Bài giảng Cấu thành Tội phạm - Luật Hình Sự | Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Bài giảng Cấu thành Tội phạm - Luật Hình Sự | Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật hình sự (ĐHQG)
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BÀI GIẢNG: CẤU THÀNH TỘI PHẠM
Người trình bày: Đinh Hoàng Quang Giảng viên Khoa KSHS
Trường ĐT, BDNV Kiểm sát
Giới thiệu về bài giảng
- Số tiết: 3tiết (135 phút). - Tài liệu tham khảo:
+Giáo trình Luật hình sự - Đại học Luật Hà Nội.
+Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam – Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật.
+Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (TS. Lê Cảm) – Khoa Luật ĐHQGHN.
+Tội phạm và cấu thành tội phạm (TS. Nguyễn Ngọc Hòa) – Nhà xuất bản CAND.
+ Bình luận khoa học BLHS (phần chung) và tìm hiểu tội phạm trong BLHS năm 1999 –
(Đinh Văn Quế) – Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh.
+ Bình luận khoa học BLHS (phần các tội phạm) – Nhà xuất bản CAND.
- Bố cục: Bài giảng gồm 3 phần chính:
1. Các yếu tố của tội phạm
2. Cấu thành tội phạm (khái niệm; đặc điểm và phân loại)
3. Ý nghĩa của cấu thành tội phạm
Với bố cục như vậy, cũng như tiêu đề thì nội dung chính của bài giảng là phần
thứ hai về “Cấu thành tội phạm”. Tuy nhiên nhằm hiểu rõ cấu thành tội phạm là gì?nó
được xem xét và có liên quan gì tới tội phạm? ta sẽ phải đề cập các yếu tố của tội
phạm dưới góc độ về hình thức cấu trúc ở phần một “các yếu tố của tội phạm” và
trong nội dung bài giảng các yếu tố này được xem xét một cách tổng quát, phần cụ thể
sẽ được nghiên cứu ở các chương tiếp theo. Ý nghĩa của việc nghiên cứu cấu thành tội
phạm sẽ được đề cập ở phần ba.
- Mục đích bài giảng: cung cấp một công cụ để xác định một hành vi phạm tội
là một tội phạm cụ thể. Đặt vấn đề:
Ở bài trước, chúng ta đã nghiên cứu về Tội phạm; theo đó, tội phạm đã được
định nghĩa theo quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999: “Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, tội phạm là 1
hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.
Đây cũng là các đặc điểm của tội phạm và dựa vào đó có thể phân biệt được tội phạm
với các vi phạm pháp luật khác.
Chúng ta có thể xem xét tội phạm ở nhiều mặt nội dung khác nhau:
- Xét về mặt nội dung chính trị - xã hội, tội phạm là những hành vi có tính
nguy hiểm cho xã hội. Điều này được thể hiện: tội phạm là hành vi gây ra hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại đáng kể đến các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Đó là
những quan hệ có tính tương đối quan trọng hoặc quan trọng và khi bị xâm hại có thể
gây ra những thiệt hại hoặc những ảnh hưởng đáng kể cho điều kiện tồn tại và phát
triển của chế độ xã hội chủ nghĩa. Việc đánh giá hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho
xã hội phụ thuộc vào tình hình phát triển của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
- Xét về mặt hình thức pháp lí, tội phạm có tính trái pháp luật hình sự. Điều
này được thể hiện: một hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ có thể bị coi là tội phạm nếu
được quy định trong Bộ luật hình sự; nếu một hành vi nào đó kể cả gây nguy hiểm
đáng kể cho xã hội nhưng chưa được quy định trong BLHS thì không phải là tội phạm.
- Xét về mặt hậu quả pháp lí, tội phạm có tính phải chịu hình phạt. Điều này
được thể hiện: chỉ có tội phạm mới bị xử lý bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước
nghiêm khắc nhất là hình phạt; các vi phạm pháp luật khác chỉ có thể bị xử lí bằng các
biện pháp cưỡng chế ít nghiêm khắc hơn.
- Xét về mặt cấu trúc, tội phạm cũng là một dạng của một vi phạm pháp luật,
mà một vi phạm pháp luật xét về mặt cấu trúc thì được cấu thành bởi : khách thể; mặt
khách quan; mặt chủ quan và chủ thể của vi phạm pháp luật. Do đó, xét về mặt hình
thức cấu trúc thì tội phạm cũng được cấu thành bởi: khách thể của tội phạm; mặt
khách quan của tội phạm; chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm. Tuy
nhiên, các yếu tố cấu thành tội phạm lại có những nét riêng biệt khác với những vi
phạm pháp luật khác (vi phạm hành chính; vi phạm dân sự và vi phạm kỷ luật nhà nước).
Sau đây, ta sẽ nghiên cứu tội phạm dưới góc độ hình thức cấu trúc:
1. CÁC YẾU TỐ CỦA TỘI PHẠM
1.1. Khách thể của tội phạm: là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại.
Vậy từ khái niệm ta có thể thấy: khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội mà
quan hệ xã hội này phải được luật hình sự bảo vệ và những quan hệ xã hội này sẽ chỉ
được xác định là khách thể của tội phạm khi nó bị hành vi phạm tội gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại ở mức độ nhất định.
- Thứ nhất, ta xét quan hệ xã hội là gì? Nó được hiểu như thế nào ? 2
Nhu cầu sinh tồn và phát triển đã buộc con người phải liên kết với nhau thành
những cộng đồng. Giữa các thành viên của cộng đồng luôn nảy sinh những sự liên hệ
về vật chất, về tinh thần với nhau và những mối liên hệ này luôn có giới hạn gọi là các
quan hệ. Và như vậy, quan hệ xã hội được hiểu là những quan hệ xuất hiện trong quá
trình hoạt động xã hội của con người, nghĩa là chúng xuất hiện trong quá trình sản
xuất và phân phối của cải vật chất, trong việc thỏa mãn các nhu cầu văn hóa, tinh thần
cũng như trong việc bảo vệ lợi ích xã hội. Quan hệ xã hội rất đa dạng và phong phú;
đó có thể là quan hệ gia đình (quan hệ giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái); quan hệ lao
động (quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động); quan hệ về tài sản,
quan hệ chính trị, đạo đức…
- Thứ hai, những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, hay nói cách khác
những quan hệ xã hội được Nhà nước xác định cần được bảo vệ bằng những loại quy
phạm pháp luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định tại Điều 8 của
BLHS – đó là quan hệ xã hội có liên quan trực tiếp đến độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa,
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức; tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp
khác của công dân và những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về vấn đề này, trong khoa học luật hình sự có ý kiến
cho rằng khách thể trực tiếp của tội phạm không phải là các quan hệ xã hội mà là đối
tượng bị tác động; ví dụ như khách thể trực tiếp của các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người là tính mạng sức khỏe con người; tài sản là
khách thể trực tiếp của các tội xâm phạm sở hữu…Tuy nhiên, theo quan điểm của
chúng tôi, quan điểm trên là chưa chính xác. Bởi vì hành vi gây thiệt hại cho quan hệ
xã hội này hay quan hệ xã hội khác được thể hiện ở nhiều mặt: hoặc gây thiệt hại cho
các chủ thể của quan hệ xã hội; gây thiệt hại cho chính nội dung mối quan hệ xã hội;
gây thiệt hại cho các điều kiện phát sinh và tồn tại của mối quan hệ xã hội. Như vậy,
các khách thể trực tiếp được đưa ra ở trên thực chất cũng là các mối quan hệ xã hội.
Ví dụ: ở các tội chiếm đoạt tài sản thì tài sản dù bị chiếm đoạt cũng không hề bị
thay đổi gì về lượng cũng như về chất; thế nhưng quan hệ sở hữu (quyền chiếm dụng;
quyền sử dụng và quyền định đoạt) các tài sản đó lại thay đổi có hại cho chủ sở hữu
hợp pháp tài sản đó. Hoặc ở các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe cũng như vậy.
Tính mạng, sức khỏe con người nói chung ở đây như là một tồn tại xã hội mà luật
hình sự bảo vệ; sự xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe con người là xâm phạm đến
chủ thể tồn tại xã hội đó.
- Thứ ba, những quan hệ xã hội này bị tội phạm xâm hại; tức là không phải
hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội này trong
mọi trường hợp đều bị coi là tội phạm mà chỉ trong những trường hợp nhất định – 3
những trường hợp đã được cụ thể hóa qua những quy phạm pháp luật hình sự ở Phần các tội phạm của BLHS.
Ví dụ: tội giết người (Điều 93 BLHS) xâm phạm quyền sống của con người.
tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS) xâm hại quyền sở hữu của người khác về tài sản.
tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) xâm phạm hai khách thể: đó là quyền
sở hữu và tính mạng, sức khỏe của công dân.
Khách thể là một yếu tố rất quan trọng của tội phạm, các hành vi xâm phạm
đến các quan hệ xã hội không phải là khách thể của tội phạm thì không phải là tội
phạm; hiểu rõ khách thể của tội phạm giúp chúng ta xác định tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội, phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác (thông
qua khách thể chung – là tất cả các quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội xâm hại và
được luật hình sự bảo vệ) và phân biệt tội phạm này với tội phạm khác (thông qua
khách thể trực tiếp – là quan hệ xã hội cụ thể do hành vi phạm tội cụ thể xâm hại được luật hình sự bảo vệ).
1.2. Mặt khách quan của tội phạm: là những biểu hiện ra bên ngoài ý thức
chủ quan của người phạm tội, không còn nằm trong ý nghĩ của người phạm tội
nữa, bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cũng như những điều kiện bên ngoài khác
(công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội…)
Thứ nhất, về hành vi nguy hiểm cho xã hội: trong luật hình sự, hành vi được
hiểu là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những
hình thức cụ thể nhằm đạt những mục đích có chủ định và mong muốn. Hành vi chỉ
bao gồm những biểu hiện của con người ra thế giới khách quan mà mặt thực tế của nó
được ý thức kiểm soát và ý chí điều khiển. Biểu hiện của con người ra bên ngoài thế
giới khách quan sẽ không được coi là hành vi, nếu biểu hiện đó không được ý thức
kiểm soát hoặc tuy được ý thức kiểm soát nhưng không phải là kết quả của hoạt động
ý chí. Những biểu hiện loại này có thể là những biểu hiện không có chủ định (như
phản xạ không điều kiện bẩm sinh, phản ứng trong tình trạng choáng hay trong tình
trạng xúc động mạnh…) hoặc là những biểu hiện trong tình trạng bộ não mất khả
năng kiểm tra, điều khiển mặt thực tế của biểu hiện do rối loạn ý thức…Hành vi
khách quan của tội phạm mang tính nguy hiểm cho xã hội được thể hiện ở chỗ hành vi
đó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Thứ hai, về hậu quả nguy hiểm cho xã hội: hậu quả của tội phạm là thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự.
Thiệt hại gây ra cho khách thể được thể hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường
của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Tính chất và
mức độ của thiệt hại được xác định bởi tính chất và mức độ biến đổi của các đối 4
tượng tác động của tội phạm như ở các tội xâm phạm sức khỏe hoặc bởi những đặc
điểm (về chất và lượng) của chính đối tượng tác động đã bị hành vi nguy hiểm cho xã
hội làm biến đổi tình trạng như ở các tội chiếm đoạt tài sản (tội trộm cắp tài sản, tội tham ô tài sản…)
Thứ ba, về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả là mối quan hệ khách quan luôn luôn tồn tại giữa
hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi đó gây ra.
Trong việc áp dụng luật hình sự, để buộc chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu
quả nguy hiểm cho xã hội, cơ quan áp dụng phải chứng minh hậu quả nguy hiểm cho
xã hội đó là do hành vi nguy hiểm cho xã hội của chủ thể gây ra. Để chứng minh điều
này, cơ quan áp dụng phải xác định sự tồn tại quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy
hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội; tức là xác định được ba điều kiện,
đó là hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội về mặt
thời gian; hành vi trái pháp luật độc lập hoặc trong mối liên hệ tổng hợp với một hoặc
nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả nguy
hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hóa khả
năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi trái pháp luật – khả năng trực tiếp làm
biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động hoặc khả năng để sự biến đổi
đó tiếp tục diễn ra không bị ngăn chặn.
Ngoài ra, mặt khách quan của tội phạm còn có những nội dung biểu hiện
khác; đó là: phương tiện phạm tội; phương pháp, thủ đoạn phạm tội và thời gian, địa
điểm, hoàn cảnh phạm tội. Trong đó, phương tiện phạm tội là những đối tượng được
chủ thể của tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội của mình, công cụ phạm
tội là dạng cụ thể của phương tiện phạm tội; phương pháp, thủ đoạn phạm tội là cách
thức thực hiện hành vi phạm tội, trong đó có cách thức sử dụng công cụ, phương tiện.
Ví dụ: mặt khách quan của tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ (Điều 202 BLHS) thể hiện ở hành vi vi phạm quy định về an toàn
giao thông đường bộ và hậu quả (thiệt hại nghiêm trọng xảy ra, đó là gây thiệt hại về
tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe hoặc về tài sản của người khác)
Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố của tội phạm. Không có
mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và do vậy cũng
không có tội phạm. Việc xác định đúng mặt khách quan của tội phạm sẽ giúp cho các
cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án phân biệt đúng từng tội phạm cụ thể trên cơ sở
các dấu hiệu cơ bản và điển hình nhất được nhà làm luật ghi nhận với tính chất là các
dấu hiệu bắt buộc tại điều, khoản tương ứng trong phần các tội phạm BLHS.
1.3. Chủ thể của tội phạm: là con người cụ thể có năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi luật định đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Chủ thể của tội phạm là chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội được quy định
trong luật hình sự. Theo luật hình sự Việt Nam, chủ thể này chỉ có thể là người cụ thể. 5
Theo đó pháp nhân không thể là chủ thể của tội phạm, đây cũng là yếu tố để phân
biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, cũng không phải ai cũng có
thể trở thành chủ thể của tội phạm khi thực hiện hành vi được quy định trong luật hình
sự. Như ta đã biết, tội phạm theo luật hình sự Việt Nam phải có tính có lỗi. Do vậy,
chỉ những người có điều kiện để có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
mới có thể là chủ thể của tội phạm. Chỉ đối với những người này việc áp dụng biện
pháp TNHS mới đạt được mục đích giáo dục, cải tạo. Người có đủ điều kiện để có lỗi,
để có thể trở thành chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực TNHS. Đó là năng
lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi thực hiện và năng lực điều khiển được
hành vi theo đòi hỏi tất yếu của xã hội. Chỉ đối với người có năng lực này, vấn đề
giáo dục, cải tạo mới được đặt ra. Để có năng lực này, con người phải đạt độ tuổi nhất
định. Do vậy, người có thể là chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn hai đặc điểm: có
năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
+ Về năng lực trách nhiệm hình sự: Bộ luật hình sự không quy định người có
năng lực trách nhiệm hình sự là một người có những điều kiện gì, mà chỉ quy định
tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Điều 13 BLHS đã xác định người ở
trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người mắc bệnh tâm thần
hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của mình. Vậy, người không có năng lực trách nhiệm hình sự là người không có năng
lực lựa chọn, quyết định và hành động phù hợp với những đòi hỏi của xã hội.
Câu hỏi: Trong trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích khác có được coi là người
không có năng lực trách nhiệm hình sự không?
Trả lời: Không. Vì trước đó họ là người có năng lực trách nhiệm hình sự và khi
họ uống rượu hoặc sử dụng chất kích thích là tự họ đặt mình vào tình trạng “say” nên
họ có lỗi; do đó họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
+ Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Điều 12 BLHS quy định người từ đủ
14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
rất nghiêm trọng do cố ý và về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; người đủ 16 tuổi trở
lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Việc quy định này không chỉ xác
định tuổi bắt đầu có thể phải chịu trách nhiệm hình sự mà còn phân hóa trách nhiệm
hình sự của người chưa thành niên có hành vi phạm tội theo độ tuổi.
Câu hỏi: Điều 104 BLHS năm 1999 quy định Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì chủ thể của tội phạm là ai?
Trả lời: Chủ thể của tội phạm trong trường hợp này chỉ có thể là người từ đủ 16
tuổi trở lên (khoản 1; 2) vì đây là tội phạm ít nghiêm trọng; mức cao nhất của khung
hình phạt ở Khoản 1 là tù đến ba năm và ở khoản 2 là tù đến 7 năm (theo quy định tại
khoản 3 Điều 8 BLHS) hoặc từ đủ 14 tuổi trở lên (Khoản 3; 4) vì đây là tội phạm rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng vì mức cao nhất của khung hình phạt ở khoản 6
3 là tù đến mười lăm năm và ở khoản 4 là tù đến hai mươi năm hoặc tù chung thân
(theo quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS) và tất nhiên những người này phải không ở
trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Như vậy, chủ thể của tội phạm là một yếu tố rất quan trọng của tội phạm, thỏa
mãn dấu hiệu chủ thể là căn cứ cần thiết để truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngoài ra,
trong một số trường hợp chỉ một hoặc một số người mới là chủ thể của tội phạm,
ngoài những người đó ra, người khác với tư cách là người trực tiếp thực hiện hành vi
được mô tả trong CTTP của tội phạm đó có đủ năng lực trách nhiệm hình sự cũng
không thể là chủ thể của tội phạm, được khoa học luật hình sự gọi là chủ thể đặc biệt.
Ví dụ: chỉ có người mẹ mới là chủ thể của tội giết con mới đẻ quy định Điều 94
BLHS; chỉ có người có chức vụ mới là chủ thể của các tội phạm về chức vụ quy định tại Chương XXI BLHS.
1.4. Mặt chủ quan của tội phạm: là những biểu hiện tâm lý bên trong của
tội phạm, không thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan, nên bằng các giác quan
chúng ta không thể nhận biết được mà phải thông qua một quá trình nhận thức theo
phương pháp biện chứng. (Ví dụ: cũng là hành vi cố ý dùng dao dâm người khác
nhưng mỗi người vì mục đích và động cơ khác nhau).
Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm nhiều yếu tố hợp thành, nhưng khoa học
luật hình sự chỉ nghiên cứu những yếu tố có liên quan đến hành vi phạm tội, đó là: lỗi,
động cơ phạm tội, mục đích phạm tội. Trong đó:
- Lỗi: là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc
vô ý. Chủ thể bị coi là có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nếu họ đã
lựa chọn hành vi đó trong khi có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác phù hợp với đòi
hỏi của xã hội. Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lý của yếu tố lý trí và ý chí trong
những trường hợp có lỗi, luật hình sự Việt Nam chia thành hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô
ý. Trong lỗi cố ý có hai mức độ cố ý là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp; lỗi vô ý cũng
có hai mức độ là vô ý do quá tự tin và vô ý do cẩu thả.
- Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện
hành vi phạm tội cố ý và mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà
người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội.
Ví dụ: Mặt chủ quan của tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS): tội phạm được
thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp nhằm mục đích vụ lợi. Người phạm tội biết rõ tài sản
mà y cướp là tài sản của người khác và mục đích của y là muốn chiếm đoạt và biến tài
sản của người khác thành của mình.
Mặt chủ quan của tội khủng bố (Điều 84 BLHS): tội phạm được thực hiện do
lỗi cố ý trực tiếp và mục đích nhằm chống chính quyền nhân dân. Tuy nhiên nếu hành
vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể, đe dọa xâm phạm tính mạng không
nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân thì không cấu thành tội khủng bố mà có 7
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người (Điều 93 BLHS). Như vậy, rõ
ràng dấu hiệu hậu quả làm chết người và hành vi khách quan xâm phạm tính mạng
của người khác chưa đủ để phản ánh mục đích phạm tội; do đó mục đích chống chính
quyền nhân dân là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm của tội khủng bố (Điều 84 BLHS)
Mặt chủ quan của tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống
chính quyền nhân dân (Điều 91 BLHS): tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp
và mục đích nhằm chống chính quyền nhân dân. Tuy nhiên, cũng hành vi trốn đi nước
ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài mà không có mục đích chống chính quyền nhân dân
thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xuất cảnh, nhập cảnh trái phép; tội ở
lại nước ngoài hoặc ở lại Việt Nam trái phép (Điều 274 BLHS); ở đây hành vi khách
quan không phản ánh được mục đích phạm tội, do đó mục đích nhằm chống chính
quyền nhân dân là dấu hiệu bắt buộc của CTTP tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại
nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 91 BLHS).
Mặt chủ quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, là cơ sở
để buộc chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và về hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi đó gây ra; nếu không có lỗi thì
chủ thể không phải chịu trách nhiệm hình sự, dù cho hành vi họ thực hiện đã gây ra
hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Điều 8 BLHS xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội
chỉ bị coi là tội phạm khi được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.
=> Kết luận: Như vậy, mỗi yếu tố trên đều có mặt quan trọng của nó. Bốn yếu
tố cấu thành tội phạm có liên quan với nhau và tổng hợp lại cùng quyết định tính nguy
hiểm của tội phạm. Trong thực tế, mỗi yếu tố chỉ tồn tại với tư cách là bộ phận cấu
thành của thể thống nhất là tội phạm. Thiếu bất kỳ yếu tố nào cũng không có tội phạm.
2. CẤU THÀNH TỘI PHẠM 2.1. Khái niệm
Trong khoa học Luật hình sự, có rất nhiều quan điểm về khái niệm cấu thành
tội phạm như cấu thành tội phạm là khuôn mẫu pháp lý của tội phạm, hoặc cấu thành
tội phạm là khái niệm pháp lý (được quy định trong luật) về hành vi phạm tội. Trong
cuốn sách Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự do TS. Đào Trí Úc chủ biên
đưa ra khái niệm: “Cấu thành tội phạm là hệ thống các dấu hiệu cần và đủ đặc trưng
cho từng tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự”. Tuy nhiên, về cơ bản,
quan điểm được thừa nhận rộng rãi về khái niệm của cấu thành tội phạm là tổng
hợp những dấu hiệu đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật
hình sự như trong giáo trình Đại học Luật Hà Nội.
Như ta đã biết, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật hình sự. Điều 2 BLHS quy định “Chỉ người nào phạm một tội đã được luật
hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Theo quy định đó của Bộ luật 8
hình sự thì tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự ở dạng hoàn chỉnh với đầy
đủ các yếu tố hợp thành. Khuôn mẫu pháp lý đó chính là cấu thành tội phạm. Do đó,
dù được định nghĩa theo quan điểm nào ta cũng có thể hiểu Cấu thành tội phạm có các
đặc điểm: là tổng hợp những dấu hiệu mà những dấu hiệu này không bao gồm tất cả
các yếu tố của tội phạm mà chỉ thể hiện các yếu tố đặc trưng, các yếu tố cần và đủ để
khẳng định hành vi có tội hay không và phân biệt tội đó với các tội khác. Hay nói
cách khác là cần và đủ cho việc định tội. Và các dấu hiệu cấu thành tội phạm này phải
được quy định trong Bộ luật hình sự và trở thành khuôn mẫu pháp lý của tội phạm.
Các dấu hiệu này được quy định cả ở phần các tội phạm và cả ở phần chung của Bộ luật hình sự.
Như vậy, không phải tất cả các dấu hiệu của bốn yếu tố đều được đưa vào
CTTP; có những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các CTTP; có những dấu hiệu
có thể có trong CTTP của những tội khác. Điều này được thể hiện:
- Mặt khách quan của tội phạm có yếu tố hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu
hiệu bắt buộc phải có trong mọi CTTP; các yếu tố không bắt buộc phải có trong mọi
CTTP đó là: hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả; thời gian, địa điểm, hoàn cảnh (điều kiện), phương pháp (thủ đoạn), công cụ
và phương tiện phạm tội. Điều này là do trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi
khách quan là biểu hiện cơ bản nhất và do vậy cũng là biểu hiện cơ bản nhất của tội
phạm nói chung. Tất cả các biểu hiện khác của tội phạm đều chỉ là các biểu hiện xoay
quanh và gắn liền với hành vi. Không có hành vi thì cũng không có các biểu hiện
khác. Do vậy, dấu hiệu hành vi được mô tả trong tất cả các CTTP. Mặt khác, bất cứ
tội phạm nào cũng đều có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng dấu hiệu
hậu quả không phải được mô tả trong tất cả các CTTP. Dấu hiệu này chỉ được mô tả
trong trường hợp hành vi chỉ có tính nguy hiểm hoặc tính nguy hiểm đầy đủ của tội
phạm khi gây ra hậu quả và do đó dấu hiệu hậu quả nói chung phải được mô tả trong
tất cả các CTTP vô ý. Vô ý là sự phủ định chủ quan ít nghiêm trọng hơn sự phủ định
chủ quan của lỗi cố ý. Do vậy, chỉ trong sự thống nhất với sự phủ định khách quan ở
mức độ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội thì hành vi mới có tính nguy hiểm của
tội phạm. Đối với tội cố ý dấu hiệu hậu quả không phải được mô tả trong tất cả các
CTTP mà chỉ trong một số CTTP. Những CTTP đòi hỏi phải có sự mô tả dấu hiệu
hậu quả là các trường hợp hành vi chỉ có tính nguy hiểm hoặc tính nguy hiểm đầy đủ
của tội phạm khi hành vi cố ý đó đã gây ra hậu quả hoặc khi hậu quả ở mức độ nhất
định. Các dấu hiệu khác như phương tiện phạm tội; phương pháp, thủ đoạn phạm tội;
thởi gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội chỉ được phản ánh là dấu hiệu bắt buộc trong
một số tội nhất định vì những tội này đòi hỏi phải có để xác định chính xác hành vi
phạm tội (ví dụ tội đưa hối lộ Điều 289 BLHS đòi hỏi phương tiện phạm tội phải là
những giá trị vật chất; tội cưỡng ép kết hôn Điều 146 BLHS đòi hỏi thủ đoạn phạm
tội là thủ đoạn hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải, uy hiếp tinh thần…; tội hoạt 9
động phỉ Điều 83 BLHS thì địa điểm phạm tội là vùng núi, vùng biển, vùng hiểm yếu
khác; tội giết con mới đẻ Điều 94 BLHS thì hoàn cảnh phạm tội là hoàn cảnh khách quan đặc biệt).
Ví dụ: ở tội cướp tải sản (Điều 133 BLHS) thì mặt khách quan của tội phạm
được thể hiện ở hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc
hành vi khác nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Tội cướp tài sản được coi là
hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình
trạng không thể chống cự được, bất kể là người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản
hay không; do đó yếu tố hậu quả, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh… ở đây không được
coi là yếu tố bắt buộc trong CTTP.
- Mặt chủ quan của tội phạm có yếu tố lỗi là dấu hiệu bắt buộc phải có trong
mọi CTTP; các yếu tố không bắt buộc phải có trong mọi CTTP, đó là: động cơ và
mục đích phạm tội. Điều này là do: người phải chịu TNHS theo luật hình sự Việt
Nam không phải chỉ đơn thuần vì người này đã có hành vi khách quan gây thiệt hại
cho xã hội mà còn vì đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi khách quan đó. Luật hình
sự Việt Nam không chấp nhận quy tội khách quan, nghĩa là truy cứu TNHS con người
chỉ trên cơ sở hành vi khách quan mà không xét đến lỗi của họ. Do đó, yếu tố lỗi là
dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi CTTP. Yếu tố động cơ phạm tội và mục đích
phạm tội chỉ được phản ánh trong một số tội nhất định như: dấu hiệu động cơ phạm
tội ở các điều 95 (tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động); điều 96 (tội
giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng); điều 105 (tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động); điều 106 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng); dấu hiệu mục đích ở các điều trong
14 tội tại Chương I các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các điều 133 (tội cướp tài sản)
– 135 (tội cưỡng đoạt tài sản); 136 (tội cướp giật tài sản) – 143 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);
Ví dụ: ở tội vô ý làm chết người (Điều 98 BLHS) thì mặt chủ quan của tội
phạm ở đây được thể hiện do lỗi vô ý, yếu tố động cơ và mục đích không được qui
định là yếu tố bắt buộc trong CTTP của tội này.
- Chủ thể của tội phạm có yếu tố con người cụ thể; có năng lực TNHS và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự bắt buộc phải có trong mọi CTTP; yếu tố không bắt
buộc phải có trong mọi CTTP, đó là các dấu hiệu bổ sung tương ứng đối với riêng chủ
thể đặc biệt của tội phạm.
Ví dụ: ở tội giết con mới đẻ (Điều 94 BLHS) thì chủ thể ở đây ngoài những dấu
hiệu bắt buộc phải có trong mọi CTTP ở đây là có NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS
(người từ đủ 16 tuổi trở lên (do đây là tội phạm ít nghiêm trọng) có NLTNHS) thì còn
phải bổ sung yếu tố là phụ nữ đã đẻ ra đứa trẻ. 10
Nhằm làm rõ khái niệm về CTTP, ta sẽ xem xét mối quan hệ giữa CTTP với tội
phạm và CTTP với phần quy định của điều luật phần riêng của BLHS:
Mối quan hệ giữa CTTP và tội phạm là mối quan hệ giữa hiện tượng và
khái niệm. Tội phạm là hiện tượng xã hội cụ thể, tồn tại khách quan còn CTTP là khái
niệm pháp lí của hiện tượng đó, CTTP là sự mô tả tội phạm trong luật qua các dấu
hiệu thuộc bốn yếu tố có tính đặc trưng, phản ánh được đầy đủ nội dung chính trị - xã hội của tội phạm.
CTTP cũng không đồng nhất với phần quy định của điều luật Phần riêng của BLHS:
- Phần quy định của điều luật phần riêng của BLHS chỉ là bộ phận chính của CTTP
- Bộ phận còn lại là một nội dung được quy định chung trong các điều luật
Phần chung của BLHS (như quy định về tuổi chịu TNHS, về năng lực TNHS, về nội dung các loại lỗi…)
Ví dụ: CTTP tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người
khác được quy định tại Điều 104 BLHS không chỉ bao gồm phần quy định của Điều
104 (người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác…) mà còn bao gồm cả các quy định thuộc các điều luật phần chung của BLHS
về chủ thể của tội phạm (trong đó có tuổi chịu trách nhiệm hình sự, năng lực TNHS…)
2.2. Đặc điểm của các dấu hiệu trong CTTP
Với tính chất là khái niệm pháp lý về hình thức cấu trúc và phản ánh tính nguy
hiểm cho xã hội của một loại tội phạm, CTTP trong luật hình sự được coi là cơ sở
pháp lý của trách nhiệm hình sự và sự thỏa mãn CTTP là điều kiện cần và đủ để tiến
hành truy cứu trách nhiệm hình sự. Bởi vì, việc xác định một người có phạm tội hay
không và nếu phạm tội thì phạm tội gì chính là quá trình xác định hành vi của họ có
thỏa mãn các dấu hiệu của một CTTP cụ thể hay không. Do đó, phải nắng vững đặc
điểm chung của các dấu hiệu trong CTTP.
Những dấu hiệu của CTTP mang những đặc điểm sau:
2.2.1. Các dấu hiệu trong CTTP đều do luật định.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự.
Nhà nước quy định tội phạm trong luật hình sự bằng cách mô tả những dấu hiệu của
CTTP và quy định những dấu hiệu đó trong luật. Do đó tất cả những dấu hiệu của
CTTP đều là những dấu hiệu đã được quy định trong luật hình sự.
2.2.2. Các dấu hiệu trong CTTP có tính đặc trưng
CTTP là kết quả của sự phản ánh tội phạm trong luật hình sự. Trong đó tội
phạm được mô tả qua các dấu hiệu đặc trưng về hình thức cấu trúc. Sự mô tả tội phạm
này là sự mô tả có tính pháp lý, chỉ được thực hiện trong luật. CTTP là cơ sở pháp lý
của trách nhiệm hình sự và do vậy đòi hỏi sự mô tả phải phản ánh được những nội 11
dung biểu hiện của bốn yếu tố có tính đặc trưng của loại tội đó và đủ để phân biệt
trường hợp phạm tội được mô tả trong CTTP này với trường hợp phạm tội được mô tả
trong các CTTP khác. Dựa vào CTTP có thể nhận thức và chứng minh được trường
hợp phạm tội được mô tả trong CTTP mà không có sự hiểu rộng ra hoặc hẹp đi và
cũng không có sự nhầm lẫn với các trường hợp phạm tội khác.
Ví dụ: tuy đều thuộc nhóm tội có yếu tố chiếm đoạt và xâm hại khách thể là
quyền sở hữu tài sản nhưng các tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu có
những dấu hiệu đặc trưng riêng trong CTTP: đặc trưng của tội trộm cắp tài sản (Điều
138 BLHS) là hành vi lén lút để chiếm đoạt tài sản của người khác; ở tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS) là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho người
có tài sản tin đó là sự thật nên đã tự nguyện giao tài sản cho người có hành vi đó; tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 BLHS) là hành vi chiếm đoạt toàn
bộ hay một phần tài sản đã được giao trên cơ sở thỏa thuận đẫ được cam kết giữa chủ
tài sản và người có hành vi chiếm đoạt; tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là hành vi
dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho
người bị tấn công lâm vào tình trạng mất khả năng chống cự nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác…
2.2.3. Các dấu hiệu trong CTTP có tính bắt buộc
Để kết luận hành vi của một người phạm vào một tội cụ thể đòi hỏi phải xác
định hành vi đó có thỏa mãn những dấu hiệu của CTTP tương ứng hay không? Nếu
một trong những dấu hiệu của CTTP không thỏa mãn thì hành vi đó không cấu thành
tội mà CTTP đó phản ánh. Tất cả những dấu hiệu của CTTP đều là điều kiện cần để
xác định hành vi có CTTP hay không và tất cả các dấu hiệu của CTTP đều có tính bắt
buộc khi xác định tội phạm.
Ví dụ: cùng là hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, có chủ
thể thực hiện tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất
định; được thực hiện với lỗi cố ý nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản nhưng để xác
định một hành vi phạm tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS) thì phải chứng minh
được người thực hiện hành vi đã có sự lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, còn
đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS), người thực hiện hành vi đã
dùng thủ đoạn gian dối làm cho người có tài sản tin đó là sự thật nên đã tự nguyện giao tài sản cho mình.
2.3. Phân loại cấu thành tội phạm (là việc chia các CTTP thành những dạng
khác nhau dựa trên các tiêu chí nhất định nhằm đảm bảo cho việc định tội danh và
quyết định hình phạt được chính xác, cũng như hỗ trợ cho việc cá thể hóa TNHS và
hình phạt được công minh, có căn cứ và đúng pháp luật). Căn cứ vào các tiêu chí nhất
định, có thể phân loại CTTP theo hai cách cơ bản sau: 12
- Thứ nhất, căn cứ vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được CTTP
phản ánh thì CTTP được chi thành: CTTP cơ bản; CTTP tăng nặng và CTTP giảm nhẹ.
- Thứ hai, căn cứ theo đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách
quan có thể chia CTTP thành CTTP vật chất và CTTP hình thức.
2.3.1. Phân loại theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được CTTP phản ánh.
- CTTP cơ bản: là CTTP chỉ có dấu hiệu định tội – dấu hiệu mô tả tội
phạm và cho phép phân biệt tội này với tội khác
Như vậy, CTTP cơ bản là cấu thành tội phạm bao gồm các dấu hiệu đặc trưng
cơ bản và bắt buộc chỉ có ở một loại tội, có ý nghĩa định tội giúp phân biệt tội đó với
tội khác được dựa trên các dấu hiệu ấy
Ví dụ: CTTP quy định tại khoản 1 Điều 139 BLHS (tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản): “ người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị
từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây
hậu quả nghiêm trọng….thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm”. Như vậy, trong CTTP cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, có các dấu hiệu đặc trưng nhất của tội này đó là: hành vi gian dối, hành vi chiếm
đoạt và hậu quả tài sản bị chiếm đoạt “từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu
đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng…”, giúp phân biệt tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội cướp tài sản…
- CTTP tăng nặng: là CTTP mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu
hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một
cách đáng kể (so với trường hợp bình thường)
Như vậy, CTTP tăng nặng là cấu thành tội phạm mà ngoài các dấu hiệu của
CTTP cơ bản ra, còn có các dấu hiệu khác phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội
cao (hoặc rất cao) của tội phạm nên có ý nghĩa làm tăng lên đáng kể (rất đáng kể)
mức độ TNHS của chủ thể.
Ví dụ: CTTP quy định tại khoản 2 Điều 139 BLHS thì ngoài những dấu hiệu tại
khoản 1 Điều 139, người phạm tội thuộc một trong các trường hợp : có tổ chức; có
tính chất chuyên nghiệp; tái phạm nguy hiểm… thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Như vậy, các dấu hiệu “có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm nguy
hiểm…” là các dấu hiệu định khung tăng nặng.
- CTTP giảm nhẹ: là CTTP mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu
hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể.
Như vậy, CTTP giảm nhẹ là CTTP mà ngoài các dấu hiệu của CTTP cơ bản ra,
còn có các dấu hiệu khác phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội giảm đi một cách 13
đáng kể (so với cách thông thường) nên có ý nghĩa làm giảm đi đáng kể mức độ TNHS của chủ thể.
Ví dụ: CTTP quy định tại khoản 2 Điều 78 BLHS (tội phản bội tổ quốc): ngoài
các dấu hiệu tại khoản 1 Điều 78 BLHS thì phạm tội trong trường hợp có nhiều tình
tiết giảm nhẹ thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Tương tự, khoản 2 Điều 80
BLHS (tội gián điệp); khoản 2 Điều 85 BLHS (tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật
của nước CHXHCN Việt Nam…là CTTP giảm nhẹ.
*Ngoài ra, trong khoa học luật hình sự còn có hai loại CTTP bổ sung cho
các tội phạm cố ý, đó là CTTP của hành vi phạm tội chưa hoàn thành (CTTP của
chuẩn bị phạm tội và CTTP của phạm tội chưa đạt) và CTTP của hành vi đồng phạm.
Về nguyên tắc, CTTP là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự. Bất cứ hành vi
nào đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì đều phải thỏa mãn những dấu hiệu của một
CTTP, do đó CTTP đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và hành
vi đồng phạm được đặt ra.
- CTTP của hành vi phạm tội chưa hoàn thành (CTTP của chuẩn bị phạm tội và
CTTP của phạm tội chưa đạt) không được quy định trực tiếp cho từng tội danh; dấu
hiệu chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt được quy định trong các quy phạm thuộc
phần chung BLHS. CTTP này được hình thành trên cơ sở kết hợp CTTP cụ thể với
quy định chung về chuẩn bị phạm tội (Điều 17 BLHS) và phạm tội chưa đạt (Điều 18 BLHS).
- CTTP của đồng phạm: không được quy định trực tiếp cho từng tội danh; dấu
hiệu của các hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức thực hiện tội phạm được quy định
trong các quy phạm thuộc Phần chung BLHS. CTTP này được hình thành trên cơ sở
kết hợp CTTP của tội phạm cụ thể với quy định chung về đồng phạm (Điều 20 BLHS; Điều 53 BLHS)
2.3.2. Phân loại theo đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
- CTTP vật chất: là CTTP có các dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan
là hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Ví dụ: Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145 BLHS):
Hành vi : vi phạm những quy tắc sinh hoạt xã hội thông thường (không tuân thủ
hoặc tuân thủ không đúng, không đầy đủ).
Hậu quả của hành vi: gây ra thiệt hại cho tài sản của người khác có giá trị tài
sản bị thiệt hại từ năm mươi triệu đồng trở lên; thiệt hại này phải là kết quả trực tiếp của hành vi phạm tội.
Ví dụ: Tội giết người (Điều 93 BLHS) 14
Hành vi: tước bỏ quyền sống của người khác một cách trái pháp luật bằng
những thủ đoạn và phương tiện khác nhau gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội (có thể
bằng hành động hoặc không hành động).
Hậu quả: làm chết người
- CTTP hình thức: là CTTP chỉ có một dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách
quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Ví dụ: tội cướp giật tài sản (Điều 136 BLHS) chỉ cần có dấu hiệu có hành vi
công khai và nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác.
* Ngoài ra, còn có CTTP cắt xén là dạng đặc biệt của CTTP hình thức. Trong
CTTP cắt xén, dấu hiệu hành vi không phải là sự phản ánh chính hành vi phạm tội
(của loại tội phạm được CTTP cắt xén phản ánh) mà là hành vi “hoạt động” nhằm
thực hiện hành vi đó – hành vi phạm tội của loại tội phạm được CTTP cắt xén phản ánh
Ví dụ: CTTP tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 BLHS);
dấu hiệu hành vi phản ánh tất cả những hoạt động nhằm thành lập hoặc tham gia tổ
chức có mục đích lật đổ chính quyền, chứ không phải phản ánh chính hành vi thành
lập hoặc tham gia là hai loại hành vi phạm tội của loại tội phạm này.
=> Việc xây dựng loại tội nào có CTTP cơ bản là CTTP vật chất hay CTTP
hình thức là xuất phát từ cơ sở khách quan:
- Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện được đầy đủ tính nguy
hiểm của tội phạm hoặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội là hậu quả khó xác định thì
CTTP thường được xây dựng là CTTP hình thức.
- Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa thể hiện được hoặc chưa thể
hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà đòi hỏi phải có cả hậu
quả nguy hiểm cho xã hội thì CTTP thường được xây dựng là CTTP vật chất.
=> Việc phân loại các CTTP khác nhau về cấu trúc của các dấu hiệu thuộc
mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa trong việc xác định thời điểm hoàn thành
của các loại tội phạm cho phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm cũng
như đặc điểm riêng của mỗi tội phạm.
- Nếu tội phạm có CTTP vật chất thì tội phạm hoàn thành khi hậu quả nguy
hiểm cho xã hội đã xảy ra;
- Nếu tội phạm có CTTP hình thức thì tội phạm hoàn thành ngay khi hành vi
phạm tội đã được thực hiện, không kể đã gây ra hậu quả hay chưa;
- Nếu tội có CTTP cắt xén thì tội phạm hoàn thành ngay từ khi có hành vi bất
kỳ nhằm thực hiện hành vi phạm tội.
2.3.3. Ngoài ra còn có các cách phân loại khác
- Căn cứ vào việc mô tả khách thể bị xâm hại:
+ CTTP đơn: là CTTP mô tả một khách thể bị xâm hại 15
Ví dụ: tội giết người xâm phạm quyền sống của con người; trộm cắp tài sản
xâm hại đến quan hệ sở hữu.
+ CTTP ghép: là CTTTP mô tả (trực tiếp hoặc gián tiếp) từ hai khách thể bị xâm hại trở lên.
Ví dụ: CTTP tội cướp tài sản trong BLHS, khách thể được mô tả trong CTTP
tội cướp tài sản là quyền nhân thân và quyền sở hữu).
- Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm:
+ CTTP mục đích: là CTTP có dấu hiệu phản ánh mục đích nhất định của người phạm tội
Ví dụ: các tội xâm phạm an ninh quốc gia có mục đích nhằm chống lại hoặc
làm suy yếu chính quyền nhân dân; tội cướp tài sản có mục đích muốn chiếm đoạt và
biến tài sản của người khác thành tài sản của mình
+ Các CTTP khác (không có mục đích)
Ví dụ: tội vi phạm quy định về điều kiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202 BLHS)
- Căn cứ vào mức độ cụ thể của sự mô tả các dấu hiệu trong CTTP:
+ CTTP mô tả: là CTTP trong đó các dấu hiệu đặc trưng thuộc các yếu tố của
tội phạm đó được mô tả trực tiếp.
Ví dụ: tội cướp tài sản : các dấu hiệu đặc trưng của tội cướp tài sản được mô tả
cụ thể : “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi
khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt tài sản...”
+ CTTP chỉ dẫn: là CTTP trong đó có những dấu hiệu đặc trưng của tội phạm
không được trực tiếp mô tả mà chỉ được chỉ dẫn sang điều luật hoặc văn bản luật khác
Ví dụ: Tội vi phạm quy định về điều kiển phương tiện giao thông đường bộ
(Điều 202 BLHS) chỉ dẫn “quy định về an toàn giao thông đường bộ”.
+ CTTP đơn giản: là CTTP trong đó chỉ nhắc lại tội danh mà không có sự mô tả
cụ thể các dấu hiệu đặc trưng của tội phạm.
Ví dụ: CTTP giết người: chỉ nêu “Người nào giết người...” mà không mô tả thế nào là giết người.
3. Ý NGHĨA CỦA CẤU THÀNH TỘI PHẠM
3.1. Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự
- Khoản 2 Điều 107 BLTTHS năm 2003 quy định một trong bảy căn cứ không
được khởi tố vụ án hình sự, đó là: “Hành vi không cấu thành tội phạm”.
- Điều 19 BLHS năm 1999 quy định về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
ghi nhận: “Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình
sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một
tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này”. 16
Muốn biết hành vi nào đó có được quy định trong BLHS hay không và do vậy
có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không thì phải xác định hành vi đó có thỏa mãn
những dấu hiệu của CTTP nào đó hay không. Nếu hành vi đó có đủ những dấu hiệu
của một CTTP thì có nghĩa hành vi đó là hành vi phạm tội được quy định trong luật
hình sự và người thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm hình sư. Do đó, phải dựa
vào những dấu hiệu của CTTP để nhận định hành vi có phải là tội phạm hay không và
người thực hiện hành vi có phải chịu TNHS hay không => CTTP là cơ sở pháp lí của TNHS.
3.2. Cấu thành tội phạm là căn cứ pháp lí để định tội
Định tội là việc xác định hành vi cụ thể đã thực hiện phạm vào tội gì trong số
những tội phạm đã được quy định trong BLHS. Định tội danh chính xác tức là xác
định đúng sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất
định nào đó được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP tương ứng – các dấu hiệu
được quy định tại một quy phạm PLHS cụ thể của phần các tội phạm BLHS. Nếu như
trong hành vi nguy hiểm cho xã hội không có đầy đủ các dấu hiệu của một CTTP nào
đó được quy định trong PLHS thực định thì hành vi đó không CTTP. Như vậy, CTTP
là căn cứ pháp lí của việc định tội.
3.3. Cấu thành tội phạm là căn cứ pháp lí để định khung hình phạt
Các trường hợp phạm tội trên thực tế thuộc một tội danh tuy có cùng những đặc
điểm đặc trưng nhất định nhưng có sự khác nhau về mức độ của tính nguy hiểm cho
xã hội. Do vậy đòi hỏi phải có những khung hình phạt khác nhau cho cùng một tội
danh để đảm bảo có sự phân hóa trách nhiệm hình sự ngay trong luật và qua đó tạo
điều kiện cho cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong thực tiễn áp dụng. Nếu chỉ có một
khung hình phạt cho mỗi tội danh thì khoảng cách giữa mức tối thiểu và mức tối đa
của khung đó sẽ rất lớn mới có thể phù hợp được với tất cả các trường hợp phạm tội trong thực tế.
Trong thực tế, mỗi tội danh có một khung hùnh phạt cho trường hợp phạm tội
bình thường. Khung hình phạt này thường được gọi là khung hình phạt cơ bản. Bên
cạnh khung hình phạt này, nhà làm luật căn cứ vào tình hình tội phạm và yêu cầu đấu
tranh phòng chống của mỗi loại tội phạm, có thể xây dựng một hoặc nhiều khung hình
phạt khác nặng hơn hoặc nhẹ hơn. Đó là các khung hình phạt tăng nặng và các khung
hình phạt giảm nhẹ. Gắn liền với các khung hình phạt này là dấu hiệu định khung
hình phạt tăng nặng và dấu hiệu định khung hình phạt giảm nhẹ. Như vậy, CTTP tăng
nặng và CTTP giảm nhẹ là cơ sở pháp lí để xác định khung hình phạt. 17