Bài 1 Đảng là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác, phong trào công nhân, phong trào yêu nước. Đảng kết hợp 3 yếu tố như vậy đặc biệt là có yếu tố yêu nước có làm ảnh hưởng đến bản chất giai cấp công nhân của đảng ko? Vì sao? | Bài tập môn Lịch sử Đảng

- Đảng cộng sản xuất hiện trên cơ sở phong trào công nhân. ĐCS Việt Nam- chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời mang bản chất giai cấp công nhân, là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Do đó, lợi ích của Đảng trước hết đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Bài 1
Đảng kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác, phong trào công nhân, phong trào yêu
nước. Đảng kết hợp 3 yếu tố như vậy đặc biệt yếu tố yêu nước làm ảnh hưởng
đến bản chất giai cấp công nhân của đảng ko? sao?
* Làm Đảng kết quả của sự kết hợp 3 yếu tố: CN Mác, phong trào công nhân
phong trào yêu nước.
- .Đảng cộng sản xuất hiện trên sở phong trào công nhân
ĐCS Việt Nam - chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời mang bản chất giai cấp
công nhân, lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Do đó, lợi ích
của Đảng trước hết đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân lợi ích của các tầng lớp
nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc. thể nói, sứ mệnh lịch sử của ĐCS Việt Nam
do thời đại, giai cấp dân tộc quyết định.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng không chỉ lãnh tụ chính trị, đội tiên phong đại biểu
cho lợi ích của giai cấp, của dân tộc còn lãnh tụ chính trị, đội tiên phong đại biểu cho
lợi ích của nhân dân lao động của dân tộc Việt Nam. Đảng phải vừa người lãnh đạo, vừa
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người khẳng định: “Muốn cứu nước giải
phóng dân tộc không con đường nào khác - con đường cách mạng sản”. Để thực hiện
được mục tiêu đó, Người chỉ rõ: “Trước hết phải Đảng cách mệnh, để trong thì vận động
tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức sản giai cấp mọi
nơi. Đảng vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái vững thì thuyền
mới chạy”. ĐCS Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo nhân dân cùng một lúc phải làm sản cách
mạng, làm dân tộc cách mạng làm giai cấp cách mạng. Đây đặc điểm nổi bật nhất của
cách mạng sản Việt Nam do ĐCS lãnh đạo cũng một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử
của Đảng đối với giai cấp, dân tộc hội Việt Nam.Nên vậy giai cấp công nhân sở,
nền tảng, toàn thể; đảng cộng sản bộ phận tiên tiến nhất của giai cấp công nhân.
- Sự tồn tại của học thuyết Mác - Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin sở tưởng của đảng, linh hồn của đảng. Xây dựng đảng về
mặt tưởng, trước hết lĩnh hội tinh thần cách mạng của học thuyết Mác -Lênin, vận dụng
lập trường, quan điểm phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng
trong nước, không ngừng đấu tranh chống mọi trào lưu hội chủ nghĩa để giữ vững đường
lối cách mạng của đảng. Đồng thời, quá trình xây dựng đảng cũng quá trình giáo dục chính
trị tưởng thường xuyên trong đảng, quá trình nâng cao giác ngộ của cán bộ, đảng viên
về chủ nghĩa hội khoa học, quá trình khắc phục mọi biểu hiện không sản trong đảng,
nhằm đảm bảo sự nhất trí về tưởng hành động của đảng, không ngừng nâng cao sức
chiến đấu của đảng. Giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho mọi
hoạt động của Đảng - đó nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình xây dựng đảng sản cách
mạng kiểu mới.
- Phong trào yêu nước
Nói đến phong trào yêu nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân. Đầu thế kỷ XX,
nông dân Việt Nam chiếm tới khoảng hơn 90% dân số. Giai cấp nông dân bạn đồng minh
tự nhiên của giai cấp công nhân. Việt Nam, do điều kiện lịch sử chi phối, không công
nhân nhiều họ xuất thân trực tiếp từ người nông dân nghèo. Do đó giữa phong trào công
nhân phong trào yêu nước mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai cấp công nhân giai
cấp nông dân hợp thành quân chủ lực của cách mạng.
Phong trào yêu nước của tri thức Việt Nam nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu
tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phong trào yêu nước Việt Nam những thập
niên đầu thế kỷ XX ghi dấu ấn đậm nét bởi vai trò của trí thức, tuy số lượng không nhiều
nhưng lại những "ngòi nổ" cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân Pháp xâm
lược bọn tay sai, cũng như thúc đẩy sự canh tân chấn hưng đất nước. Trong lịch sử Việt
Nam một trong những nét nổi bật nhất sự bùng phát của các tổ chức yêu nước thành
viên những người lãnh đạo tuyệt đại đa số tri thức. Với một bầu nhiệt huyết, yêu nước,
thương nòi, căm giận bọn cướp nước bọn bán nước, họ rất nhạy cảm với thời cuộc, do vậy,
họ chủ động hội đón nhận những "luồng gió mới" về tưởng của tất cả các trào lưu
trên thế giới dội vào Việt Nam.
* Đảng kết hợp 3 yếu tố như vậy đặc biệt yếu tố yêu nước làm ảnh hưởng đến
bản chất giai cấp công nhân của đảng không? sao?
Theo học thuyết Mác - Lênin, một Đảng Cộng sản ra đời từ sự kết hợp chủ nghĩa hội khoa
học phong trào công nhân. Luận điểm này đúng, nhưng chỉ đúng với các nước phương
Tây, khi giai cấp công nhân đã bước lên đài chính trị với cách một lực lượng cách mạng
độc lập, được luận khoa học của Mác dẫn đường. Sự ra đời phát triển của một loạt Đảng
của giai cấp sản các nước Tây Âu cũng như Nga hồi cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã
chứng minh tính đúng đắn của luận điểm nêu trên.
Còn các nước phương Đông, đặc biệt các nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam
thì luận điểm đó cần được bổ sung, phát triển cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Những nước
này bị chủ nghĩa thực dân thống trị, nền kinh tế hết sức lạc hậu. Công nghiệp gần như chưa
phát triển, giai cấp công nhân tuy đã ra đời sống khá tập trung, song còn nhỏ bé. vậy,
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chưa đại diện được cho toàn bộ phong trào dân
tộc. Hơn nữa, vấn đề dân tộc cần phải giải quyết trở nên hết sức bức xúc, cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân phải hoà chung với phong trào yêu nước của các tầng lớp, giai cấp khác
trong hội, giai cấp công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc để lãnh đạo những cuộc đấu
tranh này.
Tinh thần yêu nước đã trở thành truyền thống đấu tranh bất khuất trong lịch sử dân tộc, vai
trò hết sức to lớn trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, trong các phong trào cách mạng
Việt Nam. Ngay từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta thì phong trào yêu
nước của nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ nền độc lập dân tộc đã bắt đầu. Từ năm
1858 đến trước năm 1930 đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh với mục tiêu
giành lại nền độc lập dân tộc. Đó cuộc chiến đấu của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của
Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu; khởi nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn
Trung Trực... Đó các cuộc khởi nghĩa theo tiếng gọi "Cần Vương" của Phan Đình Phùng,
Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công Tráng... Những cuộc đấu tranh cùng oanh liệt đó của
Nhân dân ta chống thực dân Pháp đều bị đàn áp tàn bạo thất bại. Mặc bị đàn áp man
nhưng các phong trào yêu nước vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Đã xuất hiện các phong trào yêu
nước theo chủ trương mới xu hướng sản như các phong trào Đông Du, Đông Kinh
nghĩa thục, Duy Tân, các cuộc khởi nghĩa của tiểu sản, trí thức trong Việt Nam Quốc dân
Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo... Tuy nhiên, các phong trào đó cũng không đi đến thành
công. Nguyên nhân bản do các phong trào không tìm được đường lối cứu nước, giải
phóng dân tộc con đường phát triển đúng đắn, chưa phản ánh đúng nhu cầu phát triển của
hội Việt Nam. điều cốt lõi nhất các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX chưa tìm
được chưa khả năng tập hợp lực lượng đủ sức đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.
Phong trào nông dân không giải quyết được mâu thuẫn giữa địa chủ, phong kiến nông dân,
nhân dân lao động nói chung. Phong trào yêu nước muốn phát triển đất nước theo chiều
hướng sản tiểu sản không giải quyết được mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân đang
phát triển ngày càng mạnh với giai cấp sản chủ yếu sản Pháp; do đó, cũng không
giải quyết được triệt để mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp, không tranh thủ
được sức mạnh của phong trào cách mạng thế giới đang dâng lên mạnh mẽ... Phong trào yêu
nước như không đường ra.
Trong đêm trường tăm tối đó Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng
kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân phong trào
yêu nước Việt Nam. Như vậy, khi đề cập đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, bên
cạnh hai yếu tố chủ nghĩa Mác - Lênin phong trào công nhân, Hồ Chí Minh còn kể đến
yếu tố thứ ba, đó phong trào yêu nước. Đây một quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh
về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
trên sở thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh thấy vai trò to lớn của chủ nghĩa
Mác - Lênin đối với quá trình hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời Người
cũng đánh giá rất cao vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam. Nhưng Người bổ sung yếu tố
phong trào yêu nước, coi một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng
Cộng sản Việt Nam vì:
Thứ nhất, phong trào yêu nước vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển
của dân tộc Việt Nam. giá trị văn hoá trường tồn trong văn hoá Việt Nam.
Thứ hai, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi hai phong
trào đó đều mục tiêu chung: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được hoàn toàn độc lập,
xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa, phong trào yêu nước trước phong trào công
nhân, phong trào công nhân xét về nghĩa nào đó lại phong trào yêu nước.
Thứ ba, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong trào yêu
nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân. Do đó, giữa phong trào công nhân phong
trào yêu nước mối quan hệ mật thiết với nhau.
Thứ , phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp
các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chính vậy, sự xuất hiện của nhân tố phong trào yêu nước trong sự hình thành Đảng
Cộng sản Việt Nam như một điều hiển nhiên, tất yếu. nhân lên sức mạnh của Đảng, tạo
chỗ dựa vững chắc cho Đảng, cho giai cấp công nhân VN.
Ngày nay, sự xuất hiện song hành của nhân tố phong trào yêu nước trong Đảng chính
sở để Đảng ta tự khẳng định "Đảng Cộng sản Việt Nam đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời đội tiên phong của Nhân dân lao động của dân tộc Việt Nam;
Đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động của dân
tộc". Diễn đạt như vậy không làm mờ, không che mất bản chất giai cấp công nhân của Đảng,
ngược lại càng khẳng định sâu sắc hơn bản chất giai cấp công nhân, đồng thời nêu bật vai
trò quan trọng của yếu tố nhân dân lao động dân tộc - hiện thân hữu hình của phong trào
yêu nước trong Đảng ta ngày nay.
Bài 2. Ý nghĩa của thành lập Đảng
Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất
- Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về
tưởng, chính trị hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc
lập dân tộc chủ nghĩa hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc đấu tranh
giai cấp, sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam hệ tưởng
Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời sự kiện
lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt
Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, sự kiện gắn liền với tên tuổi của
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã Cương
lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo phương
hướng cách mạng sản, chính sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được
ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về
đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con
đường phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này sở
đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung
tưởng hành động để tiến hành cuộc cách mạng đại giành những thắng lợi to lớn sau này.
Đây cũng điều kiện bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng
Việt Nam trong suốt 86 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam một bộ
phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng
thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ
vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung
của nhân dân thế giới hoà bình, độc lập dân tộc tiến bộ hội.
Bài 3. Giai đoạn 1939-1945
1. Phân tích chứng minh CMT8 kết quả của quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, đúng đắn,
kịp thời của ĐCSVN
Trước hết là, vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện đường lối chống đế quốc chống
phong kiến đúng đắn của Đảng. Đường lối chính trị đúng đắn của Đảng trong Cách mạng
tháng Tám năm 1945 không những thể hiện tinh thần triệt để cách mạng, tinh thần đấu tranh
không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc giải phóng giai cấp còn toát lên tinh
thần độc lập, tự chủ, tinh thần tự lực cánh sinh, tinh thần sáng tạo rất cao. Nhờ đó, khi chiến
tranh thế giới bùng nổ (tháng 9/1939), Đảng ta đã mau lẹ chuyển hướng về chỉ đạo chiến
lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Như vậy từ chỗ thấy hai nhiệm vụ
chống đế quốc chống phong kiến phải gắn liền với nhau, Đảng ta đã tiến lên một bước,
nhận thêm rằng trong hai nhiệm vụ chiến lược ấy thì nhiệm vụ chống đế quốc nhiệm vụ
chủ yếu nhất (điều này lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy xác định ngay từ ngày đầu
thành lập Đảng 3/2/1930 nhưng không được Quốc tế Cộng sản Đảng ta tán thành). Nhờ
nhận thức chủ trương đúng đắn đó, Đảng đã tập hợp được thêm các lực lượng dân tộc
cao trào cách mạng 1930-1931 trước đây chưa tập hợp được; Ngọn cờ dân tộc được giai cấp
công nhân giương cao, trở thành tiếng gọi thống thiết tất cả mọi người yêu nước, mọi giai cấp,
mọi tầng lớp từ công nhân, nông dân, tiểu sản sản dân tộc, thậm chí cả một số địa chủ
vừa nhỏ mâu thuẫn với đế quốc…tập hợp nhau lại trong một Mặt trận dân tộc thống
nhất, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trên nền tảng khối liên minh công - nông.
Đế quốc tăng cường khủng bố, Đảng ta đã biết mau lẹ chuyển từ hoạt động công khai
nửa công khai sang hoạt động mật hoàn toàn, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, dựa
vào nông thôn xây dựng căn cứ địa cách mạng, mật chuẩn lực lượng, vận động quần chúng
đấu tranh chính trị khi điều kiện thì đấu tranh trang, đánh du kích. Đồng thời hết sức
coi trọng vai trò của thành thị. Coi trọng việc gây sở cách mạng phát triển phong trào
cách mạng thành thị, kết hợp chặt chẽ phong trào cách mạng thành thị với phong trào cách
mạng nông thôn.
Hai là, Đảng đã dự doán đúng thời hành động chính xác, kịp thời khi thời xuất
hiện.
Ngay sau khi chiến tranh thế gới thứ hai bùng nổ, Đảng ta đã những dự đoán ban đầu
về thời khởi nghĩa. Nghị quyết TW6 (11/1939) đã nhận định: “Cuộc khủng hoảng kinh tế,
chính trị gây nên bởi đế quốc chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mạng Đông Dương bùng
nổ” Dựa vào dự đoán ban đầu quan trọng đó dựa vào sự phân tích đúng diễn biến của tình
hình thế giới trong nước, Nghị quyết Hội nghị TW8 (5/1941) nêu rõ: Liên thắng trận,
quân Trung Quốc phản công…tất cả các điều kiện ấy sẽ giúp cho các cuộc vận động của Đảng
ta mau phát triển,và rồi đây, lực lượng sẽ lan rộng ra toàn quốc để gây một cuộc tổng khởi
nghĩa rộng lớn”. Hội nghị nêu bật: ”Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước
một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta”, “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn
thể quốc gia, dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu, quyền lợi của bộ phận, của giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Đến Hội nghị thường vụ TW ngày 9/3/1945,
Đảng ta đã nhận thức cụ thể hơn: “Rồi đây, những thắng lợi của Liên Xô, sự tan của chủ
nghĩa phát xít quốc tế…sẽ thúc đẩy cách mạng bùng nổ nhiều nước”. do đó tưởng chỉ đạo
của Hội nghị “Phải hành động ngay, hành động cương quyết nhanh chóng, sáng tạo chủ
động, táo bạo”.
Nhờ dự đoán đúng tình hình đúng thời cơ, toàn Đảng mới hành động mau lẹ, kịp
thời khi Nhật tuyên bố đầu hàng Liên Đồng Minh, sau khi nghe tin Nhật đầu hàng, Hội
nghị toàn quốc của Đảng đã nhận định” hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” quyết
định phát động cuộc Tổng khởi nghĩa trong Toàn quốc giành chính quyền từ tay phát xít Nhật,
trước khi quân Đồng Minh kéo vào Đông dương. Tiếp đó, Đại hội Quốc dân đã nhiệt liệt tán
thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng đã thông qua 10 chính sách lớn của Mặt trận
Việt Minh, đã cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời do lãnh tụ Hồ Chí
Minh đứng đầu.
Trong lãnh đạo khởi nghĩa, một vấn đề rất quan trọng ý nghĩa quyết định thắng lợi đó
phải nắm đúng thời cơ. Thời thể do thực lực cách mạng trong nước tạo ra, cũng
thể do hoàn cảnh bên ngoài đưa lại. Nếu không sẵn thực lực cách mạng đến mức đủ mạnh
thì không thể tạo ra được thời khi thời đến sẽ không kịp thời lợi dụng được nó. Thời
thuận lợi một không hai của cuộc Tổng khởi nghĩa đã xuất hiện rất ngắn ngủi, vẻn vẹn
trong 10 ngày (từ ngày 15 đến ngày 25/8), nghĩa từ sau khi Nhật đầu hàng đến trước khi
quân Đồng Minh vào Đông dương. Đảng ta đã ra lệnh Tổng khởi nghĩa đúng vào lúc thời
lịch sử một không hai xuất hiện. Điều đó thể hiện Đảng ta đã thành công lớn trong nghệ
thuật chỉ đạo cách mạng đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Quả đúng như Chủ Tịch Hồ
Chí Minh khi nói về tầm quan trọng của thời đã viết:
“Lạc nước hai xe đành bỏ phí
Gặp thời một tốt cũng thành công”
Ba là, Đảng đã lựa chọn đúng hình thức, phương pháp đấu tranh, phát huy đến mức tối
đa sức mạnh tổng hợp của cách mạng, giành thắng lợi một cách nhanh gọn.
Lựa chọn đúng thời cơ, lại còn phải sự chỉ đạo phương pháp đúng mới mới
thể giành được thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa. tưởng chỉ đạo phương pháp
Đảng ta lựa chọn trong Tổng khởi nghĩa là:
- Dựa vào cao trào cách mạng của toàn dân.
- Kết hợp giữa lực lượng chính trị lực lượng trang, lấy lực lượng chính trị chủ
yếu, lực lượng trang làm nòng cốt.
- Nổi dậy đồng loạt. Kết hợp phong trào nông thôn phong trào thành thị hỗ trợ
nhau để khởi nghĩa.
- Dựa vào sức mạnh chung của cách mạng, kể cả thế thắng của cách mạng thế giới
chính, kết hợp một mức độ nhất định về công tác binh vận, thuyết phục bọn tay sai của
Nhật đầu hàng.
- Ba nguyên tắc hành động là: Tập trung, thống nhất, kịp thời; Chính trị quân sự phối
kết hợp; Làm tan tinh thần quân địch dụ chúng hàng trước khi đánh”.
tưởng chỉ đạo nói trên của Đảng còn được quán triệt thể hiện sự chủ động, năng
động, sáng tạo của các Đảng bộ địa phương diễn biến của Tông khởi nghĩa trong cả nước,
nhất những địa phương tiêu biểu, trọng yếu như nội,Huế, Sài gòn, đặc biệt thủ
đô nội.
Sự chỉ đạo của Đảng về hính thức, về nguyên tắc về thời gian khởi nghĩa đã đưa lại kết
quả nhân dân ta giành được chính quyền trước khi quân Đồng Minh vào Đông dương.
Bốn là, Đảng đã thực hiện sách lược khôn khéo đối với Nhật trong khi tiến hành Tổng
khởi nghĩa.
Từ tháng 9/1940, khi Nhật nhảy vào Đông Dương, Đảng ta xác định Nhật kẻ thù chủ
yếu, cần phải đánh đổ. Nhưng lúc này, Nhật đã đầu hàng Liên Đồng Minh, tinh thần
quân đội Nhật hoang mang cao độ, Đảng đã thực hiện một sách lược khôn khéo: Đối với
quân đội Nhật, chúng ta sẽ rất ôn hòa, tránh tất cả những sự xát ích, bất lợi cho cả đôi
bên, đồng thời chúng ta thể dùng ngoại giao làm cho Nhật hiểu tình thế, tán thành cách
mạng Việt Nam”.
Trong thực tế, lực lượng khởi nghĩa do Đảng chỉ đạo đã không đánh quân Nhật, dựa
vào sức mạnh của cách mạng để thuyết phục hiệu hóa lực lượng của chúng, làm cho
chúng không can thiệp vào công việc giành chính quyền của nhân dân ta. Đối với những nơi
xảy ra xát, ta dựa vào sức mạnh bạo lực của quần chúng dùng đàm phán, buộc Nhật
phải nhượng bộ. Nhờ đó, đã tránh được đổ máu thổn thất trong quá trình tiến hành khởi
nghĩa.
Như vậy, cuộc cách mạng tháng Tám thành công một cách mau lẹ, trọn vẹn do nhiều
nhân tố, nhưng trước hết quyết định nhất vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt nghệ
thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta.
2. Quan điểm của anh chị như thế nào với quan điểm cho rằng: “CMT8 ăn may”.
*Nguyên nhân khách quan: chiến thắng của Hồng quân Liên quân Đồng minh đã cố
tinh thần niềm tin cho nhân dân ta.
Giữa năm 1939, chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, các nước đế quốc bắt đầu xâu lẫn nhau.
Tháng 6/1940, Pháp đầu hàng quân Đức. Lợi dụng lúc này, Nhật ngay lập tức tiến vào Lạng
Sơn - Việt Nam, đổ bộ vào Hải Phòng rồi nhanh chóng đảo chính Pháp độc chiếm toàn bộ
Đông Dương. Nhưng không như dự đoán của Nhật, ngày 2/5/1945, Hồng quân Liên tiến
đánh Berlin, tiêu diệt Phát xít Đức. Nhật lúc này mất chỗ dựa, vào thế bất lợi, bị lập
châu Á, đang đi gần đến chỗ thất bại hoàn toàn.
Trước sự phát triển hết sức nhanh chóng của tình hình, Trung ương quyết định họp Hội nghị
toàn quốc của Đảng tại Tân Trào, nhận định: hội rất tốt cho ta giành chính quyền độc lập
đã tới, phải phát động toàn dân tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay Phát Xít Nhật tay
sai, trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương.”
* Nguyên nhân chủ quan:
- Truyền thống yêu nước nồng nàn, đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc cho độc lập,
tự do,biết nắm bắt thời cơ.
Bất cứ một cuộc cách mạng nào cũng đều phải biết tạo ra thời nắm bắt thời cơ. Không
nắm bắt thời cơ, biến thời thành sức mạnh thì khó thể giành được thắng lợi. Đặc biệt
trong bối cảnh Việt Nam nước yếu hơn cả về thế lực. Ngày tổng khởi nghĩa 19/8/1945
làm nên cuộc Cách mạng tháng 8 kỳ diệu, chính do chúng ta đã kịp thời chớp lấy thời
giành thắng lợi một cách trọn vẹn.
- Đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đứng đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh đại.
Việc chớp thời rất quan trọng trong thắng lợi của Cách mạng tháng 8 nhưng thực tiễn
lịch sử cho thấy, Đảng ta không khoanh tay thụ động chờ đợi thời cơ, chờ đợi ai đó đến giải
phóng cho dân tộc mình khỏi ách lầm than, lệ. với đường lối chiến lược cách mạng
“đem sức ta tự giải phóng cho ta”, Đảng ta, đứng đầu lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã những
chủ trương, biện pháp sáng suốt, tích cực, từng bước tạo thế lực bên trong để thể động
viên, tổ chức toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời đến. Đảng
đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, biết tạo nên sức mạnh tổng
hợp để áp đảo kẻ thù quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền bằng
cách chuẩn bị được lực lượng đại của toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, dựa trên
sở liên minh công nông nòng cốt.
Theo sự chỉ đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đảng ta đã thành lập Mặt trận Việt Minh để tập
hợp rộng rãi, đoàn kết các lực lượng đẩy mạnh cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập cho Tổ
quốc. Đảng đã tích cực xây dựng, phát triển lực lượng trang, các căn cứ địa cách mạng
khu giải phóng; phát triển đội quân chính trị quần chúng bao gồm các tầng lớp nhân dân trong
Mặt trận Việt Minh. Các đoàn thể cứu quốc phát triển rộng khắp cả ba kỳ.Đảng chủ trương
vừa xây dựng, vừa khôi phục các tổ chức, đoàn thể cách mạng
Chiến lược cách mạng ngày càng được hoàn thiện luôn đi đôi với những sách lược cách
mạng mềm dẻo, thêm bạn bớt thù (như thu hút cả, đốc công, phú nông, địa chủ chống Pháp -
Nhật vào Mặt trận cứu quốc). Qua nhiều con đường mật bán công khai, Chương trình
thâm nhập vào đại chúng, tạo nên Cao trào tiền khởi nghĩa rộng lớn, rồi dẫn đến Tổng khởi
nghĩa thành công
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành chính
quyền. Đặc biệt thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Nội ngày 19/8 ý nghĩa quyết định
với cả nước, làm cho chính quyền tay sai Nhật các nơi bị liệt, cổ mạnh mẽ nhân dân
các tỉnh, thành phố khác nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày (từ
ngày 14 đến ngày 28/8/1945) cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trên cả nước, chính quyền
về tay nhân dân.
- Quá trình chuẩn bị trong suốt 15 năm qua các phong trào cách mạng 1930-1935, 1936-1939,
1939-1945.
Cách mạng tháng 8 kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh gian khổ của toàn dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng, rèn luyện qua 3 cao trào cách mạng: 1930-1931, 1936-1939
1939-1945. Chúng ta thể nói qua về cao trào cách mạng 1930-1931 để thấy điều đó:
Năm 1930 mở đầu với cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy xi măng Hải Phòng, dệt
Nam Định, Tiếp đến các cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng,
của 4.000 công nhân nhà máy dệt Nam Định , của nhà máy xe lửa An, nhà máy diêm,
nhà máy Ba Son, khu mỏ Mông Dương. Cùng với các cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân còn những cuộc đấu tranh của nông dân các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Cao trào cách mạng do Đảng Cộng sản chủ trương phát động đã kéo dài trên một năm,
diễn ra trên 25 tỉnh thành khắp cả ba miền đất nước đạt tới đỉnh điểm trên đất Nghệ
Tĩnh. Nghệ Tĩnh, phong trào đấu tranh bùng nổ vào sáng ngày 1/5 với sự tham gia của
công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy nông dân các huyện lân cận đòi tăng
lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, chống khủng bố, ủng hộ cuộc đấu tranh của công
nhân nhà máy dệt Nam Định, ủng hộ Liên bang Viết. Chính quyền thực dân đã thẳng
tay đàn áp cuộc đấu tranh đó. Binh lính được điều đàn xả súng bắn vào đoàn biểu tình,
giết chết 7 người, làm bị thương 18 người bắt đi 98 người. Như lửa đổ thêm dầu, các
cuộc đấu tranh của quần chúng lao động càng trở nên quyết liệt hơn. Cuộc biểu tình ngày
1/5/1930 Bến Thuỷ- Vinh đã nổi lên như một sự kiện điển hình. Lần đầu tiên trong lịch
sử cách mạng do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, công nhân nông dân đã liên
minh tổ chức cuộc đấu tranh đó.
Mặc quần chúng cách mạng đã tích cực đấu tranh chống mọi thủ đoạn đàn áp, lừa bịp
của địch, nhưng do lực lượng không cân sức, phong trào Nghệ - Tĩnh dần dần đi xuống.
Tuy cuối cùng vẫn bị kẻ thù dìm trong máu lửa bạo tàn, nhưng cao trào cách mạng
1930-1931 thắng lợi đầu tiên ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển
tiếp theo của cách mạng nước ta.
- Trong những ngày Tổng khởi nghĩa toàn Đảng, toàn dân nhất trí, đồng lòng, không sợ hy
sinh, gian khổ, quyết tâm giành độc lập, tự do.
Chính nhờ mục tiêu đường lối đúng đắn đó, Mặt trận Việt Minh chẳng những đã huy động
được hàng triệu công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, học sinh, trí thức xuống đường khởi
nghĩa, còn tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của một số các thành phần khác, như địa
chủ, sản dân tộc, của nhiều trưởng, chánh tổng, tri huyện, tri phủ của chính quyền ngụy.
Mặt trận Việt Minh trở thành ngọn cờ tập hợp sức mạnh của toàn dân, trở thành động lực
bản của Cách mạng Tháng Tám. Dưới ngọn cờ của Việt Minh, "hàng chục triệu hội viên, gồm
đủ các tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh, gồm đủ các dân tộc Việt, Thổ, Nùng, Mường,
Mán" đứng dậy làm cuộc tổng khởi nghĩa đại giành độc lập cho dân tộc.
=> Phương châm chiến lược kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh trang, nắm
đúng thời để nổi dậy đã góp phần quyết định vào việc giành được chính quyền ít phải đổ
máu. Đây cả một cuộc đấu trí, đấu dũng của cách mạng Việt Nam với bọn đế quốc,
phát-xít. Việc Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam nhân danh người đứng về phía
Đồng Minh chống phát-xít giành được quyền độc lập, đã nói lên tài vận dụng chiến lược của
cách mạng Việt Nam: nắm đúng thời cơ, nổi dậy kịp thời, giành được chính quyền.
3. Phân tích sao ta hoà với Pháp thắng lợi lại về phía ta.
a. Hoàn cảnh lịch sử
Ngày 28-2-1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được kết tại Trùng Khánh. Theo Hiệp ước
này, Tưởng nhường cho Pháp được quyền đem quân thay quân đội Tưởng miền Bắc nước ta
với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật. Đổi lại, Pháp trả cho Tưởng các giới của Pháp
Trung Quốc đường xe lửa Vân Nam cũng như hàng hoá của Tưởng qua cảng Hải Phòng
được miễn thuế. Hiệp ước Trùng Khánh giữa Tưởng Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa
chọn: hoặc cầm khí kháng chiến chống Pháp không cho chúng đặt chân lên miền Bắc;
hoặc hoà hoãn với Pháp để gạt Tưởng tranh thủ thời gian củng cố lực lượng.
Đứng trước thời khắc gay go, Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng ta đã ra quyết sách lịch
sử, sáng suốt: Hòa để tiến. Ngày 6-3-46, Chính phủ ta đã với đại biểu Pháp Nội bản
Hiệp định bộ.
b. Ta phải hòa với Pháp vì:
- Ta tránh được tình thế bất lợi: phải lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều kẻ
thù. Do Pháp Tưởng bắt tay cấu kết với nhau chống lại ta, Hiệp ước Hoa Pháp (2/1946),
theo đó quân Pháp ra Bắc để quân Tưởng rút về nước. Trong tình hình đó, nếu ta đánh Pháp
miền Bắc khi quân Tưởng chưa rút về nước thì Tưởng sẽ đứng về Pháp đánh lại ta. Nếu hòa
hoãn với Pháp ta chẳng những tránh được cuộc chiến đấu bất lợi còn thực hiện được mục
tiêu đuổi quân Tưởng ra khỏi nước ta.
- Việc nhân nhượng với Pháp, buộc chúng phải công nhận Việt Nam quốc gia tự
do, có Chính phủ tự chủ, nghị viện, quân đội tài chính riêng, v.v. làm sở pháp
để ta tiếp tục đấu tranh với Pháp.
- Ta thêm thời gian hòa hoãn cần thiết để tiếp tục xây dựng, củng cố chính quyền
mọi mặt khác chuẩn bị cho cuộc chiến đấu chống Pháp lâu dài về sau.
- Để tỏ thiện chí hòa bình, đáp ứng mong muốn của nhân dân Pháp nhân dân thế
giới không muốn chiến tranh xẩy ra, do đó ta thể tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của
nhân dân Pháp nhân dân thế giới.
4. Nội dung, ý nghĩ của Hiệp định bộ. Phân tích Đảng phát động cuộc kháng chiến
toàn quốc tối ngày 19, 20/12 đúng.
* Nội dung, ý nghĩa của Hiệp định bộ
- Nội dung
Ngày 6/3/1946, Hiệp định bộ được kết với nội dung:
+ Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một quốc gia tự do, chính phủ riêng,
quân đội riêng, tài chính riêng thành viên của liên bang Đông Dương, nằm trong khối
Liên hiệp Pháp.
+ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp ra Bắc làm nhiệm
vụ giải giáp quân Nhật rút dần trong thời hạn 5 năm.
+ Hai bên ngừng mọi cuộc xung đột giữ nguyên quân đội của mình vị trí cũ, tạo không
khí thuận lợi cho cuộc đàm phán chính thức của Việt Nam, chế độ tương lai của Đông Dương,
quyền lợi kinh tế văn hóa của Người Pháp Việt Nam.
- Ý nghĩa:
+ Nước ta tránh được cuộc chiến đấu bất lợi phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc.
+ Đẩy 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta.
+ thêm thời gian hòa bình để củng cố chính quyền mới chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho
cuộc kháng chiến lâu dài chống Pháp
* Phân tích Đảng phát động cuộc kháng chiến toàn quốc tối ngày 19, 20/12 đúng
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra
đời, đang còn “trứng nước đã phải đứng trước tình thế hiểm nghèo, cùng khó khăn đầy
thách thức. Đất nước bị các thế lực đế quốc phản động bao vây tiến công. Trước sự đe dọa
nghiêm trọng của kẻ thù với khó khăn to lớn trực tiếp đe dọa đến sự tồn tại của chính quyền
cách mạng. Từ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch ạt kéo vào Nội
hầu hết các tỉnh. Theo sau chúng các tổ chức chính trị phản động người Việt Nam, như
Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh Hội (Việt Cách). Núp
dưới danh nghĩa Đồng Minh vào tước khí giới quân Nhật, bọn Tưởng tay sai âm mưu
tiêu diệt Đảng Cộng Sản, lật đổ chính quyền cách mạng, thành lập chính quyền phản động.
Từ tuyến 16 trở vào Nam, cũng dưới danh nghĩa Đồng minh, quân đội Anh dọn đường cho
thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Nhân hội đó thì bọn phản cách mạng
ngốc đầu dậy, làm tay sai cho Pháp chống phá cách mạng”.
Trong khi kẻ thù hoành hành cả hai đầu đất nước thì đời sống kinh tế, hội nước ta gặp
nhiều khó khăn chồng chất, đặt nước ta đứng trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc”. Trước
tình hình như vây, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu sáu nhiệm vụ cấp bách trước mắt xây dựng cũng cố chính quyền cách
mạng vừa giành được: “chống đói, chống dốt, tổ chức tuyển cử, xây dựng đời sống mới, xóa
bỏ các thứ thuế lí, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng. Sau đó Người bổ sung khái quát
thành ba nhiệm vụ lớn: Diệt giặc đói, diệt giặt dốt, diệt giặc ngoại xâm”.
Vào thời điểm đó ngày 23/9/1945 quân Pháp đánh úp trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ
quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai”.
Vốn giàu lòng yêu nước tinh thần quả cảm hi sinh, quân dân ta đã đánh trả quyết liệt bọn
xâm lược Pháp bằng mọi hình thức mọi thứ khí, tiến hành bao vây ngăn chặn không
cho chúng đánh lan ra. Đến tháng 10/1945, sau khi được tăng thêm viện binh, đã phá vỡ
vòng vây Sài Gòn Chợ Lớn. Ngày 25/10/1945, Xứ ủy Nam Bộ họp tại Thiên Hộ (Mỹ Tho)
kiểm điểm tình hình cuộc kháng chiến đề ra các biện pháp về quân sự, chính trị…tiếp tục
đẩy mạnh kháng chiến. Bản Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc ngày 25/11/1945 nêu “Cuộc
cách mạng Đông Dương lúc này vẫn cuộc cách mạng dân tộc giải phóng…Khẩu hiệu vẫn
“Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”. Kẻ thù của ta lúc này thực dân Pháp xâm lược,
phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.
Để tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu trước mắt thực dân Pháp, Đảng, Chính phủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện đường lối chiến lược, sách lược khôn khéo, mềm dẻo để
vừa tránh được âm mưu khiêu khích của Tưởng Giới Thạch, vừa giữ được độc lập, chủ quyền
của dân tộc ta. Bằng cách nhân nhượng Tưởng bằng cách “cho tay sai của chúng giữ 70 ghế
trong Quốc hội, giữ chức Phó chủ tịch nước, Bộ trưởng ngoại giao…thỏa mãn cho chúng một
số quyền lợi về kinh tế, tài chính”, ta đã hạn chế được sự phá hoại của chúng, tạo hội để ta
lột mặt nạ của bọn phản động, trừng trị bọn ngoan cố, xóa bỏ các ổ, nhóm phản động, giải tán
các đảng phái chính trị tay sai đế quốc.
Lợi dụng thời 20 vạn quân Tưởng sẽ rút về nước khi quân Pháp ra Bắc, vả lại, nhân dân
ta chưa thể đánh thắng quân Pháp miền Bắc khi quân Tưởng chưa rút, cần phải thêm
thời gian để chuẩn bị lực lượng. Vào lúc 16h30 ngày 6/3/1946, tại ngôi nhà số 38 phố
Thái Tổ, Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh Hồng Khanh, đại diện cho Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng Hòa với Chính phủ Pháp Xanhtơny bản Hiệp định bộ”. Hai bên thực
hiện ngừng bắn ngay miền Nam, tạo không khí thuận lợi cho việc mở rộng đàm phán chính
thức Paris.
Tuy nhiên Hiệp định chưa ráo mực thì thực dân Pháp đã hành động bội ước. Trước
tình hình đó, nhằm kéo dài thời gian hòa hoãn để cũng cố xây dựng thêm lực lượng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh (lúc này đang thăm Pháp) tiếp tục với Chính phủ Pháp Tạm ước ngày
14/9/1946, tiếp tục nhượng bộ Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa Việt Nam. Việc
với Pháp Hiệp định bộ 6/3 Tạm ước 14/9/1946, chúng ta đã tránh được cuộc chiến đấu
bất lợi với Pháp, lại gạt được 20 vạn quân Tưởng cùng bọn tay sai của chúng ra khỏi nước ta,
tuy nhiên những nổ lực ngoại giao của Chính Phủ ta sau Tạm ước 14/9/1946 đều bị tưởng
hiếu chiến của thực dân Pháp phá bỏ”. muốn hòa bình nên chúng ta phải nhân nhượng,
còn thực dân Pháp thì tìm mọi cách để thực hiện âm mưu xâm lược nước ta nhanh hơn.
Trước âm mưu xâm lược của Pháp “tháng 11/1946 quân Pháp tiếp tục nổ súng Hải
Phòng, Lạng Sơn. Ta đã cử người đi dàn xếp các cuộc xung đột, nhưng đều không kết quả.
Đến ngày 18/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi Chính phủ ta giải tán lực lượng tự vệ chiến
đấu giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng. Dân tộc Việt Nam đứng trước hai con đường:
chiến đấu hay đầu hàng".
Tình thế hết sức căng thẳng, bộ mặt xâm lược của thực dân Pháp đã lộ rõ. Nhân dân Việt
Nam không con đường nào khác cầm súng chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do vừa
giành được. Trước tình hình đó Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng họp ngày 18
19/12/1946 đã quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Hội nghị cũng đề ra những vấn
đề bản về đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh. Ngay
trong đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm lệ!
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu
Tổ quốc. Ai súng dùng súng. Ai gươm dùng gươm, không gươm thì dùng cuốc,
thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngắn gọn, nhưng chứa đựng
trong đó sự hùng hồn, đanh thép, cổ mãnh mẽ, khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc,
truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất của nhân dân Việt Nam. Đáp lời kêu gọi cứu nước
của Người, nhân dân cả nước nhất tề đứng lên giết giặc cứu nước. Đúng 20 giờ ngày
19/12/1946, ánh đèn trên các đường phố Nội phụt tắt, liền đó tiếng súng vang dậy khắp
thành phố, báo hiệu cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ”. Với những khí thô sơ, nhưng
với tinh thần Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, chiến ta sự hỗ trợ tích cực của nhân dân
vẫn ngày đêm chiến đấu kiên cường bám trụ, giành giật với địch từng căn nhà, từng góc phố.
Cùng với Nội, quân dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam cùng nhau đoàn kết, anh
dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Cả dân tộc chung một ý chí, chung một
nguyện vọng, nhất tề đứng lên, với niềm tin mãnh liệt vào ngày đại thắng của dân tộc.
thể khẳng định rằng ngày 19/12/1946 mộtLời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
quyết định lịch sử, chính xác kịp thời đối với dân tộc Việt Nam, bám sát vào tình hình lịch
sử, dự đoán nắm bắt đúng thời cơ, chọn đúng mặt trận chính, tính toán thời điểm nổ súng
chính xác, tạo nên thế trận mới cho mặt trận tại Nội điều kiện giam chân quân địch, để
cả nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Việc nổ súng phát động toàn quốc kháng chiến
ngày 19/12/1946 giữa Thủ đô một trường hợp hiếm chưa từng thấy trong lịch sử, thể
hiện một nghệ thuật khởi đầu cuộc chiến tranh cách mạng thật đúng đắn, quả cảm sáng tạo.
5. Làm nội dung của đường lối kháng chiến chống Pháp (mục tiêu, tính chất, nhiệm
vụ, phương châm).
a. Mục đích kháng chiến : kế tục phát triển sự nghiệp Cách mạng tháng Tám , đánh
phản động thực dân Pháp xâm lược ; giành thống nhất độc lập “.
b. Tính chất kháng chiến : trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến.
c. Nhiệm vụ kháng chiến : Cuộc kháng chiến này chính một cuộc chiến tranh cách mạng
tính chất dân tộc độc lập dân chủ tự do... nhằm hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc
phát triển dân chủ mới “.
d. Phương châm tiến hành kháng chiến : tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình chính.
- Kháng chiến toàn dân : Bất đàn ông, đàn không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc , bất
người già,người trẻ. Hễ người Việt Nam phải đứng lên đánh thực dân Pháp , thực
hiện mỗi người dân một chiến sĩ, mỗi làng xóm một pháo đài.
- Kháng chiến toàn diện : đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại
giao. Trong đó :
+ Về chính trị : thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các
đoàn thể nhân dân ; đoàn kết với Lào các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. +Về quân sự
: thực hiện trang toàn dân, xây dựng lực lượng trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng
nhân dân đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, triệt
để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực , kháng chiến lâu dài... vừa đánh vừa
trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ “.
+ Về kinh tế : tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát triển nền nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp công thương nghiệp quốc phòng. +Về văn hóa :
xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ theo ba nguyên tắc: dân
tộc, khoa học, đại chúng.
+ Về ngoại giao : thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. Liên hiệp với thực dân
Pháp, chống phản động thực dân Pháp , sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam
độc lập,...
- Kháng chiến lâu dài ( trường kỳ ) : để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp,
để thời gian phát huy yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa của ta, chuyển hóa tương quan
lực lượng từ chỗ ta yếu hơn đích đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch. Dựa vào sức
mình chính : phải tự cấp, tự túc về mọi mặt “, ta bị bao vây bốn phía. Khi nào điều
kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được lại.
- Triển vọng kháng chiến : mặc lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.
Kết luận : Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung bản nêu trên đúng đắn
sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên về chiến tranh
cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa phù hợp với thực tế lúc bấy giờ. Đường lối kháng
chiến của Đảng được công bố sớm đã tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào
ổn định phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
6. Ý nghĩa thắng lợi kháng chiến chống Mỹ.
* Nguyên nhân thắng lợi
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố quyết định hàng đầu
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng ta nhận sứ mạng, trọng trách lịch sử của mình trước giai cấp, trước dân tộc
phong trào cách mạng thế giới, đã ra sức xây dựng mình vững mạnh cả về chính trị, tưởng
tổ chức, theo đúng nguyên xây dựng Đảng macxít-lêninnít. Do vậy, đã đáp ứng ngày
càng đầy đủ những yêu cầu rất khắt khe về sức mạnh tiền phong chiến đấu của một đảng giữ
vai trò quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến đại nhất trong lịch sử dân tộc ta. Trên
sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-lênin, tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kịp thời đưa ra
đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, đồng thời kiên quyết chỉ đạo thực
hiện bằng được mục tiêu, con đường nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
- Nhân dân các LLVT nhân dân ta đã phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc,
một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm ngoan cường, bền bỉ, lao động
quên mình độc lập tự do của Tổ quốc, CNXH quyền sống của con người.
Đó thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, ngoan cường, bền bỉ anh
dũng; thắng lợi của bản lĩnh trí tuệ của nhân dân các LLVT nhân dân ta trong cả nước,
của hàng chục triệu đồng bào yêu nước trên tuyến đầu Tổ quốc đã nêu cao tấm gương kiên
cường, bất khuất. Người trước ngã, người sau tiến lên đạp bằng mọi chông gai thử thách,
quyết tìm Mỹ đánh, tìm ngụy diệt. Đồng bào, chiến miền Bắc luôn hướng về miền
Nam ruột thịt, động viên con em lên đường "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", lao động quên
mình, tạo ra sở vật chất xây dựng CNXH, thực sự hậu phương lớn chi viện toàn diện,
liên tục cho cuộc kháng chiến miền Nam. Đồng thời, trực tiếp đánh thắng chiến tranh phá
hoại bằng không quân hải quân của địch, bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN.
- Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí hành động, trên dưới một lòng triệu người như
một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đứng trước những khó khăn thử thách,
truyền thống quý báu đó càng được phát huy cao độ. Trong Đảng, đoàn kết thống nhất từ
Trung ương đến sở. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng đã tạo nên sức mạnh lãnh đạo cách
mạng nâng cao lòng tin của toàn dân với Đảng trở thành động lực xây dựng khối đoàn kết
toàn dân. Nhân dân ta đoàn kết trong chiến đấu, lao động sản xuất, khắc phục khó khăn, thiếu
thốn, thống nhất về chính trị, về nhận thức hành động, trên sở tình cảm giai cấp, tình
đồng chí, nghĩa đồng bào. Điểm nổi bật về sự đoàn kết thống nhất tình đoàn kết Bắc - Nam.
Sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã trở thành nhân tố quan trọng,
sức mạnh to lớn, góp phần đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
- Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng
hợp đánh Mỹ thắng Mỹ.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết
quốc tế, coi đó một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước đặt hoạt động
đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận tầm quan trọng chiến lược, góp phần
tạo nên sự vượt trội về thế lực của nhân dân ta; tạo nên một mặt trận rộng lớn của nhân dân
thế giới đoàn kết với Việt Nam ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược.
- Đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào nhân dân Campuchia.
Phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn với nhau từ xa xưa, Đảng nhân dân ta
đã chủ động đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia. Sự đoàn
kết liên minh đó được thể hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, lợi ích của mỗi
nước, cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia cho cả ba
dân tộc.
* Ý nghĩa thắng lợi
Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhân dân ta đã đánh thắng kẻ thù lớn
mạnh hung hãn nhất của loài người tiến bộ trong thế kỷ 20, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ
quốc Việt Nam yêu quý, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài 115 năm của chủ nghĩa thực
dân trên đất nước ta. Nhân dân ta gạt bỏ được trở ngại lớn nhất trong cuông cuộc hoàn thành
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất đất nước, tiến lên CNXH. Do đó,
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mang nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Đối với nhân dân ta
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh dấu bước ngoặt rất bản,
quyết định của con đường cách mạng Đảng ta Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra từ
trong Chính cương vắn tắt năm 1930 - Con đường độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, tự do,
ấm no, hạnh phúc.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kế tục thắng lợi Cách mạng
tháng 8-1945, phát huy thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954),
trận đánh quyết định nhất của cuộc chiến đấu 30 năm (1945-1975) gian khổ, ác liệt, giành lại
giữ vững nền độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc. Từ đây, cả dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên
mới: Độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, đẩy lùi nghèo nàn, lạc hậu, tạo lập cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Qua cuộc chiến đấu chiến thắng, Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta, cả dân tộc ta
mỗi người Việt Nam được rèn luyện cả về phẩm chất tài năng, càng nhận thức sâu sắc hơn,
đúng đắn hơn vị trí, khả năng sức mạnh của mình trong thời đại mới.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã nâng vị thế chính trị của Việt
Nam trên thế giới lên một tầm cao mới niềm tự hào của mỗi người dân trong thế kỷ XX
mai sau.
Đối với thế giới
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta một thắng lợi
tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới độc lập, hòa bình, dân chủ tiến bộ hội.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đập tan cuộc phản công lớn
nhất, kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, của chủ nghĩa đế quốc vào trào lưu cách mạng
của thời đại mũi nhọn phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa
thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước làm sáng tỏ tính hiện thực, tính
phổ biến của xu thế phát triển của loài người tiến bộ, góp phần động viên cổ các dân tộc
dũng cảm, kiên cường giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc CNXH, thực hiện công cuộc
giải phóng dân tộc, giải phóng hội, giải phóng con người trực tiếp góp phần to lớn vào
công cuộc giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước láng giềng Lào Campuchia anh em.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước biểu tượng mới về sức mạnh của
cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm tiêu tan huyền thoại
về sức mạnh của đế quốc Mỹ.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã nêu bật một chân lý: Trong thời
đại ngày nay, một dân tộc nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song
dân tộc ta đã đoàn kết chặt chẽ đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng mác
xít-lêninít, đường lối phương pháp cách mạng đúng đắn, nắm vững ngọn cờ độc lập dân
tộc CNXH, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thì hoàn toàn thể
đánh bại mọi thế lực xâm lược.
Bài 4
Làm nội dung đường lối cách mạng hội chủ nghĩa của miền Bắc được Đại hội III
thông qua (mục tiêu, biện pháp)
*Mục tiêu: Trong điều kiện đất nước còn tạm thời bị chia cắt làm hai miền, thì sự nghiệp
cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc phải biến miền Bắc thành hậu phương vững chắc cho
cả nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Quá trình cải biến cách mạng miền Bắc
quá trình kết hợp cải tạo xây dựng chủ nghĩa hội, quá trình đấu tranh gay gắt, phức
tạp giữa hai con đường hội chủ nghĩa con đường bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, tưởng, văn hoá, hội.
Trên sở những phân tích đúng đắn, Đại hội đã xác định đường lối chung của Đảng trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội miền Bắc “đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu
nước nồng nàn truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần của nhân dân ta, đồng
thời tăng cường đoàn kết với các nước hội chủ nghĩa anh em do Liên đứng đầu, để đưa
miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa hội, xây dựng đời sống ấm
no hạnh phúc miền Bắc củng cố miền Bắc thành sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh
thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe hội chủ nghĩa, bảo vệ
hoà bình Đông Nam Á thế giới”.
*Nhiệm vụ:
- Ra sức phát triển công nghiệp nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, công
nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ.
- Hoàn thành công cuộc cải tạo hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp nhỏ công thương nghiệp bản doanh, mở rộng quan hệ sản xuất hội
chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc doanh.
- Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo cán bộ công nhân lành nghề,
nâng cao năng lực quản kinh tế của cán bộ, xúc tiến công tác khoa học kỹ thuật.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất văn hoá của nhân dân, mở mang phúc lợi công
cộng, xây dựng đời sống mới nông thôn thành thị.
Bài 5. Phân tích tình hình trong nước, thế giới chứng minh đổi mới khách quan. Nội
dung đổi mới: duy, chế quản lý…
* Về bối cảnh quốc tế
Từ những năm của thập kỷ 80 thế kỷ trước, thế giới chứng kiến những quá trình mới diễn
ra đang làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị hội nhân loại. Toàn cầu hoá
kinh tế trở thành xu thế nổi bật tất yếu chi phối thời đại; không ngoại trừ một quốc gia, dân
tộc nào, nếu muốn phát triển bắt buộc phải mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Cùng
với toàn cầu hoá kinh tế, cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới lần thứ 3 diễn ra với nhịp
độ ngày càng mạnh mẽ, cốt lõi dựa trên việc ứng dụng các phát minh khoa học công
nghệ, phát triển các ngành công nghệ cao, như công nghệ truyền thông tin học, công nghệ
vật liệu mới, công nghệ sinh học…
Tình hình này trước hết tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới. Chẳng những các lực
lượng sản xuất cấu kinh tế thế giới nhiều thay đổi theo hướng dựa vào tri thức
khoa học công nghệ, làm xuất hiện các ngành sản xuất mới hàm lượng R&D giá trị gia
tăng cao, ngành dịch vụ ngày càng vai trò quan trọng tỷ trọng lớn dần trong cấu kinh
tế quốc dân.
Mặt khác, làm thay đổi các quan hệ kinh tế quản kinh tế thế giới theo hướng:
- Trong các nước bản phát triển phát triển, sau các cuộc khủng khoảng cấu dầu lửa, từ
đầu những năm 80, đã tiến hành chính sách điều chỉnh kinh tế. Nội dung bản điều chỉnh
cấu kinh tế theo hướng tập trung vào các ngành hàm lượng KHCN cao, thực hiện điều
tiết nền kinh tế chủ yếu thông qua các công cụ mô, thực hiện nhân hoá khu vực kinh tế
nhà nước, tăng cường vai trò của kinh tế nhân.
- Các nước đang phát triển như Đông Á Đông Nam Á cũng thực hiện cải cách kinh tế, trở
thành khu vực phát triển năng động của thế giới. Các cải cách đây bao gồm cải cách cấu
xác định đúng chiến lược kinh tế để nâng cao sức cạnh tranh phát triển, mở cửa hội
nhập liên kết kinh tế, khuyến khích xuất khẩu thu hút vốn đầu nước ngoài - coi đây
động lực phát triển kinh tế.
- Các nước hội chủ nghĩa trước các khó khăn chồng chất đã tiến hành cải cách kinh tế
nhằm khắc phục chế kế hoạch hoá hành chính chỉ huy, chuyển đổi sang kinh tế thị trường.
Cải cách kinh tế Trung Quốc từ năm 1978 đã đạt được những thành tựu to lớn tấm
gương cho Việt Nam tham khảo.
Như vậy, thể thấy làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp trên thế giới cùng với quá trình
toàn cầu hoá, cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 3 đã tạo áp lực mạnh mẽ cho công
cuộc đổi mới về kinh tế Việt Nam.
* Về bối cảnh trong nước
- Sau khi đất nước giải phóng cho tới năm 1985, chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan
liêu bao cấp hình công nghiệp hoá hội chủ nghĩa kiểu viết đã được áp dụng rộng
rãi trên cả nước. Mặc nhiều nỗ lực trong xây dựng phát triển kinh tế, nhất tập
trung cho công nghiệp hoá, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng nền kinh tế nói chung
sản xuất công nghiệp vẫn tăng chậm, hơn nữa, xu hướng giảm sút rơi vào khủng
khoảng. Trong khi nguồn viện trợ của bên ngoài, các nguồn vốn hàng hoá vật tư, nguyên
liệu hàng hoá tiêu dùng đã bị cắt giảm đáng kể, lại thêm bao vây cấm vận của đế quốc Mỹ
ngăn cản Việt Nam bình thường hoá quan hệ với thế giới.
- Trước những khó khăn, nhiều địa phương đã tìm lối thoát đổi mới kinh tế từ sở. Từ
việc tổng kết thực tiễn này, năm 1979, tại Hội nghị trung ương 6 (khoá IV), Đảng ta đã tháo
gỡ khó khăn, vướng mắc trong chế quản nền kinh tế, nhằm “cởi trói” để cho sản xuất
“bung ra”. Tiếp theo, những cải tiến quản thử nghiệm được bắt đầu từ năm 1981 với khoán
trong nông nghiệp, điều chỉnh kế hoạch mở rộng quyền tự chủ cho nghiệp công nghiệp
quốc doanh. thể coi những cải tiến quản trong các năm 1979-1985 các tìm tòi thể
nghiệm chuẩn bị cho cải cách toàn diện (Đổi mới) nền kinh tế. Song, các cải tiến cục bộ này
vẫn chưa làm thay đổi căn bản thực trạng nền kinh tế, khủng khoảng kinh tế vẫn rất trầm
trọng. vậy đổi mới toàn diện nền kinh tế trở thành yêu cầu cấp bách nước ta.
Chủ trương đổi mới kinh tế, trong đó đổi mới phát triển công nghiệp:
Đặc trưng nổi bật trong thời kỳ này đổi mới. Đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng
mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện nước ta. Sau khi phân tích phê
phán nghiêm túc sai lầm, thiếu sót trong thời gian qua, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới
kinh tế toàn diện cho đất nước trong thời kỳ mới. Tiếp theo, các Đại hội VII (tháng 6/1991),
Đại hội VIII (tháng 6/1996) Đại hội IX (tháng 12/2001) đã tiếp tục khẳng định bổ sung,
hoàn thiện các chủ trương chính sách đổi mới kinh tế, đổi mới phát triển công nghiệp
thực hiện công nghiệp hoá hội chủ nghĩa. những nội dung chủ yếu sau:
- Đổi mới về công nghiệp hoá hội chủ nghĩa chính sách cấu: Trong những năm
qua, do nhận thức phiến diện về công nghiệp hoá hội chủ nghĩa đã dẫn đến khuynh hướng
ham phát triển công nghiệp nặng, ham quy lớn xây dựng mới, đã gây ra mất cân đối
nghiêm trọng trong nền kinh tế. Để khắc phục tình trạng đó, Đại hội VI đã đề ra chủ trương
bố trí lại cấu sản xuất, cấu đầu các ngành kinh tế, thực chất cụ thể hoá nội dung
chính của công nghiệp hoá hội chủ nghĩa cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế
nước ta trong từng giai đoạn cụ thể. Trong chặng đường đầu tiên, cần tập trung thực hiện ba
chương trình kinh tế lớn, tạo tiền đề cho đẩy mạnh công nghiệp hoá giai đoạn tiếp theo; đưa
nông nghiệp lên vị trí hàng đầu, nhấn mạnh vai trò to lớn của công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công
nghiệp; phát triển công nghiệp nặng một cách chọn lọc, hợp với sức mình, nhằm phục vụ
đắc lực cho ba chương trình kinh tế, không bố trí xây dựng công nghiệp vượt quá điều kiện
cũng như khả năng cho phép.
- Đổi mới trong cải tạo xây dựng, củng cố quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa, thực hiện
chính sách cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Phê phán quan
điểm nóng vội trong cải tạo hội chủ nghĩa trước đây, Đại hội VI đã khẳng định sự tồn tại
lâu dài của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội nước ta. Điều
này xuất phát từ thực trạng kinh tế - hội còn thấp của Việt Nam. cho phép nhiều
hình thức sản xuất kinh doanh đa dạng, phù hợp về qui mô, trình độ hình thức với từng
khâu của quá trình sản xuất lưu thông, nhằm khai thác các tiềm năng kinh tế của hội.
Đảng coi đây giải pháp chiến lược để giải phóng sức sản xuất xây dựng cấu kinh tế
hợp lý.
- Đổi mới chế quản công nghiệp: chế quản tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều
năm nay đã không tạo được động lực phát triển gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong
hội. Do đó, Đại hội VI đã chủ trương đổi mới về chế quản kinh tế chỉ ra thực chất của
chế mới đó là: “cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh tế kinh doanh hội
chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Trên sở tổng kết đánh giá những vấn đề thực tiễn trong đổi mới chế quản kinh tế
nước ta từ năm 1986 đến nay, trong các kỳ đại hội, Đảng ta tiếp tục làm nội dung
phương thức đổi mới chế quản kinh tế theo hướng “xoá bỏ chế tập trung quan liêu
bao cấp, thành chế thị trường sự quản của Nhà nước theo định hướng hội chủ
nghĩa”. Đây thực chất quá trình đổi mới cả hệ thống các công cụ, chính sách quản kinh
tế, tạo lập đồng bộ các yếu tố quản tăng cường chức năng quản của Nhà nước.
* Nội dung đổi mới
- Đổi mới chế quản kinh tế
Một vấn đề lớn của thời kỳ này đổi mới chế quản kinh tế. Tháng 8 năm 1987, Hội
nghị Trung ương lần thứ 3 đã ra nghị quyết về đổi mới chế quản kinh tế với nội dung
chủ yếu thực hiện chế độ tự chủ kinh doanh của các nghiệp quốc doanh đổi mới quản
nhà nước về kinh tế. Sau đó, tháng 11 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định
217/HĐBT quy định cụ thể chế độ tự chủ kinh doanh của các nghiệp quốc doanh.
Theo tinh thần các văn bản trên, các Bộ đã dần dần giao quyền tự chủ cho các nghiệp về
quản sản xuất kinh doanh cũng như công tác tổ chức cán bộ. Các Bộ, trong đó Bộ Công
nghiệp đã bước đầu xác định lại chức năng quản nhà nước về kinh tế, sắp xếp lại bộ máy
gọn nhẹ, chủ yếu Bộ làm chức năng quản nhà nước. Các nghiệp cũng đã giảm bớt những
tổ chức không cần thiết, cắt bỏ các khâu trung gian, sắp xếp lại lao động, làm cho dây chuyền
sản xuất được đồng bộ ổn định, bảo đảm năng suất, chất lượng hiệu quả cao
Trong thời kỳ này còn một sự kiện nổi bật do hậu quả nặng nề nhiều năm của chế
bao cấp, nên đầu năm 1989, khi thực sự chuyển sang kinh doanh trên thị trường, nhiều
nghiệp công nghiệp quốc doanh lần đầu tiên phải đối mặt với những thử thách gay gắt: vốn
liếng thiếu hụt, hàng hoá đọng, lao động dôi dư, sản xuất đình đốn, không ít nghiệp phá
sản… Nhưng “bản lĩnh sinh ra từ nỗi đau” nên nhiều nghiệp đã phấn đấu vượt qua cơn
“khủng hoảng thị trường tiêu thụ đầu tiên” để vực dậy vào cuối năm 1989.
thế, đổi mới quản tiếp tục được tiến hành theo hướng:
- Cải tiến công tác kế hoạch hoá;
- Thiết lập khuôn khổ pháp luật, quản kinh tế chủ yếu bằng pháp luật điều tiết nền kinh
tế chủ yếu thông qua các chính sách công cụ mô;
- Chính phủ cũng ban hành nhiều nghị định xác định hơn nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ.
Một số Bộ chức năng chồng chéo được sáp nhập lại hoặc giảm bớt, nhờ vậy đã thu gọn số
lượng các quan trực thuộc Chính phủ từ 70 đầu mối xuống còn hơn 40 đầu mối;
Nhìn chung, từ năm 1986 đến nay, quá trình đổi mới chế quản kinh tế nước ta diễn
ra từng bước theo hướng vừa làm vừa thử nghiệm, sửa đổi, bổ sung. Trong những năm
1980-1990 giai đoạn giao thời giữa hai chế mới. Từng bộ phận của chế được
xoá bỏ, từng bước hình thành chế mới. Điều đó đã tạo ra động lực mới cho sự tăng trưởng
ngoạn mục của nền kinh tế cũng như sản xuất công nghiệp trong nửa đầu thập kỷ 90. Tuy
nhiên, việc hoàn thiện các chính sách công cụ quản kinh tế, nâng cao hiệu lực của bộ
máy nhà nước, chống tệ nạn quan liêu, tham nhũng, bao cấp vẫn đang vấn đề nổi cộm hiện
nay nước ta.
Bài 6. Quan điểm của Đảng về công nghiệp hoá hiện đại hoá thông qua Đại hội VIII
ĐCSVN hiện nay cho rằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chính con đường đẩy nhanh tốc
độ phát triển lực lượng sản xuất trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, sở để cải
biến thành công hội thành hội mới, đem đến sự giàu có, ấm no, tự do, hạnh phúc, dân
chủ, công bằng, văn minh cho mọi công dân Việt Nam.
Nhận thức vai trò của công nghiệp hoá với sự hưng thịnh của quốc gia dân tộc, ĐCSVN đã
hơn nửa thế kỷ liên tục lãnh đạo nhiều triệu dân trên lãnh thổ thực hiện công nghiệp hoá
theo những quan niệm, hình chế rất khác nhau với những thể nghiệm, tìm tòi, rồi
điều chỉnh, bổ sung, phát triển để không ngừng hoàn thiện.
Đại hội VIII của Đảng (6-1996) đưa ra đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhiều
điểm khác căn bản về hình thức, nội dung, bước đi giải pháp tiến hành so với công nghiệp
hoá thời kỳ trước đây, đánh dấu bước phát triển mới trong duy luận của Đảng về công
nghiệp hoá đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội.
Đại hội VIII đã nhận định quan trọng sau khi nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới: nước
ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ
quá độ chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã bản hoàn thành cho phép chuyển sang
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thế lực mới trong nước cộng hưởng với thời cơ, thách thức, nguy mới của thời đại
những sở cho sự hoạch định đường lối CNH của Đảng: Sau 10 năm đổi mới, thế bao vây
cấm vận đã bị phá vỡ, nước ta bước đầu hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực thế giới;
nền kinh tế liên tục tăng trưởng cao, cấu ngành kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng
CNH; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều nhu cầu bức xúc của nhân dân về hội từng
bước được giải quyết; quốc phòng an ninh được giữ vững. Đại hội VIII đánh giá đát nước
đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - hội. Bên cạnh đó, bối cảnh xu thế vừa hợp tác, vừa đấu
tranh trở thành vùng chủ lưu trong quan hệ quốc tế; cạnh tranh phát triển kinh tế trong hoà
bình, tránh đối đầu trở thành phương châm chỉ đạo đường hướng, chính sách đối ngoại của
hầu hết các quốc gia; cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục bước phát triển như bão,
đặc biệt công nghệ thông tin, số hoá, điện tử, vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ sinh
học. Nguy mới cũng đặt ra, trong đó đặc biệt phải kể đến nguy cơ: tụt hậu xa hơn, nhanh
hơn về sức mạnh tổng hợp (tâm điểm kinh tế) so với các quốc gia trong khu vực thế
giới.
Những chuyển biến trên đã đặt ra cho Đại hội VIII tầm nhìn mới về khả năng đưa đất nước
chính thức chuyển sang thời kỳ CNH HĐH. Trên sở nền kinh tế đã thoát khỏi khủng
hoảng, đời sống nhân dân được cải thiện, an ninh chính trị ổn định, quan hệ đối ngoại được
mở rộng, Đại hội VIII nhận định rằng, nước ta đã hoàn thành bản việc chuẩn bị tiền đề cho
CNH - HĐH bắt đầu chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH HĐH đất nước nhằm đưa nước
ta trở thành một nước công nghiệp sau khoảng 25 năm.
Với cách nguồn nhân lực chất lượng cao thì ngồi trên ghế nhà trường anh (chị) làm
để góp phần thành công sự nghiệp
Thanh niên Việt Nam cần 3 nhóm phẩm chất là: Trình độ chuyên môn tay nghề cao, đạo
đức lối sống trong sáng, sức khỏe thể chất sức khỏe tâm thần cường tráng mới đáp ứng
được yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp, hóa hiện đại hóa, thời kỳ kinh tế tri thức,
thời kỳ hội nhập quốc tế. Để đạt được tiêu chí phẩm chất trên đòi hỏi bản thân thanh niên
phải tự học, tự rèn luyện, tự tu dưỡng, tự tin, tự chịu trách nhiệm để trở thành nguồn lao động
chất lượng cao, trở thành người thừa kế trung thành sự nghiệp của Đảng dân tộc.
- , thanh niên phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ luận chính trị, bồiThứ nhất
đắp tưởng cách mạng trong sáng. Bối cảnh trong nước quốc tế đang tác động lên tất cả
các đối tượng thanh niên, tác động một cách toàn diện lên tưởng, tình cảm, lối sống, nhu
cầu của từng thanh niên. Do đó, thanh niên phải rèn luyện để lập trường tưởng vững
vàng, lòng yêu nước, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa hội, đạo đức trong sáng lối sống lành mạnh; tích cực tham gia vào các cuộc
đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước bảo vệ cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; đấu tranh chống laaij âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch các tiêu cực, tệ nạn hội, tham nhũng…
- Thứ hai, thanh niên cần tích cực học tập tự học tập để nâng cao trình độ văn hóa, chuyên
môn, khoa học, kỹ thuật tay nghề. Trong thời kỳ phát triển kinh tế - hội trong nước
hội nhập quốc tế, thanh niên nước ta cần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề khả năng thực
tế, kỹ năng lao động để thích ứng với thị trường lao động trong nước thị trường lao động
quốc tế. Thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng hội học tập với phương châm: người
thanh niên nào cũng phải học đâu, làm gì, thời gian nào cũng phải học, người thanh niên
nào cũng phải xác định tham gia họ tập thường xuyên, suốt đời quyền nghĩa vụ của bản
thân.
- , thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc ViệtThứ ba
Nam các đoàn thể nhân dân. Thanh niên phải tích cực tham gia bảo vệ xây dựng hệ
thóng chính trị các cấp vững mạnh tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
vững chắc. Các đối tượng thanh niên tự nguyện, tự giác tham gia vào các hội của thanh niên,
phấn đấu trở thành đoàn viên, đảng viên của Đảng hội viên của các quần chúng nhân dân.
- Thứ , thanh niên phải tích cực tham gia vào việc xây dựng môi trường hội lành mạnh
môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp. Tích cực tham gia phòng chống ô nhiễm môi
trường, suy thoái môi trường ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
- , thanh niên phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - hội, bảoThứ năm
đảm quốc phòng an ninh. Tích cực tham gia các chương trình, dự án của địa phương; tự
nguyện, tự giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc
giữ gìn an ninh trật tự an toàn hội.
- Thứ sáu, thanh niên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia giải
quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng
của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động tham gia hiệu quả vào giải quyết các vấn đề
toàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi
trường ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa
đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo…
Cách mạng nước ta đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa với mục tiêu sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm
2020 nước ta bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu đó đã đang
đặt ra những yêu cầu, trọng trách lớn lao đối với thề hệ trẻ hôm nay. Để kế tục xứng đáng sự
nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng dân tộc ta, mỗi thanh niên Việt Nam hãy ra sức học
tập, trau dồi tưởng độc lập dân tộc chủ nghĩa hội; ra sức thi đua lao động rèn luyện
để hình thành một thế hệ thanh niên tân tiến, xứng tầm đồi hỏi của đất nước thời đại
Bài 7. Phân tích chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với CNXH lựa chọn duy nhất
đúng của CMVN. Quan điểm của anh chị như thế nào về ý kiến cho rằng nước ta nên
phát triển theo con đường các nước Bắc âu. sao?
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH lựa chọn duy nhất đúng của CMVN
Qua 61 năm giành giữ độc lập dân tộc, xây dựng CNXH bảo vệ tổ quốc, đặc biệt hơn 20
năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng CSVN xứng đáng tiêu biểu cho bản lĩnh VN trong việc
giữ vững đường lối, chính sách đối nội đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao
hơn, đưa đất nước dân tộc ta lên vị thế mới trong cộng đồng quốc tế. ngày hôm nay
chúng ta lại thêm một lần nữa làm chứng minh luận điểm “Độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH” sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của ĐCSVN.
- Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH gì?
Vượt qua những mâu thuẫn những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập theo trường
phong kiến sản. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, tức giải quyết độc lập dân tộc
theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa hội khoa học. Đó độc lập dân tộc
thực sự phải độc lập về chính trị, kinh tế, văn hoá, đối ngoại; xoá bỏ tình trạng áp bức bóc
lột dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị tinh thần. Do đó,
độc lập gắn liền với tự do, bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia dân tộc nào phải do quốc
gia dân tộc đó giải quyết, không sự can thiệp từ bên ngoài. Bản chất của chủ nghĩa hội
thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng hội, giải phóng con
người. Chủ nghĩa hội căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng bóc lột người do chế độ
chiếm hữu nhân về liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, xoá bỏ sở kinh tế sinh ra ách áp
bức con người về chính trị sự dịch của con người về tính thần, ý thức tưởng. Chỉ
với chủ nghĩa hội, độc lập dân tộc mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích quyền lực của
mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trờ thành người chủ thực
sự, cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ với đời sống tinh thần ngày càng phong phú.
cũng bảo đảm cho dânm tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu tụt hậu trong tương
quan với các dân tộc khác trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự
bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này
với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng điều kiện bảo đảm chỉ thể tìm thấy
giải quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa hội. Độc lập dân tộc chủ nghĩa hội
trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại nhày nay.
Nhận thức hành động theo sự lựa chọn theo hệ giá trị đó. Đảng đã lãnh đạo thành công
cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn toàn không
cân sức với “hai đế quốc to”, mở ra thời phi thực dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc
địa các nước phụ thuộc trên thế giới. Qua nửa thế kỷ giành giữ độc lập dân tộc, xây
dựng chủ nghĩa hội bảo vệ tổ quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, ĐCSVN
xứng đáng tiêu biểu bản lĩnh VN trong việc giữ vững định hướng XHCN, đã tỏ tính độc lập
tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội đối ngoại. Độc lập dân tộc CNXH, với
VN không chỉ mục tiêu, nhu cầu, cương lĩnh hành động, ngọn cờ hiệu triệu, còn
động lực, niềm tin sắt son của dân tộc VN ta. Độc lập dân tộc gắn với CNXH sự gắn
kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm
qua, hôm nay mai sau. Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến
động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đấu tranh gay gắt của cộng đồng quốc
tế. thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, thì hệ giá
trị độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, trong ý thức trong hành động vẫn mục tiêu,
tưởng, quốc bảo phù hợp với xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều
thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá,
xây dựng chủ nghĩa hội bảo vệ vững chắc tổ quốc mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực
trên thế giới.
- sở khách quan của sự lựa chọn “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ.
Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy khắp nơi của đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân
dân, các bậc phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi
nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khời nghĩa Yên Bái hàng chục cuộc
đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng,
vẫn nhân dân giàu lòng yêu nước, truyền thống chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng ủng hộ
tham gia các phong trào yêu nước; còn các bậc phu, các nhà lãnh đạo các phong trào
chống thực dân Pháp đều trí dũng, không thiếu quyết tâm, nhưng cả họ, cả giai cấp phong
kiến đại diện cho thế lực sản khi đó đều không giải quyết vấn đề dân tộc nước ta
không tập hợp được lực lượng toàn dân tộc quan trọng hơn không bắt kịp nhịp sống của
thời đại. Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc trở nên yêu cầu
bản, khách quan của hội Việt Nam hội thuộc địa nửa phong kiến. Công cuộc giải
phóng dân tộc Việt Nam khi ấy trong “tình hình đen tối như không đường ra”. Bằng con
đường nào giai cấp nào khả năng gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại tập hợp được
lực lượng toàn dân để giải phóng dân tộc. Nhưng rồi chính lịch sử đã lời giải đáp. Chủ
nghĩa Mác ra đời đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương trong lịch sử. Chủ
nghĩa Mác khẳng định chủ nghĩa bản nhất định phải bị thay thế bằng chế độ tốt đẹp hơn
chế độ cộng sản chủ nghĩa không người bóc lột người. Đó một tiếng sét trong lòng chủ
nghĩa bản vào thời thịnh trị, sau khi đã chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến
đã bành trướng ra khắp thế giới. Các nước bản phát triển khi ấy đang “trung tâm
trụ”, chi phối làm mưa làm gió mọi mặt đời sống hội loài người. Chính vào thời điểm
chủ nghĩa bản như đang cực thịnh ấy thì Cách mạng Tháng Mười nổ ra. Sự đột phá
Tháng Mười mở đầu cho một xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Cách mạng Tháng
Mười “rung chuyển thế giới” đã làm cho tính chất thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của
thời đại thay đổi, vai trò lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi. vậy con đường để giải
quyết mâu thuẫn của hội, lực lượng cách mạng phương pháp cách mạng thay đổi. Toàn
bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào thấm sâu trong mảnh đất Việt
Nam nơi “chính sự tàn bạo của chủ nghĩa bản đã chuẩn bị đất rồi, chủ nghĩa cộng sản
chỉ còn làm các việc gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Hơn ai hết, chính
Nguyễn Ái Quốc người gieo hạt, gây mầm cho Cách mạng Việt Nam. Từ tuổi thanh niên,
Nguyễn Sinh Cung đã một trong những người con yêu nước ưu nhất, tiêu biểu nhất cho
| 1/44

Preview text:

Bài 1
Đảng là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác, phong trào công nhân, phong trào yêu
nước. Đảng kết hợp 3 yếu tố như vậy đặc biệt là có yếu tố yêu nước có làm ảnh hưởng
đến bản chất giai cấp công nhân của đảng ko? Vì sao?

* Làm rõ Đảng là kết quả của sự kết hợp 3 yếu tố: CN Mác, phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
- Đảng cộng sản xuất hiện trên cơ sở phong trào công nhân.
ĐCS Việt Nam - chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời mang bản chất giai cấp
công nhân, là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Do đó, lợi ích
của Đảng trước hết đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của các tầng lớp
nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của ĐCS Việt Nam là
do thời đại, giai cấp và dân tộc quyết định.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng không chỉ là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong và đại biểu
cho lợi ích của giai cấp, của dân tộc mà còn là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong và đại biểu cho
lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người khẳng định: “Muốn cứu nước giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác - con đường cách mạng vô sản”. Để thực hiện
được mục tiêu đó, Người chỉ rõ: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động
và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi
nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền
mới chạy”. ĐCS Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo nhân dân cùng một lúc phải làm tư sản cách
mạng, làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp cách mạng. Đây là đặc điểm nổi bật nhất của
cách mạng vô sản ở Việt Nam do ĐCS lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử
của Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã hội Việt Nam.Nên vì vậy giai cấp công nhân là cơ sở,
là nền tảng, là toàn thể; đảng cộng sản là bộ phận tiên tiến nhất của giai cấp công nhân.
- Sự tồn tại của học thuyết Mác - Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở tư tưởng của đảng, là linh hồn của đảng. Xây dựng đảng về
mặt tư tưởng, trước hết là lĩnh hội tinh thần cách mạng của học thuyết Mác -Lênin, vận dụng
lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng
trong nước, không ngừng đấu tranh chống mọi trào lưu cơ hội chủ nghĩa để giữ vững đường
lối cách mạng của đảng. Đồng thời, quá trình xây dựng đảng cũng là quá trình giáo dục chính
trị và tư tưởng thường xuyên trong đảng, quá trình nâng cao giác ngộ của cán bộ, đảng viên
về chủ nghĩa xã hội khoa học, quá trình khắc phục mọi biểu hiện không vô sản ở trong đảng,
nhằm đảm bảo sự nhất trí về tư tưởng và hành động của đảng, không ngừng nâng cao sức
chiến đấu của đảng. Giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho mọi
hoạt động của Đảng - đó là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình xây dựng đảng vô sản cách mạng kiểu mới.
- Phong trào yêu nước
Nói đến phong trào yêu nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân. Đầu thế kỷ XX,
nông dân Việt Nam chiếm tới khoảng hơn 90% dân số. Giai cấp nông dân là bạn đồng minh
tự nhiên của giai cấp công nhân. Ở Việt Nam, do điều kiện lịch sử chi phối, không có công
nhân nhiều mà họ xuất thân trực tiếp từ người nông dân nghèo. Do đó giữa phong trào công
nhân và phong trào yêu nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai cấp công nhân và giai
cấp nông dân hợp thành quân chủ lực của cách mạng.
Phong trào yêu nước của tri thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu
tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phong trào yêu nước Việt Nam những thập
niên đầu thế kỷ XX ghi dấu ấn đậm nét bởi vai trò của trí thức, tuy số lượng không nhiều
nhưng lại là những "ngòi nổ" cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân Pháp xâm
lược và bọn tay sai, cũng như thúc đẩy sự canh tân và chấn hưng đất nước. Trong lịch sử Việt
Nam một trong những nét nổi bật nhất là sự bùng phát của các tổ chức yêu nước mà thành
viên và những người lãnh đạo tuyệt đại đa số là tri thức. Với một bầu nhiệt huyết, yêu nước,
thương nòi, căm giận bọn cướp nước và bọn bán nước, họ rất nhạy cảm với thời cuộc, do vậy,
họ chủ động và có cơ hội đón nhận những "luồng gió mới" về tư tưởng của tất cả các trào lưu
trên thế giới dội vào Việt Nam.
* Đảng kết hợp 3 yếu tố như vậy đặc biệt là có yếu tố yêu nước có làm ảnh hưởng đến
bản chất giai cấp công nhân của đảng không? Vì sao?

Theo học thuyết Mác - Lênin, một Đảng Cộng sản ra đời từ sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa
học và phong trào công nhân. Luận điểm này đúng, nhưng chỉ đúng với các nước phương
Tây, khi giai cấp công nhân đã bước lên vũ đài chính trị với tư cách một lực lượng cách mạng
độc lập, được lý luận khoa học của Mác dẫn đường. Sự ra đời và phát triển của một loạt Đảng
của giai cấp vô sản ở các nước Tây Âu cũng như ở Nga hồi cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã
chứng minh tính đúng đắn của luận điểm nêu trên.
Còn ở các nước phương Đông, đặc biệt là các nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam
thì luận điểm đó cần được bổ sung, phát triển cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Những nước
này bị chủ nghĩa thực dân thống trị, nền kinh tế hết sức lạc hậu. Công nghiệp gần như chưa
phát triển, giai cấp công nhân tuy đã ra đời và sống khá tập trung, song còn nhỏ bé. Vì vậy,
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chưa đại diện được cho toàn bộ phong trào dân
tộc. Hơn nữa, vấn đề dân tộc cần phải giải quyết trở nên hết sức bức xúc, cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân phải hoà chung với phong trào yêu nước của các tầng lớp, giai cấp khác
trong xã hội, giai cấp công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc để lãnh đạo những cuộc đấu tranh này.
Tinh thần yêu nước đã trở thành truyền thống đấu tranh bất khuất trong lịch sử dân tộc, có vai
trò hết sức to lớn trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, trong các phong trào cách mạng
Việt Nam. Ngay từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta thì phong trào yêu
nước của nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ nền độc lập dân tộc đã bắt đầu. Từ năm
1858 đến trước năm 1930 đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh với mục tiêu
giành lại nền độc lập dân tộc. Đó là cuộc chiến đấu của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của
Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu; khởi nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn
Trung Trực... Đó là các cuộc khởi nghĩa theo tiếng gọi "Cần Vương" của Phan Đình Phùng,
Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công Tráng... Những cuộc đấu tranh vô cùng oanh liệt đó của
Nhân dân ta chống thực dân Pháp đều bị đàn áp tàn bạo và thất bại. Mặc dù bị đàn áp dã man
nhưng các phong trào yêu nước vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Đã xuất hiện các phong trào yêu
nước theo chủ trương mới và có xu hướng tư sản như các phong trào Đông Du, Đông Kinh
nghĩa thục, Duy Tân, các cuộc khởi nghĩa của tiểu tư sản, trí thức trong Việt Nam Quốc dân
Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo... Tuy nhiên, các phong trào đó cũng không đi đến thành
công. Nguyên nhân cơ bản là do các phong trào không tìm được đường lối cứu nước, giải
phóng dân tộc và con đường phát triển đúng đắn, chưa phản ánh đúng nhu cầu phát triển của
xã hội Việt Nam. Mà điều cốt lõi nhất là các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX chưa tìm
được và chưa có khả năng tập hợp lực lượng đủ sức đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.
Phong trào nông dân không giải quyết được mâu thuẫn giữa địa chủ, phong kiến và nông dân,
nhân dân lao động nói chung. Phong trào yêu nước muốn phát triển đất nước theo chiều
hướng tư sản và tiểu tư sản không giải quyết được mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân đang
phát triển ngày càng mạnh với giai cấp tư sản mà chủ yếu là tư sản Pháp; do đó, cũng không
giải quyết được triệt để mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp, không tranh thủ
được sức mạnh của phong trào cách mạng thế giới đang dâng lên mạnh mẽ... Phong trào yêu
nước như không có đường ra.
Trong đêm trường tăm tối đó Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng là
kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam. Như vậy, khi đề cập đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, bên
cạnh hai yếu tố là chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân, Hồ Chí Minh còn kể đến
yếu tố thứ ba, đó là phong trào yêu nước. Đây là một quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh
về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa
Mác - Lênin đối với quá trình hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời Người
cũng đánh giá rất cao vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam. Nhưng Người bổ sung yếu tố
phong trào yêu nước, coi nó là một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng
Cộng sản Việt Nam là vì:
Thứ nhất, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển
của dân tộc Việt Nam. Là giá trị văn hoá trường tồn trong văn hoá Việt Nam.
Thứ hai, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì hai phong
trào đó đều có mục tiêu chung: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được hoàn toàn độc lập,
xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa, phong trào yêu nước có trước phong trào công
nhân, phong trào công nhân xét về nghĩa nào đó nó lại là phong trào yêu nước.
Thứ ba, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong trào yêu
nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân. Do đó, giữa phong trào công nhân và phong
trào yêu nước có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Thứ tư, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp
các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chính vì vậy, sự xuất hiện của nhân tố phong trào yêu nước trong sự hình thành Đảng
Cộng sản Việt Nam như một điều hiển nhiên, tất yếu. Nó nhân lên sức mạnh của Đảng, tạo
chỗ dựa vững chắc cho Đảng, cho giai cấp công nhân VN.
Ngày nay, sự xuất hiện song hành của nhân tố phong trào yêu nước trong Đảng chính là
cơ sở để Đảng ta tự khẳng định "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
Đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của dân
tộc
".
Diễn đạt như vậy không làm mờ, không che mất bản chất giai cấp công nhân của Đảng,
mà ngược lại càng khẳng định sâu sắc hơn bản chất giai cấp công nhân, đồng thời nêu bật vai
trò quan trọng của yếu tố nhân dân lao động và dân tộc - hiện thân hữu hình của phong trào
yêu nước trong Đảng ta ngày nay.
Bài 2. Ý nghĩa của thành lập Đảng
Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất
- Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về
tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh
giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng
Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện
lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt
Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương
lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương
hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được
ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về
đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con
đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở
đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư
tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này.
Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng
Việt Nam trong suốt 86 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng
thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ
vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung
của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Bài 3. Giai đoạn 1939-1945
1. Phân tích chứng minh CMT8 là kết quả của quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, đúng đắn, kịp thời của ĐCSVN

Trước hết là, vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở đường lối chống đế quốc và chống
phong kiến đúng đắn của Đảng. Đường lối chính trị đúng đắn của Đảng trong Cách mạng
tháng Tám năm 1945 không những thể hiện tinh thần triệt để cách mạng, tinh thần đấu tranh
không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp mà còn toát lên tinh
thần độc lập, tự chủ, tinh thần tự lực cánh sinh, tinh thần sáng tạo rất cao. Nhờ đó, khi chiến
tranh thế giới bùng nổ (tháng 9/1939), Đảng ta đã mau lẹ chuyển hướng về chỉ đạo chiến
lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Như vậy là từ chỗ thấy hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến phải gắn liền với nhau, Đảng ta đã tiến lên một bước,
nhận rõ thêm rằng trong hai nhiệm vụ chiến lược ấy thì nhiệm vụ chống đế quốc là nhiệm vụ
chủ yếu nhất (điều này lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy và xác định ngay từ ngày đầu
thành lập Đảng 3/2/1930 nhưng không được Quốc tế Cộng sản và Đảng ta tán thành). Nhờ
nhận thức và chủ trương đúng đắn đó, Đảng đã tập hợp được thêm các lực lượng dân tộc mà
cao trào cách mạng 1930-1931 trước đây chưa tập hợp được; Ngọn cờ dân tộc được giai cấp
công nhân giương cao, trở thành tiếng gọi thống thiết tất cả mọi người yêu nước, mọi giai cấp,
mọi tầng lớp từ công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, thậm chí cả một số địa chủ
vừa và nhỏ có mâu thuẫn với đế quốc…tập hợp nhau lại trong một Mặt trận dân tộc thống
nhất, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trên nền tảng khối liên minh công - nông.
Đế quốc tăng cường khủng bố, Đảng ta đã biết mau lẹ chuyển từ hoạt động công khai và
nửa công khai sang hoạt động bí mật hoàn toàn, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, dựa
vào nông thôn xây dựng căn cứ địa cách mạng, bí mật chuẩn lực lượng, vận động quần chúng
đấu tranh chính trị và khi có điều kiện thì đấu tranh vũ trang, đánh du kích. Đồng thời hết sức
coi trọng vai trò của thành thị. Coi trọng việc gây cơ sở cách mạng và phát triển phong trào
cách mạng ở thành thị, kết hợp chặt chẽ phong trào cách mạng ở thành thị với phong trào cách mạng ở nông thôn.
Hai là, Đảng đã dự doán đúng thời cơ và hành động chính xác, kịp thời khi thời cơ xuất hiện.
Ngay sau khi chiến tranh thế gới thứ hai bùng nổ, Đảng ta đã có những dự đoán ban đầu
về thời cơ khởi nghĩa. Nghị quyết TW6 (11/1939) đã nhận định: “Cuộc khủng hoảng kinh tế,
chính trị gây nên bởi đế quốc chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mạng Đông Dương bùng
nổ” Dựa vào dự đoán ban đầu quan trọng đó và dựa vào sự phân tích đúng diễn biến của tình
hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị TW8 (5/1941) nêu rõ: “ Liên Xô thắng trận,
quân Trung Quốc phản công…tất cả các điều kiện ấy sẽ giúp cho các cuộc vận động của Đảng
ta mau phát triển,và rồi đây, lực lượng sẽ lan rộng ra toàn quốc để gây một cuộc tổng khởi
nghĩa rộng lớn”. Hội nghị nêu bật: ”Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước
là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta”, “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn
thể quốc gia, dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Đến Hội nghị thường vụ TW ngày 9/3/1945,
Đảng ta đã nhận thức cụ thể hơn: “Rồi đây, những thắng lợi của Liên Xô, sự tan rã của chủ
nghĩa phát xít quốc tế…sẽ thúc đẩy cách mạng bùng nổ ở nhiều nước”. do đó tư tưởng chỉ đạo
của Hội nghị là “Phải hành động ngay, hành động cương quyết nhanh chóng, sáng tạo chủ động, táo bạo”.
Nhờ dự đoán đúng tình hình và đúng thời cơ, toàn Đảng mới có hành động mau lẹ, kịp
thời khi Nhật tuyên bố đầu hàng Liên Xô và Đồng Minh, sau khi nghe tin Nhật đầu hàng, Hội
nghị toàn quốc của Đảng đã nhận định” Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết
định phát động cuộc Tổng khởi nghĩa trong Toàn quốc giành chính quyền từ tay phát xít Nhật,
trước khi quân Đồng Minh kéo vào Đông dương. Tiếp đó, Đại hội Quốc dân đã nhiệt liệt tán
thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và đã thông qua 10 chính sách lớn của Mặt trận
Việt Minh, đã cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời do lãnh tụ Hồ Chí Minh đứng đầu.
Trong lãnh đạo khởi nghĩa, một vấn đề rất quan trọng có ý nghĩa quyết định thắng lợi đó
là phải nắm đúng thời cơ. Thời cơ có thể do thực lực cách mạng trong nước tạo ra, cũng có
thể do hoàn cảnh bên ngoài đưa lại. Nếu không có sẵn thực lực cách mạng đến mức đủ mạnh
thì không thể tạo ra được thời cơ và khi thời cơ đến sẽ không kịp thời lợi dụng được nó. Thời
cơ thuận lợi có một không hai của cuộc Tổng khởi nghĩa đã xuất hiện rất ngắn ngủi, vẻn vẹn
trong 10 ngày (từ ngày 15 đến ngày 25/8), nghĩa là từ sau khi Nhật đầu hàng đến trước khi
quân Đồng Minh vào Đông dương. Đảng ta đã ra lệnh Tổng khởi nghĩa đúng vào lúc thời cơ
lịch sử có một không hai xuất hiện. Điều đó thể hiện Đảng ta đã thành công lớn trong nghệ
thuật chỉ đạo cách mạng và đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Quả đúng như Chủ Tịch Hồ
Chí Minh khi nói về tầm quan trọng của thời cơ đã viết:
“Lạc nước hai xe đành bỏ phí
Gặp thời một tốt cũng thành công”
Ba là, Đảng đã lựa chọn đúng hình thức, phương pháp đấu tranh, phát huy đến mức tối
đa sức mạnh tổng hợp của cách mạng, giành thắng lợi một cách nhanh gọn.
Lựa chọn đúng thời cơ, lại còn phải có sự chỉ đạo và có phương pháp đúng mới có mới
có thể giành được thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa. Tư tưởng chỉ đạo và phương pháp mà
Đảng ta lựa chọn trong Tổng khởi nghĩa là:
- Dựa vào cao trào cách mạng của toàn dân.
- Kết hợp giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, lấy lực lượng chính trị là chủ
yếu, lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
- Nổi dậy đồng loạt. Kết hợp phong trào ở nông thôn và phong trào ở thành thị hỗ trợ nhau để khởi nghĩa.
- Dựa vào sức mạnh chung của cách mạng, kể cả thế thắng của cách mạng thế giới là
chính, có kết hợp ở một mức độ nhất định về công tác binh vận, thuyết phục bọn tay sai của Nhật đầu hàng.
- Ba nguyên tắc hành động là: Tập trung, thống nhất, kịp thời; Chính trị và quân sự phối
kết hợp; Làm tan dã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh”.
Tư tưởng chỉ đạo nói trên của Đảng còn được quán triệt và thể hiện ở sự chủ động, năng
động, sáng tạo của các Đảng bộ địa phương và diễn biến của Tông khởi nghĩa trong cả nước,
nhất là ở những địa phương tiêu biểu, trọng yếu như ở Hà nội,Huế, Sài gòn, đặc biệt là ở thủ đô Hà nội.
Sự chỉ đạo của Đảng về hính thức, về nguyên tắc và về thời gian khởi nghĩa đã đưa lại kết
quả là nhân dân ta giành được chính quyền trước khi quân Đồng Minh vào Đông dương.
Bốn là, Đảng đã thực hiện sách lược khôn khéo đối với Nhật trong khi tiến hành Tổng khởi nghĩa.
Từ tháng 9/1940, khi Nhật nhảy vào Đông Dương, Đảng ta xác định Nhật là kẻ thù chủ
yếu, cần phải đánh đổ. Nhưng lúc này, Nhật đã đầu hàng Liên Xô và Đồng Minh, tinh thần
quân đội Nhật hoang mang cao độ, Đảng đã thực hiện một sách lược khôn khéo: “ Đối với
quân đội Nhật, chúng ta sẽ rất ôn hòa, tránh tất cả những sự xô xát vô ích, bất lợi cho cả đôi
bên, đồng thời chúng ta có thể dùng ngoại giao làm cho Nhật hiểu rõ tình thế, tán thành cách mạng Việt Nam”.
Trong thực tế, lực lượng khởi nghĩa do Đảng chỉ đạo đã không đánh quân Nhật, mà dựa
vào sức mạnh của cách mạng để thuyết phục và vô hiệu hóa lực lượng của chúng, làm cho
chúng không can thiệp vào công việc giành chính quyền của nhân dân ta. Đối với những nơi
xảy ra xô xát, ta dựa vào sức mạnh bạo lực của quần chúng và dùng đàm phán, buộc Nhật
phải nhượng bộ. Nhờ đó, đã tránh được đổ máu và thổn thất trong quá trình tiến hành khởi nghĩa.
Như vậy, cuộc cách mạng tháng Tám thành công một cách mau lẹ, trọn vẹn là do nhiều
nhân tố, nhưng trước hết và quyết định nhất là vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và nghệ
thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta.
2. Quan điểm của anh chị như thế nào với quan điểm cho rằng: “CMT8 là ăn may”.
*Nguyên nhân khách quan: chiến thắng của Hồng quân Liên xô và quân Đồng minh đã cố
vũ tinh thần và niềm tin cho nhân dân ta.
Giữa năm 1939, chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, các nước đế quốc bắt đầu xâu xé lẫn nhau.
Tháng 6/1940, Pháp đầu hàng quân Đức. Lợi dụng lúc này, Nhật ngay lập tức tiến vào Lạng
Sơn - Việt Nam, đổ bộ vào Hải Phòng rồi nhanh chóng đảo chính Pháp và độc chiếm toàn bộ
Đông Dương. Nhưng không như dự đoán của Nhật, ngày 2/5/1945, Hồng quân Liên Xô tiến
đánh Berlin, tiêu diệt Phát xít Đức. Nhật lúc này mất chỗ dựa, ở vào thế bất lợi, bị cô lập ở
châu Á, và đang đi gần đến chỗ thất bại hoàn toàn.
Trước sự phát triển hết sức nhanh chóng của tình hình, Trung ương quyết định họp Hội nghị
toàn quốc của Đảng tại Tân Trào, nhận định: “ Cơ hội rất tốt cho ta giành chính quyền độc lập
đã tới, phải phát động toàn dân tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay Phát Xít Nhật và tay
sai, trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương.”
* Nguyên nhân chủ quan:
- Truyền thống yêu nước nồng nàn, đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc cho độc lập,
tự do,biết nắm bắt thời cơ.
Bất cứ một cuộc cách mạng nào cũng đều phải biết tạo ra thời cơ và nắm bắt thời cơ. Không
nắm bắt thời cơ, biến thời cơ thành sức mạnh thì khó có thể giành được thắng lợi. Đặc biệt là
trong bối cảnh Việt Nam là nước yếu hơn cả về thế và lực. Ngày tổng khởi nghĩa 19/8/1945
làm nên cuộc Cách mạng tháng 8 kỳ diệu, chính là do chúng ta đã kịp thời chớp lấy thời cơ và
giành thắng lợi một cách trọn vẹn.
- Đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Việc chớp thời cơ là rất quan trọng trong thắng lợi của Cách mạng tháng 8 nhưng thực tiễn
lịch sử cho thấy, Đảng ta không khoanh tay thụ động chờ đợi thời cơ, chờ đợi ai đó đến giải
phóng cho dân tộc mình khỏi ách lầm than, nô lệ. Mà với đường lối chiến lược cách mạng
“đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã có những
chủ trương, biện pháp sáng suốt, tích cực, từng bước tạo thế và lực bên trong để có thể động
viên, tổ chức toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ đến. Đảng
có đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, biết tạo nên sức mạnh tổng
hợp để áp đảo kẻ thù và quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền bằng
cách chuẩn bị được lực lượng vĩ đại của toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, dựa trên
cơ sở liên minh công nông là nòng cốt.
Theo sự chỉ đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đảng ta đã thành lập Mặt trận Việt Minh để tập
hợp rộng rãi, đoàn kết các lực lượng đẩy mạnh cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập cho Tổ
quốc. Đảng đã tích cực xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, các căn cứ địa cách mạng và
khu giải phóng; phát triển đội quân chính trị quần chúng bao gồm các tầng lớp nhân dân trong
Mặt trận Việt Minh. Các đoàn thể cứu quốc phát triển rộng khắp cả ba kỳ.Đảng chủ trương
vừa xây dựng, vừa khôi phục các tổ chức, đoàn thể cách mạng
Chiến lược cách mạng ngày càng được hoàn thiện và luôn đi đôi với những sách lược cách
mạng mềm dẻo, thêm bạn bớt thù (như thu hút cả, đốc công, phú nông, địa chủ chống Pháp -
Nhật vào Mặt trận cứu quốc). Qua nhiều con đường bí mật và bán công khai, Chương trình
thâm nhập vào đại chúng, tạo nên Cao trào tiền khởi nghĩa rộng lớn, rồi dẫn đến Tổng khởi nghĩa thành công
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành chính
quyền. Đặc biệt là thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19/8 có ý nghĩa quyết định
với cả nước, làm cho chính quyền tay sai Nhật ở các nơi bị tê liệt, cổ vũ mạnh mẽ nhân dân
các tỉnh, thành phố khác nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày (từ
ngày 14 đến ngày 28/8/1945) cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân.
- Quá trình chuẩn bị trong suốt 15 năm qua các phong trào cách mạng 1930-1935, 1936-1939, 1939-1945.
Cách mạng tháng 8 là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh gian khổ của toàn dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng, rèn luyện qua 3 cao trào cách mạng: 1930-1931, 1936-1939 và
1939-1945. Chúng ta có thể nói qua về cao trào cách mạng 1930-1931 để thấy rõ điều đó:
Năm 1930 mở đầu với cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy xi măng Hải Phòng, dệt
Nam Định, Tiếp đến là các cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng,
của 4.000 công nhân nhà máy dệt Nam Định , của nhà máy xe lửa Dĩ An, nhà máy diêm,
nhà máy Ba Son, khu mỏ Mông Dương. Cùng với các cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân còn có những cuộc đấu tranh của nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Cao trào cách mạng do Đảng Cộng sản chủ trương và phát động đã kéo dài trên một năm,
diễn ra trên 25 tỉnh thành khắp cả ba miền đất nước và đạt tới đỉnh điểm trên đất Nghệ
Tĩnh. Ở Nghệ Tĩnh, phong trào đấu tranh bùng nổ vào sáng ngày 1/5 với sự tham gia của
công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy và nông dân các huyện lân cận đòi tăng
lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, chống khủng bố, ủng hộ cuộc đấu tranh của công
nhân nhà máy dệt Nam Định, ủng hộ Liên bang Xô Viết. Chính quyền thực dân đã thẳng
tay đàn áp cuộc đấu tranh đó. Binh lính được điều đàn và xả súng bắn vào đoàn biểu tình,
giết chết 7 người, làm bị thương 18 người và bắt đi 98 người. Như lửa đổ thêm dầu, các
cuộc đấu tranh của quần chúng lao động càng trở nên quyết liệt hơn. Cuộc biểu tình ngày
1/5/1930 ở Bến Thuỷ- Vinh đã nổi lên như một sự kiện điển hình. Lần đầu tiên trong lịch
sử cách mạng do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, công nhân và nông dân đã liên
minh tổ chức cuộc đấu tranh đó.
Mặc dù quần chúng cách mạng đã tích cực đấu tranh chống mọi thủ đoạn đàn áp, lừa bịp
của địch, nhưng do lực lượng không cân sức, phong trào Nghệ - Tĩnh dần dần đi xuống.
Tuy cuối cùng vẫn bị kẻ thù dìm trong máu lửa bạo tàn, nhưng cao trào cách mạng
1930-1931 là thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển
tiếp theo của cách mạng nước ta.
- Trong những ngày Tổng khởi nghĩa toàn Đảng, toàn dân nhất trí, đồng lòng, không sợ hy
sinh, gian khổ, quyết tâm giành độc lập, tự do.
Chính nhờ mục tiêu và đường lối đúng đắn đó, Mặt trận Việt Minh chẳng những đã huy động
được hàng triệu công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, học sinh, trí thức xuống đường khởi
nghĩa, mà còn tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của một số các thành phần khác, như địa
chủ, tư sản dân tộc, của nhiều lý trưởng, chánh tổng, tri huyện, tri phủ của chính quyền ngụy.
Mặt trận Việt Minh trở thành ngọn cờ tập hợp sức mạnh của toàn dân, trở thành động lực cơ
bản của Cách mạng Tháng Tám. Dưới ngọn cờ của Việt Minh, "hàng chục triệu hội viên, gồm
đủ các tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh, gồm đủ các dân tộc Việt, Thổ, Nùng, Mường,
Mán" đứng dậy làm cuộc tổng khởi nghĩa vĩ đại giành độc lập cho dân tộc.
=> Phương châm chiến lược kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nắm
đúng thời cơ để nổi dậy đã góp phần quyết định vào việc giành được chính quyền ít phải đổ
máu. Đây là cả một cuộc đấu trí, đấu dũng của cách mạng Việt Nam với bọn đế quốc,
phát-xít. Việc Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam nhân danh là người đứng về phía
Đồng Minh chống phát-xít giành được quyền độc lập, đã nói lên tài vận dụng chiến lược của
cách mạng Việt Nam: nắm đúng thời cơ, nổi dậy kịp thời, giành được chính quyền.
3. Phân tích vì sao ta hoà với Pháp và thắng lợi lại về phía ta. a. Hoàn cảnh lịch sử
Ngày 28-2-1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết tại Trùng Khánh. Theo Hiệp ước
này, Tưởng nhường cho Pháp được quyền đem quân thay quân đội Tưởng ở miền Bắc nước ta
với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật. Đổi lại, Pháp trả cho Tưởng các tô giới của Pháp ở
Trung Quốc và đường xe lửa Vân Nam cũng như hàng hoá của Tưởng qua cảng Hải Phòng
được miễn thuế. Hiệp ước Trùng Khánh giữa Tưởng và Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa
chọn: hoặc là cầm vũ khí kháng chiến chống Pháp không cho chúng đặt chân lên miền Bắc;
hoặc là hoà hoãn với Pháp để gạt Tưởng và tranh thủ thời gian củng cố lực lượng.
Đứng trước thời khắc gay go, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã ra quyết sách lịch
sử, sáng suốt: Hòa để tiến. Ngày 6-3-46, Chính phủ ta đã ký với đại biểu Pháp ở Hà Nội bản Hiệp định sơ bộ.
b. Ta phải hòa với Pháp vì:
- Ta tránh được tình thế bất lợi: phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều kẻ
thù. Do Pháp và Tưởng bắt tay cấu kết với nhau chống lại ta, ký Hiệp ước Hoa Pháp (2/1946),
theo đó quân Pháp ra Bắc để quân Tưởng rút về nước. Trong tình hình đó, nếu ta đánh Pháp ở
miền Bắc khi quân Tưởng chưa rút về nước thì Tưởng sẽ đứng về Pháp đánh lại ta. Nếu hòa
hoãn với Pháp ta chẳng những tránh được cuộc chiến đấu bất lợi mà còn thực hiện được mục
tiêu đuổi quân Tưởng ra khỏi nước ta.
- Việc nhân nhượng với Pháp, buộc chúng phải công nhận Việt Nam là quốc gia tự
do, có Chính phủ tự chủ, có nghị viện, có quân đội và tài chính riêng, v.v. làm cơ sở pháp lý
để ta tiếp tục đấu tranh với Pháp.
- Ta có thêm thời gian hòa hoãn cần thiết để tiếp tục xây dựng, củng cố chính quyền và
mọi mặt khác chuẩn bị cho cuộc chiến đấu chống Pháp lâu dài về sau.
- Để tỏ thiện chí hòa bình, đáp ứng mong muốn của nhân dân Pháp và nhân dân thế
giới không muốn chiến tranh xẩy ra, do đó ta có thể tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của
nhân dân Pháp và nhân dân thế giới.
4. Nội dung, ý nghĩ của Hiệp định Sơ bộ. Phân tích Đảng phát động cuộc kháng chiến
toàn quốc tối ngày 19, 20/12 là đúng.
* Nội dung, ý nghĩa của Hiệp định Sơ bộ - Nội dung
Ngày 6/3/1946, Hiệp định Sơ bộ được kí kết với nội dung:
+ Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng,
quân đội riêng, tài chính riêng và là thành viên của liên bang Đông Dương, nằm trong khối Liên hiệp Pháp.
+ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp ra Bắc làm nhiệm
vụ giải giáp quân Nhật và rút dần trong thời hạn 5 năm.
+ Hai bên ngừng mọi cuộc xung đột và giữ nguyên quân đội của mình ở vị trí cũ, tạo không
khí thuận lợi cho cuộc đàm phán chính thức của Việt Nam, chế độ tương lai của Đông Dương,
quyền lợi kinh tế và văn hóa của Người Pháp ở Việt Nam. - Ý nghĩa:
+ Nước ta tránh được cuộc chiến đấu bất lợi vì phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc.
+ Đẩy 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta.
+ Có thêm thời gian hòa bình để củng cố chính quyền mới chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho
cuộc kháng chiến lâu dài chống Pháp
* Phân tích Đảng phát động cuộc kháng chiến toàn quốc tối ngày 19, 20/12 là đúng
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra
đời, đang còn “trứng nước” đã phải đứng trước tình thế hiểm nghèo, vô cùng khó khăn và đầy
thách thức. Đất nước bị các thế lực đế quốc phản động bao vây và tiến công. Trước sự đe dọa
nghiêm trọng của kẻ thù với khó khăn to lớn trực tiếp đe dọa đến sự tồn tại của chính quyền
cách mạng. “Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào Hà Nội
và hầu hết các tỉnh. Theo sau chúng là các tổ chức chính trị phản động người Việt Nam, như
Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh Hội (Việt Cách). Núp
dưới danh nghĩa Đồng Minh vào tước vũ khí giới quân Nhật, bọn Tưởng và tay sai âm mưu

tiêu diệt Đảng Cộng Sản, lật đổ chính quyền cách mạng, thành lập chính quyền phản động.
Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, cũng dưới danh nghĩa Đồng minh, quân đội Anh dọn đường cho
thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Nhân cơ hội đó thì bọn phản cách mạng

ngốc đầu dậy, làm tay sai cho Pháp chống phá cách mạng”.
Trong khi kẻ thù hoành hành ở cả hai đầu đất nước thì đời sống kinh tế, xã hội nước ta gặp
nhiều khó khăn chồng chất, đặt nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước
tình hình như vây, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu sáu nhiệm vụ cấp bách trước mắt xây dựng và cũng cố chính quyền cách
mạng vừa giành được: “chống đói, chống dốt, tổ chức tuyển cử, xây dựng đời sống mới, xóa
bỏ các thứ thuế vô lí, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng. Sau đó Người bổ sung và khái quát

thành ba nhiệm vụ lớn: Diệt giặc đói, diệt giặt dốt, diệt giặc ngoại xâm”.
Vào thời điểm đó “ngày 23/9/1945 quân Pháp đánh úp trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ và
cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai
”.
Vốn giàu lòng yêu nước và tinh thần quả cảm hi sinh, quân dân ta đã đánh trả quyết liệt bọn
xâm lược Pháp bằng mọi hình thức và mọi thứ vũ khí, tiến hành bao vây và ngăn chặn không
cho chúng đánh lan ra. Đến “tháng 10/1945, sau khi được tăng thêm viện binh, đã phá vỡ
vòng vây Sài Gòn – Chợ Lớn. Ngày 25/10/1945, Xứ ủy Nam Bộ họp tại Thiên Hộ (Mỹ Tho)
kiểm điểm tình hình cuộc kháng chiến và đề ra các biện pháp về quân sự, chính trị…tiếp tục
đẩy mạnh kháng chiến. Bản Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc ngày 25/11/1945 nêu rõ “Cuộc
cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng…Khẩu hiệu vẫn

là “Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”. Kẻ thù của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược,
phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng
”.
Để tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là thực dân Pháp, Đảng, Chính phủ
và Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện đường lối chiến lược, sách lược khôn khéo, mềm dẻo để
vừa tránh được âm mưu khiêu khích của Tưởng Giới Thạch, vừa giữ được độc lập, chủ quyền
của dân tộc ta. Bằng cách nhân nhượng Tưởng bằng cách “cho tay sai của chúng giữ 70 ghế
trong Quốc hội, giữ chức Phó chủ tịch nước, Bộ trưởng ngoại giao…thỏa mãn cho chúng một
số quyền lợi về kinh tế, tài chính
”, ta đã hạn chế được sự phá hoại của chúng, tạo cơ hội để ta
lột mặt nạ của bọn phản động, trừng trị bọn ngoan cố, xóa bỏ các ổ, nhóm phản động, giải tán
các đảng phái chính trị tay sai đế quốc.
Lợi dụng thời cơ 20 vạn quân Tưởng sẽ rút về nước khi quân Pháp ra Bắc, vả lại, nhân dân
ta chưa có thể đánh thắng quân Pháp ở miền Bắc khi quân Tưởng chưa rút, cần phải có thêm
thời gian để chuẩn bị lực lượng. “Vào lúc 16h30 ngày 6/3/1946, tại ngôi nhà số 38 phố Lý
Thái Tổ, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh, đại diện cho Chính phủ Việt Nam

Dân chủ Cộng Hòa ký với Chính phủ Pháp là Xanhtơny bản Hiệp định sơ bộ”. Hai bên thực
hiện ngừng bắn ngay ở miền Nam, tạo không khí thuận lợi cho việc mở rộng đàm phán chính thức ở Paris.
Tuy nhiên Hiệp định kí chưa ráo mực thì thực dân Pháp đã có hành động bội ước. Trước
tình hình đó, nhằm kéo dài thời gian hòa hoãn để cũng cố và xây dựng thêm lực lượng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh (lúc này đang ở thăm Pháp) tiếp tục kí với Chính phủ Pháp Tạm ước ngày
14/9/1946, tiếp tục nhượng bộ Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa ở Việt Nam. Việc kí
với Pháp Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9/1946, chúng ta đã tránh được cuộc chiến đấu
bất lợi với Pháp, lại gạt được 20 vạn quân Tưởng cùng bọn tay sai của chúng ra khỏi nước ta,
tuy nhiên những nổ lực ngoại giao của Chính Phủ ta sau Tạm ước 14/9/1946 đều bị tư tưởng
hiếu chiến của thực dân Pháp phá bỏ
”. Vì muốn hòa bình nên chúng ta phải nhân nhượng,
còn thực dân Pháp thì tìm mọi cách để thực hiện âm mưu xâm lược nước ta nhanh hơn.
Trước âm mưu xâm lược của Pháp “tháng 11/1946 quân Pháp tiếp tục nổ súng ở Hải
Phòng, Lạng Sơn. Ta đã cử người đi dàn xếp các cuộc xung đột, nhưng đều không có kết quả.
Đến ngày 18/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi Chính phủ ta giải tán lực lượng tự vệ chiến
đấu và giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng
. Dân tộc Việt Nam đứng trước hai con đường:
chiến đấu hay đầu hàng
".
Tình thế hết sức căng thẳng, bộ mặt xâm lược của thực dân Pháp đã lộ rõ. Nhân dân Việt
Nam không có con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do vừa
giành được. Trước tình hình đó Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng họp ngày 18 và
19/12/1946 đã quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Hội nghị cũng đề ra những vấn
đề cơ bản về đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh. Ngay
trong đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ! Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu

Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,
thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngắn gọn, nhưng chứa đựng
trong đó là sự hùng hồn, đanh thép, cổ vũ mãnh mẽ, khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc,
truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất của nhân dân Việt Nam. Đáp lời kêu gọi cứu nước
của Người, nhân dân cả nước nhất tề đứng lên giết giặc cứu nước. “Đúng 20 giờ ngày
19/12/1946, ánh đèn trên các đường phố Hà Nội phụt tắt, liền đó tiếng súng vang dậy khắp
thành phố, báo hiệu cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ
”. Với những vũ khí thô sơ, nhưng
với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, chiến sĩ ta có sự hỗ trợ tích cực của nhân dân
vẫn ngày đêm chiến đấu kiên cường bám trụ, giành giật với địch từng căn nhà, từng góc phố.
Cùng với Hà Nội, quân dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam cùng nhau đoàn kết, anh
dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Cả dân tộc chung một ý chí, chung một
nguyện vọng, nhất tề đứng lên, với niềm tin mãnh liệt vào ngày đại thắng của dân tộc.
Có thể khẳng định rằng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” ngày 19/12/1946 là một
quyết định lịch sử, chính xác và kịp thời đối với dân tộc Việt Nam, bám sát vào tình hình lịch
sử, dự đoán và nắm bắt đúng thời cơ, chọn đúng mặt trận chính, tính toán thời điểm nổ súng
chính xác, tạo nên thế trận mới cho mặt trận tại Hà Nội có điều kiện giam chân quân địch, để
cả nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Việc nổ súng phát động toàn quốc kháng chiến
ngày 19/12/1946 giữa Thủ đô là một trường hợp hiếm có và chưa từng thấy trong lịch sử, thể
hiện một nghệ thuật khởi đầu cuộc chiến tranh cách mạng thật đúng đắn, quả cảm và sáng tạo.
5. Làm rõ nội dung của đường lối kháng chiến chống Pháp (mục tiêu, tính chất, nhiệm vụ, phương châm).
a. Mục đích kháng chiến : kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng tháng Tám , “ đánh
phản động thực dân Pháp xâm lược ; giành thống nhất và độc lập “.
b. Tính chất kháng chiến : trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến.
c. Nhiệm vụ kháng chiến : “ Cuộc kháng chiến này chính là một cuộc chiến tranh cách mạng
có tính chất dân tộc độc lập và dân chủ tự do... nhằm hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc
và phát triển dân chủ mới “.
d. Phương châm tiến hành kháng chiến : tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
- Kháng chiến toàn dân : “ Bất kì đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc , bất
kì người già,người trẻ. Hễ là người Việt Nam là phải đứng lên đánh thực dân Pháp “ , thực
hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
- Kháng chiến toàn diện : đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó :
+ Về chính trị : thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các
đoàn thể nhân dân ; đoàn kết với Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. +Về quân sự
: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng
nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là “ triệt
để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực , kháng chiến lâu dài... vừa đánh vừa võ
trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ “.
+ Về kinh tế : tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát triển nền nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công thương nghiệp quốc phòng. +Về văn hóa :
xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ theo ba nguyên tắc: dân
tộc, khoa học, đại chúng.
+ Về ngoại giao : thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. “ Liên hiệp với thực dân
Pháp, chống phản động thực dân Pháp “ , sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập,...
- Kháng chiến lâu dài ( trường kỳ ) : là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp,
để có thời gian phát huy yếu tố “ thiên thời, địa lợi, nhân hòa “ của ta, chuyển hóa tương quan
lực lượng từ chỗ ta yếu hơn đích đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch. Dựa vào sức
mình là chính : “ phải tự cấp, tự túc về mọi mặt “, vì ta bị bao vây bốn phía. Khi nào có điều
kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại.
- Triển vọng kháng chiến : mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.
Kết luận : Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản nêu trên là đúng đắn
và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh
cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa phù hợp với thực tế lúc bấy giờ. Đường lối kháng
chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào
ổn định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
6. Ý nghĩa thắng lợi kháng chiến chống Mỹ.
* Nguyên nhân thắng lợi
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, là nhân tố quyết định hàng đầu
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đảng ta nhận rõ sứ mạng, trọng trách lịch sử của mình trước giai cấp, trước dân tộc và
phong trào cách mạng thế giới, đã ra sức xây dựng mình vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, theo đúng nguyên lý xây dựng Đảng macxít-lêninnít. Do vậy, đã đáp ứng ngày
càng đầy đủ những yêu cầu rất khắt khe về sức mạnh tiền phong chiến đấu của một đảng giữ
vai trò quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc ta. Trên cơ
sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kịp thời đưa ra
đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, đồng thời kiên quyết chỉ đạo thực
hiện bằng được mục tiêu, con đường nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
- Nhân dân và các LLVT nhân dân ta đã phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc,
một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm ngoan cường, bền bỉ, lao động
quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH và vì quyền sống của con người.

Đó là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, ngoan cường, bền bỉ và anh
dũng; thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ của nhân dân và các LLVT nhân dân ta trong cả nước,
của hàng chục triệu đồng bào yêu nước trên tuyến đầu Tổ quốc đã nêu cao tấm gương kiên
cường, bất khuất. Người trước ngã, người sau tiến lên đạp bằng mọi chông gai thử thách,
quyết tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt. Đồng bào, chiến sĩ miền Bắc luôn hướng về miền
Nam ruột thịt, động viên con em lên đường "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", lao động quên
mình, tạo ra cơ sở vật chất xây dựng CNXH, thực sự là hậu phương lớn chi viện toàn diện,
liên tục cho cuộc kháng chiến ở miền Nam. Đồng thời, trực tiếp đánh thắng chiến tranh phá
hoại bằng không quân và hải quân của địch, bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN.
- Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng triệu người như
một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đứng trước những khó khăn thử thách,
truyền thống quý báu đó càng được phát huy cao độ. Trong Đảng, đoàn kết thống nhất từ
Trung ương đến cơ sở. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng đã tạo nên sức mạnh lãnh đạo cách
mạng nâng cao lòng tin của toàn dân với Đảng và trở thành động lực xây dựng khối đoàn kết
toàn dân. Nhân dân ta đoàn kết trong chiến đấu, lao động sản xuất, khắc phục khó khăn, thiếu
thốn, thống nhất về chính trị, về nhận thức và hành động, trên cơ sở tình cảm giai cấp, tình
đồng chí, nghĩa đồng bào. Điểm nổi bật về sự đoàn kết thống nhất là tình đoàn kết Bắc - Nam.
Sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã trở thành nhân tố quan trọng,
sức mạnh to lớn, góp phần đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
- Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng
hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết
quốc tế, coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước và đặt hoạt động
đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược, góp phần
tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta; tạo nên một mặt trận rộng lớn của nhân dân
thế giới đoàn kết với Việt Nam và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược.
- Đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia.
Phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn bó với nhau từ xa xưa, Đảng và nhân dân ta
đã chủ động đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia. Sự đoàn
kết liên minh đó được thể hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, lợi ích của mỗi
nước, cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia cho cả ba dân tộc.
* Ý nghĩa thắng lợi
Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhân dân ta đã đánh thắng kẻ thù lớn
mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ trong thế kỷ 20, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ
quốc Việt Nam yêu quý, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài 115 năm của chủ nghĩa thực
dân trên đất nước ta. Nhân dân ta gạt bỏ được trở ngại lớn nhất trong cuông cuộc hoàn thành
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất đất nước, tiến lên CNXH. Do đó,
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mang nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Đối với nhân dân ta
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh dấu bước ngoặt rất cơ bản,
quyết định của con đường cách mạng mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra từ
trong Chính cương vắn tắt năm 1930 - Con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tự do, ấm no, hạnh phúc.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kế tục thắng lợi Cách mạng
tháng 8-1945, phát huy thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), là
trận đánh quyết định nhất của cuộc chiến đấu 30 năm (1945-1975) gian khổ, ác liệt, giành lại
và giữ vững nền độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc. Từ đây, cả dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên
mới: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi nghèo nàn, lạc hậu, tạo lập cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng, Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta, cả dân tộc ta và
mỗi người Việt Nam được rèn luyện cả về phẩm chất và tài năng, càng nhận thức sâu sắc hơn,
đúng đắn hơn vị trí, khả năng và sức mạnh của mình trong thời đại mới.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã nâng vị thế chính trị của Việt
Nam trên thế giới lên một tầm cao mới và là niềm tự hào của mỗi người dân trong thế kỷ XX và mai sau.
Đối với thế giới
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là một thắng lợi
tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đập tan cuộc phản công lớn
nhất, kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, của chủ nghĩa đế quốc vào trào lưu cách mạng
của thời đại mà mũi nhọn là phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa
thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước làm sáng tỏ tính hiện thực, tính
phổ biến của xu thế phát triển của loài người tiến bộ, góp phần động viên cổ vũ các dân tộc
dũng cảm, kiên cường giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, thực hiện công cuộc
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và trực tiếp góp phần to lớn vào
công cuộc giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước láng giềng Lào và Campuchia anh em.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là biểu tượng mới về sức mạnh của
cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm tiêu tan huyền thoại
về sức mạnh của đế quốc Mỹ.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã nêu bật một chân lý: Trong thời
đại ngày nay, một dân tộc nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song
dân tộc ta đã đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng mác
xít-lêninít, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, nắm vững ngọn cờ độc lập dân
tộc và CNXH, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có thể
đánh bại mọi thế lực xâm lược. Bài 4
Làm rõ nội dung đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của miền Bắc được Đại hội III
thông qua (mục tiêu, biện pháp)
*Mục tiêu: Trong điều kiện đất nước còn tạm thời bị chia cắt làm hai miền, thì sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải biến miền Bắc thành hậu phương vững chắc cho
cả nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Quá trình cải biến cách mạng ở miền Bắc
là quá trình kết hợp cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, là quá trình đấu tranh gay gắt, phức
tạp giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội.
Trên cơ sở những phân tích đúng đắn, Đại hội đã xác định đường lối chung của Đảng trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là “đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu
nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng
thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa
miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm
no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh
thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
hoà bình Đông Nam Á và thế giới”. *Nhiệm vụ:
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, công
nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ.
- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc doanh.
- Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề,
nâng cao năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, xúc tiến công tác khoa học kỹ thuật.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, mở mang phúc lợi công
cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
Bài 5. Phân tích tình hình trong nước, thế giới chứng minh đổi mới là khách quan. Nội
dung đổi mới: tư duy, cơ chế quản lý…

* Về bối cảnh quốc tế
Từ những năm của thập kỷ 80 thế kỷ trước, thế giới chứng kiến những quá trình mới diễn
ra đang làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị và xã hội nhân loại. Toàn cầu hoá
kinh tế trở thành xu thế nổi bật và tất yếu chi phối thời đại; không ngoại trừ một quốc gia, dân
tộc nào, nếu muốn phát triển bắt buộc phải mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Cùng
với toàn cầu hoá kinh tế, cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới lần thứ 3 diễn ra với nhịp
độ ngày càng mạnh mẽ, mà cốt lõi là dựa trên việc ứng dụng các phát minh khoa học công
nghệ, phát triển các ngành công nghệ cao, như công nghệ truyền thông và tin học, công nghệ
vật liệu mới, công nghệ sinh học…
Tình hình này trước hết tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới. Chẳng những các lực
lượng sản xuất và cơ cấu kinh tế thế giới có nhiều thay đổi theo hướng dựa vào tri thức và
khoa học công nghệ, làm xuất hiện các ngành sản xuất mới có hàm lượng R&D và giá trị gia
tăng cao, ngành dịch vụ ngày càng có vai trò quan trọng và tỷ trọng lớn dần trong cơ cấu kinh tế quốc dân.
Mặt khác, nó làm thay đổi các quan hệ kinh tế và quản lý kinh tế thế giới theo hướng:
- Trong các nước tư bản phát triển phát triển, sau các cuộc khủng khoảng cơ cấu và dầu lửa, từ
đầu những năm 80, đã tiến hành chính sách điều chỉnh kinh tế. Nội dung cơ bản là điều chỉnh
cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung vào các ngành có hàm lượng KHCN cao, thực hiện điều
tiết nền kinh tế chủ yếu thông qua các công cụ vĩ mô, thực hiện tư nhân hoá khu vực kinh tế
nhà nước, tăng cường vai trò của kinh tế tư nhân.
- Các nước đang phát triển như Đông Á và Đông Nam Á cũng thực hiện cải cách kinh tế, trở
thành khu vực phát triển năng động của thế giới. Các cải cách ở đây bao gồm cải cách cơ cấu
và xác định đúng chiến lược kinh tế để nâng cao sức cạnh tranh và phát triển, mở cửa hội
nhập và liên kết kinh tế, khuyến khích xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài - coi đây là
động lực phát triển kinh tế.
- Các nước xã hội chủ nghĩa cũ trước các khó khăn chồng chất đã tiến hành cải cách kinh tế
nhằm khắc phục cơ chế kế hoạch hoá hành chính chỉ huy, chuyển đổi sang kinh tế thị trường.
Cải cách kinh tế Trung Quốc từ năm 1978 đã đạt được những thành tựu to lớn và là tấm
gương cho Việt Nam tham khảo.
Như vậy, có thể thấy làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp trên thế giới cùng với quá trình
toàn cầu hoá, cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 3 đã tạo áp lực mạnh mẽ cho công
cuộc đổi mới về kinh tế ở Việt Nam.
* Về bối cảnh trong nước
- Sau khi đất nước giải phóng cho tới năm 1985, cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan
liêu bao cấp và mô hình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa kiểu Xô viết đã được áp dụng rộng
rãi trên cả nước. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong xây dựng và phát triển kinh tế, nhất là tập
trung cho công nghiệp hoá, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng nền kinh tế nói chung
và sản xuất công nghiệp vẫn tăng chậm, hơn nữa, có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng
khoảng. Trong khi nguồn viện trợ của bên ngoài, các nguồn vốn và hàng hoá vật tư, nguyên
liệu và hàng hoá tiêu dùng đã bị cắt giảm đáng kể, lại thêm bao vây cấm vận của đế quốc Mỹ
ngăn cản Việt Nam bình thường hoá quan hệ với thế giới.
- Trước những khó khăn, nhiều địa phương đã tìm lối thoát và đổi mới kinh tế từ cơ sở. Từ
việc tổng kết thực tiễn này, năm 1979, tại Hội nghị trung ương 6 (khoá IV), Đảng ta đã tháo
gỡ khó khăn, vướng mắc trong cơ chế quản lý nền kinh tế, nhằm “cởi trói” và để cho sản xuất
“bung ra”. Tiếp theo, những cải tiến quản lý thử nghiệm được bắt đầu từ năm 1981 với khoán
trong nông nghiệp, điều chỉnh kế hoạch và mở rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp công nghiệp
quốc doanh. Có thể coi những cải tiến quản lý trong các năm 1979-1985 là các tìm tòi thể
nghiệm chuẩn bị cho cải cách toàn diện (Đổi mới) nền kinh tế. Song, các cải tiến cục bộ này
vẫn chưa làm thay đổi căn bản thực trạng nền kinh tế, khủng khoảng kinh tế vẫn rất trầm
trọng. Vì vậy đổi mới toàn diện nền kinh tế trở thành yêu cầu cấp bách ở nước ta.
Chủ trương đổi mới kinh tế, trong đó có đổi mới phát triển công nghiệp:
Đặc trưng nổi bật trong thời kỳ này là đổi mới. Đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng là
mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện ở nước ta. Sau khi phân tích phê
phán nghiêm túc sai lầm, thiếu sót trong thời gian qua, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới
kinh tế toàn diện cho đất nước trong thời kỳ mới. Tiếp theo, các Đại hội VII (tháng 6/1991),
Đại hội VIII (tháng 6/1996) và Đại hội IX (tháng 12/2001) đã tiếp tục khẳng định và bổ sung,
hoàn thiện các chủ trương chính sách đổi mới kinh tế, có đổi mới phát triển công nghiệp và
thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Có những nội dung chủ yếu sau:
- Đổi mới về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và chính sách cơ cấu: Trong những năm
qua, do nhận thức phiến diện về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến khuynh hướng
ham phát triển công nghiệp nặng, ham quy mô lớn và xây dựng mới, đã gây ra mất cân đối
nghiêm trọng trong nền kinh tế. Để khắc phục tình trạng đó, Đại hội VI đã đề ra chủ trương
bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư các ngành kinh tế, mà thực chất là cụ thể hoá nội dung
chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế ở
nước ta trong từng giai đoạn cụ thể. Trong chặng đường đầu tiên, cần tập trung thực hiện ba
chương trình kinh tế lớn, tạo tiền đề cho đẩy mạnh công nghiệp hoá ở giai đoạn tiếp theo; đưa
nông nghiệp lên vị trí hàng đầu, nhấn mạnh vai trò to lớn của công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công
nghiệp; phát triển công nghiệp nặng một cách có chọn lọc, hợp với sức mình, nhằm phục vụ
đắc lực cho ba chương trình kinh tế, không bố trí xây dựng công nghiệp vượt quá điều kiện
cũng như khả năng cho phép.
- Đổi mới trong cải tạo và xây dựng, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, thực hiện
chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Phê phán quan
điểm nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa trước đây, Đại hội VI đã khẳng định sự tồn tại
lâu dài của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều
này là xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội còn thấp của Việt Nam. Nó cho phép có nhiều
hình thức sản xuất kinh doanh đa dạng, phù hợp về qui mô, trình độ và hình thức với từng
khâu của quá trình sản xuất và lưu thông, nhằm khai thác các tiềm năng kinh tế của xã hội.
Đảng coi đây là giải pháp chiến lược để giải phóng sức sản xuất và xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Đổi mới cơ chế quản lý công nghiệp: Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều
năm nay đã không tạo được động lực phát triển và gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã
hội. Do đó, Đại hội VI đã chủ trương đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế và chỉ ra thực chất của
cơ chế mới đó là: “cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội
chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Trên cơ sở tổng kết đánh giá những vấn đề thực tiễn trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở
nước ta từ năm 1986 đến nay, trong các kỳ đại hội, Đảng ta tiếp tục làm rõ nội dung và
phương thức đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng “xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Đây thực chất là quá trình đổi mới cả hệ thống các công cụ, chính sách quản lý kinh
tế, tạo lập đồng bộ các yếu tố quản lý và tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước.
* Nội dung đổi mới
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Một vấn đề lớn của thời kỳ này là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Tháng 8 năm 1987, Hội
nghị Trung ương lần thứ 3 đã ra nghị quyết về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với nội dung
chủ yếu là thực hiện chế độ tự chủ kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh và đổi mới quản
lý nhà nước về kinh tế. Sau đó, tháng 11 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định
217/HĐBT quy định cụ thể chế độ tự chủ kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh.
Theo tinh thần các văn bản trên, các Bộ đã dần dần giao quyền tự chủ cho các xí nghiệp về
quản lý sản xuất kinh doanh cũng như công tác tổ chức cán bộ. Các Bộ, trong đó có Bộ Công
nghiệp đã bước đầu xác định lại chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, sắp xếp lại bộ máy
gọn nhẹ, chủ yếu Bộ làm chức năng quản lý nhà nước. Các xí nghiệp cũng đã giảm bớt những
tổ chức không cần thiết, cắt bỏ các khâu trung gian, sắp xếp lại lao động, làm cho dây chuyền
sản xuất được đồng bộ ổn định, bảo đảm có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao
Trong thời kỳ này còn có một sự kiện nổi bật là do hậu quả nặng nề nhiều năm của cơ chế
bao cấp, nên đầu năm 1989, khi thực sự chuyển sang kinh doanh trên thị trường, nhiều xí
nghiệp công nghiệp quốc doanh lần đầu tiên phải đối mặt với những thử thách gay gắt: vốn
liếng thiếu hụt, hàng hoá ứ đọng, lao động dôi dư, sản xuất đình đốn, không ít xí nghiệp phá
sản… Nhưng “bản lĩnh sinh ra từ nỗi đau” nên nhiều xí nghiệp đã phấn đấu vượt qua cơn
“khủng hoảng thị trường và tiêu thụ đầu tiên” để vực dậy vào cuối năm 1989.
Vì thế, đổi mới quản lý tiếp tục được tiến hành theo hướng:
- Cải tiến công tác kế hoạch hoá;
- Thiết lập khuôn khổ pháp luật, quản lý kinh tế chủ yếu bằng pháp luật và điều tiết nền kinh
tế chủ yếu thông qua các chính sách và công cụ vĩ mô;
- Chính phủ cũng ban hành nhiều nghị định xác định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ.
Một số Bộ có chức năng chồng chéo được sáp nhập lại hoặc giảm bớt, nhờ vậy đã thu gọn số
lượng các cơ quan trực thuộc Chính phủ từ 70 đầu mối xuống còn hơn 40 đầu mối;
Nhìn chung, từ năm 1986 đến nay, quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta diễn
ra từng bước theo hướng vừa làm vừa thử nghiệm, sửa đổi, bổ sung. Trong những năm
1980-1990 là giai đoạn giao thời giữa hai cơ chế cũ và mới. Từng bộ phận của cơ chế cũ được
xoá bỏ, từng bước hình thành cơ chế mới. Điều đó đã tạo ra động lực mới cho sự tăng trưởng
ngoạn mục của nền kinh tế cũng như sản xuất công nghiệp trong nửa đầu thập kỷ 90. Tuy
nhiên, việc hoàn thiện các chính sách và công cụ quản lý kinh tế, nâng cao hiệu lực của bộ
máy nhà nước, chống tệ nạn quan liêu, tham nhũng, bao cấp vẫn đang là vấn đề nổi cộm hiện nay ở nước ta.
Bài 6. Quan điểm của Đảng về công nghiệp hoá hiện đại hoá thông qua Đại hội VIII
ĐCSVN hiện nay cho rằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chính là con đường đẩy nhanh tốc
độ phát triển lực lượng sản xuất trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là cơ sở để cải
biến thành công xã hội cũ thành xã hội mới, đem đến sự giàu có, ấm no, tự do, hạnh phúc, dân
chủ, công bằng, văn minh cho mọi công dân Việt Nam.
Nhận thức rõ vai trò của công nghiệp hoá với sự hưng thịnh của quốc gia dân tộc, ĐCSVN đã
có hơn nửa thế kỷ liên tục lãnh đạo nhiều triệu dân trên lãnh thổ thực hiện công nghiệp hoá
theo những quan niệm, mô hình và cơ chế rất khác nhau với những thể nghiệm, tìm tòi, rồi
điều chỉnh, bổ sung, phát triển để không ngừng hoàn thiện.
Đại hội VIII của Đảng (6-1996) đưa ra đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá có nhiều
điểm khác căn bản về hình thức, nội dung, bước đi và giải pháp tiến hành so với công nghiệp
hoá thời kỳ trước đây, đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng về công
nghiệp hoá đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VIII đã có nhận định quan trọng sau khi nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới: nước
ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ
quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thế lực mới trong nước cộng hưởng với thời cơ, thách thức, nguy cơ mới của thời đại là
những cơ sở cho sự hoạch định đường lối CNH của Đảng: Sau 10 năm đổi mới, thế bao vây
cấm vận đã bị phá vỡ, nước ta bước đầu hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới;
nền kinh tế liên tục tăng trưởng cao, cơ cấu ngành kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng
CNH; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều nhu cầu bức xúc của nhân dân về xã hội từng
bước được giải quyết; quốc phòng – an ninh được giữ vững. Đại hội VIII đánh giá đát nước
đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, bối cảnh xu thế vừa hợp tác, vừa đấu
tranh trở thành vùng chủ lưu trong quan hệ quốc tế; cạnh tranh phát triển kinh tế trong hoà
bình, tránh đối đầu trở thành phương châm chỉ đạo đường hướng, chính sách đối ngoại của
hầu hết các quốc gia; cách mạng khoa học – công nghệ tiếp tục có bước phát triển như vũ bão,
đặc biệt là công nghệ thông tin, số hoá, điện tử, vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ sinh
học. Nguy cơ mới cũng đặt ra, trong đó đặc biệt phải kể đến nguy cơ: tụt hậu xa hơn, nhanh
hơn về sức mạnh tổng hợp (tâm điểm là kinh tế) so với các quốc gia trong khu vực và thế giới.
Những chuyển biến trên đã đặt ra cho Đại hội VIII tầm nhìn mới về khả năng đưa đất nước
chính thức chuyển sang thời kỳ CNH – HĐH. Trên cơ sở nền kinh tế đã thoát khỏi khủng
hoảng, đời sống nhân dân được cải thiện, an ninh chính trị ổn định, quan hệ đối ngoại được
mở rộng, Đại hội VIII nhận định rằng, nước ta đã hoàn thành cơ bản việc chuẩn bị tiền đề cho
CNH - HĐH và bắt đầu chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước nhằm đưa nước
ta trở thành một nước công nghiệp sau khoảng 25 năm.
Với tư cách là nguồn nhân lực chất lượng cao thì ngồi trên ghế nhà trường anh (chị) làm
gì để góp phần thành công sự nghiệp

Thanh niên Việt Nam cần có 3 nhóm phẩm chất là: Trình độ chuyên môn và tay nghề cao, đạo
đức và lối sống trong sáng, sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần cường tráng mới đáp ứng
được yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp, hóa hiện đại hóa, thời kỳ kinh tế tri thức,
thời kỳ hội nhập quốc tế. Để đạt được tiêu chí và phẩm chất trên đòi hỏi bản thân thanh niên
phải tự học, tự rèn luyện, tự tu dưỡng, tự tin, tự chịu trách nhiệm để trở thành nguồn lao động
chất lượng cao, trở thành người thừa kế trung thành sự nghiệp của Đảng và dân tộc.
- Thứ nhất, thanh niên phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi
đắp lý tưởng cách mạng trong sáng. Bối cảnh trong nước và quốc tế đang tác động lên tất cả
các đối tượng thanh niên, tác động một cách toàn diện lên tư tưởng, tình cảm, lối sống, nhu
cầu của từng thanh niên. Do đó, thanh niên phải rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững
vàng, có lòng yêu nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh; tích cực tham gia vào các cuộc
đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; đấu tranh chống laaij âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch và các tiêu cực, tệ nạn xã hội, tham nhũng…
- Thứ hai, thanh niên cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ văn hóa, chuyên
môn, khoa học, kỹ thuật và tay nghề. Trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội trong nước và
hội nhập quốc tế, thanh niên nước ta cần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề khả năng thực
tế, kỹ năng lao động để thích ứng với thị trường lao động trong nước và thị trường lao động
quốc tế. Thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng xã hội học tập với phương châm: người
thanh niên nào cũng phải học ở đâu, làm gì, thời gian nào cũng phải học, người thanh niên
nào cũng phải xác định tham gia họ tập thường xuyên, suốt đời là quyền và nghĩa vụ của bản thân.
- Thứ ba, thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể nhân dân. Thanh niên phải tích cực tham gia bảo vệ và xây dựng hệ
thóng chính trị ở các cấp vững mạnh và tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
vững chắc. Các đối tượng thanh niên tự nguyện, tự giác tham gia vào các hội của thanh niên,
phấn đấu trở thành đoàn viên, đảng viên của Đảng và hội viên của các quần chúng nhân dân.
- Thứ tư, thanh niên phải tích cực tham gia vào việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh
và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp. Tích cực tham gia phòng chống ô nhiễm môi
trường, suy thoái môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
- Thứ năm, thanh niên phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng an ninh. Tích cực tham gia các chương trình, dự án của địa phương; tự
nguyện, tự giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc
và giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
- Thứ sáu, thanh niên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia giải
quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng
của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có hiệu quả vào giải quyết các vấn đề
toàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi
trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và
đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo…
Cách mạng nước ta đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa với mục tiêu sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu đó đã và đang
đặt ra những yêu cầu, trọng trách lớn lao đối với thề hệ trẻ hôm nay. Để kế tục xứng đáng sự
nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc ta, mỗi thanh niên Việt Nam hãy ra sức học
tập, trau dồi lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ra sức thi đua lao động và rèn luyện
để hình thành một thế hệ thanh niên tân tiến, xứng tầm đồi hỏi của đất nước và thời đại
Bài 7. Phân tích chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là lựa chọn duy nhất
đúng của CMVN. Quan điểm của anh chị như thế nào về ý kiến cho rằng nước ta nên

phát triển theo con đường các nước Bắc âu. Vì sao?
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là lựa chọn duy nhất đúng của CMVN
Qua 61 năm giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, đặc biệt hơn 20
năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng CSVN xứng đáng tiêu biểu cho bản lĩnh VN trong việc
giữ vững đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao
hơn, đưa đất nước và dân tộc ta lên vị thế mới trong cộng đồng quốc tế. Và ngày hôm nay
chúng ta lại thêm một lần nữa làm rõ và chứng minh luận điểm “Độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH” là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của ĐCSVN.
- Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là gì?
Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập theo trường
phong kiến và tư sản. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, tức là giải quyết độc lập dân tộc
theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là độc lập dân tộc
thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hoá, đối ngoại; xoá bỏ tình trạng áp bức bóc
lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó,
độc lập gắn liền với tự do, bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia – dân tộc nào phải do quốc
gia – dân tộc đó giải quyết, không có sự can thiệp từ bên ngoài. Bản chất của chủ nghĩa xã hội
là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Chủ nghĩa xã hội là căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng bóc lột người do chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xoá bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp
bức con người về chính trị và sự nô dịch của con người về tính thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ
với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của
mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trờ thành người chủ thực
sự, có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ với đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Nó
cũng bảo đảm cho dânm tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương
quan với các dân tộc khác trên thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự
bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này
với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm chỉ có thể tìm thấy và
giải quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại nhày nay.
Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó. Đảng đã lãnh đạo thành công
cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn toàn không
cân sức với “hai đế quốc to”, mở ra thời kì phi thực dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc
địa và các nước phụ thuộc trên thế giới. Qua nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, ĐCSVN
xứng đáng tiêu biểu bản lĩnh VN trong việc giữ vững định hướng XHCN, đã tỏ rõ tính độc lập
tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại. Độc lập dân tộc và CNXH, với
VN không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn
là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc VN ta. Độc lập dân tộc gắn với CNXH là sự gắn
kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm
qua, hôm nay và mai sau. Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến
động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đấu tranh gay gắt của cộng đồng quốc
tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, thì hệ giá
trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lý
tưởng, là quốc bảo phù hợp với xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều
thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Cơ sở khách quan của sự lựa chọn “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ.
Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy ở khắp nơi của đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân
dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi
nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khời nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc
đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng,
vẫn là nhân dân giàu lòng yêu nước, có truyền thống chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng ủng hộ
và tham gia các phong trào yêu nước; còn các bậc sĩ phu, các nhà lãnh đạo các phong trào
chống thực dân Pháp đều có trí dũng, không thiếu quyết tâm, nhưng cả họ, cả giai cấp phong
kiến và đại diện cho thế lực tư sản khi đó đều không giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta vì
không tập hợp được lực lượng toàn dân tộc và quan trọng hơn là không bắt kịp nhịp sống của
thời đại. Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc trở nên là yêu cầu
cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam – xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Công cuộc giải
phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong “tình hình đen tối như không có đường ra”. Bằng con
đường nào và giai cấp nào có khả năng gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại là tập hợp được
lực lượng toàn dân để giải phóng dân tộc. Nhưng rồi chính lịch sử đã có lời giải đáp. Chủ
nghĩa Mác ra đời đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ
nghĩa Mác khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định phải bị thay thế bằng chế độ tốt đẹp hơn –
chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ
nghĩa tư bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó đã chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến
và đã bành trướng ra khắp thế giới. Các nước tư bản phát triển khi ấy đang là “trung tâm vũ
trụ”, chi phối và làm mưa làm gió mọi mặt đời sống xã hội loài người. Chính vào thời điểm
mà chủ nghĩa tư bản như đang cực thịnh ấy thì Cách mạng Tháng Mười nổ ra. Sự đột phá
Tháng Mười mở đầu cho một xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Cách mạng Tháng
Mười “rung chuyển thế giới” đã làm cho tính chất thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của
thời đại thay đổi, vai trò lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi. Và vì vậy con đường để giải
quyết mâu thuẫn của xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng thay đổi. Toàn
bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm sâu trong mảnh đất Việt
Nam – nơi mà “chính sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi, chủ nghĩa cộng sản
chỉ còn làm các việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Hơn ai hết, chính
Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm cho Cách mạng Việt Nam. Từ tuổi thanh niên,
Nguyễn Sinh Cung đã là một trong những người con yêu nước ưu tú nhất, tiêu biểu nhất cho