Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinong việc pháth tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 40551442
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA DIGITAL MARKETING
BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về
cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận
dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền
kinh tế nước ta hiện nay.
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Trang Anh
MSV: 11220491
Lớp n chỉ: tưởng Hồ Chí Minh Digital Marketing CLC 64CAEP( 222)
14
Giảng viên
HÀ NỘI - 2023
lOMoARcPSD| 40551442
2
MỤC LỤC
Mở
đầu……………………………………………………………………………tr,3
Chương 1: tưởng HCM về kinh tế………………………………………….tr.4
1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội…………………………………..tr.4
2.Quan điểm của Hồ Chí Minh về cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt
Nam………………………………………………………………..tr.6
Chương 2: Sự vận dụng của tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta………….tr.11
Kết luận:
……………………………………………………………………….tr.15
lOMoARcPSD| 40551442
3
MỞ ĐẦU
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội của nước ta bắt đầu từ năm 1954 miền Bắc từ
năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập cả nước thống nhất, cách mạng dân
tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tính đến nay, đã hơn
60 năm lịch sử mà mà toàn dân cùng nhau trải qua giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, cùng
nhau chứng kiến giai đoạn lịch sử chuyển mình sang một hình thái kinh tế xã hội mới tiến
lên cộng sản chủ nghĩa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội
nước ta một thời klịch sử mà: "nhiệm vquan trọng nhất của chúng ta phải xây
dựng nền tảng vật chất kthuật của chủ nghĩa hội,... tiến dần lên chủ nghĩa hội,
có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình
cách mạng hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế
mới, xây dựng nhiệm vụ chchốt và lâu dài" (H Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính
trị quốc gia, Nội, 1996, t.10, tr. 13) Như vậy, để thực hiện được mục tiêu tiến đến chủ
nghĩa xã hội, chúng ta phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong đó cần phải xác vai
trò, tỷ trọng mối quan hệ hợp thành giữa các ngành kinh tế quốc dân, giữa các vùng,
lãnh thổ và giữa các thành phần kinh tế. Các yếu tố hợp thành cấu kinh tế phải được thể
hiện cả về mặt số lượng cũng như về mặt chất lượng được xác định trong những giai
đoạn nhất định, phù hợp với những đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội cụ thể của mỗi quốc
gia qua từng thời kỳ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã những tưởng về cấu kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội của Việt Nam. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về những thành phần kinh tế một bộ phận đặc sắc trong tư tưởng kinh tế của Người
vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với đất nước ta trong công cuộc đổi mới phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Với ý nghĩa to lớn và
thiết thực như vậy, đề tài “ Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh
về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan
điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện
nay.” đã được chọn.
CHƯƠNG 1 : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KINH TẾ
1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vnhững đặc điểm của nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
lOMoARcPSD| 40551442
4
Từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác phải trải qua giai
đoạn trung gian, C.Mác và Ph.Ăngghen gọi đó là thời kỳ quá độ. C.Mác khẳng định giữa
xã hội tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản là một thời kỳ chuyển hoá cách mạng từ
xã hội nọ thành xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy sẽ là một thời kỳ quá độ chính trị,
trong đó nhà nước không thể là cái gì khác hơn là chuyên chính cách mạng của giai cấp
vô sản. Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời có quá trình phát triển qua các
giai đoạn, từ thấp đến cao: giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản; giai đoạn cao hơn của
chủ nghĩa cộng sản. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, giai cấp vô sản phải
thiết lập được sự thống trị của mình và thực hiện chuyên chính. Thời kỳ Mác và Ăngghen
trong bối cảnh của thế kỷ XIX ở phương Tây vấn đề kinh tế của thời kỳ quá độ chưa đặt
ra nên các ông chỉ mới đề cập đến nội dung chính trị. V.I.Lênin đã kế thừa, phát huy tư
tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời Lênin cụ thể hóa việc phân kỳ hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba giai đoạn: Giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản
gọi là chủ nghĩa xã hội; Giai đoạn cao được gọi là chủ nghĩa cộng sản hay xã hội cộng
sản; Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu và lâu dài.
V.I.Lênin phân tích đặc điểm kinh tế của các quốc gia quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ đó
cho rằng có nhiều kiểu quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là kiểu “quá độ” của các nước đã
qua chủ nghĩa tư bản và “quá độ” của những nước “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa” đi lên chủ nghĩa xã hội.
Lenin đã chỉ ra đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ lên chủ chủ nghĩa xã hội
là sự tồn tại nên kinh tế nhiều thành phần và tương tự với nó có nhiều giai cấp, tầng lớp
xã hội khác nhau nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của các giai cấp trong xã hội đã thay
đổi một cách sâu sắc. Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là khách quan và lâu
dài, có lợi cho sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Theo Lenin, mâu
thuẫn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là mâu thuẫn chủ nghĩa xã hội đã giành
thắng lợi nhưng còn non yếu với chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng vẫn còn khả năng
khôi phục. Vì vậy, thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh “ai thắng ai’ giữa chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản quyết liệt, quanh co, khúc khuỷu và phức tạp. Phân tích
thực trạng nền kinh tế của nước Nga lúc đó, V.I.Lenin rút ra có năm thành phần kinh tế
là: thành phần kinh tế nông dân gia trưởng; thành phần kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ của
nông dân, tiểu thủ công cá thể và tiểu thương; thành phần kinh tế tư bản tư nhân; thành
phần kinh tế tư bản nhà nước; thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa.
lOMoARcPSD| 40551442
5
Người cho rằng các nước trong thời kỳ quá độ phải chấp nhận nền kinh tế tư bản ch
nghĩa, coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là một thành phần trong toàn bộ nền kinh tế đất
nước, vì “phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu
sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để
tăng lực lượng sản xuất”. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là giai đoạn không thể bỏ
qua trong việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản, dù quá độ kiểu này hay kiểu khác đều là quy
luật và xu hướng tất yếu của nhân loại trong thời đại ngày nay.
Không phải chỉ đưa ra các tư tưởng lý luận, mà V.I.Lênin còn là người trực tiếp nghiên
cứu và chỉ đạo thực hành, áp dụng những quan điểm lý luận ấy vào công cuộc xây dựng
xã hội chủ nghĩa ở nước Nga sau nội chiến. Từ mùa xuân năm 1921 khi nước Nga
chuyển sang thời kỳ mới của chủ nghĩa xã hội, thấy Chính sách cộng sản thời chiến
không còn phù hợp nữa, mà lại là rào cản đối với sự đổi mới và đã làm giảm động lực
của những người lao động, Lênin cùng với Đảng Bôn--vích Nga đề ra và thi hành
Chính sách kinh tế mới (NEP) nhằm thay thế Chính sách kinh tế thời chiến. Chính sách
kinh tế mới với nhiều nội dung khác nhau, trong đó có nội dung chủ yếu là phát huy sức
mạnh kinh tế của mọi hình thức kinh tế, đa thành phần kinh tế; phát triển sản xuất và lưu
thông hàng hoá; áp dụng những hình thức kinh tế quá độ để thúc đẩy phát triển sản xuất
hàng hoá nhỏ của nông dân và thợ thủ công, thúc đẩy phát triển kinh tế tư bản tư nhân,
phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước, sắp xếp lại các công ty nhà nước và chuyển đổi
mạnh mẽ sang cơ chế thị trường. .. Và V.I.Lênin cũng chủ trương tăng cường hợp tác
kinh tế với các quốc gia tư bản phương Tây nhằm trao đổi công nghệ, kỹ thuật và kinh
nghiệm quản lý.
2.Quan điểm của Hồ Chí Minh về cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
2.1.Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế
của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành
giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội
lOMoARcPSD| 40551442
6
thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính ở nội dung
cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa và làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta có đặc
điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm
khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều
mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá
độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và
thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp kém của nước ta.
So sánh các chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử để thấy sự khác nhau về bản chất giữa
chủ nghĩa xã hội với các chế độ khác, Hồ Chí Minh viết: “Trong xã hội có giai cấp bóc
lột thống trị, chỉ có lợi ích cá nhân của một số rất ít người thuộc giai cấp thống trị là
được thỏa mãn, còn lợi ích cá nhân của quần chúng lao động thì bị giày xéo. Trái lại,
trong chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm
chủ, thì mỗi người là một bộ phận của của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp
một phần công lao trong xã hội. Cho nên lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể,
là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích
riêng của cá nhân mới có điều kiện được thỏa mãn”. Người khẳng định mục đích của
cách mạng Việt Nam là tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi đến chủ nghĩa cộng sản vì: Cộng
sản có hai giai đoạn. Giai đoạn thấp, tức là chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn cao, tức là chủ
nghĩa cộng sản. Hai giai đoạn ấy giống nhau ở chỗ: Sức sản xuất đã phát triển cao; nền
tảng kinh tế thì tư liệu sản xuất đều là của chung; không có giai cấp áp bức bóc lột. Hai
giai đoạn ấy khác nhau ở chỗ: Chủ nghĩa xã hội vẫn còn chút ít vết tích xã hội cũ. Xã
hội cộng sản thì hoàn toàn không còn vết tích xã hội cũ.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, hội hội chủ nghĩa hội giai đoạn đầu của
chủ nghĩa cộng sản. Mặc còn tồn đọng tàn của hội nhưng chủ
nghĩa xã hội không còn áp bức, c lột, hội do nhân dân lao động làm chủ, trong
đó con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của nhân tập thể vừa
thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.
2.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cấu kinh tế trong thời qua độ đi
lên chủ nghĩ xã hội ở Việt Nam
lOMoARcPSD| 40551442
7
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa
tư bản nên xã hội xã hội chủ nghĩa phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh
tế của chủ nghĩa tư bản, đấy là nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ.
Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện: Công cụ lao động,
phương tiện lao động trong quá trình sản xuất “đã phát triển dần đến máy móc,
sức điện, sức nguyên tử”. Quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa được Hồ
Chí Minh diễn đạt là: Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v. làm của chung; là tư
liệu sản xuất thuộc về nhân dân. Đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ công hữu
tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta còn nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu, Hồ Chí Minh
xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ là phải cải tạo nền kinh tế cũ, xây
dựng nền kinh tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Đây là quá trình xây dựng
nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Giữa cải tạo và xây dựng thì xây dựng
là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài và phải luôn gắn với việc thực hiện đầy đủ quyền làm ch
của nhân dân.
Cơ cấu các thành phần của một nền kinh tế phụ thuộc vào sự tồn tại của các hình thức sở
hữu, các kiểu quan hệ sản xuất, vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của sản
xuất hàng hoá thời kỳ quá độ. Như Lênin đã chỉ rõ: Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, xét
về toàn bộ, nó là nền kinh tế quá độ, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do đó sự tồn tại
của các thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan. Mỗi thành phần kinh tế
còn phát huy tác dụng tích cực, có đóng góp vào quốc kế dân sinh thì không thể dùng
mệnh lệnh hành chính mà xoá bỏ ngay một lúc được.
Khi nghiên cứu Chính sách kinh tế mới của Lênin để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ, ở
vùng tự do của ta, còn tồn tại 6 thành phần kinh tế.
Trong tác phẩm "Thường thức chính trị" viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã nêu rõ bản
chất của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa và đã cụ thể hoá các thành phần kinh tế bao
gồm:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô.
- Kinh tế quốc doanh
- Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp - Kinh tế cá nhân của nông dân và
của thủ công nghệ.
lOMoARcPSD| 40551442
8
- Kinh tế tư bản của tư nhân.
- Kinh tế tư bản quốc.
Đặc điểm mới của nền kinh tế Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là sự
tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần. Đặc biệt, bên cạnh các thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa thì có sự tồn tại của thành phần là kinh tế phong kiến. Đây là thành phần kinh
tế mang tính đặc thù, thành phần kinh tế này phản ánh trình độ phát triển kinh tế thấp với
chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất và trong hoàn cảnh đặc thù yêu cầu phải tiếp tục
kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, cách mạng dân chủ. Trên cơ sở
nhận thức về tính quy luật chung, tính đặc thù trong nền kinh tế của từng nước. Hồ Chí
Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế cơ bản trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và trong từng giai
đoạn cụ thể. Về cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954, bên cạnh đảm bảo
tính quy luật chung về đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự
tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần với các thành phần kinh tế phổ biến,
kinh tế quá độ thì vẫn tồn tại thành phần kinh tế mang tính đặc thù. Như vậy, đây chính là
điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của từng thành phần kinh
tế trong nền kinh tế và có sơ sở để hoạch định chính sách đảm bảo ổn định nền kinh tế và
góp phần quan trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi.
Sau năm 1954 miền Bắc hoàn toàn giải phóng và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc
bước vào giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển nông nghiệp
với xuất phát điểm cực kỳ thấp, với nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu và bị chiến tranh tàn
phá nặng nề. Cơ sở vật chất – kỹ thuật thấp kém. Trình độ và năng suất lao động thấp,
đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về trình độ và kỹ
năng lãnh đạo, điều hành. Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn
cảnh đất nước bị chia thành hai miền, vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh. Tình hình
quốc tế trở nên phức tạp. Hệ thống xã hội chủ nghĩa bộc lộ một số mâu thuẫn, bất đồng,
mâu thuẫn. Vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
chưa sáng rõ. Từ thực tiễn miền Bắc như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ
ra các hình thức sỡ hữu cơ bản trong nền kinh tế miền Bắc, bao gồm: “Sở hữu Nhà nước
tức là của toàn dân; sở hữu hợp tác tức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu của
người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”. Với sự đa
dạng của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, Người đã xác định rõ những thành phần
lOMoARcPSD| 40551442
9
kinh tế đang tồn tại và hoạt động ở miền Bắc: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại
kinh tế khác nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc Chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa Chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến Chủ nghĩa xã hội). C-
Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức
là nữa Chủ nghĩa xã hội).
D- Tư bản của tư nhân.
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh
doanh).Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho
nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng ch
nghĩa tư bản”. Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, lãnh đạo nền kinh tế
quốc dân, cần phải ưu tiên phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng
vật chất cho Chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa; Nhà nước
phải tạo điều kiện cho nó phát triển. Bác khẳng định, kinh tế hợp tác xã là hình thức
sở hữu tập thể của Nhân dân lao động; Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng
dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển. Hợp tác hóa nông nghiệp là khâu chính thúc đẩy
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Người khẳng định: “nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp… hai chân không đều nhau,
không thể bước mạnh được”. Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương
thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu….Đồng thời, công nghiệp cũng cần phải
phát triển mạnh để cung cấp hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho
nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông
nghiệp và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Cho nên
công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cũng nhau phát triển, như hai
chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là
thực hiện liên minh công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm
no, sung sướng cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thấy được tính tất yếu của
việc công nghiệp hóa, hiên đại hóa. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu
phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự của nhân dân ta. Trong bài con đường
phía trước (ngày 20-01-1960), Người viết: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào,
khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất thật rộng rãi; dùng máy móc cả trong công
nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người
tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường. Muốn có
lOMoARcPSD| 40551442
10
nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, ra thép,
than, dầu… Đó là con đường phải đi của chúng ta: Con đường công nghiệp hóa nước
nhà”.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí Minh đưa ra
chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt:
Một là, Công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của
kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng
hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu thuế thì phải
trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công
nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính
phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia,
phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.
Hai là, Chủ thợ đều lợi. Nhà nước tư bản không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn
cấm họ bóc lột nhân dân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi cho công nhân. Đồng
thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu
cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên. Ba là,
Công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ cần dùng khác, để
cũng cấp cho nông dân. Nông dân thì ra sức tăng gia sản xuất, để cung cấp lương thực
và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên minh giữa công
nông.
Bốn là, Lưu thông trong ngoài. Ta ra sức khai thác lâm thổ sản để bán cho các nước bạn
và để mua những thứ ta cần dùng. Các bạn mua những thứ ta đưa ra và bán cho ta những
hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn nhau rất có lợi
cho kinh tế ta.
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH T NƯỚC TA HIỆN
NAY
1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế
Trong bối cảnh hiện nay, dự báo xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều
cấp độ, đa dạng về hình thức, yêu cầu đặt ra là phải nhanh chóng nắm bắt, thích ứng với
nguyên tắc, quy luật vận hành của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa. Việc đẩy nhanh
tiến độ hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách phát triển kinh tế theo nguyên tắc bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế là vấn đề hết sức quan trọng, tạo tiền đề cho việc huy
lOMoARcPSD| 40551442
11
động, phân bổ và sử dụng nguồn lực phù hợp hơn với cơ chế thị trường, phát triển đất
nước. Hoạch định các cơ chế, chính sách kinh tế cần chú trọng kết hợp giữa phát triển
kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người dân tham gia
nhận được thành quả từ quá trình phát triển kinh tế. Đồng thời, phải tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt đông của Nhà nước cho phù hợp hơn với yêu cầu 
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH
được trình bày một cách giản dị, dễ hiểu nhưng mang giá trị to lớn trong công cuộc xây
dựng và kiến thiết nước nhà. Nhìn lại chặng đường vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, có thể thấy như sau:
Thứ nhất, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế. Giai
đoạn đầu sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam tiến hành quản lý kinh tế theo cơ
chế kế hoạch hóa tập trung dẫn đến khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Đến Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng (Tháng 6/1991), vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
đã xác định “bước đầu hình thành nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước”. Việt Nam đã từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý kế
hoạch hóa, chuyển sang cơ chế thị trường thông qua: xác định các hình thức sở hữu chủ
yếu (toàn dân, tập thể, tư nhân), thừa nhận sự tồn tại tất yếu của nhiều thành phần kinh tế;
xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh
tế kinh doanh theo pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Kết quả của 35 năm đổi mới về kinh tế nước ta tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao,
trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, môi trường quốc tế không thuận lợi);
Tiềm lực, quy mô của nền kinh tế được nâng lên, GDPm 2020 đạt 343,6 tỉ USD (đứng
thứ 4 Đông Nam Á; Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng
6%/năm, năm 2020 đạt 2,91% ; Thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD năm 2020.
( xếp thứ 6 ASEAN); Dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD; Xếp thứ 42/131 quốc gia và
nền kinh tế về chỉ số đổi mới và sáng tạo. Những kết quả nêu trên, một lần nữa khẳng
định rằng chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng; đi lên chủ
nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Các thành
phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam đảm bảo tính quy luật chung và tính đặc thù và
phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mỗi thành phần
kinh tế tồn tại có ví trí, vai trò riêng để thực hiện các nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lâu
lOMoARcPSD| 40551442
12
dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh
thần dân chủ về kinh tế tuân thủ theo pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng
định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối
đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa".
Thứ hai, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nền kinh tế.
Từ công nghiệp hóa theo kiểu cũ, khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công nghiệp
nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các
nước xã hội chủ nghĩa đi trước đã chuyển dần sang công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại
hóa trong nền kinh tế mở; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh công
nghiệp, dịch vụ, gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với từng bước phát triển nền kinh tế
tri thức, các ngành, lĩnh vực kinh tế đòi hỏi hàm lượng trí tuệ, chất xám cao. Theo Tổng
cục Thống kê, năm 1986, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với
38,1%. Tỷ trọng ngành dịch vụ là 33%, còn công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp nhất với
28,9%. Đến năm 2019, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 13,96%
GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,49%; khu vực dịch vụ chiếm 41,64%;
thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,91%
Từ chỗ xác định lực lượng chủ yếu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là Nhà nước
và doanh nghiệp Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là sự nghiệp của toàn dân, của toàn xã hội. Nhà nước phải có chính sách để khơi dy,
phát huy các nguồn lực của nhân dân, của mọi thành phần kinh tế, đồng thời huy động
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Về cơ chế phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa, từ chỗ chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch
hóa tập trung của Nhà nước và giao cho doanh nghiệp nhà nước làm, đã dần dần chuyển
sang phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường, lấy tiêu chuẩn trước hết là hiệu quả kinh
tế để đầu tư; Nhà nước có chính sách khuyến khích và ưu đãi cho một số ngành, lĩnh vực,
địa bàn, doanh nghiệp vừa và nhỏ và một số mục tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xóa
đói giảm nghèo.
Thứ ba, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại. Với phương châm “Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng”, Việt Nam đã thực
lOMoARcPSD| 40551442
13
hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại; gắn kết kinh tế nước ta với
khu vực và thế giới thông qua các hoạt động thương mại, đầu tư và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Sau khi xóa bỏ thành công chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và các
lực lượng thù địch nước ngoài, Việt Nam đã tham gia hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế
trên các cấp độ và trong các lĩnh vực kinh tế then chốt, không ngừng mở rộng các quan
hệ kinh tế song phương, tiểu vùng, vùng, liên vùng và tiến tới tham gia liên kết kinh tế
toàn cầu.
2.Một số hạn chế trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế Bên
cạnh những kết quả đạt được, thực trạng phát triển kinh tế và việc vận dụng tư tưởng
kinh tế của Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, thể hiện như:
Chất lượng tăng trưởng kinh tế của nước ta còn thấp; chủ yếu dựa vào các nhân tố tăng
trưởng theo chiều rộng, với những ngành/sản phẩm truyền thống, công nghệ thấp, tiêu
hao vật tư cao, chưa đi mạnh vào chất lượng, còn phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư và bảo
hộ, bao cấp dưới nhiều hình thức của Nhà nước. Công nghiệp phụ trợ và các dịch vụ khác
chưa phát triển dẫn đến giá trị quốc gia trong sản phẩm còn thấp. Hầu hết các ngành công
nghiệp đều có hệ suất tiêu hao năng lượng và nguyên liệu cao hơn so với các nước trong
khu vực. Năng lực cạnh tranh tuy có tiến bộ nhưng còn thấp so với yêu cầu phát triển và
hội nhập kinh tế quốc tế.
Các thành phần kinh tế chưa phát triển đúng tiềm năng: Kinh tế nhà nước chưa làm thật
tốt vai trò chủ đạo; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Kinh tế tập thể phát
triển chậm và còn nhỏ bé. Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng vai trò động lực của nền kinh tế,
chưa được quan tâm tạo điều kiện thỏa đáng. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn khó
khăn về môi trường đầu tư và một số vướng mắc về cơ chế, chính sách...
Những tồn tại trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan (như sự chống phá của
lực lượng thù địch, bối cảnh kinh tế thị trường biến động phức tạp) và cả nguyên nhân
chủ quan. Trong đó, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế chưa thật sự đúng
đắn cũng dẫn đến những hạn chế trên. Hạn chế trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh có thể kể đến như sau:
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa ngang tầm với nhu cầu phát triển.
Nhận thức một số vấn đề còn chưa có nghiên cứu sâu sắc dẫn đến sự không thống nhất
trong hoạch định các chủ trương, chính sách.
Việc tổ chức tuyên truyền, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh còn hình thức, giáo điều, hiệu
quả chưa cao. Công tác tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến, mô
lOMoARcPSD| 40551442
14
hình hay, cách làm hiệu quả trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh chưa thực sự tạo sức lan tỏa trong xã hội.
3.Giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển kinh
tế
Nhằm quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh một cách hiệu quả, tác giả đề xuất
một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt trong hoạch
định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở mỗi giai đoạn xây dựng
và phát triển nền kinh tế.
Thứ hai, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở nguyên tắc
lịch sử cụ thể. Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh có nghĩa là trên cơ sở nắm
vững bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng đó
phù hợp, gắn bó sống động trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Ngoài ra, công cuộc xây dựng
và phát triển kinh tế Việt Nam có diễn biến phức tạp, xuất hiện các vấn đề, sự kiện mới
mà bối cảnh hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh chưa có. Sự trung thành với tư tưởng Hồ
Chí Minh đòi hỏi trên cơ sở đổi mới có nguyên tắc, vận dụng sáng tạo, không rập khuôn,
để phát triển tư tưởng của Người cho phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay. Thứ ba, tăng
cường tuyên truyền, vận động nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, khắc phục
những biểu hiện của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều, nhất là bệnh coi nhẹ lý luận,
ngại học lý luận chính trị và các chủ trương, đường lối của Đảng. Các hoạt động tuyên
truyền, nghiên cứu và vận dụng cần được thực hiện nghiêm túc, định kỳ kiểm tra, giám
sát, khen thưởng...
KẾT LUẬN
Trải qua một khoảng thời gian hơn 30 năm quá độ lên xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã
đạt được những thành tựu to lớn, mang ý nghĩa lịch sử to lớn. Điều này đã góp phần
chứng tỏ được lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đã vạch ra phương hướng và những hướng đi phù hợp, giúp các nước kém phát triển
đi sau có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không phải trải qua giai đoạn tư bản chủ
nghĩa. Nó cũng là bằng chứng xác thực mang tính thực tiễn cho thấy sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng Cộng SảnViệt Nam cùng với tinh thần chiến đấu không biết mệt mỏi cùng
đức hy sinh lớn lao của nhândân Việt Nam đã đưa đất nước Việt
lOMoARcPSD| 40551442
15
Nam vượt lên mọi khó khăn và thử thách để nước ta có được ngày hôm nay. uy nhiên,
cần phải nhận thức rằngđây mới là sự thành công bước đầu. Hơn nữa, tình hình thế giới
đang có sự thay đổi nhanh và toàn diện, thế giới đang phải đối mặt với muôn vàn khó
khăn và thách thức từ dịch bệnh cũng như thiên tai từ thiên nhiên đem lại. Vì vậy, Đảng
và nhândân ta cần tiếp tục nỗ lực vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lenin, phát huy
sứcmạnh của trí tuệ và dân chủ trong hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
côngcuộc đổi mới và phát triển kinh tế nhanh, bền vững để tiếp tục thu được những
thànhcông to lớn hơn, vững chắc hơn trên con đường xây dựng một xã hội mới, xã hội
hộichủ nghĩa ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (20), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
2. Tạp chí tài chính: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển
kinh tế Việt Nam
3. Tạp chí Tổ chức nhà nước : Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần và sự vận dụng của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới
4. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta
lOMoARcPSD| 40551442
16
5. Tạp chí Kinh tế và dự báo: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế
trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam
| 1/16

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40551442
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA DIGITAL MARKETING BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về
cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận
dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền
kinh tế nước ta hiện nay.
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Trang Anh MSV: 11220491
Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh Digital Marketing CLC 64CAEP( 222) 14 Giảng viên HÀ NỘI - 2023 1 lOMoAR cPSD| 40551442 MỤC LỤC Mở
đầu……………………………………………………………………………tr,3
Chương 1: Tư tưởng HCM về kinh tế………………………………………….tr.4
1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội…………………………………..tr.4
2.Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt
Nam………………………………………………………………..tr.6
Chương 2: Sự vận dụng của tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta………….tr.11 Kết luận:
……………………………………………………………………….tr.15 2 lOMoAR cPSD| 40551442 MỞ ĐẦU
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và từ
năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách mạng dân
tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tính đến nay, đã hơn
60 năm lịch sử mà mà toàn dân cùng nhau trải qua giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, cùng
nhau chứng kiến giai đoạn lịch sử chuyển mình sang một hình thái kinh tế xã hội mới tiến
lên cộng sản chủ nghĩa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà: "nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây
dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội,
có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế
mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr. 13)
Như vậy, để thực hiện được mục tiêu tiến đến chủ
nghĩa xã hội, chúng ta phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong đó cần phải xác vai
trò, tỷ trọng và mối quan hệ hợp thành giữa các ngành kinh tế quốc dân, giữa các vùng,
lãnh thổ và giữa các thành phần kinh tế. Các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế phải được thể
hiện cả về mặt số lượng cũng như về mặt chất lượng và được xác định trong những giai
đoạn nhất định, phù hợp với những đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội cụ thể của mỗi quốc
gia qua từng thời kỳ. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng về cơ cấu kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về những thành phần kinh tế là một bộ phận đặc sắc trong tư tưởng kinh tế của Người
và vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với đất nước ta trong công cuộc đổi mới phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Với ý nghĩa to lớn và
thiết thực như vậy, đề tài “ Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh
về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan
điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.” đã được chọn.
CHƯƠNG 1 : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KINH TẾ
1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 3 lOMoAR cPSD| 40551442
Từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác phải trải qua giai
đoạn trung gian, C.Mác và Ph.Ăngghen gọi đó là thời kỳ quá độ. C.Mác khẳng định giữa
xã hội tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản là một thời kỳ chuyển hoá cách mạng từ
xã hội nọ thành xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy sẽ là một thời kỳ quá độ chính trị,
trong đó nhà nước không thể là cái gì khác hơn là chuyên chính cách mạng của giai cấp
vô sản. Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời có quá trình phát triển qua các
giai đoạn, từ thấp đến cao: giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản; giai đoạn cao hơn của
chủ nghĩa cộng sản. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, giai cấp vô sản phải
thiết lập được sự thống trị của mình và thực hiện chuyên chính. Thời kỳ Mác và Ăngghen
trong bối cảnh của thế kỷ XIX ở phương Tây vấn đề kinh tế của thời kỳ quá độ chưa đặt
ra nên các ông chỉ mới đề cập đến nội dung chính trị. V.I.Lênin đã kế thừa, phát huy tư
tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời Lênin cụ thể hóa việc phân kỳ hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba giai đoạn: Giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản
gọi là chủ nghĩa xã hội; Giai đoạn cao được gọi là chủ nghĩa cộng sản hay xã hội cộng
sản; Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu và lâu dài.
V.I.Lênin phân tích đặc điểm kinh tế của các quốc gia quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ đó
cho rằng có nhiều kiểu quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là kiểu “quá độ” của các nước đã
qua chủ nghĩa tư bản và “quá độ” của những nước “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa” đi lên chủ nghĩa xã hội.
Lenin đã chỉ ra đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ lên chủ chủ nghĩa xã hội
là sự tồn tại nên kinh tế nhiều thành phần và tương tự với nó có nhiều giai cấp, tầng lớp
xã hội khác nhau nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của các giai cấp trong xã hội đã thay
đổi một cách sâu sắc. Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là khách quan và lâu
dài, có lợi cho sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Theo Lenin, mâu
thuẫn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là mâu thuẫn chủ nghĩa xã hội đã giành
thắng lợi nhưng còn non yếu với chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng vẫn còn khả năng
khôi phục. Vì vậy, thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh “ai thắng ai’ giữa chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản quyết liệt, quanh co, khúc khuỷu và phức tạp. Phân tích
thực trạng nền kinh tế của nước Nga lúc đó, V.I.Lenin rút ra có năm thành phần kinh tế
là: thành phần kinh tế nông dân gia trưởng; thành phần kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ của
nông dân, tiểu thủ công cá thể và tiểu thương; thành phần kinh tế tư bản tư nhân; thành
phần kinh tế tư bản nhà nước; thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. 4 lOMoAR cPSD| 40551442
Người cho rằng các nước trong thời kỳ quá độ phải chấp nhận nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa, coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là một thành phần trong toàn bộ nền kinh tế đất
nước, vì “phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu
sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để
tăng lực lượng sản xuất”. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là giai đoạn không thể bỏ
qua trong việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản, dù quá độ kiểu này hay kiểu khác đều là quy
luật và xu hướng tất yếu của nhân loại trong thời đại ngày nay.
Không phải chỉ đưa ra các tư tưởng lý luận, mà V.I.Lênin còn là người trực tiếp nghiên
cứu và chỉ đạo thực hành, áp dụng những quan điểm lý luận ấy vào công cuộc xây dựng
xã hội chủ nghĩa ở nước Nga sau nội chiến. Từ mùa xuân năm 1921 khi nước Nga
chuyển sang thời kỳ mới của chủ nghĩa xã hội, thấy Chính sách cộng sản thời chiến
không còn phù hợp nữa, mà lại là rào cản đối với sự đổi mới và đã làm giảm động lực
của những người lao động, Lênin cùng với Đảng Bôn-sê-vích Nga đề ra và thi hành
Chính sách kinh tế mới (NEP) nhằm thay thế Chính sách kinh tế thời chiến. Chính sách
kinh tế mới với nhiều nội dung khác nhau, trong đó có nội dung chủ yếu là phát huy sức
mạnh kinh tế của mọi hình thức kinh tế, đa thành phần kinh tế; phát triển sản xuất và lưu
thông hàng hoá; áp dụng những hình thức kinh tế quá độ để thúc đẩy phát triển sản xuất
hàng hoá nhỏ của nông dân và thợ thủ công, thúc đẩy phát triển kinh tế tư bản tư nhân,
phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước, sắp xếp lại các công ty nhà nước và chuyển đổi
mạnh mẽ sang cơ chế thị trường. .. Và V.I.Lênin cũng chủ trương tăng cường hợp tác
kinh tế với các quốc gia tư bản phương Tây nhằm trao đổi công nghệ, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý.
2.Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
2.1.Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế
của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành
giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội 5 lOMoAR cPSD| 40551442
thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính ở nội dung
cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa và làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta có đặc
điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm
khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều
mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá
độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và
thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp kém của nước ta.
So sánh các chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử để thấy sự khác nhau về bản chất giữa
chủ nghĩa xã hội với các chế độ khác, Hồ Chí Minh viết: “Trong xã hội có giai cấp bóc
lột thống trị, chỉ có lợi ích cá nhân của một số rất ít người thuộc giai cấp thống trị là
được thỏa mãn, còn lợi ích cá nhân của quần chúng lao động thì bị giày xéo. Trái lại,
trong chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm
chủ, thì mỗi người là một bộ phận của của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp
một phần công lao trong xã hội. Cho nên lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể,
là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích
riêng của cá nhân mới có điều kiện được thỏa mãn”. Người khẳng định mục đích của
cách mạng Việt Nam là tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi đến chủ nghĩa cộng sản vì: Cộng
sản có hai giai đoạn. Giai đoạn thấp, tức là chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn cao, tức là chủ
nghĩa cộng sản. Hai giai đoạn ấy giống nhau ở chỗ: Sức sản xuất đã phát triển cao; nền
tảng kinh tế thì tư liệu sản xuất đều là của chung; không có giai cấp áp bức bóc lột. Hai
giai đoạn ấy khác nhau ở chỗ: Chủ nghĩa xã hội vẫn còn chút ít vết tích xã hội cũ. Xã
hội cộng sản thì hoàn toàn không còn vết tích xã hội cũ.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ở giai đoạn đầu của
chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ
nghĩa xã hội không còn áp bức, bóc lột, xã hội do nhân dân lao động làm chủ, trong
đó con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa
thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.
2.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kì qua độ đi
lên chủ nghĩ xã hội ở Việt Nam 6 lOMoAR cPSD| 40551442
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa
tư bản nên xã hội xã hội chủ nghĩa phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh
tế của chủ nghĩa tư bản, đấy là nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ.
Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện: Công cụ lao động,
phương tiện lao động trong quá trình sản xuất “đã phát triển dần đến máy móc,
sức điện, sức nguyên tử”. Quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa được Hồ
Chí Minh diễn đạt là: Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v. làm của chung; là tư
liệu sản xuất thuộc về nhân dân. Đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ công hữu
tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta còn nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu, Hồ Chí Minh
xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ là phải cải tạo nền kinh tế cũ, xây
dựng nền kinh tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Đây là quá trình xây dựng
nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Giữa cải tạo và xây dựng thì xây dựng
là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài và phải luôn gắn với việc thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Cơ cấu các thành phần của một nền kinh tế phụ thuộc vào sự tồn tại của các hình thức sở
hữu, các kiểu quan hệ sản xuất, vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của sản
xuất hàng hoá thời kỳ quá độ. Như Lênin đã chỉ rõ: Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, xét
về toàn bộ, nó là nền kinh tế quá độ, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do đó sự tồn tại
của các thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan. Mỗi thành phần kinh tế
còn phát huy tác dụng tích cực, có đóng góp vào quốc kế dân sinh thì không thể dùng
mệnh lệnh hành chính mà xoá bỏ ngay một lúc được.
Khi nghiên cứu Chính sách kinh tế mới của Lênin để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ, ở
vùng tự do của ta, còn tồn tại 6 thành phần kinh tế.
Trong tác phẩm "Thường thức chính trị" viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã nêu rõ bản
chất của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa và đã cụ thể hoá các thành phần kinh tế bao gồm:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. - Kinh tế quốc doanh
- Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp - Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ. 7 lOMoAR cPSD| 40551442
- Kinh tế tư bản của tư nhân. - Kinh tế tư bản quốc.
Đặc điểm mới của nền kinh tế Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là sự
tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần. Đặc biệt, bên cạnh các thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa thì có sự tồn tại của thành phần là kinh tế phong kiến. Đây là thành phần kinh
tế mang tính đặc thù, thành phần kinh tế này phản ánh trình độ phát triển kinh tế thấp với
chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất và trong hoàn cảnh đặc thù yêu cầu phải tiếp tục
kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, cách mạng dân chủ. Trên cơ sở
nhận thức về tính quy luật chung, tính đặc thù trong nền kinh tế của từng nước. Hồ Chí
Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế cơ bản trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và trong từng giai
đoạn cụ thể. Về cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954, bên cạnh đảm bảo
tính quy luật chung về đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự
tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần với các thành phần kinh tế phổ biến,
kinh tế quá độ thì vẫn tồn tại thành phần kinh tế mang tính đặc thù. Như vậy, đây chính là
điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của từng thành phần kinh
tế trong nền kinh tế và có sơ sở để hoạch định chính sách đảm bảo ổn định nền kinh tế và
góp phần quan trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi.
Sau năm 1954 miền Bắc hoàn toàn giải phóng và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc
bước vào giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển nông nghiệp
với xuất phát điểm cực kỳ thấp, với nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu và bị chiến tranh tàn
phá nặng nề. Cơ sở vật chất – kỹ thuật thấp kém. Trình độ và năng suất lao động thấp,
đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về trình độ và kỹ
năng lãnh đạo, điều hành. Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn
cảnh đất nước bị chia thành hai miền, vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh. Tình hình
quốc tế trở nên phức tạp. Hệ thống xã hội chủ nghĩa bộc lộ một số mâu thuẫn, bất đồng,
mâu thuẫn. Vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
chưa sáng rõ. Từ thực tiễn miền Bắc như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ
ra các hình thức sỡ hữu cơ bản trong nền kinh tế miền Bắc, bao gồm: “Sở hữu Nhà nước
tức là của toàn dân; sở hữu hợp tác tức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu của
người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”. Với sự đa
dạng của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, Người đã xác định rõ những thành phần 8 lOMoAR cPSD| 40551442
kinh tế đang tồn tại và hoạt động ở miền Bắc: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc Chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa Chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến Chủ nghĩa xã hội). C-
Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức
là nữa Chủ nghĩa xã hội). D- Tư bản của tư nhân.
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh
doanh).Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho
nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ
nghĩa tư bản”. Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, lãnh đạo nền kinh tế
quốc dân, cần phải ưu tiên phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng
vật chất cho Chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa; Nhà nước
phải tạo điều kiện cho nó phát triển. Bác khẳng định, kinh tế hợp tác xã là hình thức
sở hữu tập thể của Nhân dân lao động; Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng
dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển. Hợp tác hóa nông nghiệp là khâu chính thúc đẩy
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Người khẳng định: “nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp… hai chân không đều nhau,
không thể bước mạnh được”. Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương
thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu….Đồng thời, công nghiệp cũng cần phải
phát triển mạnh để cung cấp hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho
nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông
nghiệp và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Cho nên
công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cũng nhau phát triển, như hai
chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là
thực hiện liên minh công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm
no, sung sướng cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thấy được tính tất yếu của
việc công nghiệp hóa, hiên đại hóa. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu
phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự của nhân dân ta. Trong bài con đường
phía trước (ngày 20-01-1960), Người viết: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào,
khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất thật rộng rãi; dùng máy móc cả trong công
nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người
tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường. Muốn có 9 lOMoAR cPSD| 40551442
nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, ra thép,
than, dầu… Đó là con đường phải đi của chúng ta: Con đường công nghiệp hóa nước nhà”.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí Minh đưa ra
chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt:
Một là, Công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của
kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng
hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu thuế thì phải
trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công
nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính
phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia,
phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.
Hai là, Chủ thợ đều lợi. Nhà nước tư bản không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn
cấm họ bóc lột nhân dân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi cho công nhân. Đồng
thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu
cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên. Ba là,
Công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ cần dùng khác, để
cũng cấp cho nông dân. Nông dân thì ra sức tăng gia sản xuất, để cung cấp lương thực
và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên minh giữa công nông.
Bốn là, Lưu thông trong ngoài. Ta ra sức khai thác lâm thổ sản để bán cho các nước bạn
và để mua những thứ ta cần dùng. Các bạn mua những thứ ta đưa ra và bán cho ta những
hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn nhau rất có lợi cho kinh tế ta.
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế
Trong bối cảnh hiện nay, dự báo xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều
cấp độ, đa dạng về hình thức, yêu cầu đặt ra là phải nhanh chóng nắm bắt, thích ứng với
nguyên tắc, quy luật vận hành của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa. Việc đẩy nhanh
tiến độ hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách phát triển kinh tế theo nguyên tắc bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế là vấn đề hết sức quan trọng, tạo tiền đề cho việc huy 10 lOMoAR cPSD| 40551442
động, phân bổ và sử dụng nguồn lực phù hợp hơn với cơ chế thị trường, phát triển đất
nước. Hoạch định các cơ chế, chính sách kinh tế cần chú trọng kết hợp giữa phát triển
kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người dân tham gia và
nhận được thành quả từ quá trình phát triển kinh tế. Đồng thời, phải tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt đông của Nhà nước cho phù hợp hơn với yêu cầu ̣
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH
được trình bày một cách giản dị, dễ hiểu nhưng mang giá trị to lớn trong công cuộc xây
dựng và kiến thiết nước nhà. Nhìn lại chặng đường vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, có thể thấy như sau:
Thứ nhất, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế. Giai
đoạn đầu sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam tiến hành quản lý kinh tế theo cơ
chế kế hoạch hóa tập trung dẫn đến khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Đến Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng (Tháng 6/1991), vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
đã xác định “bước đầu hình thành nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước”. Việt Nam đã từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý kế
hoạch hóa, chuyển sang cơ chế thị trường thông qua: xác định các hình thức sở hữu chủ
yếu (toàn dân, tập thể, tư nhân), thừa nhận sự tồn tại tất yếu của nhiều thành phần kinh tế;
xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh
tế kinh doanh theo pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Kết quả của 35 năm đổi mới về kinh tế nước ta tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao,
trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, môi trường quốc tế không thuận lợi);
Tiềm lực, quy mô của nền kinh tế được nâng lên, GDP năm 2020 đạt 343,6 tỉ USD (đứng
thứ 4 Đông Nam Á; Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng
6%/năm, năm 2020 đạt 2,91% ; Thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD năm 2020.
( xếp thứ 6 ASEAN); Dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD; Xếp thứ 42/131 quốc gia và
nền kinh tế về chỉ số đổi mới và sáng tạo. Những kết quả nêu trên, một lần nữa khẳng
định rằng chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng; đi lên chủ
nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Các thành
phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam đảm bảo tính quy luật chung và tính đặc thù và
phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mỗi thành phần
kinh tế tồn tại có ví trí, vai trò riêng để thực hiện các nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lâu 11 lOMoAR cPSD| 40551442
dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh
thần dân chủ về kinh tế tuân thủ theo pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng
định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối
đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa".

Thứ hai, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.
Từ công nghiệp hóa theo kiểu cũ, khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công nghiệp
nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các
nước xã hội chủ nghĩa đi trước đã chuyển dần sang công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại
hóa trong nền kinh tế mở; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh công
nghiệp, dịch vụ, gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với từng bước phát triển nền kinh tế
tri thức, các ngành, lĩnh vực kinh tế đòi hỏi hàm lượng trí tuệ, chất xám cao. Theo Tổng
cục Thống kê, năm 1986, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với
38,1%. Tỷ trọng ngành dịch vụ là 33%, còn công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp nhất với
28,9%. Đến năm 2019, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 13,96%
GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,49%; khu vực dịch vụ chiếm 41,64%;
thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,91%
Từ chỗ xác định lực lượng chủ yếu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là Nhà nước
và doanh nghiệp Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là sự nghiệp của toàn dân, của toàn xã hội. Nhà nước phải có chính sách để khơi dậy,
phát huy các nguồn lực của nhân dân, của mọi thành phần kinh tế, đồng thời huy động và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về cơ chế phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa, từ chỗ chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch
hóa tập trung của Nhà nước và giao cho doanh nghiệp nhà nước làm, đã dần dần chuyển
sang phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường, lấy tiêu chuẩn trước hết là hiệu quả kinh
tế để đầu tư; Nhà nước có chính sách khuyến khích và ưu đãi cho một số ngành, lĩnh vực,
địa bàn, doanh nghiệp vừa và nhỏ và một số mục tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo.
Thứ ba, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại. Với phương châm “Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng”, Việt Nam đã thực 12 lOMoAR cPSD| 40551442
hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại; gắn kết kinh tế nước ta với
khu vực và thế giới thông qua các hoạt động thương mại, đầu tư và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Sau khi xóa bỏ thành công chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và các
lực lượng thù địch nước ngoài, Việt Nam đã tham gia hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế
trên các cấp độ và trong các lĩnh vực kinh tế then chốt, không ngừng mở rộng các quan
hệ kinh tế song phương, tiểu vùng, vùng, liên vùng và tiến tới tham gia liên kết kinh tế toàn cầu.
2.Một số hạn chế trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế Bên
cạnh những kết quả đạt được, thực trạng phát triển kinh tế và việc vận dụng tư tưởng
kinh tế của Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, thể hiện như:
Chất lượng tăng trưởng kinh tế của nước ta còn thấp; chủ yếu dựa vào các nhân tố tăng
trưởng theo chiều rộng, với những ngành/sản phẩm truyền thống, công nghệ thấp, tiêu
hao vật tư cao, chưa đi mạnh vào chất lượng, còn phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư và bảo
hộ, bao cấp dưới nhiều hình thức của Nhà nước. Công nghiệp phụ trợ và các dịch vụ khác
chưa phát triển dẫn đến giá trị quốc gia trong sản phẩm còn thấp. Hầu hết các ngành công
nghiệp đều có hệ suất tiêu hao năng lượng và nguyên liệu cao hơn so với các nước trong
khu vực. Năng lực cạnh tranh tuy có tiến bộ nhưng còn thấp so với yêu cầu phát triển và
hội nhập kinh tế quốc tế.
Các thành phần kinh tế chưa phát triển đúng tiềm năng: Kinh tế nhà nước chưa làm thật
tốt vai trò chủ đạo; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Kinh tế tập thể phát
triển chậm và còn nhỏ bé. Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng vai trò động lực của nền kinh tế,
chưa được quan tâm tạo điều kiện thỏa đáng. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn khó
khăn về môi trường đầu tư và một số vướng mắc về cơ chế, chính sách...
Những tồn tại trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan (như sự chống phá của
lực lượng thù địch, bối cảnh kinh tế thị trường biến động phức tạp) và cả nguyên nhân
chủ quan. Trong đó, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế chưa thật sự đúng
đắn cũng dẫn đến những hạn chế trên. Hạn chế trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh có thể kể đến như sau:
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa ngang tầm với nhu cầu phát triển.
Nhận thức một số vấn đề còn chưa có nghiên cứu sâu sắc dẫn đến sự không thống nhất
trong hoạch định các chủ trương, chính sách.
Việc tổ chức tuyên truyền, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh còn hình thức, giáo điều, hiệu
quả chưa cao. Công tác tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến, mô 13 lOMoAR cPSD| 40551442
hình hay, cách làm hiệu quả trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh chưa thực sự tạo sức lan tỏa trong xã hội.
3.Giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển kinh tế
Nhằm quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh một cách hiệu quả, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt trong hoạch
định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở mỗi giai đoạn xây dựng
và phát triển nền kinh tế.
Thứ hai, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở nguyên tắc
lịch sử cụ thể. Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh có nghĩa là trên cơ sở nắm
vững bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng đó
phù hợp, gắn bó sống động trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Ngoài ra, công cuộc xây dựng
và phát triển kinh tế Việt Nam có diễn biến phức tạp, xuất hiện các vấn đề, sự kiện mới
mà bối cảnh hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh chưa có. Sự trung thành với tư tưởng Hồ
Chí Minh đòi hỏi trên cơ sở đổi mới có nguyên tắc, vận dụng sáng tạo, không rập khuôn,
để phát triển tư tưởng của Người cho phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay. Thứ ba, tăng
cường tuyên truyền, vận động nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, khắc phục
những biểu hiện của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều, nhất là bệnh coi nhẹ lý luận,
ngại học lý luận chính trị và các chủ trương, đường lối của Đảng. Các hoạt động tuyên
truyền, nghiên cứu và vận dụng cần được thực hiện nghiêm túc, định kỳ kiểm tra, giám sát, khen thưởng... KẾT LUẬN
Trải qua một khoảng thời gian hơn 30 năm quá độ lên xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã
đạt được những thành tựu to lớn, mang ý nghĩa lịch sử to lớn. Điều này đã góp phần
chứng tỏ được lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đã vạch ra phương hướng và những hướng đi phù hợp, giúp các nước kém phát triển
đi sau có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không phải trải qua giai đoạn tư bản chủ
nghĩa. Nó cũng là bằng chứng xác thực mang tính thực tiễn cho thấy sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng Cộng SảnViệt Nam cùng với tinh thần chiến đấu không biết mệt mỏi cùng
đức hy sinh lớn lao của nhândân Việt Nam đã đưa đất nước Việt 14 lOMoAR cPSD| 40551442
Nam vượt lên mọi khó khăn và thử thách để nước ta có được ngày hôm nay. uy nhiên,
cần phải nhận thức rằngđây mới là sự thành công bước đầu. Hơn nữa, tình hình thế giới
đang có sự thay đổi nhanh và toàn diện, thế giới đang phải đối mặt với muôn vàn khó
khăn và thách thức từ dịch bệnh cũng như thiên tai từ thiên nhiên đem lại. Vì vậy, Đảng
và nhândân ta cần tiếp tục nỗ lực vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lenin, phát huy
sứcmạnh của trí tuệ và dân chủ trong hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
côngcuộc đổi mới và phát triển kinh tế nhanh, bền vững để tiếp tục thu được những
thànhcông to lớn hơn, vững chắc hơn trên con đường xây dựng một xã hội mới, xã hội xã
hộichủ nghĩa ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (20), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Tạp chí tài chính: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển kinh tế Việt Nam
3. Tạp chí Tổ chức nhà nước : Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần và sự vận dụng của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới
4. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta 15 lOMoAR cPSD| 40551442
5. Tạp chí Kinh tế và dự báo: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế
trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam 16