con người đối với hành vi của mình so với
hệ thống chuẩn mực hành vi, quy tắc đạo đức xã hội. phát biểu; qua đó
giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và thực hiện các nghĩa vụ
đạo đức một cách tự nguyện, tự giác.
1.3.4 Ý thức khoa học
Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức xã hội, vừa là một hiện
tượng xã hội đặc biệt. Xem khoa học là một hình thái ý thức xã hội tổng
hợp, coi nó là một hiện tượng xã hội.
Ý thức khoa học - với tư cách là một hình thái ý thức xã hội - là h
thống tri thức phản ánh trung thực dưới hình thức logic trừu tượng về
thế giới đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Đối tượng phản ánh của
ý thức khoa học bao gồm tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư
tưởng. Đó là một trong những điểm khác biệt giữa ý thức khoa học với
các hình thái ý thức xã hội khác.
Hình thức biểu hiện chủ yếu của tri thức khoa học là các phạm trù, quy
luật, định luật.
1.3.5 Ý thức thẩm mĩ
Ý thức thẩm mỹ là trạng thái có ý thức của bộ óc trong hoạt động thẩm
mỹ. Với tư cách là hệ tư tưởng cảm tính, ý thức thẩm mỹ là kinh
nghiệm thẩm mỹ được hiện thực hóa và hệ thống hóa. Nó bao gồm
năng lực cảm thụ thẩm mỹ, cách tư duy, lý tưởng thẩm mỹ của chủ
thể.
Nó dựa trên khoái cảm sinh lý, được hình thành trên cơ sở sự kết hợp
lặp đi lặp lại giữa tinh thần và vật chất, sự đồng nhất giữa khách thể và
bản thân, và các đặc điểm tâm lý được tạo ra dưới tác động của các
yếu tố đời sống xã hội, do đó nó chịu ảnh hưởng của các loại hình văn
hóa và chung. tâm lý văn hóa, và là một bộ phận hữu cơ của tổng thể ý
thức xã hội của con người.
1.3.6 Ý thức tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội bao gồm nghi lễ tôn giáo, tổ chức tôn
giáo và ý thức tôn giáo. Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử.
Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách
quan một cách huyễn hoặc, méo mó.
Về bản chất tôn giáo Ăng ghen viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ
là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người - của những lực
lượng ở bên ngoài chỉ phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản
ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu
trần thế.”
1.3.7 Ý thức triết học
Đây là loại ý thức đặc biệt và cao nhất của tri thức cũng như của ý thức
xã hội. Triết học quan trọng nhất là triết học Mác - Lênin, cung cấp cho
con người những tri thức về thế giới nói chung thông qua tổng kết toàn
bộ lịch sử phát triển của khoa học và bản thân triết học.
1.4 Bản chất của ý thức xã hội
Trước triết học Mác đã có những quan điểm không đúng đối với quá
trình phát triển và hình thành của ý thức xã hội cũng như ảnh hưởng
lên đời sống xã hội. c
Chẳng hạn, triết học duy tâm đi tìm kiếm cội nguồn của nhận thức, tư
tưởng từ chính nó; coi tinh thần, tư tưởng là nền tảng và quyết định các
vấn đề cuộc sống, . ..
Một trong những ý nghĩa bước ngoặt vĩ đại mà Mác và Ăngghen thực
hiện đối với lịch sử triết học chính là sự xây dựng quan điểm duy vật
lịch sử và lần đầu tiên đã lý giải được quá trình ra đời, hình thành và
phát triển của nhận thức xã hội. Các ông cho biết đời sống tinh thần
của nhân loại tồn tại và phát triển trên nền tảng đời sống vật chất, do
vậy không thể có được ý thức xã hội hay tình cảm xã hội trong chính
mình, cũng không thể tìm trong đầu óc con người mà lại là tim trong
hiện thực vật chất.
C.Mác viết: “… không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế
căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại phải giải thích ý thức ấy bằng
những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa
các lực lượng sản xuất xã hội và nhưng quan hệ sản xuất xã hội”.
Bản chất của ý thức xã hội là một phạm trù triết học dụa trên suy luận
biên chứng liên quan giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội. Nhằm nói lên
được sự tương tác, xâm nhập và ảnh hưởng của ý thức xã hội lên các
phạm trù triết học khác cũng như tính tương đối đọc lập của ý thức xã
hội.
1.4.1 Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã
hội quyết định
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại
xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội thay đổi
thì sớm hay muộn những tư tưởng, lý luận xã hội, quan điểm pháp luật,
đạo đức - chính trị cũng sẽ thay đổi, nhất là phương thức sản xuất xã
hội. Vì vậy, trong các thời kỳ lịch sử khác nhau sẽ có những học thuyết,
quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau. Sự thay đổi của ý thức xã hội có
thể là sự phản ánh đúng hoặc sai đối với tồn tại xã hội, nhưng xét cho
cùng về lâu dài, ý thức xã hội có khả năng phản ánh đúng đắn, đầy đủ,
chính xác quá trình biến đổi của tồn tại xã hội. Vấn đề này đã được Mác
khẳng định “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của
họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của học”
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không chỉ ở việc xác định
nguồn gốc và sự phụ thuộc của ý thức xã hội với tồn tại xã hội, mà còn
ở việc chỉ ra rằng không phải bất cứ tư tưởng, suy nghĩ nào cúng tương
đồng. Mọi tư tưởng, quan điểm, học thuyết và hình thái ý thức xã hội
đều phản ánh rõ ràng, trực tiếp những điều kiện kinh tế của thời đại.
Xét cho cùng, bằng cách này hay cách khác, những tư tưởng, quan
niệm đó đều được phản ánh. Đối với ý thức chính trị không chỉ phản
ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế quan hệ giai cấp mà còn được phản
ánh trong các hình thái ý thức khác; Mặt khác, trong các hình thái ý
thức xã hội, nó còn bao hàm sự tác động qua lại và bao hàm sự kế thừa
với quá khứ.
1.4.2 Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ
với tồn tại xã hội
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
Do lực cản của ý thức xã hội, những tác động hai mặt giữa lợi ích cá
nhân và mục đích của xã hội là sự minh chứng cho ý thức xã hội cũ còn
tồn đọng và phát triển ảnh hưởng của của ý thức xã hội cũ lên trên tư
tưởng mới.
Trong lịch sử xã hội Việt Nam nói chung, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi,
hoặc đã mai một từ lâu, tuy nhiên ý thức xã hội mà xã hội đó tạo nên
thì vẫn còn tồn tại dai dẳng. Chúng ta có thể kể đến về quan niệm
trọng nam khinh nữ, cho dù chế độ phong kiến không chấm dứt nhưng
các tư tưởng như vậy vẫn rất phổ biến ở thời đại ngày nay, nhiều gia
đình vẫn tiếp tục coi trọng người đàn ông và hạ thấp vai trò của người
phụ nữ trong xã hội.
- Ý thức xã hội có thể vượt trước so với tồn tại xã hội.
Trong những điều kiện nhất định, các yếu tố thuộc về ý thức xã hội sẽ
xuất hiện trước trên tồn tại xã hội. Triết học Mác – Lênin đã thừa
nhận rằng, trong một số trường hợp nhất định tư tưởng của nhân loại,
kể cả các quan điểm khoa học tiên tiến sẽ nhanh chóng vượt qua quá
trình phát triển của tồn tại xã hội, nếu tư tưởng này ra đời sẽ dự báo
trước tương lai và có khả năng lãnh đạo, chỉ huy hành động thực tiễn
của con người.
Lý do về sự vượt trội trong ý thức xã hội là do đặc điểm của hệ tư
tưởng này quyết định. Các tư tưởng này cũng tổng hợp nhiều quy luật
từ xưa đến giờ, đã có, đang có và sẽ có đển có thể đưa ra được lý luận
thống nhất về tồn tại xã hội. Những quy luật ấy không chỉ phản ánh
cho chúng ta biết lịch sử hay hiện tại mà còn có thể dự báo cho con
người một cách chính xác về tồn tại xã hội trong tương lai.
- Ý thức xã hội có tính kế thừa trong quá trình phát triển.
Trong quá trình phát triển của đời sống tình thần con người, ý thức xã
hội, những tư tưởng, quan niệm... có xu hướng kế thừa lẫn nhau, một
số ý thức xã hội cũ và lạc hậu từ thời đại không còn nữa sẽ tạo ra sự cơ
sở cho các thói quen xã hội mới.
Thực tế phản ảnh rằng, sự kế tục ý thức là quá trình kết hợp để lưu giữ
lại các giá trị có tính kế thừa và loại bỏ một số thói quen xã hội lạc hậu.
Vì vậy, các khuynh hướng "bảo thủ" và "phủ định" cần nhanh chóng
được xoá bỏ để bảo vệ những thói quen tích cực đối với xã hội.
Trong môi trường đại học, sinh viên trường đại học Sư Phạm Kỹ Thuật
cần kế thừa tinh thần những tu tưởng quan điểm trường và bộ giáo dục
đề ra và các anh chị đã đi trước, luôn luôn phát triển và kế thừa khẩu
hiệu của trường là “Nhân bản – Sáng tạo – Hội nhập”.
Ta nhận ra được rằng dựa trên hiện thực tại giai đoạn hiện nay, việc
nhận thức những vấn đề của đời sống văn hoá tinh thần vẫn cần thiết
phải căn cứ vào thục tiễn ý thức xã hội đã hình thành nó. Bên cạnh sự
cần thiết để giải thích các hiện tượng ở nhiều góc độ khác nhau chúng
ta còn cần phải phải đảm bảo tính chất độc lập tương đối của ý thức xã
hội vì nó luôn có sự giao thoa, ảnh hưởng và tác động đến nhau.
1.4.3 Sự tác động của ý thức xã hội lên các yếu tố của xã hội
- Giữa các hình thái ý thức xã hội luôn có sự xâm nhập, ảnh hưởng, tác
động qua lại lẫn nhau.
| 1/28

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO QUỐC TẾ
 CHỦ ĐỀ 27:
Ý THỨC XÃ HỘI VÀ TRÁCH NHIỆM NÂNG CAO Ý THỨC
XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
Tiểu luận cuối kỳ
Môn học: Triết học MÁC – LÊNIN MÃ SỐ LỚP HP: LLCT130105E_22_1_11FIE
GVHD: Nguyễn Văn Thiên
NHÓM THỰC HIỆN: Nhóm 1
HỌC KỲ: 1 – NĂM 2022-2023
BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Lớp: 22110FIE5 Tên nhóm: 01
ĐỀ TÀI: Ý THỨC XÃ HỘI VÀ TÁCH NHIỆM NÂNG CAO Ý THỨC XÃ
HỘI CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY ST Nhiệm vụ được Tỉ lệ MSSV Họ Tên Ký tên Điểm T phân công % 1 22110007 Nguyễn Nhật An Mục 1.2, 2.2 100% Nguyễn Huỳnh Mục 1.4, Phần 2 22110010 Bảo 100% Quốc mở đầu Cản 3 22110012 Bạch Đức Mục 1.3, 2.1 100% h Mục 1.1, Phần 4 22110013 Nguyễn Lê Tùng Chi 100% kết luận
Họ và tên nhóm trưởng: Nguyễn Lê Tùng Chi SĐT: 0702422998
Email: 22110013@student.hcmute.edu.vn
Nhận xét của GV: GIẢNG VIÊN NHÓM TRƯỞNG
(ký và ghi rõ họ, tên) (ký và ghi rõ họ, tên) MỤC LỤC I. PHẦN MỞ ĐẦU
………………………………………………………………………1 1. Lý do chọn đề
tài
………………………………………………………………………1 2. Mục đích nghiên
cứu
…………………………………………………………………. 3. Nhiệm vụ nghiên
cứu
…………………………………………………………………
4. Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu
……………………………………………………
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên
cứu
………………………………………….
6. Ý nghĩa lý luận và thực
tiễn
………………………………………………………….
7. Kết cấu của tiểu
luận
………………………………………………………………… II. PHẦN NỘI DUNG
…………………………………………………………………...3 Chương 1. KHÁI
NIỆM, KẾT CẤU, HÌNH THÁI VÀ BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC XÃ HỘI

…………………………………………………………………………………..3
1.1 Khái niệm của ý thức xã hội
……………………………………………………….. 3
1.2 Kết cấu của ý thức xã
hội…………………………………………………………... 7
1.2.1: Ý thức xã hội thông thường và ý thức xã hội lý luận
…………………………….. 7
1.2.2: Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội ........... 8
1.2.3: Quan hệ của tâm lý và hệ tư tưởng xã hội.
1.3 Các hình thái của ý thức xã
hội…............................................................................ 9
1.3.1 Ý thức chính
trị ................................................................................... 9 1.3.2 Ý thức pháp
quyền......................................................................................... 10 1.3.3 Ý thức đạo đức 1.3.4 Ý thức khoa học 1.3.5 Ý thức thẩm mĩ 1.3.6 Ý thức tôn giáo 1.3.7 Ý thức triết học 1.4 Bản chất ý
thức: ...................................................................................... .................. 9
1.4.1 Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định
1.4.2 Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với tồn tại xã hội.
Chương 2. TRÁCH NHIỆM NÂNG CAO Ý THỨC XÃ HỘI CỦA SINH
VIÊN HIỆN NAY ................................ 12

2.1 Một số ví dụ về ý thức xã hội ............. 12
2.2
Trách nhiệm nâng cao ý thức xã hội của sinh viên hiện
nay................................. 14
2.2.1 Trách nhiệm của sinh viên đối với nhà trường ............................... 14
2.2.2 Trách nhiệm của sinh viên đối với xã
hội................................................................ 17 III. KẾT
LUẬN ..................................................................................... ...................... 23 IV. TÀI LIỆU THAM
KHẢO ................................................................................... 24
I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó
là dạng cao của việc thể hiện của vật chất, hình thái đó chỉ con người
mới có. Theo LêNin đã từng nói: "ý thức của con người là cơ năng" của
cái khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ não con
người. Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng sâu sắc.
Nó không chỉ là kim chỉ nam cho các hoạt động thực tế mà còn là cơ sở
lý luận. Sự thành công hoặc thất bại của con người, tác dụng tích cự
hay tiêu cực của nó đối với quá trình phát triển của tự nhiên, xã hội
đều phụ thuộc vào cuộc trò lãnh đạo của nhận thức mà thể hiện rõ là
vai trò của khoa học văn hoá và tư tưởng.
Trong một số lĩnh vực, cụ thể là trong giáo dục, nền giáo dục của chúng
ta bắt đầu xuất phát tại 1 điểm dừng tương đối lạc hậu so với các quốc
gia khác trong khi sự thay đổi về khoa học - kỹ thuật trên thế giới đang
xảy ra hết sức mạnh mẽ , liệu nước ta sẽ đạt được thành công nhất
định về khả năng xây dựng nên hệ thống giáo dục theo tiêu chuẩn
quốc tế trong một thời gian ngắn hơn không? Chúng ta phải làm thế
nào mới thoát khỏi sự tụt hậu so với một số quốc gia trong khu vực và
trên toàn cầu? Câu hỏi trên đặt thêm cho chúng ta một vấn đề mới đó
là việc chọn lựa chính sách và trật tự ưu tiên về khoa học-công nghệ
khi tương quan với nền giáo dục trong những thập niên tiếp theo. Như
vậy có nghĩa là ta cần phải có tri thức và tri thức là khoa học. Chúng ta
phải không ngừng nâng cao năng lực tư duy trong từng cá nhân. Tuy
nhiên nếu tri thức không biến trở thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng
không có vai trò gì trong cuộc sống hiện thực cả.Chỉ tập trung vào trí
tuệ mà bỏ qua lĩnh vực văn hoá-tư tưởng , chúng ta sẽ không khai thác
hết điểm mạnh truyền thống của dân tộc. Chức năng của những giá trị
văn hoá đã đem đến ý nghĩa và giá trị đạo đức. Không có tính đạo đức
thì tất cả những dạng giá trị (giá trị vật chất và tâm hồn) sẽ chiếm hết
mọi ý nghĩa. Còn cách mạng tư tưởng đóng góp vào thay đổi đời sống
tinh trị-xã hội, cải thiện mối liên hệ tư tưởng, cảm xúc của con người
với cương vị là chủ thể xây dựng đời sống tinh thần và mở thêm được
nhiều điều kiện cho việc phát triển tự do của con người.Mà có tự do thì
con người mới dám tham gia xây dựng vùng đất Vì thế, ý thức mà biểu
hiện trong toàn xã hội là các vấn đề khoa học-văn nghệ tưởng có vai
trò rất cần thiết. Tìm hiểu về ý thức và tri thức để có các biện pháp
thích hợp tạo điều kiện cho việc phát triển xã hội.
Bên cạnh đó, trách nhiệm xây dựng và nâng cao ý thức xã hội hiện nay
là vấn đề vô cùng bức thiết. Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, sinh viên Việt Nam hiện tại cần phải nâng cao ý thức trách nhiệm
của bản thân trên cơ sở xây dựng và thúc đẩy phát triển văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác – Lênin nhằm không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội theo
hướng khoa học, cách mạng và tiến bộ. Đồng thời tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội mới nhằm thúc đẩy xã hội trở nên
dân chủ, công bằng và văn minh.
Vì thế, nhóm chúng em quyết định lựa chọn chủ đề “ý thức xã hội và
trách nhiệm nâng cao ý thức xã hội trong sinh viên hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nắm được nội dung cơ bản về khái niệm, kết cấu, hình thái cũng như
bản chất của ý thức xã hội, qua đó tìm hiểu về trách nhiệm nâng cao ý
thức xã hội cho học sinh và sinh viên trong thời đại hiện nay
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu những nội dung cơ bản của ý thức xã hội bao gồm: khái
niệm, kết cấu, hình thái và bản chất
Nghiên cứu trách nhiệm của sinh viên trong việc nâng tầm quan trọng
của ý thức xã hội lên một tâm cao mới, phát triển và thịnh hành hóa ý
thức xã hội trong cuộc sống hiện nay
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sinh viên Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: ở Việt Nam hiện nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: việc nghiên cứu và trình bày tiểu luận dựa trên cơ sở lí
luận và các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam có liên quan đến đề
tài. Ngoài ra, tiểu luận còn chọn lọc những tư tưởng của một số đề án,
công trình khoa học đi trước có nội dung liên quan được đề cập trong bài tiểu luận.
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp triết học Mác – Lênin, đồng thời
còn sử dụng các phương pháp phân tích, hệ thống hóa những lý thuyết
thu thập và tổng hợp để đưa ra kết luận chung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đề tài đưa ra được những thực trạng của việc xây dựng ý thứ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay trong môi trường giáo giục cũng như ngoài xã hội
7. Kết cấu của tiểu luận
Bài tiểu luận có 4 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận
và danh mục tài liệu kham khảo. II. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM, KẾT CẤU, HÌNH THÁI VÀ BẢN
CHẤT CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
1.1 Khái niệm của ý thức xã hội
Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ các phương diện sinh hoạt của tinh
thần trong đời sống xã hội bao gồm những tư tưởng, quan điểm, tình
cảm, tâm trạng, thói quen, phong tục, tập quán, truyền thống … của
cộng đồng xã hội nảy sinh từ tồn tại xã hội của họ và phản ánh tồn tại
xã hội đó trong những giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định.
Giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân có sự thống nhất biện chứng
nhưng không đồng nhất. Mối quan hệ giữa ý thức xã hội và ý thức cá
nhân thuộc mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội có cấu trúc hết sức phức tạp. Có
thể tiếp cận kết cấu của ý thức xã hội từ những phương diện khác nhau.
Cùng với khái niệm ý thức xã hội, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng bàn đến
khái niệm tồn tại xã hội. Theo các nhà kinh điển, tồn tại xã hội là quá
trình đời sống hiện thực của con người. Đó là quá trình hoạt động, sinh
sống vật chất của các cá nhân cùng với những điều kiện sinh hoạt vật
chất của họ. Trong toàn bộ sinh hoạt hiện thực của con người, trước hết
các ông nói đến vị trí, vai trò quan trọng quyết định của sản xuất vật
chất, đặc biệt là sự sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt. C.Mác và Ph.
Ănghen viết: “Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế
con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”
Khẳng định ý thức xã hội là sự phản ánh và do tồn tại xã hội quyết
định, triết học Mác - Lênin cũng đồng thời nhấn mạnh, ý thức xã hội
không phụ thuộc hoàn toàn vào tồn tại xã hội mà nó có tính độc lập
tương đối so với tồn tại xã hội. Quan điểm này được thể hiện rõ trong
những luận điểm phê phán chủ nghĩa duy tâm khi họ tuyệt đối hóa vai
trò của ý thức, ý thức xã hội. Trong Hệ tư tưởng Đức, C. Mác và Ph.
Ăngghen đã chỉ ra quan niệm duy tâm về lịch sử (thực chất là giải thích
sai lệch về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội) của cả
phái Hêghen trẻ và phái Hêghen già: “Phái Hêghen trẻ cho rằng những
quan niệm, ý niệm, khái niệm, nói chung những sản phẩm của ý thức
mà họ gán cho là có một sự tồn tại độc lập, đều là những xiềng xích
thật sự đối với con người, - giống như phái Hêghen già tuyên bố rằng
chúng là những sợi dây ràng buộc thực sự đối với xã hội loài người, -
cho nên dĩ nhiên phái Hêghen trẻ chỉ cần tiến hành đấu tranh chống lại
những ảo tưởng đó của ý thức mà thôi. Vì theo họ tưởng tượng, những
quan hệ của con người, tất cả mọi hành động và cử chỉ của con người...
đều là sản phẩm của ý thức của họ”
Theo C. Mác (Karl Heinrich Marx), con người tham gia vào những quan
hệ sản xuất hoặc kinh tế nhất định và những quan hệ này dẫn đến hình
thái ý thức xã hội. Marx nói:
“Trong quá trình sản xuất xã hội của đời sống, con người tham gia vào
những quan hệ nhất định tất yếu và không phụ thuộc vào ý chí của họ;
những quan hệ sản xuất này tương ứng với một giai đoạn phát triển
nhất định của lực lượng sản xuất của họ. Tổng cộng của những quan hệ
sản xuất này tạo thành cơ cấu kinh tế của xã hội – nền tảng hiện thực,
trên đó hình thành kiến trúc thượng tầng chính trị và pháp luật và
tương ứng với những hình thái ý thức xã hội nhất định. ý thức của con
người quyết định con người của họ, nhưng ngược lại, bản thể xã hội
của họ quyết định ý thức của họ.”
Không chỉ có pháp luật tác động đến cơ sở kinh tế, mà ngay cả hệ tư
tưởng chính trị, thông qua thiết chế xã hội tương ứng với nó là nhà
nước cũng tác động trở lại kinh tế. Cũng trong bức thư này, Ph.
Ăngghen đã viết: “Tác động ngược trở lại của quyền lực nhà nước đối
với sự phát triển kinh tế có thể có ba loại. Nó có thể tác động cùng
hướng - khi ấy sự phát triển diễn ra nhanh hơn; nó có thể tác động
ngược lại sự phát triển kinh tế - khi ấy thì hiện nay ở mỗi dân tộc lớn,
nó sẽ tan vỡ sau một khoảng thời gian nhất định, hoặc là nó có thể cản
trở sự phát triển kinh tế ở những hướng nào đó và thúc đẩy sự phát
triển ở những hướng khác. Trường hợp này rốt cuộc dẫn đến một trong
hai trường hợp trên. Tuy nhiên, rõ ràng là trong trường hợp thứ hai và
thứ ba, quyền lực chính trị có thể gây tác hại rất lớn cho phát triển kinh
tế và có thể gây ra sự lãng phí to lớn về sức lực vật chất”
1.2 Kết cấu của ý thức xã hội
Dựa trên các căn cứ khác nhau mà người ta chia ý thức xã hội thành
nhiều loại hình khác nhau, nhiều bộ phận khác nhau.
1.2.1: Ý thức xã hội thông thường và ý thức xã hội lý luận
Dựa vào phương thức, trình độ phản ánh đối với tồn tại xã hội thì ý thức
xã hội được chia thành: ý thức xã hội thông thường và ý thức xã hội lý luận.
- Ý thức xã hội thông thường.
Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con
người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng
ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá thành lý luận. Ý thức xã
hội thường phản ánh cách sinh động, chân thực và cụ thể các khía
cạnh khác nhau của cuộc sống hàng ngày của con người. Ý thức xã hội
thông thường mặc dù thuộc trình độ thấp hơn ý thức lý luận nhưng lại
phong phú, đa dạng hơn ý thức lý luận. Chính những tri thức kinh
nghiệm rộng lớn của ý thức thông thường là vật liệu, là cơ sở và tiền đề
quan trọng cho sự hình thành ý thức lý luận.
- Ý thức xã hội lý luận.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hoá, khái
quát hoá thành học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái
niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng
phản ánh, đối chiếu hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc
và chính xác, chỉ ra các mối liên hệ khách quan, bản chất, tất yếu
mang tính quy luật và các quá trình xã hội của các sự vật và hiện tượng.
1.2.2: Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội
Dựa vào hai phương thức, hai trình độ phản ánh đối với tồn tại xã hội
thì ý thức xã hội lại được chia thành: tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. - Tâm lý xã hội.
Tâm lý xã hội là bộ phận của ý thức xã hội bao gồm tình cảm, ước
muốn, thói quen, tập quán… của con người, của một bộ phận xã hội
hoặc của toàn bộ xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời
sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó vì thế nó chỉ ghi chép
lại những gì dễ thấy, những thứ nằm trên bề mặt tồn tại của xã hội. Do
vậy, tâm lý xã hội phản ánh trực tiếp điều kiện sống của xã hội, phản
ánh có tính tự phát và tâm lý xã hội ghi lại những mặt bề ngoài không
có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ
xã hội. Tâm lý xã hội còn mang nặng tính kinh nghiệm, chưa được thể
hiện về mặt lý luận, yếu tố tình cảm đan xen yếu tố lý luận. Bên cạnh
đó, tâm lý xã hội có vai trò nhất định trong việc phát triển ý thức xã hội
như việc sớm nắm bắt dư luận hay nhu cầu xã hội của nhân dân.
- Hệ tư tưởng xã hội.
Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao của ý thức xã hội, phản ánh tồn
tại xã hội một cách gián tiếp, tự giác, khái quát hoá các kinh nghiệm xã
hội để hình thành những quan điểm, tư tưởng về chính trị, pháp luật,
triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, v.v.. Đặc điểm của hệ tư tưởng
có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội do vậy có khả
năng phản ánh sâu sắc những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Hệ tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khoa học, và tới
toàn bộ xã hội, biểu hiện ở chỗ, hệ tư tưởng là cơ sở lý luận để định
hướng sự phát triển của khoa học và các hoạt động cải tạo xã hội.
Trong lịch sử nhân loại đã và đang tồn tại cả hệ tư tưởng khoa học và
hệ tư tưởng không khoa học. Nếu hệ tư tưởng không khoa học phản
ánh các quan hệ vật chất một cách hư ảo, sai lầm hoặc xuyên tạc thì
ngược lại, hệ tư tưởng khoa học phản ánh các quan hệ, các quá trình
và hiện tượng xã hội một cách khách quan, chính xác. Ca hai loại tư
tưởng này đều có ảnh hưởng đối với sự phát triển của khoa học. Chẳng
hạn, hệ tư tưởng không khoa học, nhất là triết học đã từng kìm hãm sự
phát triển của khoa học tự nhiên suốt hàng chục thế kỷ ở thời Trung cổ ở châu Âu.
1.2.3: Quan hệ của tâm lý và hệ tư tưởng xã hội.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức
phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối quan hệ
qua lại và tác động qua lại với nhau. Tâm lý xã hội là toàn bộ đời sống
tình cảm, tâm trạng, khát vọng, ý chí…. của những cộng đồng người
nhất định, phản ánh trực tiếp và tự phát đối với hoàn cảnh sống của
họ. Hệ tư tưởng xã hội là toàn bộ các hệ thống quan niệm, quan điểm
xã hội như: chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, …; là sự
phản ánh gián tiếp và tự giác đối với tồn tại xã hội.
1.3 Các hình thái của ý thức xã hội
Các hình thái ý thức xã hội thể hiện những phương thức khác nhau của
sự lĩnh hội hiện thực xã hội bằng tinh thần. Vì vậy, ý thức xã hội tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau. Các hình thái ý thức xã hội chủ yếu
bao gồm: ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức, ý thức lý
luận (hay ý thức khoa học), ý thức thẩm mỹ (hay ý thức nghệ thuật), ý
thức tôn giáo và ý thức triết học. Tính phong phú đa dạng của các hình
thái ý thức xã hội phản ánh tính phong phú, đa dạng của bản thân đời sống xã hội.
1.3.1 Ý thức chính trị
Ý thức chính trị là trạng thái chính trị của một người. Trạng thái tinh
thần này dựa trên nhận thức cá nhân về chính trị, vị trí trong hệ thống
chính trị và lịch sử, và những hành động mà một người cho là sẵn sàng
thực hiện nhằm nỗ lực gây ảnh hưởng đến thực tế chính trị mà người đó đang hoạt động.
Ý thức chính trị có liên quan chặt chẽ với các khái niệm về bản sắc
chính trị, sự tham gia chính trị, văn hóa chính trị và ý tưởng về khế ước
xã hội giữa người dân và chính phủ.
1.3.2 Ý thức pháp quyền
Ý thức pháp quyền là tổng thể các quan điểm, thái độ tư tưởng của một
giai cấp về bản chất, vai trò của pháp luật, về tính hợp pháp hay không
hợp pháp trong hành vi của con người, về quyền và nghĩa vụ. của các thành viên trong xã hội.
Nó là hình thái ý thức xã hội thể hiện sự hiểu biết, đánh giá về những
chuẩn mực đã được chấp nhận trong một xã hội nhất định như quy luật
hoạt động kinh tế - xã hội của các chủ thể pháp luật. quyền khác nhau.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phân biệt một số khái niệm theo nghĩa
pháp lý: Pháp quyền – pháp chế – hệ tư tưởng pháp quyền.
1.3.3 Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là ý thức về hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực hành
vi phù hợp với các quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại. Mặt khác, nó
còn bao hàm cả những tình cảm, tình cảm đạo đức của con người.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức đạo đức là sự biểu
hiện thái độ nhận thức của con người đối với hành vi của mình so với
hệ thống chuẩn mực hành vi, quy tắc đạo đức xã hội. phát biểu; qua đó
giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và thực hiện các nghĩa vụ
đạo đức một cách tự nguyện, tự giác.
1.3.4 Ý thức khoa học
Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức xã hội, vừa là một hiện
tượng xã hội đặc biệt. Xem khoa học là một hình thái ý thức xã hội tổng
hợp, coi nó là một hiện tượng xã hội.
Ý thức khoa học - với tư cách là một hình thái ý thức xã hội - là hệ
thống tri thức phản ánh trung thực dưới hình thức logic trừu tượng về
thế giới đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Đối tượng phản ánh của
ý thức khoa học bao gồm tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư
tưởng. Đó là một trong những điểm khác biệt giữa ý thức khoa học với
các hình thái ý thức xã hội khác.
Hình thức biểu hiện chủ yếu của tri thức khoa học là các phạm trù, quy luật, định luật.
1.3.5 Ý thức thẩm mĩ
Ý thức thẩm mỹ là trạng thái có ý thức của bộ óc trong hoạt động thẩm
mỹ. Với tư cách là hệ tư tưởng cảm tính, ý thức thẩm mỹ là kinh
nghiệm thẩm mỹ được hiện thực hóa và hệ thống hóa. Nó bao gồm
năng lực cảm thụ thẩm mỹ, cách tư duy, lý tưởng thẩm mỹ của chủ thể.
Nó dựa trên khoái cảm sinh lý, được hình thành trên cơ sở sự kết hợp
lặp đi lặp lại giữa tinh thần và vật chất, sự đồng nhất giữa khách thể và
bản thân, và các đặc điểm tâm lý được tạo ra dưới tác động của các
yếu tố đời sống xã hội, do đó nó chịu ảnh hưởng của các loại hình văn
hóa và chung. tâm lý văn hóa, và là một bộ phận hữu cơ của tổng thể ý
thức xã hội của con người.
1.3.6 Ý thức tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội bao gồm nghi lễ tôn giáo, tổ chức tôn giáo và
ý thức tôn giáo. Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử.
Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách
quan một cách huyễn hoặc, méo mó.
Về bản chất tôn giáo Ăng ghen viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ
là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người - của những lực
lượng ở bên ngoài chỉ phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản
ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu trần thế.”
1.3.7 Ý thức triết học
Đây là loại ý thức đặc biệt và cao nhất của tri thức cũng như của ý thức
xã hội. Triết học quan trọng nhất là triết học Mác - Lênin, cung cấp cho
con người những tri thức về thế giới nói chung thông qua tổng kết toàn
bộ lịch sử phát triển của khoa học và bản thân triết học.
1.4 Bản chất của ý thức xã hội
Trước triết học Mác đã có những quan điểm không đúng đối với quá
trình phát triển và hình thành của ý thức xã hội cũng như ảnh hưởng
lên đời sống xã hội. c
Chẳng hạn, triết học duy tâm đi tìm kiếm cội nguồn của nhận thức, tư
tưởng từ chính nó; coi tinh thần, tư tưởng là nền tảng và quyết định các
vấn đề cuộc sống, . ..
Một trong những ý nghĩa bước ngoặt vĩ đại mà Mác và Ăngghen thực
hiện đối với lịch sử triết học chính là sự xây dựng quan điểm duy vật
lịch sử và lần đầu tiên đã lý giải được quá trình ra đời, hình thành và
phát triển của nhận thức xã hội. Các ông cho biết đời sống tinh thần
của nhân loại tồn tại và phát triển trên nền tảng đời sống vật chất, do
vậy không thể có được ý thức xã hội hay tình cảm xã hội trong chính
mình, cũng không thể tìm trong đầu óc con người mà lại là tim trong hiện thực vật chất.
C.Mác viết: “… không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế
căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại phải giải thích ý thức ấy bằng
những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa
các lực lượng sản xuất xã hội và nhưng quan hệ sản xuất xã hội”.
Bản chất của ý thức xã hội là một phạm trù triết học dụa trên suy luận
biên chứng liên quan giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội. Nhằm nói lên
được sự tương tác, xâm nhập và ảnh hưởng của ý thức xã hội lên các
phạm trù triết học khác cũng như tính tương đối đọc lập của ý thức xã hội.
1.4.1 Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại
xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội thay đổi
thì sớm hay muộn những tư tưởng, lý luận xã hội, quan điểm pháp luật,
đạo đức - chính trị cũng sẽ thay đổi, nhất là phương thức sản xuất xã
hội. Vì vậy, trong các thời kỳ lịch sử khác nhau sẽ có những học thuyết,
quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau. Sự thay đổi của ý thức xã hội có
thể là sự phản ánh đúng hoặc sai đối với tồn tại xã hội, nhưng xét cho
cùng về lâu dài, ý thức xã hội có khả năng phản ánh đúng đắn, đầy đủ,
chính xác quá trình biến đổi của tồn tại xã hội. Vấn đề này đã được Mác
khẳng định “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của
họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của học”
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không chỉ ở việc xác định
nguồn gốc và sự phụ thuộc của ý thức xã hội với tồn tại xã hội, mà còn
ở việc chỉ ra rằng không phải bất cứ tư tưởng, suy nghĩ nào cúng tương
đồng. Mọi tư tưởng, quan điểm, học thuyết và hình thái ý thức xã hội
đều phản ánh rõ ràng, trực tiếp những điều kiện kinh tế của thời đại.
Xét cho cùng, bằng cách này hay cách khác, những tư tưởng, quan
niệm đó đều được phản ánh. Đối với ý thức chính trị không chỉ phản
ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế quan hệ giai cấp mà còn được phản
ánh trong các hình thái ý thức khác; Mặt khác, trong các hình thái ý
thức xã hội, nó còn bao hàm sự tác động qua lại và bao hàm sự kế thừa với quá khứ.
1.4.2 Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với tồn tại xã hội
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
Do lực cản của ý thức xã hội, những tác động hai mặt giữa lợi ích cá
nhân và mục đích của xã hội là sự minh chứng cho ý thức xã hội cũ còn
tồn đọng và phát triển ảnh hưởng của của ý thức xã hội cũ lên trên tư tưởng mới.
Trong lịch sử xã hội Việt Nam nói chung, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi,
hoặc đã mai một từ lâu, tuy nhiên ý thức xã hội mà xã hội đó tạo nên
thì vẫn còn tồn tại dai dẳng. Chúng ta có thể kể đến về quan niệm
trọng nam khinh nữ, cho dù chế độ phong kiến không chấm dứt nhưng
các tư tưởng như vậy vẫn rất phổ biến ở thời đại ngày nay, nhiều gia
đình vẫn tiếp tục coi trọng người đàn ông và hạ thấp vai trò của người phụ nữ trong xã hội.
- Ý thức xã hội có thể vượt trước so với tồn tại xã hội.
Trong những điều kiện nhất định, các yếu tố thuộc về ý thức xã hội sẽ
xuất hiện trước trên tồn tại xã hội. Triết học Mác – Lênin đã thừa
nhận rằng, trong một số trường hợp nhất định tư tưởng của nhân loại,
kể cả các quan điểm khoa học tiên tiến sẽ nhanh chóng vượt qua quá
trình phát triển của tồn tại xã hội, nếu tư tưởng này ra đời sẽ dự báo
trước tương lai và có khả năng lãnh đạo, chỉ huy hành động thực tiễn của con người.
Lý do về sự vượt trội trong ý thức xã hội là do đặc điểm của hệ tư
tưởng này quyết định. Các tư tưởng này cũng tổng hợp nhiều quy luật
từ xưa đến giờ, đã có, đang có và sẽ có đển có thể đưa ra được lý luận
thống nhất về tồn tại xã hội. Những quy luật ấy không chỉ phản ánh
cho chúng ta biết lịch sử hay hiện tại mà còn có thể dự báo cho con
người một cách chính xác về tồn tại xã hội trong tương lai.
- Ý thức xã hội có tính kế thừa trong quá trình phát triển.
Trong quá trình phát triển của đời sống tình thần con người, ý thức xã
hội, những tư tưởng, quan niệm... có xu hướng kế thừa lẫn nhau, một
số ý thức xã hội cũ và lạc hậu từ thời đại không còn nữa sẽ tạo ra sự cơ
sở cho các thói quen xã hội mới.
Thực tế phản ảnh rằng, sự kế tục ý thức là quá trình kết hợp để lưu giữ
lại các giá trị có tính kế thừa và loại bỏ một số thói quen xã hội lạc hậu.
Vì vậy, các khuynh hướng "bảo thủ" và "phủ định" cần nhanh chóng
được xoá bỏ để bảo vệ những thói quen tích cực đối với xã hội.
Trong môi trường đại học, sinh viên trường đại học Sư Phạm Kỹ Thuật
cần kế thừa tinh thần những tu tưởng quan điểm trường và bộ giáo dục
đề ra và các anh chị đã đi trước, luôn luôn phát triển và kế thừa khẩu
hiệu của trường là “Nhân bản – Sáng tạo – Hội nhập”.
Ta nhận ra được rằng dựa trên hiện thực tại giai đoạn hiện nay, việc
nhận thức những vấn đề của đời sống văn hoá tinh thần vẫn cần thiết
phải căn cứ vào thục tiễn ý thức xã hội đã hình thành nó. Bên cạnh sự
cần thiết để giải thích các hiện tượng ở nhiều góc độ khác nhau chúng
ta còn cần phải phải đảm bảo tính chất độc lập tương đối của ý thức xã
hội vì nó luôn có sự giao thoa, ảnh hưởng và tác động đến nhau.
1.4.3 Sự tác động của ý thức xã hội lên các yếu tố của xã hội
- Giữa các hình thái ý thức xã hội luôn có sự xâm nhập, ảnh hưởng, tác
động qua lại lẫn nhau.