Quiz: Top 50 câu đề cương ôn tập triết học mác - lênin (có đáp án) trường đại học thương mại
Câu hỏi trắc nghiệm
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở một sự vật, một hiện tượng nào đó mà còn lặp lại ở nhiều sự vật, hiện tượng (nhiều cái riêng) khác nữa.
Tích lũy đủ về lượng (<ba cây>) sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất (<hòn núi cao>).
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức sinh ra và quyết định vật chất. Họ giải thích nguyên nhân tận cùng của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới bằng các nguyên nhân tinh thần, ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc iểm của hệ thống vật chất khác
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó.
Đặc điểm chung của sự phát triển theo quan niệm biện chứng là tính tiến lên theo ường xoáy ốc, có kế thừa, có sự dường như lặp i, lặp lại của sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Sự lặp lại hình thái ban đầu của mỗi chu kỳ phát triển nhưng trên một cơ sở cao hơn qua hai lần phủ định cơ bản là phủ định của phủ định. Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
Khuynh hướng chung của các nhà triết học duy vật thời cổ đại là đi tìm một thực thể ban đầu nào đó và coi nó là yếu tố tạo ra tất cả các sự vật, hiện tượng khác nhau của thế giới, tất cả đều bắt nguồn từ đó và cuối cùng đều tan biến trong đó.
Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra một sự biến dổi nhất định.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích,có tính sáng tạo, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người một cách năng động và sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội cụ thể.
Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do những tác động giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng gây nên.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích,có tính sáng tạo, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Ý thức là một hiện tượng có tính xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Ý thức là một hiện tượng có tính xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có một sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng khác.
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được em lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Dùng để chỉ thực tại khách quan: thuộc tính tồn tại khách quan, tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người
Điểm nút: là điểm giới hạn mà tại đó sự thay ổi về lượng đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm chất của sự vật, hiện tượng đổi thành chất mới, tức là xảy ra bước nhảy
Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người dùng những công cụ lao động tác ộng vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết để nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình
Trong tác phẩm Bút ký triết học, V.I.Lênin đã khái quát con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó
Phủ định là một trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng, đặc trưng cho phương hướng phát triển, sự thống nhất giữa tiến bộ và liên tục trong sự phát triển, sự xuất hiện của cái mới và sự tái diễn tương đối của một số yếu tố của cái cũ.
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh ộng) là giai oạn ầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai oạn con người sử dụng các giác quan ể tác ộng vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau: Cảm giác, Tri giác và Biểu tượng
Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do những tác động giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng gây nên.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
1. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức
2. Thực tiễn là động lực của nhận thức
3. Thực tiễn là mục đích của nhận thức
5 hình thức cơ bản của vận động:
+ Vận động cơ học là sự dịch chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
+ Vận động vật lý là sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động iện tử, các quá trình nhiệt, điện...
+ Vận động hóa học là quá trình hóa hợp và phân giải các chất, vận động của các nguyên tử.
+ Vận ộng sinh học là sự trao ổi chất giữa cơ thể sống với môi trường.
+ Vận động xã hội là sự biến đổi của lịch sử và xã hội, sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội này bằng các quá trình xã hội khác.
Cái chung là bộ phận của cái riêng, chỉ tồn tại trong cái riêng ( đó chính là những bộ phận giống nhau, cùng tồn tại trong nhiều cái riêng). Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung, không có cái riêng tách rời cái chung.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
1. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức
2. Thực tiễn là động lực của nhận thức
3. Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Nhận thức kinh nghiệm là nhận thức hình thành từ sự quan sát các sự vật hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hoặc qua các hiện tượng nghiên cứu khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm
Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của bộ óc người.
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới (cả tự nhiên, xã hội và tư duy) bao giờ cũng tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, quy định, ràng buộc, tác động lẫn nhau, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại cô lập, riêng lẻ, không liên hệ
Bước nhảy: là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật, hiện tượng do biến đổi về lượng trước đó gây ra, kết thúc một giai oạn vận động, độ cũ bị phá vỡ, độ mới (sự vật, hiện tượng mới) được xác lập.
Phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn
Ý thức hình thành không phải là quá trình con người tiếp nhận thụ động các tác động từ thế giới khách quan vào bộ óc của mình, mà chủ yếu từ hoạt động thực tiễn. Ý thức không chỉ là sự phản ánh tái tạo mà còn chủ yếu là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức.
Ý thức là cái phản ánh khách quan, ý thức không phải là sự vật, mà chỉ là hình ảnh ở trong óc người. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Về nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức phản ánh là chủ quan. Ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất đặc biệt là bộ óc người, chỉ có con người mới có ý thức
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng tồn tại hai mặt chất và lượng thống nhất với nhau, nên cả trong nhận thức và thực tiễn cần coi trọng cả hai chỉ tiêu định tính và định lượng. Trong nhận thức và thực tiễn phải biết tích luỹ đủ về lượng để đạt ược biến đổi về chất; tránh chủ quan nóng vội, đốt cháy giai đoạn hoặc bảo thủ, trì trệ, thụ động.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, còn gọi là quy luật mâu thuẫn, là quy luật cơ bản nhất, hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Bởi quy luật này chỉ ra rằng mâu thuẫn tồn tại khách quan, phổ biến của mọi sự vật, hiện tượng. Chính mâu thuẫn nội tại là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Do đó, muốn sự vật phát triển thì phải phát hiện ra mâu thuẫn và phân loại từng mâu thuẫn để xác ịnh mâu thuẫn nào là cơ bản, mâu thuẫn nào là chủ yếu, mâu thuẫn nào là không cơ bản, mâu thuẫn nào là thứ yếu để giải quyết mâu thuẫn ở từng thời điểm cho phù hợp.
Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển cung cấp cho chúng ta phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới là: khi xem xét các sự vật và hiện tượng phải dặt nó trong sự vận động, trong sự phát triển, phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng
- Vật chất là phạm trù triết học
Vật chất trong định nghĩa vật chất của Lênin là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; do đó không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
- Vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan
Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức của con người. <Tồn tại khách quan> là thuộc tính cơ bản của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Con người có nhận thức ược hay không nhận thức được vật chất thì vật chất vẫn tồn tại.
- Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
Có thể hiểu rằng vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
Nhận thức lý tính, hay tư duy trừu tượng, được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy luận
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn <đấu tranh> với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt ó. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất, vào mối liên hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích lũy những thay đổi về lượng đạt đến ngưỡng nhất định.
Xem Tính chất của mối liên hệ
Xem Tính chất của mối liên hệ
Phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác-Lenin là một phạm trù song song với phạm trù vật chất. Theo đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới (cả tự nhiên, xã hội và tư duy) bao giờ cũng tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, quy định, ràng buộc, tác động lẫn nhau, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại cô lập, riêng lẻ, không liên hệ.
Hình thức hoạt động thực tiễn cơ bản và quan trọng nhất, quy định các hoạt động khác là sản xuất vật chất. Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.