Ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ điển - Văn hóa dân gian | Trường Đại học Khánh Hòa

Ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ điển - Văn hóa dân gian | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

*Ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ điển đến VHVN
Văn học cổ điển ở Việt Nam:
-Ở Việt Nam, chủ nghĩa cổ điển như một phong cách nghệ thuật, một khuynh
hưởng mĩ thuật chưa bao giờ xuất hiện. Văn học cổ điển ta nói đến ở văn học Việt
Nam là theo nghĩa rộng có nghĩa là mẫu mực. Cụ thể nó là một tên gọi chung cho
giai đoạn văn học phát triển rực rỡ với nhiều tác phẩm đạt đến trình độ mẫu mực
từ đầu thế kỉ XIX trở về trước . Từ trong di sản của các tác giả trung đại, cũng
xuất hiện nhiều quan niệm về thơ ca, có thể phát huy mặt tích cực trong thi pháp
biểu hiện. Thời đại suy yếu của phong kiến Trung Hoa là từ sau thời Tống Nho, ở
Việt Nam là từ thế kỷ XVI... Từ cơ sở xã hội đến ý thức hệ và quan niệm văn học
nghệ thuật đều trở nên lạc hậu, tất yếu dẫn đến sự thoái hóa trong khuynh hướng
cổ điển cả về nội dung lẫn hình thức, từ việc xây dựng nhân vật lý tưởng đến thi
pháp biểu hiện.
-Nhìn một cách tổng quát, với các tính chất giáo huấn, lý tưởng hóa và qui phạm,
khuynh hưởng cổ điển trong văn học cổ phương Đông cũng có một số yếu tố
tương đồng với chủ nghĩa cổ điển phương Tây đều xem xét nhân vật lý tưởng là
người đặt lý trí lên trên tình cảm, coi nhẹ lợi ích riêng tư, tận trung phục vụ chế
độ và lễ giáo phong kiến, coi nhẹ việc cả thể hóa tính cách và đặc biệt là sự thiếu
dân chủ về đề tài và thể loại, và ngay cả những thể loại được tôn sùng vẫn có
những quy phạm nghiêm ngặt... Tuy nhiên, ở phương Đông và Việt Nam, quan hệ
sản xuất tư bản ra đời và phát triển chậm, không diễn ra thế quân bình giữa hai
giai cấp phong kiến và tư sản Tiêu biểu cho văn học Việt Nam với những tác
phẩm mẫu mực là các tác giả như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm...
Nguyễn Trãi
Văn học nửa đầu thế kỉ XV mang âm điệu anh hùng là âm điệu chủ đạo Tiêu biểu
là tác gia Nguyễn Trãi – ngôi sao sáng nhất của bầu trời văn học lúc đương thời,
những sáng tác của ông đã trở thành mẫu mực của nền văn học Đại Việt.
Là một trí thức dân tộc có ý thức cao về nền văn hóa của nước Đại Việt, Nguyễn
Trãi đã rất coi trọng văn học dùng ngôn ngữ dân tộc. Trong sự nghiệp sáng tác
của Nguyễn Trãi, thơ Nôm giữ một vị trí rất đặc biệt(254 bài) . “Quốc âm thi tập"
cho thấy thơ Nôm Nguyễn Trãi mang âm điệu riêng vừa sinh động vừa hàm súc,
vừa chân thực lại vừa mĩ lễ lại nhiều khi gần quốc độc đáo vì ông có tâm hồn
phong phủ; là lời than của một người đau xót vì lý tưởng không thực hiện được là
lắng vì việc đòi ngày càng rối ren.
Bùi một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.
(Thuật hứng)
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
(Bảo kính cảnh giới)
Nguyễn Trãi quan niệm rằng văn nghề không thể tách rời những yêu cầu của
cuộc sống, ông dùng ngòi bút như một vũ khí giúp cho người đời nhìn hiện thực
một cách phong phú hơn. sâu sắc hơn. Những bài thơ của ông đều có kết cấu
niêm luật chặt chẽ hoàn chỉnh, vững chắc
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi trước hết là ở chỗ dùng ngòi bút mà chiến
đấu cho Tổ quốc, cho nhân dân. Ông viết để đánh giá, ông viết để xây dựng đất
nước. ông viết để phê phán những mặt tiêu cực của triều đình, ông viết để tự tu
dưỡng, để giữ vững phẩm chất trong những con bỉ cực. Những bài văn chữ Hán có
tính chiến đấu cao và nội dung yêu nước sâu sắc viết trong thời gian kháng chiến.
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm là tác gia tiêu biểu tỏ niềm ưu ái sâu sắc của mình với đất
nước, con người. Cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của ông phần nào thể hiện được
điều đó. Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trong thời loạn lạc, tư tưởng triết học ở ông là
tấm gương phản chiếu một xã hội đầy biến động, là đại diện cho tâm lý chung
của người đời. Quan niệm vũ trụ và nhân sinh trong tác phẩm của Nguyễn Bỉnh
Khiêm một mặt chịu ảnh hưởng của tư tưởng Lão –Trang và Phật giáo, nhưng là
một nhà Nho, tư tưởng triết học ấy chủ yếu bắt nguồn từ Kinh Dịch và Lý học (bao
gồm cả Nho, Phật, Lão). Mặt khác, vì ẩn dật ở nơi thôn dã, ít nhiều Nguyễn ảnh
Khiêm cũng tiếp thu được triết lý thực tiễn và kinh nghiệm thực tiễn của nhân
dân. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phản ảnh được sự bế tắc của các triều đại
phong kiến không sao thoát khỏi cái vòng lẫn quần hết hưng lại vong. Niềm ưu ái
trong thơ ông cũng dành những tình cảm trong sáng. cao đẹp hướng về dân
chúng. Kế thừa truyền thống của những nhà ái quốc vĩ đại như Trần Quốc Tuấn,
Nguyễn Trãi... Ông hiểu rằng bền nước, yên dân là việc đầu mối”, nước trước hết
là dân, muốn lo việc nước thì phải dựa vào dân, phải được lòng dân Nguyễn Bỉnh
Khiêm nêu cao nhân nghĩa, hòa bình, vạch trần sự vô lý của
cảnh tàn sát do bọn phong kiến gây ra, tố cáo dã tâm của những kẻ thích theo
đuổi chiến tranh làm cho nhân dân khổ sở, điêu đứng.
“Tặc đình cửu hãm mẫn ngô nhân,
Chủng cứu thuỳ năng thể chí nhân.
Thương cập cốc ngưu hình võng giới,
Hoạ diên Côn ngọc hoá câu phần.
Thế vô kham loạn tri binh tướng,
Vọng uất lai tô hễ hậu dân.
Thử tuế hựu tao cơ cận ách,
Lưu ly hà địa khả dung thân.”
(Thương dân lành hãm lâu đất giặc,
Cứu vớt người ai bậc chí nhân.
Bạo hình tàn vật hại dân,
Hoa lan núi cũng ầm ầm lửa thiêu.
Giỏi dẹp loạn, lược thao chẳng thấy,
Cứu sống dân, mong cậy thánh vương.
Gặp nên cơ cận tai ương,
Lưu ly khốn đốn không đường dung thân.
- Cảm hứng thi - bài 7, Hữu Thế dịch)
Nguyễn Bỉnh Khiêm tha thiết mong cho loạn lạc nhanh chóng chấm dứt để dân
được yên ổn làm ăn. Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm phần lớn được viết trong
bối cảnh nông thôn, khi nhà thơ ở ấn. Tập thơ Nôm “Bạch Vân am thi tập” ngoài
tình cảm với con người, nhà thơ còn miêu tả thiên nhiên thôn quê và lòng tha
thiết của ông đối với cuộc sống ẩn cư. Nguyễn Bỉnh Khiêm có những đức tính tốt
đẹp của thuộc về truyền thống tốt đẹp của dân tộc và ông đã thể hiện trong thơ
ca của mình. Niềm ưu ái sâu sắc với đất nước, con người; thái độ dũng cảm phê
phán những tệ lậu của chế độ phong kiển; đức tính liêm khiết, giản dị, phong thái
an nhiên kết hợp với nỗi chân tình.
Từ đó, thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kế thừa và phát huy những truyền thống
của văn học từ đời trước để lại, là những áng thơ văn mẫu mực của văn học dân
tộc Nguyễn Du
Nguyễn Du cũng là một trong số những tác gia tiêu biểu sáng tác theo tinh thần
nhân đạo chủ nghĩa thể hiện tư tưởng của người tài tử : suy nghĩ về thân phận
minh, suy nghĩ về số mệnh của những người tài sắc, suy nghĩ về số mệnh của
những người cùng khổ... Tư tưởng Nguyễn Du chịu ảnh hưởng Nho giáo, Lão
Trang, Phật giáo. Nguyễn Du là tập đại thành tư tưởng đương thời Nho giáo đã tạo
ra hình tượng người tráng sĩ củng đường và con người cô trung độc tỉnh rất thú vị.
tư tưởng Thiền Lão đã đưa Nguyễn Du đến cái tâm ngộ đạo và những bài thơ
thiên nhiên tuyệt đẹp. “Truyện Kiều là một trong những mẫu mực của thi ca, là
niềm tự hảo dân tộc. Tác phẩm đặt ra vấn đề "tai mệnh tương đổ”, “hồng nhan
bạc phận” từ đó đặt ra vấn đề người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đô thị phong
kiến mà đồng tiền đã bắt đầu khẳng định thế lực của nó. Nghệ thuật bậc thầy
trong việc xây dựng tinh cách, miêu tả tâm lý nhân vật.
Đã cho ly ch hng nhan
Làm cho cho hi cho tàn cho cân
Đã đày vào kiếp phong trn
Sao cho s nhc mt ln mi thôi
(Truyn Kiu)
Đau đn thay phn đàn bà
Li rng bc mnh cũng là li chung
(Truyn Kiu)
Thời gian và không gian đã trở thành phương tiện nghệ thuật khắc họa tính cách
nhân vật và tình huống truyện. dùng thiên nhiên để dự cảm về số phận con người
là một thủ pháp đặc biệt trong Truyện Kiều mà khó có tác phẩm nào sánh được.
Vng trăng ai x làm đôi
Na in gi chiếc na soi dm trưng
(Truyn Kiu)
Nhìn chung, văn học Việt Nam thời kì trung đại đã trở thành một bộ phận quan
trọng và không thể thiếu trong nền văn học của một quốc gia độc lập, trở thành
chuẩn mực cho những sáng tác của văn học giai đoạn sau này. Kết luận FERN
Nhìn chung chủ nghĩa cổ điển là giai đoạn phát triển quan trọng của lịch sử văn
học châu Âu, đặc biệt là văn học Pháp. Nó gắn liền và đưa văn học lên đến bước
đường phát triển mới. Nó tiếp tục một cách xứng đáng chủ nghĩa nhân văn thời
Phục hưng và chuẩn bị cho nền văn học Ánh sáng của giai cấp tư sản đầu TK XVIII
chứ không hài hòa trong cái chung.
ẢNH HƯỞNG THÊM:
-Vào những năm đầu của thế kỉ XX, trong văn học Việt Nam, văn xuôi lãng mạn,
văn xuôi hiện thực và phong trào Thơ mới chịu ảnh hưởng sâu sắc văn học
phương Tây. Các nhà thơ mới và các nhà văn Tự lực văn đoàn là những người tiên
phong đổi mới theo tư tưởng phương Tây trong nhận thức và phản ánh.
Văn xuôi lãnh mạn đã đưa vào văn học Việt Nam những tư tưởng tiến bộ của chủ
nghĩa lãng mạn phương Tây. Đó là tư tưởng chống phong kiến, đề cao ý thức cá
nhân. Từ những tiếp thu đối với văn học phương Tây, văn học lãng mạn Việt Nam
đã có những bước chuyển biến mới trong kết cấu, cốt truyện và các hình thức
phản ánh khác. Các nhà văn trong Tự lực văn đoàn như Khái Hưng, Hoàng Đạo,
Nhất Linh, Thạch Lam, Thế Lữ đã “đem phương pháp Thái Tây ứng dụng vào văn
chương An Nam”. Trong sáng tác của họ, dấu ấn của Chateaubriand, V. Hugo, A.
Musset, Lamartine, A. Gide...thể hiện khá rõ.
Viết về đề tài tình yêu của những cặp trai gái có cảnh ngộ éo le, đặc biệt, Nhất
Linh và Khái Hưng chịu ảnh hưởng của A. Gide. Nếu như Bản giao hưởng đồng
quê (A.Gide) miêu tả tình yêu của một giáo sĩ với một cô gái mù xinh đẹp thì ở
Gánh hàng hoa (Khái Hưng và Nhất Linh), tác giả xây dựng mối tình lãng mạn
giữa cô gái bán hoa với một văn sĩ mù, còn Nắng thu (Nhất Linh) lại đưa người
đọc đến với tình yêu của một cậu học sinh trung học với một cô gái câm mồ côi.
Rõ ràng, ở đây chúng ta thấy có một sự gần gũi về đề tài mà các nhà văn lãng
mạn Việt Nam đã tiếp thu được từ văn học phương Tây. Nhận xét về vấn đề này,
Đặng Tiến cho rằng: “... Trực tiếp hay gián tiếp, Nhất Linh học được ở Gide giá trị
của cảm giác, phương pháp phát triển ngũ quan để tiếp nhận, để cưỡng đoạt
hương vị của trần thế. Nhất Linh học được ở Gide cách đầu tư tâm hồn vào sự
phân tích, tra vấn hạnh phúc... Đọc Đôi bạn, Bướm trắng, Dòng sông Thanh Thủy
qua những im lặng đón chờ hạnh phúc, ta không thể không nghĩ đến những món
ăn trần thế của Gide...” (1).
Với tác phẩm Tố Tâm (1925) Hoàng Ngọc Phách trở thành cây bút tiên phong mở
đường cho trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ. Tố Tâm là cuốn
tiểu thuyết báo hiệu bước phát triển mới của thể loại văn xuôi tự sự. Sự đổi mới
và cách tân này của Tố Tâm trên cơ sở tác giả chịu ảnh hưởng và tiếp thu những
thành tựu của tiểu thuyết hiện đại của Pháp. Khi nói về vấn đề này, Hoàng Ngọc
Phách thừa nhận: “Tiểu thuyết Tố Tâm về hình thức chúng tôi xếp đặt theo những
tiểu thuyết mới của Pháp, lối kể chuyện, tả cảnh theo văn chương Pháp cả về tinh
thần. Chúng tôi vào tác phẩm những tư tưởng mới, tâm lý nhân vật được phân
tích theo phương pháp của những nhà tâm lý tiểu thuyết có tiếng đương thời”.
Tác phẩm Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng (1933), chịu ảnh hưởng nhiều mặt
của tiểu thuyết phương Tây. Về chủ đề Hồn bướm mơ tiên gần với chủ đề lãng
mạng trong Atala (1801) của Chateaubriand và Jocelyn (1836) của Lamartine. Mối
tình đầy lãng mạn và phảng phất bi kịch của Lan và Ngọc (Hồn bướm mơ tiên) có
phần giống với câu chuyện tình giữa Atala và Chactas (Atala). Nếu Atala từ chối
tình yêu của Chactas để giữ vững lời nguyền tôn thờ “Đức Mẹ Đồng trinh”, thì Lan
chối từ tình yêu với Ngọc (mặc dù hai người rất yêu nhau) chỉ vì làm theo một lời
nguyền của bà mẹ trước giờ phút hấp hối. Những trang miêu tả thiên nhiên trong
Hồn bướm mơ tiên gần với những bức tranh thiên nhiên trong “Toute une
Jeunesse” của F. Coppée. Một số tiểu thuyết mang tính chất quái dị của Thế Lữ
(Vàng và máu - 1934, Trại Bồ Tùng Linh - 1941...) đã chịu ảnh hưởng khá rõ một
số truyện kể quái dị của Hofmann và E.Poe. Khi tiếp thu những yếu tố mang tính
chất huyễn tương trong truyện của E.Poe, tác phẩm Vàng và máu (Thế Lữ) đã thể
hiện sự đổi mới trong phong cách nghệ thuật thể hiện.
-Bên cạnh văn xuôi lãng mạn, văn xuôi hiện thực trong những thập niên đầu thế
kỷ XX đã tiếp thu văn học phương Tây để hiện đại hóa thể loại tự sự. Trong một số
tác phẩm của Vũ Trọng Phụng (Lục xì, Làm đĩ...) in rõ dấu ấn phong cách tự nhiên
chủ nghĩa của E.Zola. Nhà văn Nam Cao đã chịu ảnh hưởng phong cách phân tích
tâm lý nhân vật và trong Truyện người hàng xóm (Nam Cao) có nhiều nét tương
đồng với truyện Ghi chép dưới nhà hầm của Đôxtôiepxki.
Trong việc tiếp thu văn học phương Tây để đổi mới văn học nước nhà, trường hợp
những sáng tác của Hồ Biểu Chánh là một hiện tượng khá đặc biệt. Theo Vũ Ngọc
Phan, Hồ Biểu Chánh là một hiện tượng khá đặc biệt. Theo Vũ Ngọc Phan, Hồ Biểu
Chánh (1885- 1958) là “một nhà tiểu thuyết nổi tiếng”, một nhà văn bình dân
nhất Nam Kỳ. Những tác phẩm của ông góp phần hình thành thể loại tiểu thuyết
Việt Nam trên chặng đường phôi thai. Khi sử dụng chữ quốc ngữ để sáng tác, Hồ
Biểu Chánh đã tiếp thu mạnh mẽ những tác phẩm văn học phương Tây. Một số
tác phẩm của ông thường phóng tác theo các tác phẩm phương Tây nhằm thể
hiện những nội dung mới của đời sống xã hội Việt Nam trên con đường vận động
và biến đổi. Đó là trường hợp các tiểu thuyết như: Chúa Tàu Kim Quy (phóng tác
theo Bá tước Monte-Cristo của A.Dumas), Cay đắng mùi đời (phỏng theo Không
gia đình của H. Malot), Ngọn cỏ gió đùa (phỏng theo Những người khốn khổ của
V.Hugo). Những tác phẩm trên nổi bật về xu hướng đạo đức xã hội, ngợi ca cái
đẹp, cái tốt, cái thiện và lên án, chống lại cái ác. Việc phóng tác của Hồ Biểu
Chánh đối với một số tác phẩm văn học phương Tây như trên là nhắm tiếp thu
kinh nghiệm văn học nước ngoài để đổi mới thể loại tự sự mới hình thành và phát
triển trong những năm đầu của thế kỷ XX. Ở đây, khi phóng tác, nhà văn không
“chuyển dịch” như một số tác giả khác, mà biến thành riêng của mình để thể
hiện cuộc sống và con người phức tạp của vùng Nam Bộ.
-Trong vòng gần mười năm đầu thế kỷ XX (1932- 1945) các nhà thơ của phong
trào Thơ mới đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng của các nhà thơ lãng mạn Pháp như
Chateaubriand, Lamartine, Musset, Hugo, Baudelaire... Hầu hết các nhà thơ mới
với mong muốn đổi mới thi ca như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Hàn Mạc Tử, Chế Lan
Viên, Huy Cận... đã tìm về với thơ ca phương Tây và chịu ảnh hưởng khá mạnh
mẽ thơ ca Pháp. Nhận định về hiện tượng này, nhà nghiên cứu phê bình Hoài
Thanh viết: “Hàn Mạc Tử và Chế Lan Viên đều chịu ảnh hưởng rất nặng của
Bôđơler và qua Bôđơler chịu ảnh hưởng của nhà văn Mỹ Eggar Poe, tác giả tập
Chuyện lạ...” (2)
Có thể nói rằng, thơ ca phương Tây, đặc biệt thơ ca Pháp hiện đại là nguồn mạch
quan trọng làm đổi mới thơ ca Việt Nam hiện đại trong những thập niên đầu thế
kỷ XX. Thơ Thế Lữ chịu ảnh hưởng của trường phái lãng mạn Pháp như
Chateaubriand. Nhiều nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mạc
Tử, Bích Khê ở các mức độ đậm nhạt khác nhau đều chịu ảnh hưởng của
Baudelaire.
Những quan niệm của phái tượng trưng về cảm giác cái tôi cá nhân đã in đậm nét
trong các bài thơ Huyền diệu, Nguyệt cầm (Xuân Diệu), Đi giữa đường thơm (Huy
Cận), Đồ mi họa, Sọ người (Bích Khê). Các nhà thơ mới còn tiếp thu tính nhạc
điệu, cái tiên nghiệm, tinh thần âm nhạc của thơ tượng trưng. Tuy sống cách xa
nhau một thế kỉ và thuộc hai dân tộc khác nhau nhưng trên bối cảnh xã hội có
phần tương đồng nên họ mang tâm trạng giống nhau. Đó là tâm trạng của những
người trí thức tiểu tư sản trước những biến đổi lớn lao của xã hội và họ cảm thấy
mình bất lực chán nản trước thời cuộc.
Mặc dù còn một số hạn chế trong tư tưởng khi tiếp thu nội dung và hình thức thơ
phương Tây, nhưng rõ ràng nhờ quá trình tiếp xúc này các nhà thơ mới đã mang
vào thơ một luồng gió mới tạo ra sự biến đổi nhiều mặt trong thơ ca Việt Nam
hiện đại.
II. Tr-o lưu hiện thực phê phĀn trong văn học Việt Nam.
Trong văn học, những tác phẩm văn học có tính chất hiện thực và giá trị hiện thực
đã xuất hiện từ lâu trước khi có CNHT. CNHT hết sức chú ý đến những tư liệu, dữ
kiện có thật ở trong đời sống và đã dùng chúng như những chất liệu nghệ thuật
để xây dựng cốt truyện, các nhân vật, các tính cách, các hiện tượng tâm lí, với
nghệ thuật khái quát và điển hình hoá cao và nghệ thuật phân tích tư tưởng, tâm
lí sâu sắc. Nhiều nhà văn hiện thực đã sáng tạo ra được những nhân vật điển hình
mang dấu ấn rất đậm của xã hội và thời đại đương thời.
Trong văn học Việt Nam, những tác phẩm như “Truyện Kiều”, “Chinh phụ ngâm”,
“Cung oán ngâm khúc”, “Lục Vân Tiên”, thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú
Xương đều tiêu biểu cho khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Đó là những vấn đề
nóng bỏng của cuộc sống ở các thời đại, chứa đựng những hi vọng và ước mơ của
con người trong cuộc đấu tranh cho tự do, hạnh phúc, phơi bày một cách chân
thật hiện thực khách quan của cuộc sống.
Khoảng 1930 cho đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, khuynh hướng hiện thực
mà thời ấy gọi là “tả chân” hay “tả thực” mới hình thành và phát triển thành một
trào lưu trong văn học. Tuy xuất hiện chậm nhưng văn học hiện thực phê phán
Việt Nam cũng có mặt mạnh. Đại bộ phận các nhà văn theo trào lưu này đều có
tinh thần dân tộc. Mặc dù chế độ kiểm duyệt của thực dân Pháp rất khắt khe, các
tác phẩm của họ cũng đã vạch ra được nỗi thống khổ và nhục nhã của những
người dân nghèo nông thôn và thành thị sống dưới ách bóc lột, áp bức của bọn
thực dân, quan lại, cường hào, tư sản.
Những nhà văn hiện thực như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,
Nguyên Hồng, Nam Cao, Trần Tiêu, Bùi Hiển, Vi Huyền Đắc… đã để lại những tác
phẩm được ngày nay đánh giá cao. Chí Phèo, Xuân tóc đỏ, Nghị Hách, chị Dậu,
anh Pha… là những nhân vật nổi tiếng trong văn học hiện thực phê phán Việt
Nam.
1. Văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945 có một số đặc điểm ndi bật:
– Hình thành và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt: xã hội thực
dân nửa phong kiến, có những xung đột, mâu thuẫn giai cấp đòi hỏi phải được
giải quyết.
– Phản ánh hiện thực một cách chân thực, cụ thể như những gì vốn có, đang diễn
ra trong đời sống hàng ngày, từ những gì nhỏ nhặt, vụn vặt nhất.
– Thừa nhận giá trị của thực tế khách quan.
– Thể loại chủ yếu: truyện ngắn, tiểu thuyết.
– Xây dựng thành công những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, chú
trọng các chi tiết nghệ thuật, nghệ thuật miêu tả, phân tích diễn biến tâm lý nhân
vật.
2. Văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930- 1945 có thể chia ra gồm 3 thời kì
phát triển:
– Thời kì 1930-1935: Xu hướng văn học phê phán có từ trước 1930 đến thời kì này
phát triển hơn và xác định rõ ràng hơn về phương pháp thể tài.
– Thời kì 1936-1939: Văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ và đạt được
nhiều thành tựu xuất sắc:
+ Vấn đề nông dân, nông thôn được đặt ra trong tác phẩm hiện thực phê phán:
Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của
Ngô Tất Tố…
+ Vấn đề phong kiến thực dân được nêu lên một cách gay gắt trong các tác
phẩm hiện thực phê phán: Số đỏ, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô
Tất Tố… Tác phẩm hiện thực phê phán không dừng lại ở truyện ngắn, phóng sự
mà phát triển mạnh mẽ thể tài tiểu thuyết. Ðây chính là một thành công lớn của
văn học hiện thực phê phán thời kì này.
– Thời kì 1939-1945: Văn học hiện thực phê phán có sự phân hóa:
+ Có nhà văn thì chết (Vũ Trọng Phụng);
+ Có nhà văn không viết tiểu thuyết nữa chuyển sang khảo cứu dịch thuật như
Ngô Tất Tố.
+ Có nhà văn mắc phải sai lầm như Nguyễn Công Hoan viết tiểu thuyết Thanh
Ðạm.
+ Một thế hệ nhà văn hiện thực mới ra đời: Nam Cao, Nguyễn Tuân, Mạnh Phú Tư,
Nguyễn Ðình Lạp, Bùi Hiển… Nhà văn hiện thực vẫn tiếp tục miêu tả cuộc sống
tăm tối của người nông dân Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao; Sống nhờ của Mạnh
Phú Tư. Cuộc sống bế tắc mòn mỏi của người trí thức tiểu tư sản cũng được các
nhà hiện thực đề cập một cách sâu sắc Sống mòn, Ðời thừa, Trăng sáng của Nam
Cao. Các nhà văn nêu lên mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị với tầng lớp
nhân dân lao động.
| 1/5

Preview text:

*Ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ điển đến VHVN
phong phủ; là lời than của một người đau xót vì lý tưởng không thực hiện được là
lắng vì việc đòi ngày càng rối ren.
Văn học cổ điển ở Việt Nam:
Bùi một tấc lòng ưu ái cũ,
-Ở Việt Nam, chủ nghĩa cổ điển như một phong cách nghệ thuật, một khuynh
hưởng mĩ thuật chưa bao giờ xuất hiện. Văn học cổ điển ta nói đến ở văn học Việt
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.
Nam là theo nghĩa rộng có nghĩa là mẫu mực. Cụ thể nó là một tên gọi chung cho (Thuật hứng)
giai đoạn văn học phát triển rực rỡ với nhiều tác phẩm đạt đến trình độ mẫu mực
từ đầu thế kỉ XIX trở về trước . Từ trong di sản của các tác giả trung đại, cũng
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
xuất hiện nhiều quan niệm về thơ ca, có thể phát huy mặt tích cực trong thi pháp
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
biểu hiện. Thời đại suy yếu của phong kiến Trung Hoa là từ sau thời Tống Nho, ở
Việt Nam là từ thế kỷ XVI... Từ cơ sở xã hội đến ý thức hệ và quan niệm văn học
(Bảo kính cảnh giới)
nghệ thuật đều trở nên lạc hậu, tất yếu dẫn đến sự thoái hóa trong khuynh hướng
cổ điển cả về nội dung lẫn hình thức, từ việc xây dựng nhân vật lý tưởng đến thi pháp biểu hiện.
Nguyễn Trãi quan niệm rằng văn nghề không thể tách rời những yêu cầu của
cuộc sống, ông dùng ngòi bút như một vũ khí giúp cho người đời nhìn hiện thực
-Nhìn một cách tổng quát, với các tính chất giáo huấn, lý tưởng hóa và qui phạm,
một cách phong phú hơn. sâu sắc hơn. Những bài thơ của ông đều có kết cấu
khuynh hưởng cổ điển trong văn học cổ phương Đông cũng có một số yếu tố
niêm luật chặt chẽ hoàn chỉnh, vững chắc
tương đồng với chủ nghĩa cổ điển phương Tây đều xem xét nhân vật lý tưởng là
người đặt lý trí lên trên tình cảm, coi nhẹ lợi ích riêng tư, tận trung phục vụ chế
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi trước hết là ở chỗ dùng ngòi bút mà chiến
độ và lễ giáo phong kiến, coi nhẹ việc cả thể hóa tính cách và đặc biệt là sự thiếu
đấu cho Tổ quốc, cho nhân dân. Ông viết để đánh giá, ông viết để xây dựng đất
dân chủ về đề tài và thể loại, và ngay cả những thể loại được tôn sùng vẫn có
nước. ông viết để phê phán những mặt tiêu cực của triều đình, ông viết để tự tu
những quy phạm nghiêm ngặt... Tuy nhiên, ở phương Đông và Việt Nam, quan hệ
dưỡng, để giữ vững phẩm chất trong những con bỉ cực. Những bài văn chữ Hán có
sản xuất tư bản ra đời và phát triển chậm, không diễn ra thế quân bình giữa hai
tính chiến đấu cao và nội dung yêu nước sâu sắc viết trong thời gian kháng chiến.
giai cấp phong kiến và tư sản Tiêu biểu cho văn học Việt Nam với những tác
phẩm mẫu mực là các tác giả như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm... Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Trãi
Nguyễn Bỉnh Khiêm là tác gia tiêu biểu tỏ niềm ưu ái sâu sắc của mình với đất
Văn học nửa đầu thế kỉ XV mang âm điệu anh hùng là âm điệu chủ đạo Tiêu biểu
nước, con người. Cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của ông phần nào thể hiện được
là tác gia Nguyễn Trãi – ngôi sao sáng nhất của bầu trời văn học lúc đương thời,
điều đó. Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trong thời loạn lạc, tư tưởng triết học ở ông là
những sáng tác của ông đã trở thành mẫu mực của nền văn học Đại Việt.
tấm gương phản chiếu một xã hội đầy biến động, là đại diện cho tâm lý chung
Là một trí thức dân tộc có ý thức cao về nền văn hóa của nước Đại Việt, Nguyễn
của người đời. Quan niệm vũ trụ và nhân sinh trong tác phẩm của Nguyễn Bỉnh
Trãi đã rất coi trọng văn học dùng ngôn ngữ dân tộc. Trong sự nghiệp sáng tác
Khiêm một mặt chịu ảnh hưởng của tư tưởng Lão –Trang và Phật giáo, nhưng là
của Nguyễn Trãi, thơ Nôm giữ một vị trí rất đặc biệt(254 bài) . “Quốc âm thi tập"
một nhà Nho, tư tưởng triết học ấy chủ yếu bắt nguồn từ Kinh Dịch và Lý học (bao
cho thấy thơ Nôm Nguyễn Trãi mang âm điệu riêng vừa sinh động vừa hàm súc,
gồm cả Nho, Phật, Lão). Mặt khác, vì ẩn dật ở nơi thôn dã, ít nhiều Nguyễn ảnh
vừa chân thực lại vừa mĩ lễ lại nhiều khi gần quốc độc đáo vì ông có tâm hồn
Khiêm cũng tiếp thu được triết lý thực tiễn và kinh nghiệm thực tiễn của nhân
tình cảm với con người, nhà thơ còn miêu tả thiên nhiên thôn quê và lòng tha
dân. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phản ảnh được sự bế tắc của các triều đại
thiết của ông đối với cuộc sống ẩn cư. Nguyễn Bỉnh Khiêm có những đức tính tốt
phong kiến không sao thoát khỏi cái vòng lẫn quần hết hưng lại vong. Niềm ưu ái
đẹp của thuộc về truyền thống tốt đẹp của dân tộc và ông đã thể hiện trong thơ
trong thơ ông cũng dành những tình cảm trong sáng. cao đẹp hướng về dân
ca của mình. Niềm ưu ái sâu sắc với đất nước, con người; thái độ dũng cảm phê
chúng. Kế thừa truyền thống của những nhà ái quốc vĩ đại như Trần Quốc Tuấn,
phán những tệ lậu của chế độ phong kiển; đức tính liêm khiết, giản dị, phong thái
Nguyễn Trãi... Ông hiểu rằng bền nước, yên dân là việc đầu mối”, nước trước hết
an nhiên kết hợp với nỗi chân tình.
là dân, muốn lo việc nước thì phải dựa vào dân, phải được lòng dân Nguyễn Bỉnh
Từ đó, thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kế thừa và phát huy những truyền thống
Khiêm nêu cao nhân nghĩa, hòa bình, vạch trần sự vô lý của
của văn học từ đời trước để lại, là những áng thơ văn mẫu mực của văn học dân tộc Nguyễn Du
cảnh tàn sát do bọn phong kiến gây ra, tố cáo dã tâm của những kẻ thích theo
Nguyễn Du cũng là một trong số những tác gia tiêu biểu sáng tác theo tinh thần
đuổi chiến tranh làm cho nhân dân khổ sở, điêu đứng.
nhân đạo chủ nghĩa thể hiện tư tưởng của người tài tử : suy nghĩ về thân phận
minh, suy nghĩ về số mệnh của những người tài sắc, suy nghĩ về số mệnh của
“Tặc đình cửu hãm mẫn ngô nhân,
những người cùng khổ... Tư tưởng Nguyễn Du chịu ảnh hưởng Nho giáo, Lão
Chủng cứu thuỳ năng thể chí nhân.
Trang, Phật giáo. Nguyễn Du là tập đại thành tư tưởng đương thời Nho giáo đã tạo
Thương cập cốc ngưu hình võng giới,
ra hình tượng người tráng sĩ củng đường và con người cô trung độc tỉnh rất thú vị.
Hoạ diên Côn ngọc hoá câu phần.
tư tưởng Thiền Lão đã đưa Nguyễn Du đến cái tâm ngộ đạo và những bài thơ
Thế vô kham loạn tri binh tướng,
thiên nhiên tuyệt đẹp. “Truyện Kiều là một trong những mẫu mực của thi ca, là
Vọng uất lai tô hễ hậu dân.
niềm tự hảo dân tộc. Tác phẩm đặt ra vấn đề "tai mệnh tương đổ”, “hồng nhan
Thử tuế hựu tao cơ cận ách,
bạc phận” từ đó đặt ra vấn đề người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đô thị phong
Lưu ly hà địa khả dung thân.”
kiến mà đồng tiền đã bắt đầu khẳng định thế lực của nó. Nghệ thuật bậc thầy
(Thương dân lành hãm lâu đất giặc,
trong việc xây dựng tinh cách, miêu tả tâm lý nhân vật.
Cứu vớt người ai bậc chí nhân.
Bạo hình tàn vật hại dân,
“Đã cho lấy chữ hồng nhan
Hoa lan núi cũng ầm ầm lửa thiêu.
Làm cho cho hại cho tàn cho cân
Giỏi dẹp loạn, lược thao chẳng thấy,
Đã đày vào kiếp phong trần
Cứu sống dân, mong cậy thánh vương.
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi”
Gặp nên cơ cận tai ương, (Truyện Kiều)
Lưu ly khốn đốn không đường dung thân.
“Đau đớn thay phận đàn bà
- Cảm hứng thi - bài 7, Hữu Thế dịch)
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” (Truyện Kiều)
Nguyễn Bỉnh Khiêm tha thiết mong cho loạn lạc nhanh chóng chấm dứt để dân
Thời gian và không gian đã trở thành phương tiện nghệ thuật khắc họa tính cách
được yên ổn làm ăn. Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm phần lớn được viết trong
nhân vật và tình huống truyện. dùng thiên nhiên để dự cảm về số phận con người
bối cảnh nông thôn, khi nhà thơ ở ấn. Tập thơ Nôm “Bạch Vân am thi tập” ngoài
là một thủ pháp đặc biệt trong Truyện Kiều mà khó có tác phẩm nào sánh được.
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Với tác phẩm Tố Tâm (1925) Hoàng Ngọc Phách trở thành cây bút tiên phong mở
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường”
đường cho trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ. Tố Tâm là cuốn
tiểu thuyết báo hiệu bước phát triển mới của thể loại văn xuôi tự sự. Sự đổi mới (Truyện Kiều)
và cách tân này của Tố Tâm trên cơ sở tác giả chịu ảnh hưởng và tiếp thu những
thành tựu của tiểu thuyết hiện đại của Pháp. Khi nói về vấn đề này, Hoàng Ngọc
Phách thừa nhận: “Tiểu thuyết Tố Tâm về hình thức chúng tôi xếp đặt theo những
Nhìn chung, văn học Việt Nam thời kì trung đại đã trở thành một bộ phận quan
tiểu thuyết mới của Pháp, lối kể chuyện, tả cảnh theo văn chương Pháp cả về tinh
trọng và không thể thiếu trong nền văn học của một quốc gia độc lập, trở thành
thần. Chúng tôi vào tác phẩm những tư tưởng mới, tâm lý nhân vật được phân
chuẩn mực cho những sáng tác của văn học giai đoạn sau này. Kết luận FERN
tích theo phương pháp của những nhà tâm lý tiểu thuyết có tiếng đương thời”.
Nhìn chung chủ nghĩa cổ điển là giai đoạn phát triển quan trọng của lịch sử văn
Tác phẩm Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng (1933), chịu ảnh hưởng nhiều mặt
học châu Âu, đặc biệt là văn học Pháp. Nó gắn liền và đưa văn học lên đến bước
của tiểu thuyết phương Tây. Về chủ đề Hồn bướm mơ tiên gần với chủ đề lãng
mạng trong Atala (1801) của Chateaubriand và Jocelyn (1836) của Lamartine. Mối
đường phát triển mới. Nó tiếp tục một cách xứng đáng chủ nghĩa nhân văn thời
tình đầy lãng mạn và phảng phất bi kịch của Lan và Ngọc (Hồn bướm mơ tiên) có
Phục hưng và chuẩn bị cho nền văn học Ánh sáng của giai cấp tư sản đầu TK XVIII
phần giống với câu chuyện tình giữa Atala và Chactas (Atala). Nếu Atala từ chối
tình yêu của Chactas để giữ vững lời nguyền tôn thờ “Đức Mẹ Đồng trinh”, thì Lan
chứ không hài hòa trong cái chung.
chối từ tình yêu với Ngọc (mặc dù hai người rất yêu nhau) chỉ vì làm theo một lời
nguyền của bà mẹ trước giờ phút hấp hối. Những trang miêu tả thiên nhiên trong ẢNH HƯỞNG THÊM:
Hồn bướm mơ tiên gần với những bức tranh thiên nhiên trong “Toute une
-Vào những năm đầu của thế kỉ XX, trong văn học Việt Nam, văn xuôi lãng mạn,
Jeunesse” của F. Coppée. Một số tiểu thuyết mang tính chất quái dị của Thế Lữ
văn xuôi hiện thực và phong trào Thơ mới chịu ảnh hưởng sâu sắc văn học
(Vàng và máu - 1934, Trại Bồ Tùng Linh - 1941...) đã chịu ảnh hưởng khá rõ một
phương Tây. Các nhà thơ mới và các nhà văn Tự lực văn đoàn là những người tiên
số truyện kể quái dị của Hofmann và E.Poe. Khi tiếp thu những yếu tố mang tính
phong đổi mới theo tư tưởng phương Tây trong nhận thức và phản ánh.
chất huyễn tương trong truyện của E.Poe, tác phẩm Vàng và máu (Thế Lữ) đã thể
hiện sự đổi mới trong phong cách nghệ thuật thể hiện.
Văn xuôi lãnh mạn đã đưa vào văn học Việt Nam những tư tưởng tiến bộ của chủ
nghĩa lãng mạn phương Tây. Đó là tư tưởng chống phong kiến, đề cao ý thức cá
-Bên cạnh văn xuôi lãng mạn, văn xuôi hiện thực trong những thập niên đầu thế
nhân. Từ những tiếp thu đối với văn học phương Tây, văn học lãng mạn Việt Nam
kỷ XX đã tiếp thu văn học phương Tây để hiện đại hóa thể loại tự sự. Trong một số
đã có những bước chuyển biến mới trong kết cấu, cốt truyện và các hình thức
tác phẩm của Vũ Trọng Phụng (Lục xì, Làm đĩ...) in rõ dấu ấn phong cách tự nhiên
phản ánh khác. Các nhà văn trong Tự lực văn đoàn như Khái Hưng, Hoàng Đạo,
chủ nghĩa của E.Zola. Nhà văn Nam Cao đã chịu ảnh hưởng phong cách phân tích
Nhất Linh, Thạch Lam, Thế Lữ đã “đem phương pháp Thái Tây ứng dụng vào văn
tâm lý nhân vật và trong Truyện người hàng xóm (Nam Cao) có nhiều nét tương
chương An Nam”. Trong sáng tác của họ, dấu ấn của Chateaubriand, V. Hugo, A.
đồng với truyện Ghi chép dưới nhà hầm của Đôxtôiepxki.
Musset, Lamartine, A. Gide...thể hiện khá rõ.
Trong việc tiếp thu văn học phương Tây để đổi mới văn học nước nhà, trường hợp
Viết về đề tài tình yêu của những cặp trai gái có cảnh ngộ éo le, đặc biệt, Nhất
những sáng tác của Hồ Biểu Chánh là một hiện tượng khá đặc biệt. Theo Vũ Ngọc
Linh và Khái Hưng chịu ảnh hưởng của A. Gide. Nếu như Bản giao hưởng đồng
Phan, Hồ Biểu Chánh là một hiện tượng khá đặc biệt. Theo Vũ Ngọc Phan, Hồ Biểu
quê (A.Gide) miêu tả tình yêu của một giáo sĩ với một cô gái mù xinh đẹp thì ở
Chánh (1885- 1958) là “một nhà tiểu thuyết nổi tiếng”, một nhà văn bình dân
Gánh hàng hoa (Khái Hưng và Nhất Linh), tác giả xây dựng mối tình lãng mạn
nhất Nam Kỳ. Những tác phẩm của ông góp phần hình thành thể loại tiểu thuyết
giữa cô gái bán hoa với một văn sĩ mù, còn Nắng thu (Nhất Linh) lại đưa người
Việt Nam trên chặng đường phôi thai. Khi sử dụng chữ quốc ngữ để sáng tác, Hồ
đọc đến với tình yêu của một cậu học sinh trung học với một cô gái câm mồ côi.
Biểu Chánh đã tiếp thu mạnh mẽ những tác phẩm văn học phương Tây. Một số
tác phẩm của ông thường phóng tác theo các tác phẩm phương Tây nhằm thể
Rõ ràng, ở đây chúng ta thấy có một sự gần gũi về đề tài mà các nhà văn lãng
hiện những nội dung mới của đời sống xã hội Việt Nam trên con đường vận động
mạn Việt Nam đã tiếp thu được từ văn học phương Tây. Nhận xét về vấn đề này,
và biến đổi. Đó là trường hợp các tiểu thuyết như: Chúa Tàu Kim Quy (phóng tác
Đặng Tiến cho rằng: “... Trực tiếp hay gián tiếp, Nhất Linh học được ở Gide giá trị
theo Bá tước Monte-Cristo của A.Dumas), Cay đắng mùi đời (phỏng theo Không
của cảm giác, phương pháp phát triển ngũ quan để tiếp nhận, để cưỡng đoạt
gia đình của H. Malot), Ngọn cỏ gió đùa (phỏng theo Những người khốn khổ của
hương vị của trần thế. Nhất Linh học được ở Gide cách đầu tư tâm hồn vào sự
V.Hugo). Những tác phẩm trên nổi bật về xu hướng đạo đức xã hội, ngợi ca cái
phân tích, tra vấn hạnh phúc... Đọc Đôi bạn, Bướm trắng, Dòng sông Thanh Thủy
đẹp, cái tốt, cái thiện và lên án, chống lại cái ác. Việc phóng tác của Hồ Biểu
qua những im lặng đón chờ hạnh phúc, ta không thể không nghĩ đến những món
Chánh đối với một số tác phẩm văn học phương Tây như trên là nhắm tiếp thu
ăn trần thế của Gide...” (1).
kinh nghiệm văn học nước ngoài để đổi mới thể loại tự sự mới hình thành và phát
triển trong những năm đầu của thế kỷ XX. Ở đây, khi phóng tác, nhà văn không
“chuyển dịch” như một số tác giả khác, mà biến thành riêng của mình để thể
Khoảng 1930 cho đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, khuynh hướng hiện thực
hiện cuộc sống và con người phức tạp của vùng Nam Bộ.
mà thời ấy gọi là “tả chân” hay “tả thực” mới hình thành và phát triển thành một
trào lưu trong văn học. Tuy xuất hiện chậm nhưng văn học hiện thực phê phán
-Trong vòng gần mười năm đầu thế kỷ XX (1932- 1945) các nhà thơ của phong
Việt Nam cũng có mặt mạnh. Đại bộ phận các nhà văn theo trào lưu này đều có
trào Thơ mới đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng của các nhà thơ lãng mạn Pháp như
tinh thần dân tộc. Mặc dù chế độ kiểm duyệt của thực dân Pháp rất khắt khe, các
Chateaubriand, Lamartine, Musset, Hugo, Baudelaire... Hầu hết các nhà thơ mới
tác phẩm của họ cũng đã vạch ra được nỗi thống khổ và nhục nhã của những
với mong muốn đổi mới thi ca như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Hàn Mạc Tử, Chế Lan
người dân nghèo nông thôn và thành thị sống dưới ách bóc lột, áp bức của bọn
Viên, Huy Cận... đã tìm về với thơ ca phương Tây và chịu ảnh hưởng khá mạnh
thực dân, quan lại, cường hào, tư sản.
mẽ thơ ca Pháp. Nhận định về hiện tượng này, nhà nghiên cứu phê bình Hoài
Thanh viết: “Hàn Mạc Tử và Chế Lan Viên đều chịu ảnh hưởng rất nặng của
Những nhà văn hiện thực như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,
Bôđơler và qua Bôđơler chịu ảnh hưởng của nhà văn Mỹ Eggar Poe, tác giả tập
Nguyên Hồng, Nam Cao, Trần Tiêu, Bùi Hiển, Vi Huyền Đắc… đã để lại những tác Chuyện lạ...” (2)
phẩm được ngày nay đánh giá cao. Chí Phèo, Xuân tóc đỏ, Nghị Hách, chị Dậu,
anh Pha… là những nhân vật nổi tiếng trong văn học hiện thực phê phán Việt
Có thể nói rằng, thơ ca phương Tây, đặc biệt thơ ca Pháp hiện đại là nguồn mạch Nam.
quan trọng làm đổi mới thơ ca Việt Nam hiện đại trong những thập niên đầu thế
kỷ XX. Thơ Thế Lữ chịu ảnh hưởng của trường phái lãng mạn Pháp như
1. Văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945 có một số đặc điểm ndi bật:
Chateaubriand. Nhiều nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mạc
Tử, Bích Khê ở các mức độ đậm nhạt khác nhau đều chịu ảnh hưởng của
– Hình thành và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt: xã hội thực Baudelaire.
dân nửa phong kiến, có những xung đột, mâu thuẫn giai cấp đòi hỏi phải được giải quyết.
Những quan niệm của phái tượng trưng về cảm giác cái tôi cá nhân đã in đậm nét
– Phản ánh hiện thực một cách chân thực, cụ thể như những gì vốn có, đang diễn
trong các bài thơ Huyền diệu, Nguyệt cầm (Xuân Diệu), Đi giữa đường thơm (Huy
ra trong đời sống hàng ngày, từ những gì nhỏ nhặt, vụn vặt nhất.
Cận), Đồ mi họa, Sọ người (Bích Khê). Các nhà thơ mới còn tiếp thu tính nhạc
– Thừa nhận giá trị của thực tế khách quan.
điệu, cái tiên nghiệm, tinh thần âm nhạc của thơ tượng trưng. Tuy sống cách xa
– Thể loại chủ yếu: truyện ngắn, tiểu thuyết.
nhau một thế kỉ và thuộc hai dân tộc khác nhau nhưng trên bối cảnh xã hội có
– Xây dựng thành công những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, chú
phần tương đồng nên họ mang tâm trạng giống nhau. Đó là tâm trạng của những
trọng các chi tiết nghệ thuật, nghệ thuật miêu tả, phân tích diễn biến tâm lý nhân
người trí thức tiểu tư sản trước những biến đổi lớn lao của xã hội và họ cảm thấy vật.
mình bất lực chán nản trước thời cuộc.
2. Văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930- 1945 có thể chia ra gồm 3 thời kì
Mặc dù còn một số hạn chế trong tư tưởng khi tiếp thu nội dung và hình thức thơ phát triển:
phương Tây, nhưng rõ ràng nhờ quá trình tiếp xúc này các nhà thơ mới đã mang
vào thơ một luồng gió mới tạo ra sự biến đổi nhiều mặt trong thơ ca Việt Nam
– Thời kì 1930-1935: Xu hướng văn học phê phán có từ trước 1930 đến thời kì này hiện đại.
phát triển hơn và xác định rõ ràng hơn về phương pháp thể tài.
II. Tr-o lưu hiện thực phê ph愃Ān trong văn học Việt Nam.
– Thời kì 1936-1939: Văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ và đạt được
nhiều thành tựu xuất sắc:
Trong văn học, những tác phẩm văn học có tính chất hiện thực và giá trị hiện thực
đã xuất hiện từ lâu trước khi có CNHT. CNHT hết sức chú ý đến những tư liệu, dữ
+ Vấn đề nông dân, nông thôn được đặt ra trong tác phẩm hiện thực phê phán:
kiện có thật ở trong đời sống và đã dùng chúng như những chất liệu nghệ thuật
Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của
để xây dựng cốt truyện, các nhân vật, các tính cách, các hiện tượng tâm lí, với Ngô Tất Tố…
nghệ thuật khái quát và điển hình hoá cao và nghệ thuật phân tích tư tưởng, tâm
lí sâu sắc. Nhiều nhà văn hiện thực đã sáng tạo ra được những nhân vật điển hình
+ Vấn đề phong kiến thực dân được nêu lên một cách gay gắt trong các tác
phẩm hiện thực phê phán: Số đỏ, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô
mang dấu ấn rất đậm của xã hội và thời đại đương thời.
Tất Tố… Tác phẩm hiện thực phê phán không dừng lại ở truyện ngắn, phóng sự
Trong văn học Việt Nam, những tác phẩm như “Truyện Kiều”, “Chinh phụ ngâm”,
mà phát triển mạnh mẽ thể tài tiểu thuyết. Ðây chính là một thành công lớn của
“Cung oán ngâm khúc”, “Lục Vân Tiên”, thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú
văn học hiện thực phê phán thời kì này.
Xương đều tiêu biểu cho khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Đó là những vấn đề
– Thời kì 1939-1945: Văn học hiện thực phê phán có sự phân hóa:
nóng bỏng của cuộc sống ở các thời đại, chứa đựng những hi vọng và ước mơ của
con người trong cuộc đấu tranh cho tự do, hạnh phúc, phơi bày một cách chân
+ Có nhà văn thì chết (Vũ Trọng Phụng);
thật hiện thực khách quan của cuộc sống.
+ Có nhà văn không viết tiểu thuyết nữa chuyển sang khảo cứu dịch thuật như Ngô Tất Tố.
+ Có nhà văn mắc phải sai lầm như Nguyễn Công Hoan viết tiểu thuyết Thanh Ðạm.
+ Một thế hệ nhà văn hiện thực mới ra đời: Nam Cao, Nguyễn Tuân, Mạnh Phú Tư,
Nguyễn Ðình Lạp, Bùi Hiển… Nhà văn hiện thực vẫn tiếp tục miêu tả cuộc sống
tăm tối của người nông dân Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao; Sống nhờ của Mạnh
Phú Tư. Cuộc sống bế tắc mòn mỏi của người trí thức tiểu tư sản cũng được các
nhà hiện thực đề cập một cách sâu sắc Sống mòn, Ðời thừa, Trăng sáng của Nam
Cao. Các nhà văn nêu lên mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị với tầng lớp nhân dân lao động.