HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ
----- -----🙡🕮🙣
TIỂU LUẬN
MÔN: ĐỊA CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI
Đề tài
Ảnh hưởng của cuộc xung đột Israel-Palestine đối với sự vận động
địa chính trị Trung Đông từ năm 2008 đến nay
Giảng viên hướng dẫn: ThS Ngô Thị Thúy Hiền
Sinh viên: Phạm Huy Tuấn
Mã sinh viên: 2351070052
Lớp: Truyền thông quốc tế K43
Hà Nội, 2024
MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU ...............................................................................................3
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài:............................................................3
2. Mục đích nghiên cứu:...............................................................................4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:...............................................................................4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:...............................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu:.........................................................................4
6. Kết cấu của tiểu luận:................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG............................................................................................5
I. Địa chính trị Trung Đông – Vùng đất của những xung đột dai dẳng.........5
1. Vị trí địa lý:............................................................................................5
2. Vị trí chiến lược:....................................................................................6
3. Đặc điểm dân cư và tôn giáo:................................................................6
4. Đặc điểm chính trị:................................................................................7
5.Sự vận động địa chính trị Trung Đông giai đoạn 1990 đến nay:...........7
II. Khái quát lịch sử hình thành cuộc xung đột Israel Palestine tác động của
nó đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông từ năm 2008 đến nay.......9
1. Lịch sử hình thành cuộc xung đột:........................................................9
2. Ảnh hưởng của cuộc xung đột đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông
từ năm 2008 đến nay:...........................................................................…12
2.1.Giai đoạn từ năm 2008 đến nay của cuộc xung đột:.....................12
2.2. Ảnh hưởng của cuộc xung đột đối với sự vận động địa chính trị Trung
Đông:…………………………………………………………………………………..14
2.2.1. Tác động đến tình hình chính trị và an ninh khu vực…….….14
2.2.2. Tác động đến quan hệ ngoại giao trong khu vực và quốc t...16
2.2.3. Tác động đến phát triển kinh tế………………………………...18
2.2.4. Tác động đến xã hội và các vấn đề nhân đạo………………...18
1
III. Bài học thực tiễn dành cho Việt Nam trong việc giải quyết các xung
đột……………………………………........................................................19
PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................21
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Bước vào thế kỉ 21, thế kỉ của toàn cầu hoá, hoà bình hợp tác phát triển.
Tuy vậy, nhân loại vẫn đang cuốn vào một vòng xoáy với nhiều cuộc xung đột
trang đẫm máu với sức tàn phá khủng khiếp. Sự ảnh hưởng củađã tác động tiêu
cực đến an ninh toàn cầu cũng như quan hệ quốc tế giữa các quốc gia trên toàn thế
giới. Trong đó cuộc xung đột giữa Irasel và Palestine là điển hình cho điều đó. Đây
một trong những xung đột lâu đời phức tạp nhất thế giới. Bắt đầu từ cuối thế
kỉ 19, chia thành nhiều giai đoạn và tiếp diễn phức tạp vào đầu thế kỉ 21, cuộc xung
đột đã không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ giữa hai nước Isarel Palestine còn
tác động to lớn đến cục diện chính trị an ninh toàn khu vực Trung Đông, gây ra
các vấn đề chính trị phức tạp, những diễn biến khó lường vànguy cơ đẩy Trung
Đông vào một cuộc chiến tranh toàn diện, tạo ra những hệ luỵ nguy hiểm về an
ninh với khu vục. Với những nỗ lực duy trì hoà bình hiện nay thì cuộc xung đột
giữa Irasel Palestine vẫn sẽ một vấn đề nhức nhối đối với các nhà lãnh đạo
cũng như toàn thể người dân trên toàn thế giới nói chung khu vực Trung Đông
nói riêng.
Việc nghiên cứu tác động của cuộc xung đột đối với sự vận động địa chính
trị Trung Đông sẽ là bước đầu của việc xây dựng cơ sở lý luận để làm nền tảng cho
công cuộc tìm kiếm giải pháp hoà bình ổn định, nâng cao nhận thức cộng đồng khu
vực Trung Đông, giải quyết các tranh chấp và xung đột quốc tế trong bối cảnh quan
hệ quốc tế giữa các quốc gia ngày càng trở nên phức tạp với nhiều những diễn biến
khó lường. Đồng thời đóng góp vào việc xây dựng các chiến lược ngoại giao
chính sách quốc tế nhằm giảm thiểu căng thẳng thức đẩy hoà bình trong khu
vực.
Mặt khác, nghiên cứu này sẽ giúp làm cách cuộc xung đột Israel-
Palestine đã thúc đẩy các quốc gia trong khu vực điều chỉnh chính sách đối ngoại
3
an ninh của họ, từ đó giúp hiểu hơn về các động lực xu hướng trong địa
chính trị Trung Đông.
Xuất phát từ những lý do trên, em chọn đề tài “Ảnh hưởng của cuộc xung
đột Israel-Palestine đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông từ năm 2008
đến nay” để làm đề tài tiểu luận.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thu thập những thông tin về sự tác động của cuộc xung đột
giữa Irasel Palestine đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông. Đồng thời
cũng rút ra bài học cho Việt Nam trong việc giải quyết các xung đột quốc tế.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trước hết phải tìm hiểu về các yếu tố địa chính trị và các đặc điểm địa lý của
Trung Đông, lý giải tại sao Trung Đông luôn xảy ra nhiều các cuộc xung đột, tranh
chấp. Tiếp đó khái quát lịch sử, các yếu tố tác động hình thành nên cuộc xung
đột giữa Israel Palestine, phân tích tập trung vào giai đoạn từ năm 2008 đến
nay . Từ đó đánh giá, rút ra những kết luận về ảnh hưởng, tác động của cuộc xung
đột đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông, đồng thời rút ra những bài học
cho Việt Nam trong việc giải quyết xung đột quốc tế.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài địa chính trị Trung Đông, cuộc xung đột
Israel -Palestine, tập trung vào các giai đoạn từ năm 2008 có tác động và ảnh hưởng
sâu sắc đến sự vận động địa chính trị Trung Đông.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp tài liệu
- Phương pháp tư duy biện chứng.
- Phương pháp phân tích
4
- Phương pháp đưa ra kết luận
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục viết tắt và tài liệu tham khảo, nội
dung chính của tiểu luận được chia thành 3 phần chính như sau:
Phần 1: Địa chính trị Trung Đông - Vùng đất của những xung đột dai dẳng
Phần 2: Khái quát lịch sử hình thành cuộc xung đột Israel-Palestine tác
động của nó đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông từ năm 2008 đến nay
Phần 3: Bài học thực tiễn cho Việt Nam
PHẦN NỘI DUNG
I. Địa chính trị Trung Đông – Vùng đất của những xung đột dai dẳng
1. Vị trí địa lý
Trung Đông một khu vực trung tâm của ba châu lúc lớn châu Á, châu
Âu và châu Phi. Là một vùng đất rộng lớn với tổng diện tích lên đến 7,2 triệu km2.
Phía đông phía nam giáp với Địa Trung Hải, phần biển tiếp giáp với vịnh
Persian, biển Ả Rập, biển Đỏ, biển Đen, biển Caspi.
Địa hình chủ yếu của Trung Đông núi cao nguyên. Đất đai đây rất
khô cằn, chủ yếu đồng cỏ hoang mạc do khí hậu chủ yếu vùng đất này khí
hậu sa mạc nhiệt đới, khí hậu ôn đới lục địa và khí hậu Địa Trung Hải, trong đó khí
hậu sa mạc nhiệt đới sự phân bố rộng lớn nhất. Do đặc điểm khí hậu khô nóng
quanh năm nên nguồn nước ngọt Trung Đông cùng khan hiếm, cùng với đó
phần lớn nguồn nước lại tập trung các vùng biên giới, khiến cho việc quản
nguồn nước rất khó khăn đối với các quốc gia khu vực.
Nhắc đến tài nguyên thiên nhiên thì khi nhắc về Trung Đông, dầu mỏ
nguồn tài nguyên quan trọng nhất trữ lượng lớn nhất thế giới với ước tính
5
90 tỉ tấn, chiếm 65% trữ lượng dầu mỏ thế giới. Khu vực này hàng năm có thể cung
cấp cho thế giới 35% mức tiêu thụ dầu mỏ cho toàn thế giới. Do đó, Trung Đông
chiếm một vị trí quan trọng trong bản đồ dầu mỏ khí đốt thế giới và mục tiêu
của các cường quốc trong việc đảm bảo an ninh năng lượng. Ngoài ra Trung Đông
còn rất giàu nhôm, sắt,..
2. Vị trí chiến lược
Xét trên vị trí địa lý, Trung Đông cầu nối giữa châu Á, châu Âu châu
Phi, là vị trí nối liền giữa Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương, nối liền phương Tây và
phương Đông. Trung Đông còn cửa ngõ của châu Phi, nắm giữ kênh đào Suez.
Với một vị trí chiến lược quan trọng cùng với sự giàu có về dầu mỏ đã khiến Trung
Đông luônmục tiêu hàng đầu của nhiều thế lực các cường quốc trên thế giới.
Bất kỳ mọi sự kiện, mọi biến động chính trị xảy ra Trung Đông sẽ không chỉ tác
động lớn đến khu vực còn sức ảnh hưởng lên toàn thế giới . Do đó, nếu
lực ợng nào trong tay được Trung Đông sẽ khả năng chi phối cả ba châu
lục bằng cách kiểm soát các cảng biểnkênh đào, tác động mạnh đến chuỗi cung
ứng và các hoạt động giao thương giữa các châu lục. Cùng với trữ lượng dầu mỏ
khí đốt lớn, Trung Đông luôn bị đặt trong tình trạng phải cạnh tranh với các cường
quốc, khiến cho Trung Đông luôn bị can thiệp bởi các thế lực bên ngoài. Đó chính
những nguyên nhân quan trọng khiến cho vùng đất này luôn xảy ra các xung đột
phức tạp về cả kinh tế lẫn chính trị
3. Đặc điểm dân cư và tôn giáo
Dân số khu vực Trung Đông tính đến năm 2023 là 460 triệu người với nhiều
nhóm dân tộc chủng tộc đã hình thành lầu như người Rập, người Turk,
người Do Thái, người Ai Cập, người Giecman, người Azeris,.. Họ chủ yếu nói
tiếng Arab, tiếng Kurd, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ,...
Tôn giáo ở Trung Đông đóng vai trò vô cùng quan trọng và là nền tảng của
nhiều khía cạnh văn hóa, xã hội và chính trị trong khu vực. Hồi giáo là tôn giáo chủ
6
đạo, với hai nhánh chính Sunni Shia, chiếm đại đa số dân ảnh hưởng
mạnh mẽ đến luật pháp, phong tục lối sống. Ngoài ra, Trung Đông cũng nơi
sinh ra duy trì các tôn giáo cổ khác như Kitô giáo Do Thái giáo. Jerusalem,
thành phố linh thiêng của cả ba tôn giáo, điểm tranh chấp tôn giáo lịch sử.
Các tôn giáo này không chỉ tồn tại song song còn tương tác ảnh hưởng lẫn
nhau, tạo ra một bức tranh tôn giáo đa dạng phức tạp. Tôn giáo không chỉ
niềm tin nhân còn yếu tố gắn kết cộng đồng, định hình bản sắc ảnh
hưởng sâu rộng đến chính trị hội trong khu vực. Tuy vậy, đây khu vực rất
nhạy cảm đối với tôn giáo, do đó những bất đồng về tôn giáo cũng một nguyên
nhân quan trọng gây ra những mâu thuẫn, những xung đột dai dẳng không thể điều
hoà được.
4. Đặc điểm chính trị
Trung Đông một khu vực bối cảnh chính trị phức tạp đầy biến
động, nổi bật với nhiều yếu tố đa dạng mâu thuẫn. Vùng đất này chứa đựng các
quốc gia với các hệ thống chính trị khác nhau, từ quân chủ chuyên chế như Rập
Saudi, đến các nước cộng hòa như Iran Iraq. Chính trị Trung Đông còn bị ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi các tôn giáo, đặc biệt là Hồi giáo với hai nhánh chính là Sunni
Shia, dẫn đến những xung đột tôn giáo kéo dài hàng thập kỷ. Sự can thiệp của
các cường quốc ngoại bang như Mỹ, Nga, các quốc gia châu Âu cùng với các
phong trào cách mạng và khủng bố như “Mùa xuân Ả Rập” và tổ chức ISIS đã làm
tăng thêm tính phức tạp của tình hình chính trị nơi đây. Hơn nữa, Trung Đông cũng
tâm điểm của các xung đột về tài nguyên, đặc biệt dầu mỏ, các tranh chấp
lãnh thổ, nổi bật xung đột Palestine-Israel. Tất cả những yếu tố này tạo nên một
bức tranh chính trị đầy rối ren và khó dự đoán.
5. Sự vận động địa chính trị Trung Đông giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Từ năm 1990 đến nay, Trung Đông đã trải qua những biến động địa chính
trị sâu sắc, định hình lại khu vực này qua nhiều thập kỷ. Đầu thập niên 1990, Chiến
7
tranh vùng Vịnh (1990-1991) đã đánh dấu sự can thiệp mạnh mẽ của Mỹ các
đồng minh vào khu vực để đẩy lùi quân đội Iraq khỏi Kuwait, khởi đầu cho một
thời kỳ bất ổn và thay đổi liên tục.
Đầu thế kỷ 21, sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 đã khiến Mỹ phát động
Cuộc chiến chống khủng bố, dẫn đến cuộc xâm lược Afghanistan (2001) và Iraq
(2003). Cuộc chiến Iraq đã lật đổ chế độ Saddam Hussein, nhưng đồng thời cũng
tạo ra một khoảng trống quyền lực, dẫn đến sự gia tăng của các phe phái và bạo lực
giáo phái. Iran cũng tận dụng cơ hội này để mở rộng ảnh hưởng của mình trong khu
vực, đặc biệt là tại Iraq và Syria.
Năm 2010, làn sóng cách mạng, nổi dậy và biểu tình mang tên Mùa xuân Ả
Rập bùng nổ, lan rộng từ Tunisia sang Ai Cập, Libya, Yemen, Syria và nhiều quốc
gia khác, mang lại những hy vọng về dân chủ nhưng cũng gây ra hỗn loạn và nội
chiến kéo dài. Tại Syria, cuộc nội chiến bắt đầu từ năm 2011 vẫn tiếp diễn, với sự
can thiệp của nhiều quốc gia như Nga, Iran và Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời chứng kiến
sự trỗi dậy và sụp đổ của Nhà nước Hồi giáo ISIS.
Từ năm 2015, cuộc xung đột Yemen trở thành một chiến trường ủy nhiệm
giữa Ả Rập Saudi và Iran, gây ra một trong những thảm họa nhân đạo nghiêm trọng
nhất thế giới. Ả Rập Saudi cũng tiến hành một số cải cách nội bộ đáng chú ý dưới
sự lãnh đạo của Thái tử Mohammed bin Salman, đồng thời bình thường hóa quan
hệ với Israel thông qua Hiệp định Abraham năm 2020, đánh dấu sự thay đổi trong
quan hệ quốc tế giữa liên minh khu vực.
Xung đột Israel - Palestine tiếp tục là một trong những điểm nóng lớn nhất
của khu vực. Từ những năm 1990, các nỗ lực hòa bình như Hiệp định Oslo đã
mang lại hy vọng, nhưng bạo lực vẫn tiếp diễn. Đặc biệt, các cuộc xung đột lớn
như Intifada thứ hai (2000-2005) khiến hàng vạn người Israel và Palestine thiệt
mạng, chiến dịch quân sự tại Gaza (2008-2009, 2012, 2014) và các vụ đụng độ gần
8
đây nhất vào năm 2021 đã làm tăng thêm sự căng thẳng. Bên cạnh đó, việc mở
rộng các khu định cư của Israel tại Bờ Tây và sự chia rẽ chính trị nội bộ giữa các
phe phái Palestine cũng khiến tiến trình hòa bình trở nên phức tạp hơn.
Gần đây, Trung Đông tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm căng
thẳng gia tăng giữa Iran và Israel, tranh chấp lãnh thổ, và các vấn đề kinh tế, xã hội
phát sinh từ đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, cũng có những dấu hiệu của sự hợp
tác mới, như các nỗ lực hòa giải giữa các quốc gia vùng Vịnh và việc đàm phán lại
thỏa thuận hạt nhân Iran. Những biến động này cho thấy Trung Đông vẫn là một
khu vực có tầm quan trọng chiến lược toàn cầu, với những thay đổi liên tục và ảnh
hưởng sâu rộng đến an ninh và chính trị quốc tế.
II. Khái quát lịch sử hình thành cuộc xung đột Israel-Palestine và tác động
của nó đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông từ năm 2008 đến nay
1. Lịch sử hình thành cuộc xung đột
Cuộc xung đột Israel - Palestine là một trong những xung đột kéo dài và
phức tạp nhất trong lịch sử hiện đại, có nguồn gốc sâu xa và trải qua nhiều giai
đoạn biến động. Câu chuyện bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, khi phong trào phục quốc
Do Thái (Zionism) ra đời dưới sự lãnh đạo của Theodor Herzl. Mục tiêu của phong
trào này là thành lập một nhà nước Do Thái tại Palestine, vùng đất có ý nghĩa tôn
giáo và lịch sử đặc biệt đối với người Do Thái. Đồng thời, người Ả Rập Palestine,
cư dân bản địa của vùng đất này, cũng đã phát triển ý thức dân tộc và mong muốn
tự quyết, đặc biệt khi họ cảm thấy bị đe dọa bởi làn sóng nhập cư của người Do
Thái.
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, Đế quốc Ottoman sụp đổ, và đế quốc
Anh nhận quyền quản lý Palestine theo ủy trị của Hội Quốc Liên. Trong thời gian
này, nước Anh đã ban hành Tuyên bố Balfour năm 1917, cam kết ủng hộ việc
9
thành lập "một quê hương cho người Do Thái" tại Palestine. Sự gia tăng nhập cư
của người Do Thái và những chính sách của chính quyền Anh đã gây ra những
căng thẳng và xung đột với cộng đồng Ả Rập bản địa. Đỉnh điểm của căng thẳng
này là các cuộc nổi dậy của người Ả Rập vào các năm 1920, 1929 và đặc biệt là
Cuộc nổi dậy của người Ả Rập Palestine (1936-1939), phản đối sự nhập cư của
người Do Thái và sự thống trị của Anh.
Năm 1947, Liên Hợp Quốc đưa ra kế hoạch phân chia Palestine thành hai
nhà nước, một của người Do Thái và một của người Ả Rập, với thành phố thánh
Jerusalem được đặt dưới sự quản lý của quốc tế. Người Do Thái chấp nhận kế
hoạch này, nhưng người Ả Rập phản đối, coi đó là sự bất công vì họ chiếm phần
lớn dân số nhưng lại nhận được ít đất hơn. Năm 1948, khi Anh rút khỏi Palestine,
nhà nước Israel tuyên bố độc lập, dẫn đến cuộc chiến Ả Rập-Israel đầu tiên. Cuộc
chiến này kết thúc với chiến thắng của Israel và sự hình thành của đường ranh giới
đình chiến, nhưng không có một nhà nước Palestine nào được thành lập, khiến
hàng trăm nghìn người Palestine trở thành tị nạn, sống rải rác ở các nước láng
giềng và trong các trại tị nạn.
Trong những thập kỷ tiếp theo, các cuộc xung đột lớn tiếp tục diễn ra. Năm
1956, khủng hoảng kênh đào Suez bùng nổ khi Israel, Anh và Pháp tấn công Ai
Cập. Năm 1967, Chiến tranh Sáu Ngày diễn ra, trong đó Israel chiếm đóng Bờ Tây,
Dải Gaza, Đông Jerusalem, bán đảo Sinai và Cao nguyên Golan, mở rộng đáng kể
lãnh thổ của mình. Sự chiếm đóng của Israel dẫn đến việc mở rộng các khu định cư
Do Thái tại các vùng đất chiếm đóng, làm tăng thêm căng thẳng và phẫn nộ của
người Palestine. Năm 1973, cuộc chiến Yom Kippur nổ ra khi Ai Cập và Syria tấn
công Israel nhằm lấy lại các vùng đất bị mất vào năm 1967, nhưng không thành
công.
10
Phong trào giải phóng Palestine, đặc biệt là Tổ chức Giải phóng Palestine
(PLO) dưới sự lãnh đạo của Yasser Arafat, đã tiến hành nhiều hoạt động kháng
chiến và đàm phán. PLO, thành lập năm 1964, trở thành tiếng nói chính thức của
người Palestine và tiến hành nhiều cuộc tấn công khủng bố nhằm vào Israel. Năm
1987, cuộc Intifada đầu tiên (cuộc khởi nghĩa) bùng nổ, đánh dấu sự phản kháng
rộng rãi của người Palestine chống lại sự chiếm đóng của Israel.
Năm 1993, Hiệp định Oslo được ký kết, tạo ra cơ sở cho việc thành lập
Chính quyền Palestine (PA) và mở ra hy vọng về một giải pháp hai nhà nước. Hiệp
định này là kết quả của các cuộc đàm phán bí mật tại Na Uy và đánh dấu lần đầu
tiên Israel và PLO công nhận lẫn nhau. Theo hiệp định, PA sẽ có quyền tự trị tại
một số khu vực của Bờ Tây và Dải Gaza, và các cuộc đàm phán tiếp theo sẽ giải
quyết các vấn đề còn tồn đọng như biên giới, người tị nạn Palestine, tương lai của
Jerusalem và các khu định cư. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán tiếp theo không mang
lại kết quả cụ thể, và bạo lực vẫn tiếp diễn, đặc biệt là trong cuộc Intifada thứ hai
vào năm 2000, khi thất bại của Hội nghị Trại David dẫn đến sự bùng nổ bạo lực
nghiêm trọng kéo dài đến năm 2005.
Những năm gần đây, căng thẳng tiếp tục gia tăng với các cuộc đụng độ tại
Gaza và việc mở rộng các khu định cư Do Thái tại Bờ Tây. Dải Gaza, do phong
trào Hamas kiểm soát từ năm 2007, đã trở thành điểm nóng của các cuộc xung đột
vũ trang, bao gồm các cuộc chiến vào các năm 2008-2009, 2012, 2014 và 2021.
Hamas, một phong trào Hồi giáo, không công nhận Israel và thường xuyên phóng
tên lửa vào lãnh thổ Israel, dẫn đến các cuộc phản công mạnh mẽ từ phía Israel.
Các nỗ lực hòa bình, bao gồm sáng kiến của các nước Trung Đông và quốc
tế, chưa thể mang lại một giải pháp bền vững. Mỹ, trong vai trò trung gian, đã
nhiều lần tổ chức các cuộc đàm phán hòa bình, nhưng không đạt được tiến triển
đáng kể. Chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump đã công bố Kế hoạch
11
Hòa bình Trung Đông vào năm 2020, nhưng bị Palestine phản đối mạnh mẽ vì cho
rằng kế hoạch này thiên vị Israel.
Cuộc xung đột Israel - Palestine không chỉ là một vấn đề khu vực mà còn có
tầm ảnh hưởng toàn cầu, làm phức tạp của các mối quan hệ chính trị, tôn giáo và
dân tộc trong một khu vực đầy biến động. Các bên liên quan và cộng đồng quốc tế
vẫn đang tìm kiếm một giải pháp công bằng và bền vững cho cuộc xung đột này,
nhưng con đường phía trước còn đầy khó khăn và thách thức.
2. Ảnh hưởng của cuộc xung đột đối với sự vận động địa chính trị Trung
Đông từ năm 2008 đến nay.
2.1. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay của cuộc xung đột
Cuộc xung đột Israel - Palestine từ năm 2008 đến nay đã trải qua nhiều giai
đoạn căng thẳng và bạo lực, với các cuộc chiến tranh, các đợt bạo lực lẻ tẻ và trong
đó là những nỗ lực ngoại giao nhằm xoa dịu xung đột.
Cuộc xung đột bắt đầu leo thang vào cuối năm 2008 khi Israel phát động
Chiến dịch "Operation Cast Lead" vào ngày 27/12/2008 nhằm đáp trả các cuộc tấn
công bằng tên lửa của Hamas từ Dải Gaza vào lãnh thổ Israel. Cuộc chiến kéo dài
22 ngày, kết thúc vào ngày 18/01/2009, gây ra cái chết của khoảng 1.400 người
Palestine, trong đó có nhiều dân thường, và 13 người Israel. Cuộc chiến này để lại
những hậu quả nhân đạo nặng nề tại Gaza và gia tăng căng thẳng giữa hai bên.
Tháng 11/2012, căng thẳng lại bùng phát với Chiến dịch "Operation Pillar
of Defense" khi Israel tấn công các mục tiêu của Hamas để đáp trả các cuộc tấn
công bằng tên lửa. Cuộc xung đột kéo dài tám ngày, từ ngày 14/11 đến ngày 21/11,
kết thúc bằng một thỏa thuận ngừng bắn do Ai Cập làm trung gian. Hơn 160 người
Palestine và sáu người Israel thiệt mạng trong cuộc chiến này.
12
Năm 2014, căng thẳng leo thang thành một cuộc chiến khác, bắt đầu từ
tháng 7 và kéo dài 50 ngày. Chiến dịch "Operation Protective Edge" của Israel
nhằm vào Hamas sau khi ba thanh niên Israel bị bắt cóc và sát hại. Cuộc chiến diễn
ra từ ngày 8/7 đến ngày 26/8, khiến hơn 2.200 người Palestine, bao gồm nhiều dân
thường, và 73 người Israel thiệt mạng, cùng với sự tàn phá nặng nề tại Dải Gaza.
Đây là một trong những cuộc xung đột tàn khốc nhất trong những năm gần đây,
gây ra cuộc khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng tại Gaza.
Giai đoạn này cũng chứng kiến nhiều thay đổi trong chính sách quốc tế đối
với cuộc xung đột. Tháng 12/2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump công nhận
Jerusalem là thủ đô của Israel và chuyển đại sứ quán Mỹ đến thành phố này vào
tháng 5/2018. Quyết định này gây ra phản ứng dữ dội từ phía người Palestine và
cộng đồng quốc tế, làm tăng thêm căng thẳng trong khu vực.
Năm 2018 và 2019, các cuộc biểu tình lớn được gọi là "Great March of
Return" diễn ra dọc biên giới Gaza-Israel. Người Palestine yêu cầu quyền trở về đất
đai tổ tiên của họ và phản đối tình trạng phong tỏa Gaza. Các cuộc đụng độ giữa
người biểu tình và lực lượng an ninh Israel khiến hàng trăm người Palestine thiệt
mạng và hàng ngàn người bị thương.
Tháng 5/2021, bạo lực bùng phát mạnh mẽ một lần nữa với cuộc chiến kéo
dài 11 ngày giữa Hamas và Israel. Bạo lực bùng nổ sau các cuộc đụng độ tại Đông
Jerusalem, đặc biệt là tại khu vực Al-Aqsa Mosque, một địa điểm tôn giáo quan
trọng đối với cả người Do Thái và người Hồi giáo. Hơn 250 người Palestine và 13
người Israel thiệt mạng trong cuộc xung đột này, gây ra sự phá hủy lớn ở Gaza.
Nguyên nhân chính là do việc di dời các gia đình Palestine tại khu Sheikh Jarrah và
các cuộc đụng độ tại Al-Aqsa Mosque. Hamas bắt đầu phóng tên lửa vào Israel, và
Israel trả đũa bằng không kích vào Gaza.
13
Trong những năm gần đây, có những nỗ lực quốc tế để tái khởi động các
cuộc đàm phán hòa bình. Năm 2020, Hiệp định Abraham đánh dấu sự bình thường
hóa quan hệ giữa Israel với một số quốc gia Ả Rập như UAE và Bahrain. Tuy
nhiên, các nỗ lực này không bao gồm việc giải quyết trực tiếp vấn đề Palestine, dẫn
đến sự chỉ trích từ phía người Palestine. Họ coi các hiệp định này như sự phản bội
và lo ngại rằng chúng làm suy yếu vị thế đàm phán của họ.
Năm 2022 và 2023, tình hình vẫn tiếp tục căng thẳng với các vụ đụng độ
lẻ tẻ, các cuộc tấn công bằng tên lửa từ Gaza và các đợt trả đũa của Israel. Chính
phủ mới của Israel, do Benjamin Netanyahu lãnh đạo, tiếp tục chính sách cứng rắn
với Palestine. Các khu định cư của người Do Thái tại Bờ Tây tiếp tục mở rộng, gây
ra nhiều chỉ trích từ cộng đồng quốc tế và làm tăng thêm sự phẫn nộ của người
Palestine.
Từ năm 2008 đến nay, cuộc xung đột Israel - Palestine vẫn tiếp tục diễn
biến phức tạp và bạo lực, với nhiều giai đoạn xung đột đẫm máu và những nỗ lực
ngoại giao chưa thành công. Sự căng thẳng này phản ánh những mâu thuẫn sâu sắc
về lịch sử, chính trị và tôn giáo, khiến việc tìm kiếm một giải pháp hòa bình bền
vững trở nên khó khăn. Mặc dù có những thay đổi trong bối cảnh quốc tế và nỗ lực
hòa bình, tình hình trên thực địa vẫn rất căng thẳng và chưa có dấu hiệu giảm bớt.
2.2 Ảnh hưởng của cuộc xung đột đối với sự vận động địa chính trị
Trung Đông
Cuộc xung đột Israel-Palestine kéo dài suốt nhiều thập kỷ không chỉ là một
vấn đề nội bộ giữa hai bên mà còn có những ảnh hưởng sâu rộng đến sự vận động
địa chính trị của khu vực Trung Đông. Từ năm 2008 đến nay, xung đột này đã có
nhiều tác động lớn đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và ngoại giao của khu
vực.
14
2.2.1. Tác động đến tình hình chính trị và an ninh khu vực
Từ năm 2008 đến nay, cuộc xung đột đã liên tục là nguồn cơn của bất ổn
chính trị và an ninh trong khu vực Trung Đông. Năm 2008, cuộc chiến Gaza lần
thứ nhất (còn gọi là Chiến dịch Cast Lead) bắt đầu, kéo dài từ tháng 12/2008 đến
tháng 1/2009, đánh dấu sự leo thang nghiêm trọng trong mối quan hệ căng thẳng
giữa Israel và Palestine. Các cuộc tấn công của Israel nhằm vào Dải Gaza đã gây ra
thiệt hại nặng nề cho cơ sở hạ tầng và cuộc sống của người dân Palestine, trong khi
các vụ phóng tên lửa từ Gaza vào lãnh thổ Israel cũng gây ra nhiều thương vong và
sự hoảng loạn. Tình hình này không chỉ giới hạn trong phạm vi hai bên mà còn lan
rộng ra toàn khu vực, ảnh hưởng đến chính trị và an ninh của nhiều quốc gia lân
cận. Các quốc gia Ả Rập và Hồi giáo, như Ai Cập, Jordan, và Iran, đã có những
phản ứng mạnh mẽ, lên án hành động của Israel và bày tỏ sự ủng hộ đối với
Palestine. Điều này làm gia tăng căng thẳng giữa các quốc gia này với Israel và
thậm chí với những quốc gia phương Tây ủng hộ Israel, đặc biệt là Hoa Kỳ. Một số
quốc gia như Ai Cập và Jordan, dù có quan hệ hòa bình với Israel nhưng vẫn phải
đối mặt với áp lực nội bộ từ dân chúng và các nhóm chính trị phản đối chính sách
của Israel đối với Palestine. Điều này đã làm phức tạp thêm bức tranh chính trị nội
bộ của những quốc gia này, khi họ phải cân bằng giữa việc duy trì quan hệ ngoại
giao với Israel và đáp ứng nguyện vọng của dân chúng.
Tình trạng bất ổn cũng đã thúc đẩy sự phát triển và hoạt động của các
phong trào cực đoan và khủng bố trong khu vực. Các tổ chức như Hamas ở Gaza và
Hezbollah ở Lebanon đã lợi dụng tình hình để gia tăng tầm ảnh hưởng của mình,
không chỉ ở Palestine mà còn lan rộng ra các khu vực khác trong Trung Đông.
Những nhóm này nhận được sự hậu thuẫn từ các quốc gia như Iran, tạo ra một
mạng lưới phức tạp các liên minh và đối đầu trong khu vực.
15
Cuộc xung đột cũng đã khiến nhiều quốc gia trong khu vực phải điều chỉnh
chiến lược an ninh và quốc phòng của mình. Israel đã tăng cường các biện pháp an
ninh, bao gồm việc xây dựng tường ngăn cách và hệ thống phòng thủ tên lửa “Vòm
sắt” để bảo vệ lãnh thổ khỏi các cuộc tấn công bằng rocket từ Gaza. Trong khi đó,
các quốc gia Ả Rập và Hồi giáo đã phải tăng cường lực lượng an ninh để đối phó
với nguy cơ khủng bố và bảo vệ biên giới của mình. Ngoài ra, cuộc xung đột đã
làm suy giảm lòng tin giữa các quốc gia trong khu vực, cản trở các nỗ lực hợp tác
và hòa giải. Những hiệp định hòa bình và hợp tác kinh tế, chính trị đã trở nên khó
khăn hơn do sự nghi ngờ và mâu thuẫn giữa các bên liên quan. Căng thẳng này đã
làm cho tiến trình hòa bình Trung Đông trở nên phức tạp và khó khăn hơn, khi mà
mỗi hành động quân sự đều có thể dẫn đến một vòng xoáy bạo lực mới.
2.2.2. Tác động đến quan hệ ngoại giao trong khu vực và quốc tế
Cuộc xung đột Israel-Palestine đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan hệ ngoại
giao trong khu vực Trung Đông. Nó đã gây ra sự phân chia trong nội bộ các quốc
gia Ả Rập. Một số quốc gia, như Ai Cập và Jordan, đã thiết lập quan hệ ngoại giao
và hợp tác an ninh với Israel, coi đây là một cách để đảm bảo sự ổn định và an ninh
trong khu vực. Ngược lại, các quốc gia khác, như Iran và Syria, lại có quan điểm
đối lập và tiếp tục hỗ trợ các nhóm vũ trang chống lại Israel. Sự khác biệt này đã
dẫn đến những căng thẳng và rạn nứt trong Liên đoàn Ả Rập (AL), làm suy yếu khả
năng của tổ chức này trong việc đưa ra các giải pháp thống nhất và hiệu quả cho
cuộc xung đột. Tuy vậy, bắt đầu từ năm 2020, một số quốc gia Ả Rập đã bắt đầu
thiết lập quan hệ ngoại giao với Israel thông qua các hiệp định hòa bình, được gọi
là Thỏa thuận hoà bình Abraham. Các nước như UAE, Bahrain, Sudan và Morocco
đã ký kết các thỏa thuận này với hy vọng thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu
vực. Những thỏa thuận này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc thay đổi
cách thức ngoại giao của Trung Đông, mở ra cơ hội hợp tác kinh tế và an ninh giữa
Israel và các quốc gia Ả Rập.
16
Mặt khác, phía Palestine nhận được sự ủng hộ từ nhiều quốc gia Ả Rập và
Hồi giáo, đặc biệt là từ các nước như Iran, Qatar và Thổ Nhĩ Kỳ. Iran đã cung cấp
vũ khí và huấn luyện quân sự cho các nhóm vũ trang Palestine, bao gồm Hamas và
Hezbollah. Sự hỗ trợ này đã tạo ra một sự đối đầu căng thẳng giữa Iran và Israel,
làm phức tạp thêm tình hình chính trị trong khu vực. Qatar và Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã
cung cấp hỗ trợ tài chính và nhân đạo cho Palestine, đồng thời lên tiếng chỉ trích
các hành động của Israel. Những quốc gia này thường xuyên tổ chức các cuộc họp
và hội nghị để thảo luận về tình hình Palestine và kêu gọi cộng đồng quốc tế can
thiệp.
Về phía quốc tế, Hoa Kỳ luôn là đồng minh quan trọng của Israel, thể hiện
qua các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ của các chính quyền từ Barack Obama đến
Donald Trump. Dưới thời chính quyền tổng thống Obama, mặc dù đã có những nỗ
lực nhằm thúc đẩy tiến trình hòa bình giữa Israel và Palestine và dành sự hỗ trợ cho
Israel, bao gồm cả viện trợ quân sự và việc bỏ phiếu phủ nhận các nghị quyết
chống Israel tại Liên Hợp Quốc. Đến thời Tổng thống Donald Trump, sự ủng hộ
này còn được nâng lên một tầm cao mới với các quyết định gây tranh cãi như công
nhận Jerusalem là thủ đô của Israel vào năm 2017 và chuyển đại sứ quán Mỹ từ Tel
Aviv đến Jerusalem. Hành động này đã gây ra làn sóng phản đối mạnh mẽ từ phía
Palestine và nhiều quốc gia Ả Rập, làm gia tăng căng thẳng trong khu vực và khiến
cho tiến trình hòa bình trở nên phức tạp hơn.
Tóm lại, cuộc xung đột Israel-Palestine đã có những ảnh hưởng sâu rộng đối
với quan hệ ngoại giao trong khu vực và quốc tế. Sự hỗ trợ mạnh mẽ của Hoa Kỳ
dành cho Israel, phản ứng của các quốc gia Ả Rập và Hồi giáo cùng với sự phân
chia trong nội bộ của các quốc gia Ả Rập và sự ra đời của các hiệp định hòa bình
như Thỏa thuận hoà bình Abraham đều đã cho thấy sự biến động liên tục trong sự
vận động địa chính trị của khu vực. Những tác động này không chỉ ảnh hưởng đến
17
các bên trực tiếp liên quan mà còn định hình tương lai cho sự hòa bình và ổn định
tại Trung Đông.
2.2.3. Tác động đến phát triển kinh tế
Cuộc xung đột cũng đã ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển kinh tế của
khu vực Trung Đông. Nền kinh tế của Palestine đặc biệt chịu nhiều tổn thất do các
biện pháp phong tỏa và kiểm soát di cư từ phía Israel, làm suy giảm hoạt động giao
thương và lao động, đồng thời cũng làm suy giảm các hoạt động kinh tế địa
phương. Cùng với đó, những cuộc xung đột và đặc biệt là mối quan hệ căng thẳng
giữa Israel và các quốc gia Ả Rập đã làm gia tăng sự bất ổn trong các hoạt động
quản lý kinh tế, từ đó gây khó khăn cho các dự án đầu tư nước ngoài và sự phát
triển bền vững của khu vực.
Tuy vậy, cũng có những nỗ lực tích cực để thúc đẩy hòa bình và hợp tác
kinh tế trong khu vực Thỏa thuận hoà bình Abraham giữa Israel và các quốc gia Ả
Rập, dẫn đầu bởi UAE, Bahrain, Sudan và Morocco, đã đánh dấu một bước tiến
quan trọng trong việc cải thiện mối quan hệ và mở rộng hợp tác kinh tế. Các thỏa
thuận này không chỉ mở ra cơ hội mới cho các lĩnh vực kinh tế quan trọng như du
lịch, năng lượng, công nghệ mà còn là một bước ngoặt quan trọng trong việc thúc
đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực.
2.2.4. Tác động đến xã hội và các vấn đề nhân đạo
Một trong những tác động nghiêm trọng nhất của cuộc xung đột là sự tàn
phá về mặt vật chất và tinh thần mà người dân trong khu vực phải chịu đựng. Các
cuộc tấn công quân sự thường xuyên làm hư hại cơ sở hạ tầng, nhà ở và hệ thống
cung cấp những dịch vụ sinh hoạt cơ bản như nước và điện. Đặc biệt, các biện pháp
phong tỏa biên giới và kiểm soát người di cư từ phía Israel đã gây khó khăn lớn cho
18
những người dân Palestine trong việc di chuyển, làm giảm khả năng tiếp cận với
các dịch vụ và việc làm.
Không chỉ gây ra những thiệt hại vật chất, cuộc xung đột còn khiến cho
các mối quan hệ xã hội và tôn giáo trong khu vực diễn ra căng thẳng hơn. Sự đối
đầu giữa các nhóm dân tộc và các nhóm tôn giáo đã dẫn đến những vụ bạo loạn và
khủng bố, gây ra nhiều sự thương vong nặng nề và làm gia tăng thêm sự bất ổn
trong xã hội.
Tuy vậy, cũng có những nỗ lực từ cộng đồng quốc tế và các tổ chức nhân
đạo để hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng bởi cuộc xung đột. Các tổ chức như
UNRWA (Cơ quan Cứu trợ và Việc làm của Liên Hợp Quốc dành cho Người tị nạn
Palestine ở Cận Đông) đã cung cấp các dịch vụ cơ bản như giáo dục và y tế cho
hàng triệu người tị nạn bị ảnh hưởng. Các tổ chức phi chính phủ cũng đã nỗ lực
cung cấp việc làm và hỗ trợ việc tái định cư cho các gia đình bị tàn phá bởi cuộc
xung đột.
III. Bài học thực tiễn dành cho Việt Nam trong việc giải quyết các xung đột
Tranh chấp quốc tế, đặc biệt là tranh chấp biên giới - lãnh thổ, luôn là mầm
mống gây ra các cuộc xung đột, thậm chí là xung đột vũ trang giữa các quốc gia. Vì
vậy, việc tích cực và chủ động giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp
hòa bình luôn được Việt Nam coi là nhiệm vụ hàng đầu trong chính sách đối ngoại
của mình. Lãnh thổ là một trong những yếu tố cấu thành nên quốc gia, vì vậy mà
đây cũng chính là lợi ích cốt lõi của dân tộc. Giải quyết các tranh chấp lãnh thổ
phải dựa trên cơ sở lịch sử, pháp lý và cân nhắc một cách hợp lý đến lợi ích chính
đáng của cư dân.
Xuất phát từ thực tiễn cuộc xung đột giữa Israel và Palestine, trước hết,
trong quá trình đàm phán giải quyết xung đột, Việt Nam cần đặc biệt quan tâm đến
19

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ
-----🙡🕮🙣----- TIỂU LUẬN
MÔN: ĐỊA CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI Đề tài
Ảnh hưởng của cuộc xung đột Israel-Palestine đối với sự vận động
địa chính trị Trung Đông từ năm 2008 đến nay
Giảng viên hướng dẫn: ThS Ngô Thị Thúy Hiền
Sinh viên: Phạm Huy Tuấn
Mã sinh viên: 2351070052
Lớp: Truyền thông quốc tế K43 Hà Nội, 2024 MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU ...............................................................................................3
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài:............................................................3
2. Mục đích nghiên cứu:...............................................................................4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:...............................................................................4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:...............................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu:.........................................................................4
6. Kết cấu của tiểu luận:................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG............................................................................................5
I. Địa chính trị Trung Đông – Vùng đất của những xung đột dai dẳng.........5
1. Vị trí địa lý:............................................................................................5
2. Vị trí chiến lược:....................................................................................6
3. Đặc điểm dân cư và tôn giáo:................................................................6
4. Đặc điểm chính trị:................................................................................7
5.Sự vận động địa chính trị Trung Đông giai đoạn 1990 đến nay:...........7

II. Khái quát lịch sử hình thành cuộc xung đột Israel – Palestine và tác động của
nó đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông từ năm 2008 đến nay.......9
1. Lịch sử hình thành cuộc xung đột:........................................................9
2. Ảnh hưởng của cuộc xung đột đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông
từ năm 2008 đến nay:...........................................................................…12
2.1.Giai đoạn từ năm 2008 đến nay của cuộc xung đột:.....................12

2.2. Ảnh hưởng của cuộc xung đột đối với sự vận động địa chính trị Trung
Đông:…………………………………………………………………………………..14
2.2.1. Tác động đến tình hình chính trị và an ninh khu vực…….….14
2.2.2. Tác động đến quan hệ ngoại giao trong khu vực và quốc t...16
2.2.3. Tác động đến phát triển kinh tế………………………………...18
2.2.4. Tác động đến xã hội và các vấn đề nhân đạo………………...18
1
III. Bài học thực tiễn dành cho Việt Nam trong việc giải quyết các xung
đột……………………………………........................................................19
PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................21 2 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Bước vào thế kỉ 21, thế kỉ của toàn cầu hoá, hoà bình và hợp tác phát triển.
Tuy vậy, nhân loại vẫn đang cuốn vào một vòng xoáy với nhiều cuộc xung đột vũ
trang đẫm máu với sức tàn phá khủng khiếp. Sự ảnh hưởng của nó đã tác động tiêu
cực đến an ninh toàn cầu cũng như quan hệ quốc tế giữa các quốc gia trên toàn thế
giới. Trong đó cuộc xung đột giữa Irasel và Palestine là điển hình cho điều đó. Đây
là một trong những xung đột lâu đời và phức tạp nhất thế giới. Bắt đầu từ cuối thế
kỉ 19, chia thành nhiều giai đoạn và tiếp diễn phức tạp vào đầu thế kỉ 21, cuộc xung
đột đã không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ giữa hai nước Isarel và Palestine mà còn
tác động to lớn đến cục diện chính trị và an ninh toàn khu vực Trung Đông, gây ra
các vấn đề chính trị phức tạp, những diễn biến khó lường và có nguy cơ đẩy Trung
Đông vào một cuộc chiến tranh toàn diện, tạo ra những hệ luỵ nguy hiểm về an
ninh với khu vục. Với những nỗ lực duy trì hoà bình hiện nay thì cuộc xung đột
giữa Irasel và Palestine vẫn sẽ là một vấn đề nhức nhối đối với các nhà lãnh đạo
cũng như toàn thể người dân trên toàn thế giới nói chung và khu vực Trung Đông nói riêng.
Việc nghiên cứu tác động của cuộc xung đột đối với sự vận động địa chính
trị Trung Đông sẽ là bước đầu của việc xây dựng cơ sở lý luận để làm nền tảng cho
công cuộc tìm kiếm giải pháp hoà bình ổn định, nâng cao nhận thức cộng đồng khu
vực Trung Đông, giải quyết các tranh chấp và xung đột quốc tế trong bối cảnh quan
hệ quốc tế giữa các quốc gia ngày càng trở nên phức tạp với nhiều những diễn biến
khó lường. Đồng thời đóng góp vào việc xây dựng các chiến lược ngoại giao và
chính sách quốc tế nhằm giảm thiểu căng thẳng và thức đẩy hoà bình trong khu vực.
Mặt khác, nghiên cứu này sẽ giúp làm rõ cách mà cuộc xung đột Israel-
Palestine đã thúc đẩy các quốc gia trong khu vực điều chỉnh chính sách đối ngoại 3
và an ninh của họ, từ đó giúp hiểu rõ hơn về các động lực và xu hướng trong địa chính trị Trung Đông.
Xuất phát từ những lý do trên, em chọn đề tài “Ảnh hưởng của cuộc xung
đột Israel-Palestine đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông từ năm 2008
đến nay” để làm đề tài tiểu luận.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và thu thập những thông tin về sự tác động của cuộc xung đột
giữa Irasel và Palestine đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông. Đồng thời
cũng rút ra bài học cho Việt Nam trong việc giải quyết các xung đột quốc tế.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trước hết phải tìm hiểu về các yếu tố địa chính trị và các đặc điểm địa lý của
Trung Đông, lý giải tại sao Trung Đông luôn xảy ra nhiều các cuộc xung đột, tranh
chấp. Tiếp đó là khái quát lịch sử, các yếu tố tác động hình thành nên cuộc xung
đột giữa Israel và Palestine, phân tích tập trung vào giai đoạn từ năm 2008 đến
nay . Từ đó đánh giá, rút ra những kết luận về ảnh hưởng, tác động của cuộc xung
đột đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông, đồng thời rút ra những bài học
cho Việt Nam trong việc giải quyết xung đột quốc tế.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là địa chính trị Trung Đông, cuộc xung đột
Israel -Palestine, tập trung vào các giai đoạn từ năm 2008 có tác động và ảnh hưởng
sâu sắc đến sự vận động địa chính trị Trung Đông.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp tài liệu
- Phương pháp tư duy biện chứng. - Phương pháp phân tích 4
- Phương pháp đưa ra kết luận
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục viết tắt và tài liệu tham khảo, nội
dung chính của tiểu luận được chia thành 3 phần chính như sau:
Phần 1: Địa chính trị Trung Đông - Vùng đất của những xung đột dai dẳng
Phần 2: Khái quát lịch sử hình thành cuộc xung đột Israel-Palestine và tác
động của nó đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông từ năm 2008 đến nay
Phần 3: Bài học thực tiễn cho Việt Nam PHẦN NỘI DUNG
I. Địa chính trị Trung Đông – Vùng đất của những xung đột dai dẳng 1. Vị trí địa lý
Trung Đông là một khu vực trung tâm của ba châu lúc lớn là châu Á, châu
Âu và châu Phi. Là một vùng đất rộng lớn với tổng diện tích lên đến 7,2 triệu km2.
Phía đông và phía nam giáp với Địa Trung Hải, phần biển tiếp giáp với vịnh
Persian, biển Ả Rập, biển Đỏ, biển Đen, biển Caspi.
Địa hình chủ yếu của Trung Đông là núi và cao nguyên. Đất đai ở đây rất
khô cằn, chủ yếu là đồng cỏ hoang mạc do khí hậu chủ yếu ở vùng đất này là khí
hậu sa mạc nhiệt đới, khí hậu ôn đới lục địa và khí hậu Địa Trung Hải, trong đó khí
hậu sa mạc nhiệt đới có sự phân bố rộng lớn nhất. Do đặc điểm khí hậu khô nóng
quanh năm nên nguồn nước ngọt ở Trung Đông vô cùng khan hiếm, cùng với đó
phần lớn nguồn nước lại tập trung ở các vùng biên giới, khiến cho việc quản lý
nguồn nước rất khó khăn đối với các quốc gia khu vực.
Nhắc đến tài nguyên thiên nhiên thì khi nhắc về Trung Đông, dầu mỏ là
nguồn tài nguyên quan trọng nhất và có trữ lượng lớn nhất thế giới với ước tính là 5
90 tỉ tấn, chiếm 65% trữ lượng dầu mỏ thế giới. Khu vực này hàng năm có thể cung
cấp cho thế giới 35% mức tiêu thụ dầu mỏ cho toàn thế giới. Do đó, Trung Đông
chiếm một vị trí quan trọng trong bản đồ dầu mỏ và khí đốt thế giới và là mục tiêu
của các cường quốc trong việc đảm bảo an ninh năng lượng. Ngoài ra Trung Đông
còn rất giàu nhôm, sắt,..
2. Vị trí chiến lược
Xét trên vị trí địa lý, Trung Đông là cầu nối giữa châu Á, châu Âu và châu
Phi, là vị trí nối liền giữa Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương, nối liền phương Tây và
phương Đông. Trung Đông còn là cửa ngõ của châu Phi, nắm giữ kênh đào Suez.
Với một vị trí chiến lược quan trọng cùng với sự giàu có về dầu mỏ đã khiến Trung
Đông luôn là mục tiêu hàng đầu của nhiều thế lực và các cường quốc trên thế giới.
Bất kỳ mọi sự kiện, mọi biến động chính trị xảy ra ở Trung Đông sẽ không chỉ tác
động lớn đến khu vực mà nó còn có sức ảnh hưởng lên toàn thế giới . Do đó, nếu
lực lượng nào có trong tay được Trung Đông sẽ có khả năng chi phối cả ba châu
lục bằng cách kiểm soát các cảng biển và kênh đào, tác động mạnh đến chuỗi cung
ứng và các hoạt động giao thương giữa các châu lục. Cùng với trữ lượng dầu mỏ và
khí đốt lớn, Trung Đông luôn bị đặt trong tình trạng phải cạnh tranh với các cường
quốc, khiến cho Trung Đông luôn bị can thiệp bởi các thế lực bên ngoài. Đó chính
những nguyên nhân quan trọng khiến cho vùng đất này luôn xảy ra các xung đột
phức tạp về cả kinh tế lẫn chính trị
3. Đặc điểm dân cư và tôn giáo
Dân số khu vực Trung Đông tính đến năm 2023 là 460 triệu người với nhiều
nhóm dân tộc và chủng tộc đã hình thành tư lầu như người Ả Rập, người Turk,
người Do Thái, người Ai Cập, người Giecman, người Azeris,.. Họ chủ yếu nói
tiếng Arab, tiếng Kurd, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ,...
Tôn giáo ở Trung Đông đóng vai trò vô cùng quan trọng và là nền tảng của
nhiều khía cạnh văn hóa, xã hội và chính trị trong khu vực. Hồi giáo là tôn giáo chủ 6
đạo, với hai nhánh chính là Sunni và Shia, chiếm đại đa số dân cư và ảnh hưởng
mạnh mẽ đến luật pháp, phong tục và lối sống. Ngoài ra, Trung Đông cũng là nơi
sinh ra và duy trì các tôn giáo cổ khác như Kitô giáo và Do Thái giáo. Jerusalem,
thành phố linh thiêng của cả ba tôn giáo, là điểm tranh chấp tôn giáo và lịch sử.
Các tôn giáo này không chỉ tồn tại song song mà còn tương tác và ảnh hưởng lẫn
nhau, tạo ra một bức tranh tôn giáo đa dạng và phức tạp. Tôn giáo không chỉ là
niềm tin cá nhân mà còn là yếu tố gắn kết cộng đồng, định hình bản sắc và ảnh
hưởng sâu rộng đến chính trị và xã hội trong khu vực. Tuy vậy, đây là khu vực rất
nhạy cảm đối với tôn giáo, do đó những bất đồng về tôn giáo cũng là một nguyên
nhân quan trọng gây ra những mâu thuẫn, những xung đột dai dẳng không thể điều hoà được.
4. Đặc điểm chính trị
Trung Đông là một khu vực có bối cảnh chính trị phức tạp và đầy biến
động, nổi bật với nhiều yếu tố đa dạng và mâu thuẫn. Vùng đất này chứa đựng các
quốc gia với các hệ thống chính trị khác nhau, từ quân chủ chuyên chế như Ả Rập
Saudi, đến các nước cộng hòa như Iran và Iraq. Chính trị Trung Đông còn bị ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi các tôn giáo, đặc biệt là Hồi giáo với hai nhánh chính là Sunni
và Shia, dẫn đến những xung đột tôn giáo kéo dài hàng thập kỷ. Sự can thiệp của
các cường quốc ngoại bang như Mỹ, Nga, và các quốc gia châu Âu cùng với các
phong trào cách mạng và khủng bố như “Mùa xuân Ả Rập” và tổ chức ISIS đã làm
tăng thêm tính phức tạp của tình hình chính trị nơi đây. Hơn nữa, Trung Đông cũng
là tâm điểm của các xung đột về tài nguyên, đặc biệt là dầu mỏ, và các tranh chấp
lãnh thổ, nổi bật là xung đột Palestine-Israel. Tất cả những yếu tố này tạo nên một
bức tranh chính trị đầy rối ren và khó dự đoán.
5. Sự vận động địa chính trị Trung Đông giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Từ năm 1990 đến nay, Trung Đông đã trải qua những biến động địa chính
trị sâu sắc, định hình lại khu vực này qua nhiều thập kỷ. Đầu thập niên 1990, Chiến 7
tranh vùng Vịnh (1990-1991) đã đánh dấu sự can thiệp mạnh mẽ của Mỹ và các
đồng minh vào khu vực để đẩy lùi quân đội Iraq khỏi Kuwait, khởi đầu cho một
thời kỳ bất ổn và thay đổi liên tục.
Đầu thế kỷ 21, sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 đã khiến Mỹ phát động
Cuộc chiến chống khủng bố, dẫn đến cuộc xâm lược Afghanistan (2001) và Iraq
(2003). Cuộc chiến Iraq đã lật đổ chế độ Saddam Hussein, nhưng đồng thời cũng
tạo ra một khoảng trống quyền lực, dẫn đến sự gia tăng của các phe phái và bạo lực
giáo phái. Iran cũng tận dụng cơ hội này để mở rộng ảnh hưởng của mình trong khu
vực, đặc biệt là tại Iraq và Syria.
Năm 2010, làn sóng cách mạng, nổi dậy và biểu tình mang tên Mùa xuân Ả
Rập bùng nổ, lan rộng từ Tunisia sang Ai Cập, Libya, Yemen, Syria và nhiều quốc
gia khác, mang lại những hy vọng về dân chủ nhưng cũng gây ra hỗn loạn và nội
chiến kéo dài. Tại Syria, cuộc nội chiến bắt đầu từ năm 2011 vẫn tiếp diễn, với sự
can thiệp của nhiều quốc gia như Nga, Iran và Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời chứng kiến
sự trỗi dậy và sụp đổ của Nhà nước Hồi giáo ISIS.
Từ năm 2015, cuộc xung đột Yemen trở thành một chiến trường ủy nhiệm
giữa Ả Rập Saudi và Iran, gây ra một trong những thảm họa nhân đạo nghiêm trọng
nhất thế giới. Ả Rập Saudi cũng tiến hành một số cải cách nội bộ đáng chú ý dưới
sự lãnh đạo của Thái tử Mohammed bin Salman, đồng thời bình thường hóa quan
hệ với Israel thông qua Hiệp định Abraham năm 2020, đánh dấu sự thay đổi trong
quan hệ quốc tế giữa liên minh khu vực.
Xung đột Israel - Palestine tiếp tục là một trong những điểm nóng lớn nhất
của khu vực. Từ những năm 1990, các nỗ lực hòa bình như Hiệp định Oslo đã
mang lại hy vọng, nhưng bạo lực vẫn tiếp diễn. Đặc biệt, các cuộc xung đột lớn
như Intifada thứ hai (2000-2005) khiến hàng vạn người Israel và Palestine thiệt
mạng, chiến dịch quân sự tại Gaza (2008-2009, 2012, 2014) và các vụ đụng độ gần 8
đây nhất vào năm 2021 đã làm tăng thêm sự căng thẳng. Bên cạnh đó, việc mở
rộng các khu định cư của Israel tại Bờ Tây và sự chia rẽ chính trị nội bộ giữa các
phe phái Palestine cũng khiến tiến trình hòa bình trở nên phức tạp hơn.
Gần đây, Trung Đông tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm căng
thẳng gia tăng giữa Iran và Israel, tranh chấp lãnh thổ, và các vấn đề kinh tế, xã hội
phát sinh từ đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, cũng có những dấu hiệu của sự hợp
tác mới, như các nỗ lực hòa giải giữa các quốc gia vùng Vịnh và việc đàm phán lại
thỏa thuận hạt nhân Iran. Những biến động này cho thấy Trung Đông vẫn là một
khu vực có tầm quan trọng chiến lược toàn cầu, với những thay đổi liên tục và ảnh
hưởng sâu rộng đến an ninh và chính trị quốc tế.
II. Khái quát lịch sử hình thành cuộc xung đột Israel-Palestine và tác động
của nó đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông từ năm 2008 đến nay
1. Lịch sử hình thành cuộc xung đột
Cuộc xung đột Israel - Palestine là một trong những xung đột kéo dài và
phức tạp nhất trong lịch sử hiện đại, có nguồn gốc sâu xa và trải qua nhiều giai
đoạn biến động. Câu chuyện bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, khi phong trào phục quốc
Do Thái (Zionism) ra đời dưới sự lãnh đạo của Theodor Herzl. Mục tiêu của phong
trào này là thành lập một nhà nước Do Thái tại Palestine, vùng đất có ý nghĩa tôn
giáo và lịch sử đặc biệt đối với người Do Thái. Đồng thời, người Ả Rập Palestine,
cư dân bản địa của vùng đất này, cũng đã phát triển ý thức dân tộc và mong muốn
tự quyết, đặc biệt khi họ cảm thấy bị đe dọa bởi làn sóng nhập cư của người Do Thái.
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, Đế quốc Ottoman sụp đổ, và đế quốc
Anh nhận quyền quản lý Palestine theo ủy trị của Hội Quốc Liên. Trong thời gian
này, nước Anh đã ban hành Tuyên bố Balfour năm 1917, cam kết ủng hộ việc 9
thành lập "một quê hương cho người Do Thái" tại Palestine. Sự gia tăng nhập cư
của người Do Thái và những chính sách của chính quyền Anh đã gây ra những
căng thẳng và xung đột với cộng đồng Ả Rập bản địa. Đỉnh điểm của căng thẳng
này là các cuộc nổi dậy của người Ả Rập vào các năm 1920, 1929 và đặc biệt là
Cuộc nổi dậy của người Ả Rập Palestine (1936-1939), phản đối sự nhập cư của
người Do Thái và sự thống trị của Anh.
Năm 1947, Liên Hợp Quốc đưa ra kế hoạch phân chia Palestine thành hai
nhà nước, một của người Do Thái và một của người Ả Rập, với thành phố thánh
Jerusalem được đặt dưới sự quản lý của quốc tế. Người Do Thái chấp nhận kế
hoạch này, nhưng người Ả Rập phản đối, coi đó là sự bất công vì họ chiếm phần
lớn dân số nhưng lại nhận được ít đất hơn. Năm 1948, khi Anh rút khỏi Palestine,
nhà nước Israel tuyên bố độc lập, dẫn đến cuộc chiến Ả Rập-Israel đầu tiên. Cuộc
chiến này kết thúc với chiến thắng của Israel và sự hình thành của đường ranh giới
đình chiến, nhưng không có một nhà nước Palestine nào được thành lập, khiến
hàng trăm nghìn người Palestine trở thành tị nạn, sống rải rác ở các nước láng
giềng và trong các trại tị nạn.
Trong những thập kỷ tiếp theo, các cuộc xung đột lớn tiếp tục diễn ra. Năm
1956, khủng hoảng kênh đào Suez bùng nổ khi Israel, Anh và Pháp tấn công Ai
Cập. Năm 1967, Chiến tranh Sáu Ngày diễn ra, trong đó Israel chiếm đóng Bờ Tây,
Dải Gaza, Đông Jerusalem, bán đảo Sinai và Cao nguyên Golan, mở rộng đáng kể
lãnh thổ của mình. Sự chiếm đóng của Israel dẫn đến việc mở rộng các khu định cư
Do Thái tại các vùng đất chiếm đóng, làm tăng thêm căng thẳng và phẫn nộ của
người Palestine. Năm 1973, cuộc chiến Yom Kippur nổ ra khi Ai Cập và Syria tấn
công Israel nhằm lấy lại các vùng đất bị mất vào năm 1967, nhưng không thành công. 10
Phong trào giải phóng Palestine, đặc biệt là Tổ chức Giải phóng Palestine
(PLO) dưới sự lãnh đạo của Yasser Arafat, đã tiến hành nhiều hoạt động kháng
chiến và đàm phán. PLO, thành lập năm 1964, trở thành tiếng nói chính thức của
người Palestine và tiến hành nhiều cuộc tấn công khủng bố nhằm vào Israel. Năm
1987, cuộc Intifada đầu tiên (cuộc khởi nghĩa) bùng nổ, đánh dấu sự phản kháng
rộng rãi của người Palestine chống lại sự chiếm đóng của Israel.
Năm 1993, Hiệp định Oslo được ký kết, tạo ra cơ sở cho việc thành lập
Chính quyền Palestine (PA) và mở ra hy vọng về một giải pháp hai nhà nước. Hiệp
định này là kết quả của các cuộc đàm phán bí mật tại Na Uy và đánh dấu lần đầu
tiên Israel và PLO công nhận lẫn nhau. Theo hiệp định, PA sẽ có quyền tự trị tại
một số khu vực của Bờ Tây và Dải Gaza, và các cuộc đàm phán tiếp theo sẽ giải
quyết các vấn đề còn tồn đọng như biên giới, người tị nạn Palestine, tương lai của
Jerusalem và các khu định cư. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán tiếp theo không mang
lại kết quả cụ thể, và bạo lực vẫn tiếp diễn, đặc biệt là trong cuộc Intifada thứ hai
vào năm 2000, khi thất bại của Hội nghị Trại David dẫn đến sự bùng nổ bạo lực
nghiêm trọng kéo dài đến năm 2005.
Những năm gần đây, căng thẳng tiếp tục gia tăng với các cuộc đụng độ tại
Gaza và việc mở rộng các khu định cư Do Thái tại Bờ Tây. Dải Gaza, do phong
trào Hamas kiểm soát từ năm 2007, đã trở thành điểm nóng của các cuộc xung đột
vũ trang, bao gồm các cuộc chiến vào các năm 2008-2009, 2012, 2014 và 2021.
Hamas, một phong trào Hồi giáo, không công nhận Israel và thường xuyên phóng
tên lửa vào lãnh thổ Israel, dẫn đến các cuộc phản công mạnh mẽ từ phía Israel.
Các nỗ lực hòa bình, bao gồm sáng kiến của các nước Trung Đông và quốc
tế, chưa thể mang lại một giải pháp bền vững. Mỹ, trong vai trò trung gian, đã
nhiều lần tổ chức các cuộc đàm phán hòa bình, nhưng không đạt được tiến triển
đáng kể. Chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump đã công bố Kế hoạch 11
Hòa bình Trung Đông vào năm 2020, nhưng bị Palestine phản đối mạnh mẽ vì cho
rằng kế hoạch này thiên vị Israel.
Cuộc xung đột Israel - Palestine không chỉ là một vấn đề khu vực mà còn có
tầm ảnh hưởng toàn cầu, làm phức tạp của các mối quan hệ chính trị, tôn giáo và
dân tộc trong một khu vực đầy biến động. Các bên liên quan và cộng đồng quốc tế
vẫn đang tìm kiếm một giải pháp công bằng và bền vững cho cuộc xung đột này,
nhưng con đường phía trước còn đầy khó khăn và thách thức.
2. Ảnh hưởng của cuộc xung đột đối với sự vận động địa chính trị Trung
Đông từ năm 2008 đến nay.
2.1. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay của cuộc xung đột
Cuộc xung đột Israel - Palestine từ năm 2008 đến nay đã trải qua nhiều giai
đoạn căng thẳng và bạo lực, với các cuộc chiến tranh, các đợt bạo lực lẻ tẻ và trong
đó là những nỗ lực ngoại giao nhằm xoa dịu xung đột.
Cuộc xung đột bắt đầu leo thang vào cuối năm 2008 khi Israel phát động
Chiến dịch "Operation Cast Lead" vào ngày 27/12/2008 nhằm đáp trả các cuộc tấn
công bằng tên lửa của Hamas từ Dải Gaza vào lãnh thổ Israel. Cuộc chiến kéo dài
22 ngày, kết thúc vào ngày 18/01/2009, gây ra cái chết của khoảng 1.400 người
Palestine, trong đó có nhiều dân thường, và 13 người Israel. Cuộc chiến này để lại
những hậu quả nhân đạo nặng nề tại Gaza và gia tăng căng thẳng giữa hai bên.
Tháng 11/2012, căng thẳng lại bùng phát với Chiến dịch "Operation Pillar
of Defense" khi Israel tấn công các mục tiêu của Hamas để đáp trả các cuộc tấn
công bằng tên lửa. Cuộc xung đột kéo dài tám ngày, từ ngày 14/11 đến ngày 21/11,
kết thúc bằng một thỏa thuận ngừng bắn do Ai Cập làm trung gian. Hơn 160 người
Palestine và sáu người Israel thiệt mạng trong cuộc chiến này. 12
Năm 2014, căng thẳng leo thang thành một cuộc chiến khác, bắt đầu từ
tháng 7 và kéo dài 50 ngày. Chiến dịch "Operation Protective Edge" của Israel
nhằm vào Hamas sau khi ba thanh niên Israel bị bắt cóc và sát hại. Cuộc chiến diễn
ra từ ngày 8/7 đến ngày 26/8, khiến hơn 2.200 người Palestine, bao gồm nhiều dân
thường, và 73 người Israel thiệt mạng, cùng với sự tàn phá nặng nề tại Dải Gaza.
Đây là một trong những cuộc xung đột tàn khốc nhất trong những năm gần đây,
gây ra cuộc khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng tại Gaza.
Giai đoạn này cũng chứng kiến nhiều thay đổi trong chính sách quốc tế đối
với cuộc xung đột. Tháng 12/2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump công nhận
Jerusalem là thủ đô của Israel và chuyển đại sứ quán Mỹ đến thành phố này vào
tháng 5/2018. Quyết định này gây ra phản ứng dữ dội từ phía người Palestine và
cộng đồng quốc tế, làm tăng thêm căng thẳng trong khu vực.
Năm 2018 và 2019, các cuộc biểu tình lớn được gọi là "Great March of
Return" diễn ra dọc biên giới Gaza-Israel. Người Palestine yêu cầu quyền trở về đất
đai tổ tiên của họ và phản đối tình trạng phong tỏa Gaza. Các cuộc đụng độ giữa
người biểu tình và lực lượng an ninh Israel khiến hàng trăm người Palestine thiệt
mạng và hàng ngàn người bị thương.
Tháng 5/2021, bạo lực bùng phát mạnh mẽ một lần nữa với cuộc chiến kéo
dài 11 ngày giữa Hamas và Israel. Bạo lực bùng nổ sau các cuộc đụng độ tại Đông
Jerusalem, đặc biệt là tại khu vực Al-Aqsa Mosque, một địa điểm tôn giáo quan
trọng đối với cả người Do Thái và người Hồi giáo. Hơn 250 người Palestine và 13
người Israel thiệt mạng trong cuộc xung đột này, gây ra sự phá hủy lớn ở Gaza.
Nguyên nhân chính là do việc di dời các gia đình Palestine tại khu Sheikh Jarrah và
các cuộc đụng độ tại Al-Aqsa Mosque. Hamas bắt đầu phóng tên lửa vào Israel, và
Israel trả đũa bằng không kích vào Gaza. 13
Trong những năm gần đây, có những nỗ lực quốc tế để tái khởi động các
cuộc đàm phán hòa bình. Năm 2020, Hiệp định Abraham đánh dấu sự bình thường
hóa quan hệ giữa Israel với một số quốc gia Ả Rập như UAE và Bahrain. Tuy
nhiên, các nỗ lực này không bao gồm việc giải quyết trực tiếp vấn đề Palestine, dẫn
đến sự chỉ trích từ phía người Palestine. Họ coi các hiệp định này như sự phản bội
và lo ngại rằng chúng làm suy yếu vị thế đàm phán của họ.
Năm 2022 và 2023, tình hình vẫn tiếp tục căng thẳng với các vụ đụng độ
lẻ tẻ, các cuộc tấn công bằng tên lửa từ Gaza và các đợt trả đũa của Israel. Chính
phủ mới của Israel, do Benjamin Netanyahu lãnh đạo, tiếp tục chính sách cứng rắn
với Palestine. Các khu định cư của người Do Thái tại Bờ Tây tiếp tục mở rộng, gây
ra nhiều chỉ trích từ cộng đồng quốc tế và làm tăng thêm sự phẫn nộ của người Palestine.
Từ năm 2008 đến nay, cuộc xung đột Israel - Palestine vẫn tiếp tục diễn
biến phức tạp và bạo lực, với nhiều giai đoạn xung đột đẫm máu và những nỗ lực
ngoại giao chưa thành công. Sự căng thẳng này phản ánh những mâu thuẫn sâu sắc
về lịch sử, chính trị và tôn giáo, khiến việc tìm kiếm một giải pháp hòa bình bền
vững trở nên khó khăn. Mặc dù có những thay đổi trong bối cảnh quốc tế và nỗ lực
hòa bình, tình hình trên thực địa vẫn rất căng thẳng và chưa có dấu hiệu giảm bớt.
2.2 Ảnh hưởng của cuộc xung đột đối với sự vận động địa chính trị Trung Đông
Cuộc xung đột Israel-Palestine kéo dài suốt nhiều thập kỷ không chỉ là một
vấn đề nội bộ giữa hai bên mà còn có những ảnh hưởng sâu rộng đến sự vận động
địa chính trị của khu vực Trung Đông. Từ năm 2008 đến nay, xung đột này đã có
nhiều tác động lớn đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và ngoại giao của khu vực. 14
2.2.1. Tác động đến tình hình chính trị và an ninh khu vực
Từ năm 2008 đến nay, cuộc xung đột đã liên tục là nguồn cơn của bất ổn
chính trị và an ninh trong khu vực Trung Đông. Năm 2008, cuộc chiến Gaza lần
thứ nhất (còn gọi là Chiến dịch Cast Lead) bắt đầu, kéo dài từ tháng 12/2008 đến
tháng 1/2009, đánh dấu sự leo thang nghiêm trọng trong mối quan hệ căng thẳng
giữa Israel và Palestine. Các cuộc tấn công của Israel nhằm vào Dải Gaza đã gây ra
thiệt hại nặng nề cho cơ sở hạ tầng và cuộc sống của người dân Palestine, trong khi
các vụ phóng tên lửa từ Gaza vào lãnh thổ Israel cũng gây ra nhiều thương vong và
sự hoảng loạn. Tình hình này không chỉ giới hạn trong phạm vi hai bên mà còn lan
rộng ra toàn khu vực, ảnh hưởng đến chính trị và an ninh của nhiều quốc gia lân
cận. Các quốc gia Ả Rập và Hồi giáo, như Ai Cập, Jordan, và Iran, đã có những
phản ứng mạnh mẽ, lên án hành động của Israel và bày tỏ sự ủng hộ đối với
Palestine. Điều này làm gia tăng căng thẳng giữa các quốc gia này với Israel và
thậm chí với những quốc gia phương Tây ủng hộ Israel, đặc biệt là Hoa Kỳ. Một số
quốc gia như Ai Cập và Jordan, dù có quan hệ hòa bình với Israel nhưng vẫn phải
đối mặt với áp lực nội bộ từ dân chúng và các nhóm chính trị phản đối chính sách
của Israel đối với Palestine. Điều này đã làm phức tạp thêm bức tranh chính trị nội
bộ của những quốc gia này, khi họ phải cân bằng giữa việc duy trì quan hệ ngoại
giao với Israel và đáp ứng nguyện vọng của dân chúng.
Tình trạng bất ổn cũng đã thúc đẩy sự phát triển và hoạt động của các
phong trào cực đoan và khủng bố trong khu vực. Các tổ chức như Hamas ở Gaza và
Hezbollah ở Lebanon đã lợi dụng tình hình để gia tăng tầm ảnh hưởng của mình,
không chỉ ở Palestine mà còn lan rộng ra các khu vực khác trong Trung Đông.
Những nhóm này nhận được sự hậu thuẫn từ các quốc gia như Iran, tạo ra một
mạng lưới phức tạp các liên minh và đối đầu trong khu vực. 15
Cuộc xung đột cũng đã khiến nhiều quốc gia trong khu vực phải điều chỉnh
chiến lược an ninh và quốc phòng của mình. Israel đã tăng cường các biện pháp an
ninh, bao gồm việc xây dựng tường ngăn cách và hệ thống phòng thủ tên lửa “Vòm
sắt” để bảo vệ lãnh thổ khỏi các cuộc tấn công bằng rocket từ Gaza. Trong khi đó,
các quốc gia Ả Rập và Hồi giáo đã phải tăng cường lực lượng an ninh để đối phó
với nguy cơ khủng bố và bảo vệ biên giới của mình. Ngoài ra, cuộc xung đột đã
làm suy giảm lòng tin giữa các quốc gia trong khu vực, cản trở các nỗ lực hợp tác
và hòa giải. Những hiệp định hòa bình và hợp tác kinh tế, chính trị đã trở nên khó
khăn hơn do sự nghi ngờ và mâu thuẫn giữa các bên liên quan. Căng thẳng này đã
làm cho tiến trình hòa bình Trung Đông trở nên phức tạp và khó khăn hơn, khi mà
mỗi hành động quân sự đều có thể dẫn đến một vòng xoáy bạo lực mới.
2.2.2. Tác động đến quan hệ ngoại giao trong khu vực và quốc tế
Cuộc xung đột Israel-Palestine đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan hệ ngoại
giao trong khu vực Trung Đông. Nó đã gây ra sự phân chia trong nội bộ các quốc
gia Ả Rập. Một số quốc gia, như Ai Cập và Jordan, đã thiết lập quan hệ ngoại giao
và hợp tác an ninh với Israel, coi đây là một cách để đảm bảo sự ổn định và an ninh
trong khu vực. Ngược lại, các quốc gia khác, như Iran và Syria, lại có quan điểm
đối lập và tiếp tục hỗ trợ các nhóm vũ trang chống lại Israel. Sự khác biệt này đã
dẫn đến những căng thẳng và rạn nứt trong Liên đoàn Ả Rập (AL), làm suy yếu khả
năng của tổ chức này trong việc đưa ra các giải pháp thống nhất và hiệu quả cho
cuộc xung đột. Tuy vậy, bắt đầu từ năm 2020, một số quốc gia Ả Rập đã bắt đầu
thiết lập quan hệ ngoại giao với Israel thông qua các hiệp định hòa bình, được gọi
là Thỏa thuận hoà bình Abraham. Các nước như UAE, Bahrain, Sudan và Morocco
đã ký kết các thỏa thuận này với hy vọng thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu
vực. Những thỏa thuận này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc thay đổi
cách thức ngoại giao của Trung Đông, mở ra cơ hội hợp tác kinh tế và an ninh giữa
Israel và các quốc gia Ả Rập. 16
Mặt khác, phía Palestine nhận được sự ủng hộ từ nhiều quốc gia Ả Rập và
Hồi giáo, đặc biệt là từ các nước như Iran, Qatar và Thổ Nhĩ Kỳ. Iran đã cung cấp
vũ khí và huấn luyện quân sự cho các nhóm vũ trang Palestine, bao gồm Hamas và
Hezbollah. Sự hỗ trợ này đã tạo ra một sự đối đầu căng thẳng giữa Iran và Israel,
làm phức tạp thêm tình hình chính trị trong khu vực. Qatar và Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã
cung cấp hỗ trợ tài chính và nhân đạo cho Palestine, đồng thời lên tiếng chỉ trích
các hành động của Israel. Những quốc gia này thường xuyên tổ chức các cuộc họp
và hội nghị để thảo luận về tình hình Palestine và kêu gọi cộng đồng quốc tế can thiệp.
Về phía quốc tế, Hoa Kỳ luôn là đồng minh quan trọng của Israel, thể hiện
qua các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ của các chính quyền từ Barack Obama đến
Donald Trump. Dưới thời chính quyền tổng thống Obama, mặc dù đã có những nỗ
lực nhằm thúc đẩy tiến trình hòa bình giữa Israel và Palestine và dành sự hỗ trợ cho
Israel, bao gồm cả viện trợ quân sự và việc bỏ phiếu phủ nhận các nghị quyết
chống Israel tại Liên Hợp Quốc. Đến thời Tổng thống Donald Trump, sự ủng hộ
này còn được nâng lên một tầm cao mới với các quyết định gây tranh cãi như công
nhận Jerusalem là thủ đô của Israel vào năm 2017 và chuyển đại sứ quán Mỹ từ Tel
Aviv đến Jerusalem. Hành động này đã gây ra làn sóng phản đối mạnh mẽ từ phía
Palestine và nhiều quốc gia Ả Rập, làm gia tăng căng thẳng trong khu vực và khiến
cho tiến trình hòa bình trở nên phức tạp hơn.
Tóm lại, cuộc xung đột Israel-Palestine đã có những ảnh hưởng sâu rộng đối
với quan hệ ngoại giao trong khu vực và quốc tế. Sự hỗ trợ mạnh mẽ của Hoa Kỳ
dành cho Israel, phản ứng của các quốc gia Ả Rập và Hồi giáo cùng với sự phân
chia trong nội bộ của các quốc gia Ả Rập và sự ra đời của các hiệp định hòa bình
như Thỏa thuận hoà bình Abraham đều đã cho thấy sự biến động liên tục trong sự
vận động địa chính trị của khu vực. Những tác động này không chỉ ảnh hưởng đến 17
các bên trực tiếp liên quan mà còn định hình tương lai cho sự hòa bình và ổn định tại Trung Đông.
2.2.3. Tác động đến phát triển kinh tế
Cuộc xung đột cũng đã ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển kinh tế của
khu vực Trung Đông. Nền kinh tế của Palestine đặc biệt chịu nhiều tổn thất do các
biện pháp phong tỏa và kiểm soát di cư từ phía Israel, làm suy giảm hoạt động giao
thương và lao động, đồng thời cũng làm suy giảm các hoạt động kinh tế địa
phương. Cùng với đó, những cuộc xung đột và đặc biệt là mối quan hệ căng thẳng
giữa Israel và các quốc gia Ả Rập đã làm gia tăng sự bất ổn trong các hoạt động
quản lý kinh tế, từ đó gây khó khăn cho các dự án đầu tư nước ngoài và sự phát
triển bền vững của khu vực.
Tuy vậy, cũng có những nỗ lực tích cực để thúc đẩy hòa bình và hợp tác
kinh tế trong khu vực Thỏa thuận hoà bình Abraham giữa Israel và các quốc gia Ả
Rập, dẫn đầu bởi UAE, Bahrain, Sudan và Morocco, đã đánh dấu một bước tiến
quan trọng trong việc cải thiện mối quan hệ và mở rộng hợp tác kinh tế. Các thỏa
thuận này không chỉ mở ra cơ hội mới cho các lĩnh vực kinh tế quan trọng như du
lịch, năng lượng, công nghệ mà còn là một bước ngoặt quan trọng trong việc thúc
đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực.
2.2.4. Tác động đến xã hội và các vấn đề nhân đạo
Một trong những tác động nghiêm trọng nhất của cuộc xung đột là sự tàn
phá về mặt vật chất và tinh thần mà người dân trong khu vực phải chịu đựng. Các
cuộc tấn công quân sự thường xuyên làm hư hại cơ sở hạ tầng, nhà ở và hệ thống
cung cấp những dịch vụ sinh hoạt cơ bản như nước và điện. Đặc biệt, các biện pháp
phong tỏa biên giới và kiểm soát người di cư từ phía Israel đã gây khó khăn lớn cho 18
những người dân Palestine trong việc di chuyển, làm giảm khả năng tiếp cận với
các dịch vụ và việc làm.
Không chỉ gây ra những thiệt hại vật chất, cuộc xung đột còn khiến cho
các mối quan hệ xã hội và tôn giáo trong khu vực diễn ra căng thẳng hơn. Sự đối
đầu giữa các nhóm dân tộc và các nhóm tôn giáo đã dẫn đến những vụ bạo loạn và
khủng bố, gây ra nhiều sự thương vong nặng nề và làm gia tăng thêm sự bất ổn trong xã hội.
Tuy vậy, cũng có những nỗ lực từ cộng đồng quốc tế và các tổ chức nhân
đạo để hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng bởi cuộc xung đột. Các tổ chức như
UNRWA (Cơ quan Cứu trợ và Việc làm của Liên Hợp Quốc dành cho Người tị nạn
Palestine ở Cận Đông) đã cung cấp các dịch vụ cơ bản như giáo dục và y tế cho
hàng triệu người tị nạn bị ảnh hưởng. Các tổ chức phi chính phủ cũng đã nỗ lực
cung cấp việc làm và hỗ trợ việc tái định cư cho các gia đình bị tàn phá bởi cuộc xung đột.
III. Bài học thực tiễn dành cho Việt Nam trong việc giải quyết các xung đột
Tranh chấp quốc tế, đặc biệt là tranh chấp biên giới - lãnh thổ, luôn là mầm
mống gây ra các cuộc xung đột, thậm chí là xung đột vũ trang giữa các quốc gia. Vì
vậy, việc tích cực và chủ động giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp
hòa bình luôn được Việt Nam coi là nhiệm vụ hàng đầu trong chính sách đối ngoại
của mình. Lãnh thổ là một trong những yếu tố cấu thành nên quốc gia, vì vậy mà
đây cũng chính là lợi ích cốt lõi của dân tộc. Giải quyết các tranh chấp lãnh thổ
phải dựa trên cơ sở lịch sử, pháp lý và cân nhắc một cách hợp lý đến lợi ích chính đáng của cư dân.
Xuất phát từ thực tiễn cuộc xung đột giữa Israel và Palestine, trước hết,
trong quá trình đàm phán giải quyết xung đột, Việt Nam cần đặc biệt quan tâm đến 19