







Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN  KHOA: XUẤT BẢN              BÀI KIỂM TRA GIỮA KÌ 
MÔN QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ X Ấ U T BẢN                Họ và tên: QUÁCH HÀ THU  Mã sinh viên: 2158020069                  HÀ NỘI - 2023 MỤC LỤC  ĐỀ K ỂM I  TRA  2  BÀI LÀM  3  I. 
Liên kết trong hoạt động xuất bản  3 
1. Nguồn gốc liên kết trong hoạt động xuất bản  3 
2. Thực trạng của hoạt động liên kết trong xuất bản.  4  2.1. Ưu điểm  4  2.2. Hạn chế  4 
II. Ý kiến cá nhân về hợp đồng liên kết trong hoạt động xuất bản hiện  nay 5  1. Ý kiến về n ậ h n định  5  2. Ý kiến đề x ấ u t sửa đổi luật.  6                                      1    ĐỀ K ỂM I  TRA 
Trong báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Xuất bản có viết: 
 "Quy định về hợp đồng liên kết hiện nay can thiệp sâu vào công việc sản xuất 
- kinh doanh của nhà xuất bản, không mang lại hiệu quả trong quản lý nhà nước, 
trong khi về bản chất là quan hệ kinh tế, dân sự (không phải là quan hệ hành chính) 
giữa nhà xuất bản với đối tác, được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật liên  quan." 
 Anh/Chị hãy cho ý kiến về đánh giá trên và ý kiến đề xuất về cho việc sửa 
đổi luật thời gian tới    2    BÀI LÀM  I. 
Liên kết trong hoạt động xuất bản 
1. Nguồn gốc liên kết trong hoạt động xuất bản 
- Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng nhằm phổ biến, giới 
thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc 
và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân 
dân, nâng cao dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt 
Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, phát triển kinh tế - xã hội, 
đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp 
phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ 
thông tin, ngành xuất bản ở Việt Nam đứng trước nh ề i u cơ hội và thách 
thức. Đây còn là một trong những công cụ đáp ứng nhu cầu đời sống tinh 
thần của nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng giao lưu văn hóa 
giữa các nước trên thế giới. Chính vì vậy hoạt động xuất bản và liên kết 
xuất bản hiện nay cần phải được đặt dưới sự quản lý của nhà nước. 
- Luật Xuất bản đầu tiên được chính thức phát hành vào năm 1993, cho phép 
cá nhân, tổ chức được thành lập cơ sở in và phát hành. Đây cũng chính là 
lí do để xuất hiện một số nhà sách tư nhân chủ động liên hệ với tác giả, đầu 
tư kinh phí tìm kiếm bản thảo để gửi đến nhà xuất bản để biên tập và đăng 
ký xuất bản, sau đó in và phát hành. Ngày 25-8-2004, Ban Bí thư Trung 
ương Đảng đã ra Chỉ thị số 42-CT/TW về nâng cao chất lượng toàn diện 
của hoạt động xuất bản. Chỉ t ị h 4 -
2 CT/TW là văn bản định hướng quan 
trọng để các cơ quan quản lý nhà nước biên soạn dự t ả h o Luật Xuất bản 
(sửa đổi) trình Quốc hội và được thông qua vào tháng 12/2004. Theo đó, 
chính thức cho phép nhà xuất bản được liên kết với tổ chức, cá nhân để xuất 
bản từng xuất bản phẩm. 
- Tóm gọn lại chính là theo quy chế liên kết của hoạt động xuất bản do Quốc 
hội ban hành có 4 quy định chung về h ạ
o t động liên kết cần lưu ý: 
 Liên kết trong hoạt động xuất bản chính là hợp tác gữa một bên là nhà xuất 
bản với một bên là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, cá nhân có giấy chứng 
nhận đăng ký kinh doanh về in hoặc phát hành x ấ
u t bản phẩm và tổ chức 
có tư cách pháp nhân (sau đây gọi chung là đối tác liên kết) để tổ chức bản 
thảo, in và phát hành từng xuất bản phẩm. 
 Các hình thức liên kết trong hoạt động xuất bản gồm: tổ chức bản thảo, in, 
phát hành xuất bản phẩm. Các bên tham gia liên kết có thể áp dụng một 
hoặc nhiều hình thức trên. 
 Có hợp đồng liên kết xuất bản giữa nhà xuất bản và đối tác liên kết. Hợp 
đồng liên kết phải có các nội dung cơ bản theo quy định của Bộ trưởng Bộ 
Thông tin và Truyền thông.  3   
 Trách nhiệm của tổ chức cá nhân khi tham gia hoạt động liên kết xuất bản. 
Giám đốc, Tổng biên tập nhà xuất bản chịu trách nhiệm trước pháp luật về 
xuất bản phẩm liên kết của mình; Giám đốc cơ sở in, Giám đốc hoặc người 
đứng đầu cơ sở phát hành xuất bản phẩm, đối tác liên kết liên đới chịu trách 
nhiệm trước pháp luật về xuất bản phẩm liên kết.   
2. Thực trạng của hoạt động liên kết trong xuất bản.  2.1. Ưu điểm 
- Liên kết trong hoạt động xuất bản như một động lực để ngành xuất bản có 
nhiều thành công mới: số lượng, c ủ
h ng loại và thể loại sách đã tăng vọt. 
- Tạo điều kiện cho nhiều nhà xuất bản tháo gỡ được vấn đề thiếu vốn để đầu  tư bản thảo. 
- Nhiều công ty sách ra đời, với mục đích kinh doanh lành mạnh, mong muốn 
mang đến cho bạn đọc những cuốn sách bổ ích. Sự đón nhận, ủng hộ của 
bạn đọc đã giúp cho nhiều công ty sách tồn tại, phát triển không ngừng. 
 Có thể nói, việc liên kết một mặt đã tạo ra nhiều tác động tích cực đối với 
ngành xuất bản tại Việt Nam. Ví dụ như tác phẩm Nhật ký Đặng Thùy Trâm 
với gần 500 nghìn bản sách được phát hành; được biết tác phẩm là kết quả 
của sự liên kết giữa nhà xuất bản Hội Nhà văn và Công ty cổ p ầ h n văn hóa 
và truyền thông Nhã Nam. Ngoài ra còn có những tác phẩm liên kết đạt 
được những thành tựu nhất định như Từ điển Việt – Anh (Công ty TNHH 
Thương mại, Dịch vụ văn hóa Gia Vũ) giành giải thưởng cao nhất của Sách  Việt Nam    2.2. Hạn chế 
- Nhưng mặt khác cũng đưa tới nguy cơ một số nhà xuất bản có thể rơi vào 
tình trạng đáng lo ngại là khó kiểm soát chặt chẽ được bản thảo đưa in. 
Thực tế, sau khi đăng ký với Cục Xuất bản, nhà xuất bản ký quyết định xuất 
bản, bản thảo đã biên tập được giao cho đối tác. Việc đưa đi in ở đâu, sách 
in có đúng như bản thảo được duyệt hay không, Nhà xuất bản hầu như 
không nắm được. Trong trường hợp xảy ra sai sót, bên cạnh việc nhà xuất 
bản đương nhiên phải gánh chịu hậu quả trước công luận và pháp luật, rất 
hiếm đối tác liên kết phải chịu trách nhiệm tương xứng với hành vi của  mình. 
 Để hạn chế các lỗ hổng nêu trên, sau khi Luật Xuất bản năm 2012 có hiệu 
lực, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ra quy định về mẫu hợp đồng liên 
kết, yêu cầu ký hợp đồng ba bên gồm nhà xuất bản, đối tác liên kết và cơ  sở in. 
- Thực tế quá trình liên kết xuất bản còn cho thấy, một số nhà xuất bản đã  dần đánh mất sự c ủ
h động, năng động trong phân tích, đánh giá và định  4   
hướng đề tài, trong xây dựng thương hiệu và thị trường riêng. Cá biệt, có 
nhà xuất bản bằng lòng với việc chỉ cần tổ chức biên tập, cấp phép để thu 
quản lý phí, không cần bỏ vốn đầu tư và in ấn, phát hành vẫn có thu nhập 
và có sách công bố, qua đó xây dựng thương hiệu.    II. 
Ý kiến cá nhân về hợp đồng liên kết trong hoạt động xuất bản hiện  nay  1. Ý kiến về n ậ h n định 
- Nhận định cho rằng hợp đồng liên kết trong xuất bản hiện nay đang không  thực sự h ệ
i u quả trong quản lý nhà nước. Ý kiến trên đã thể hiện đúng thực 
trạng trong ngành xuất bản ngày này. Trước tiên chúng ta cần làm rõ nội 
dung bên trong hợp đồng và hoạt động của hai bên khi tham gia xuất bản: 
- Theo luật định, đối tác liên kết với nhà xuất bản chỉ tham gia góp vốn đầu 
tư và chịu trách nhiệm in ấn bản thảo đã được nhà xuất bản biên tập chi tiết 
và ký quyết định xuất bản đối với bản thảo đó. Còn bên phía nhà xuất bản 
sẽ chịu trách nhiệm: biên tập, thẩm định, chịu trách nhiệm xuất bản, cấp 
quyết định xuất bản cho đối tác liên kết xuất bản phẩm. Vậy nên, bên liên 
kết và nhà xuất bản có mối quan hệ kinh tế, dân sự. 
- Tuy vậy, hiện nay nhiều công ty sách có tiềm lực kinh tế lớn và chủ động 
liên hệ với các tác giả để mua bản quyền bản thảo và biên tập sơ bộ. Sau 
đó, mới mang tới nhà xuất bản để “biên tập chi tiết” và được cấp phép xuất 
bản. Một số nhà xuất bản đã gặp hạn chế về tài lực và mối quan hệ nên việc 
khai thác bản thảo gặp nhiều khó khăn, các công ty sách lại có tiềm lực kinh 
tế lớn mạnh. Các công ty sách dần tham gia vào công tác biên tập bản thảo 
để có thể tăng doanh thu sách, điều này là trái pháp luật bởi vì các biên tập 
viên của công ty sách không được cấp chứng chỉ hành nghề biên tập. Nhưng 
trong hợp đồng liên kết giữa 2 bên lại không quy định rõ về vấn đề này. 
- Việc không quy định rõ ràng vấn đề này dẫn đến sự “nhập nhằng” trong 
hoạt động liên kết của nhà xuất bản và đối tác liên kết. Từ đó gây ra nhiều 
ảnh hưởng tiêu cực tới ngành xuất bản như sau: 
 Có thể kể ra hàng loạt vi phạm về mặt nội dung, đáng chú ý như: Nội dung 
không chuẩn xác về mốc thời gian và sự k ệ
i n lịch sử; đề cập những vấn đề 
nhạy cảm chính trị mà không được kiểm chứng hoặc thẩm định nội dung; 
nêu những tư tưởng trái với quan điểm của Đảng và Nhà nước, phủ nhận 
thành tựu cách mạng thông qua những đánh giá thiếu khách quan; nội dung 
nhảm nhí, không phù hợp với văn hóa, thuần phong mỹ tục của Việt Nam... 
 Hệ lụy không ngờ của liên kết xuất bản là việc nhiều nhà xuất bản đã yếu 
kém về tài lực trong khi các đối tác liên kết lại vươn lên mạnh mẽ. Điều tất 
yếu là đa phần các nhà xuất bản dần mất đi quyền làm chủ quy trình xuất 
bản, bán giấy phép với giá rẻ, trở thành “làm thuê” ở khâu “xương xẩu”  5   
nhất là biên tập và thẩm định nội dung. Một số đối tác liên kết thường chạy 
theo lợi nhuận thuần túy, cẩu thả trong biên tập sơ bộ, bỏ qua nhiều khâu 
trong quy trình xuất bản. Không ít nhà xuất bản có đội ngũ biên tập viên 
yếu kém cả về nghiệp vụ lẫn bản lĩnh chính trị và sự buông lỏng quản lý 
của lãnh đạo các nhà xuất bản. Cho nên, sai sót trong liên kết xuất bản là  điều khó tránh khỏi.    2. Ý kiến đề x ấ u t sửa đổi luật. 
- Việc liên kết giữa nhà xuất bản và các bên đang gây ra một tác động tiêu 
cực đến ngành xuất bản ở chỗ. Ở một số nhà xuất bản đang liên kết với 
phần trăm lớn thì biên tập viên của nhà xuất bản đang thiếu sự chủ động, 
sáng tạo trong việc khai thác và biên tập bản thảo. Từ đó gây nên hiện tượng 
“bán giấy phép” trong ngành xuất bản. Vậy nên, theo ý kiến của em, nên  hạn chế p ầ
h n trăm liên kết của nhà xuất bản và đối tác, giới hạn số lượng 
bản thảo liên kết trong năm nằm trong khoảng 50% tổng số lượng xuất bản 
phẩm của nhà xuất bản trong năm đó. Điều này để hạn chế hiện tượng “bán 
giấy phép” của các nhà xuất bản và từ đó cũng tăng tính sáng tạo của đội 
ngũ biên tập viên và nâng cao được hiệu quả làm việc của nhà xuất bản. 
- Bên cạnh đó, khi có sai sót trong xuất bản phẩm được phát hành, cụ thể là 
sách. Bên nhà xuất bản cấp phép phát hành buộc phải chịu trách nhiệm đối 
với xuất bản phẩm đó. Điều này đã được quy định rõ ràng, nhưng với những 
tác phẩm liên kết thì trách nhiệm của bên đối tác liên kết chưa thực sự có 
các chế tài cứng rắn để xử lí. Vì nhiều công ty sách vì chạy theo lợi nhuận 
mà bất chấp nội dung sách: có nhiều nội dung sai, chưa phù hợp và không 
đúng theo quy định của pháp luật. Luật xuất bản năm 2012 đã sửa đổi và 
bổ sung chế tài cho việc vi phạm của đối tác liên kết so với luật năm 2004. 
Nhưng theo cá nhân em thấy, cần gia tăng thêm chế tài để hạn chế những 
sai phạm từ phía đối tác liên kết. 
- Tại Điểm b khoản 1 Điều 23 dự t ả
h o Luật chỉ quy định Nhà xuất bản được 
liên kết với tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh về in, phát hành xuất 
bản phẩm và hội đủ các điều kiện thực hiện việc liên kết quy định tại khoản 
4 Điều 23. Tuy nhiên, tại điểm b khoản 3 lại quy định hình thức liên kết là 
“biên tập sơ bộ bản thảo” là chưa phù hợp, đối tác liên kết chỉ đăng ký kinh 
doanh về in, phát hành xuất bản phẩm thì không thể có đủ năng lực để thực 
hiện việc biên tập sơ bộ bản thảo, họ chỉ t ự
h c hiện tổ chức khai thác bản 
thảo mà họ đi mua của tác giả h ặ o c tổ c ứ
h c cá nhân khác, nếu quy định như 
dự thảo luật sẽ xuất hiện nhiều xuất bản phẩm không đảm bảo về mặt nội 
dung, không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. 
- Mặt khác, quy định tại điểm c khoản 4 trong trường hợp đối tác liên kết 
biên tập sơ bộ bản thảo phải có biên tập viên có đủ năng lực, trình độ theo  6   
quy định của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản cũng không 
hợp lý. Biên tập viên theo định nghĩa của Luật xuất bản là được bổ nhiệm, 
phân công của Nhà xuất bản, đối tác liên kết không đủ đ ề i u kiện để có đội 
ngũ biên tập viên đủ năng lực để t ự
h c hiện việc biên tập bản thảo. Do đó,  đề ng ị
h Ban soạn thảo nên xem xét lại vấn đề này để có quy định phù hợp  hơn.    7