Bài làm câu hỏi tình huống hiến pháp | Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Bình luận về quan điểm của luật sư Lý Ba (người Trung Quốc): “Ởmột quốc gia tự do dân chủ, bản hiến pháp không chỉ ràng buộc chính quyềnmàcònràngbuộcnhândânnữa.Thôngquahiếnpháp,tậpthểdânchúngcamkết tuân theo một thủ tục tổ chức nhất định về cách thức quản trị công việcchungvàgiải quyếtxungđột xã hội.” Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật Hiến Pháp
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45936918 Chiều Xuân- K67 CLC B
Bài làm câu hỏi tình huống hiến pháp
Câu 3, Bình luận về quan điểm của luật sư Lý Ba (người Trung Quốc): “Ở
một quốc gia tự do dân chủ, bản hiến pháp không chỉ ràng buộc chính quyền
mà còn ràng buộc nhân dân nữa. Thông qua hiến pháp, tập thể dân chúng cam
kết tuân theo một thủ tục tổ chức nhất định về cách thức quản trị công việc
chung và giải quyết xung đột xã hội.”
Đúng vì: Một quốc gia dân chủ thì cần có một bản Hiến pháp như vậy nhằm giới
hạn quyền lực của nhà nước và bảo vệ quyền con người.
- Thông qua hiến pháp, người dân ý thức được trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của
mình nhằm xây dựng một đất nước dân chủ. Mọi công dân vi phạm vào HP thì đều
bị xử lí theo luật định. Và để giải quyết các vấn đề chung thì việc cần thiết đó là
mọi người phải tuân theo một thủ tục tổ chức nhất định.
- Ngược lại, dựa vào ý chí của HP, nhân dân quản lí nhà nước thông qua HP, soi
chiếu nhà nước dưới những quy định trong Hiến Pháp. Cũng từ đó mà nhà nước sẽ
làm việc nghiêm túc hơn.
Sai vì: chủ thể của Hiến pháp đó chính là nhân dân, vì vậy Hiến pháp trước tiên là
để ràng buộc nhân dân, sau đó mới ràng buộc chính quyền.
Câu 9, Bộ trưởng Bộ A ban hành một Quyết định theo đó mỗi người chỉ được sở
hữu 01 xe gắn máy. Hãy bình luận từ góc độ Hiến pháp đối với Quyết định trên.
Giả sử Quyết định đó được coi là bất hợp hiến thì cơ chế xử lý theo Hiến pháp
hiện hành của Việt Nam là như thế nào ? Hãy bình luận cơ chế đó.
- Từ góc độ Hiến Pháp, quyết định trên là bất hợp hiến. Bởi vì sở hữu xe gắn máy
thuộc về Quyền sở hữu tư nhân và được quy định trong Hiến pháp.
Tại Điều 32, Khoản 1,2 có nêu :"1.Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt...; 2.Quyền sở hửu tư nhân và
quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ ". lOMoAR cPSD| 45936918
Quyết định của Bộ trưởng A được coi là bất hợp hiến, thì cơ chế xử lí theo Hiến
Pháp hiện hành sẽ như sau:
- Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Nghị định số
40 năm 2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật,
Thủ tướng Chính phủ có quyền đình chỉ thi hành, hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc
toàn bộ nội dung đối với thông tư do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ
ban hành, liên tịch ban hành trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ
tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các quy
định về ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ khác.
=> Trong trường hợp này, Bộ trưởng Bộ tư pháp sẽ trình Thủ tướng Chính phủ
xem xét quyết định bãi bỏ quyết định của Bộ trưởng Bộ A vì trái với Hiến pháp.
Tuy nhiên cơ chế xử lí hành vi vi hiến ở Việt Nam còn nhiều hạn chế như: quy
định xử lý dài dòng; chỉ đình chỉ thi hành, hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ
nội dung đối với thông tư mà không hề xử lí hành vi vi phạm của Bộ trưởng, như
thế là pháp luật vẫn còn lỏng lẻo, chưa hà khắc và các sai phạm vẫn có thể lặp lại.
Cần phải có cơ chế xử lý, truy cứu trách nhiệm của những người ban hành, soạn
thảo văn bản sai đồng thời nên có sự quản lý, kiểm tra, kiểm định nghiêm ngặt hơn
các văn bản sắp được ban hành.
Câu 11, HĐND tỉnh N ra Nghị quyết quy định việc tuyển công chức vào các cơ
quan hành chính trong tỉnh sẽ hạn chế tiếp nhận những người có bằng đại học
tại chức hoặc đại học dân lập. Điều này có vi phạm luật và Hiến pháp không?
Nếu có thì sẽ được cơ quan có thẩm quyền xử lý như thế nào? Đánh giá về cơ chế xử lý đó.
Theo điều Điều 36, Luật Cán bộ, Công chức quy định điều kiện đăng ký dự
tuyển công chức như sau:
1. Người có đủ các điều kiện sau đây không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo được đăng ký dự tuyển công chức:
a) Có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam;
b) Đủ 18 tuổi trở lên; lOMoAR cPSD| 45936918
c) Có đơn dự tuyển; có lý lịch rõ ràng;d) Có văn bằng, chứng chỉ phù hợp;đ) Có
phẩm chất chính trị, đạo đức tốt;e) Đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ;g) Các điều
kiện khác theo yêu cầu của vị trí dự tuyển
Và xét điều 16 trog chương Quyền con người: "Không ai bị phân biệt, đối xử trong
đời sống chính trị, dân sự, văn hóa, xã hôị ", ở đây là vi phạm quyền dân sự của người lao động.
Bộ nội vụ có đưa ra phát ngôn của mình về vấn đề này: "Không chấp nhận bằng tại
chức là vi phạm PL. Hệ tại chức ở VN có nhữg yếu kém là do khâu quản lí yếu
kém, không phải do bản chất hình thức đào tạo này. Hơn nữa còn có một thực tế là
chưa chắc nhữg người có bằg tại chức đã kém hơn người có bằng chính quy (nhiều
người làm cán bộ giỏi rồi mới đi học tại chức, vì trước đó họ không có điều kiêṇ
học) Nếu muốn loại bỏ bằg tại chức, phải lập ra một hội đồng tuyển dụng minh
bạch, công bố điểm thi cụ thể, chứng tỏ cho người dân thấy nhữg người có bằng tại
chức không đáp ứng đủ nhu cầu tuyển dụng, thì mới được phép gạt bỏ hồ sơ của
họ. Đây là xâm phạm nghiêm trọng quyền công dân.Nếu quốc hội ban hành chế
định mới ko tuyển dụng bằg tại chức thì nó mới được luật hóa.
Tuy nhiên thực tế hiện nay việc học tại chức tràn lan, không hiệu quả, không có
năng lực thực sự, chỉ vì mục đích kiếm cái bằng để dễ xin việc nên mới dẫn đến
vẫn đề các cơ quan hành chính hạn chế tiếp nhận những người có bằng đại học tại chức là vì thế.
Câu 12, HĐND thành phố Đ (là thành phố trực thuộc trung ương), ra nghị
quyết dừng đăng ký thường trú mới vào khu vực nội thành đối với những người
không có nghề nghiệp hoặc nhiều tiền án, tiền sự. Nghị quyết của HĐND nói
trên có vi phạm Luật và Hiến pháp không? Nếu có thì cơ chế xử lý hiện hành
như thế nào? Đánh giá cơ chế xử lý đó.
Việc dừng đăng ký thường trú vào khu vực nội thành với những người không có
nghề nghiệp hoặc có tiền án tiền sự là vi phạm hiến pháp, pháp luật. Vì:
- Theo điều 68 hiến pháp 2013 “công dân có quyền tự do cư trú” lOMoAR cPSD| 45936918
- Theo điều 20 luật cư trú thì mọi công dân có quyền đăng ký hộ khẩu thường trú
khi có chỗ ở hợp pháp, đã tạm trú tại thành phố đó liên tục từ một năm trở lên
(trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ mà người cho thuê, cho mượn,
cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản)
Cơ chế xử lý: theo khoản 4, điều 98
Thủ tướng có quyền “đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với hiến pháp, luật và các văn bản của
cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ quốc hội bãi bỏ”.
Đánh giá cơ chế xử lý: cơ chế xử lý còn hạn chế vì
- Việt Nam không có một cơ quan bảo hiến chuyên trách vì thế cơ chế giám sát, xử
lý các văn bản vi hiến, vi luật không đạt được hiệu quả cao, mang tính chính trị, thiếu khách quan,….
- Việc thu hồi, thay thế, tạm đình chỉ hay bãi bỏ văn bản đó không phù hợp với luật
là chưa đủ. Cần phải có cơ chế xử lý và truy cứu trách nhiệm của những người ban
hành, soạn thảo văn bản sai, đồng thời nên có sự quản lý, kiểm tra, kiểm định
nghiêm ngặt hơn đối với các văn bản sắp được ban hành.
Câu 15, Ủy ban nhân dân tỉnh X ban hành một Quyết định theo đó xe gắn máy
ngoài ngoại tỉnh không được vào tỉnh X. Hãy bình luận Quyết định trên dưới
góc độ Luật Hiến pháp.
Đây là một quyết định bất hợp hiến, trái với Hiến pháp ở chương II: Quyền con
người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân cụ thể điều 23 nêu rõ: "Công dân
có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước". Ở điều 14 cũng cho biết " Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe cộng đồng". Ủy ban nhân dân tỉnh X không có quyền ban
hành quyết định không cho xe ngoại tỉnh được vào tỉnh X. Đây là quyết định vi
phạm quyền tự do đi lại của công dân.
Trong trường hợp này theo Hiến pháp hiện hành thì Bộ Tư pháp sẽ đưa ra ý kiến
đến quyết định mà tỉnh X ban hành, chỉ ra đây là quyết định trái với Hiến pháp. lOMoAR cPSD| 45936918
Yêu cầu UBND tỉnh X rút kinh nghiệm trong việc soạn thảo, ban hành, kiểm tra,
xử lý VBQPPL, không để lặp lại những thiếu sót như trong quyết định trên. Các
nội dung trong quyết định ban hành cần phải được cơ quan Tư pháp tỉnh thẩm định
và tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của các quy định.
Trước những hành vi trái luật và Hiến pháp của các văn bản quy phạm pháp luật
của HĐND Tỉnh, cơ chế xử lý hiện hành đang đặt ra nhiều vấn đề. Bộ tư pháp với
tư cách là cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về công tác
kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật có thể kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp
của các cơ quan chính quyền địa phương, trong đó có UBND Tỉnh. Tuy nhiên,
Bộ tư pháp không có quyền đình chỉ, bãi bỏ các văn bản của UBND, mà chỉ có
quyền kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về kết quả kiểm tra của mình
và việc hủy bỏ hay bãi bỏ quyết định của HĐND là thuộc về Thủ tướng Chính phủ.
Câu 17, Luật sư X cho rằng một điều khoản trong Bộ luật Hình sự không phù
hợp với một quy định về quyền công dân trong Hiến pháp hiện hành. Luật sư X
có thể kiến nghị đến cơ quan nào để xem xét?
Luật sư đó có thể bằng nhiều con đường khác nhau để kiến nghị xem xét lại điều
khoản đó như: Kiến nghị lên Liên đoàn Luật sư và liên đoàn LS sẽ kiến nghị lên
MTTQ; hoặc kiến nghị lên Bộ tư pháp -> Quốc hội;… Tuy nhiên, cách thông dụng
nhất vẫn là thông qua đại biểu Quốc hội.
Câu 18, Công dân A đã viện dẫn Hiến Pháp trong một phiên tòa để bảo vệ quyền
và lợi ích liên quan của mình. Hội đồng xét xử không đồng ý cách viện dẫn của
công dân A, vì cho rằng Hội đồng xét xử không có thẩm quyền căn cứ vào Hiến
pháp để giải quyết vụ việc. Hãy bình luận về cách giải quyết của Hội đồng xét xử.
Cách giải quyết của HĐXX như vậy là sai. Vì để giải quyết, xem xét một vụ kiện,
để đưa ra được bản án cuối cùng, HĐXX phải dựa vào những quy định có trong
luật pháp. Mà hiến pháp là đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia, là luật gốc, tất cả các
văn bản PL đều phải dựa vào Hiến Pháp, vì vậy đáng ra các thẩm phán trong
HĐXX phải dựa vào hiến pháp đầu tiên.
Tuy nhiên, vì HPVN chưa có đạo luật trực tiếp nên việc HĐXX chưa quên và chưa
áp dụng HP là điều dễ hiểu. Hp muốn đi vào đời sống phải có luật, đây là thói quen pháp lí lOMoAR cPSD| 45936918
Câu 19, Có quan điểm cho rằng việc Quốc hội không thông qua luật để thực thi
các quy định Hiến pháp là vi hiến. Bình luận về quan điểm đó.
Trước hết, có ý kiến cho rằng một trong các hành vi vi hiến là hành vi không thực
hiện thẩm quyền và nghĩa vụ đã được Hiến pháp quy định. Cơ quan, tổ chức, cá
nhân được Hiến pháp giao thẩm quyền, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không
kịp thời những thẩm quyền và nghĩa vụ đó thì sẽ bị coi là vi phạm Hiến pháp
(không hành động). Vậy, trong các trường hợp mà cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
chậm trễ hoặc không thực hiện thẩm quyền ban hành văn bản quy định cụ thể về
các quyền và tự do hiến định của công dân thì có bị coi là vi phạm Hiến pháp hay
không? Để trả lời một cách thấu đáo câu hỏi này, cần lưu ý một nguyên tắc quan
trọng của Nhà nước pháp quyền: trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân,
khi Nhà nước ghi nhận và khẳng định quyền và tự do của công dân đồng nghĩa với
việc Nhà nước xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của mình phải bảo đảm thực hiện
các quyền và tự do đó. Một trong những bảo đảm quan trọng nhất đó là bảo đảm
pháp lý, tức là các văn bản pháp luật về quyền và tự do của công dân. Do vậy, sự
thiếu hụt hay chậm trễ ban hành của các văn bản quy phạm phạm luật quy định
quyền và tự do hiến định của công dân cũng phải được coi là vấn đề Hiến pháp và
xem xét tính hợp hiến của hành vi không hành động của cơ quan, cá nhân được trao thẩm quyền.
Ví dụ như về quyền biểu tình, điều 25 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.
Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Thế nhưng hiện nay ở Việt
Nam chưa hề có luật biểu tình. Đề xuất có Luật Biểu tình đã đưa ra từ lâu, ngay từ
Hến pháp năm 1959 điều 25 cũng đã quy định công dân có quyền biểu tình. Nhưng
vấn đề này đã được bỏ qua để tập trung cho vấn đề lớn hơn đó là giành độc lập cho
dân tộc, phát triển đất nước. Thế nhưng đến nay, đất nước ta đã giành được thái
bình, điều luật này vẫn chưa được thông qua mặc dù được khẳng định tính cấp
thiết và có nhiều cuộc biểu tình xảy ra.Do không có Luật bảo vệ, người biểu tình
rất dễ bị quy vào tội "tụ tập đông người", "gây rối trật tự công cộng" theo Nghị
định 38 của Chính phủ ban hành năm 2005.
Tuy nhiên cũng còn tuỳ thuộc vào tình hình chính trị xã hội hoặc bối cảnh của đất
nước cùng sự phù hợp của điều luật nên Quốc hội có thể điều chỉnh, chỉ đạo mà
không thông qua luật miễn sao là phù hợp với thực tại và mang lại lợi ích cho nhân lOMoAR cPSD| 45936918
dân, vì vậy chưa thể kết luận được rằng có vi hiến hay không mà theo cá nhân em,
đó chỉ là một mặt hạn chế trong việc đảm bảo thực thi Hiến pháp.
Câu 20, Trong ngày bầu cử, công dân A đủ điều kiện đi bầu cử, có tên trong
danh sách cử tri nhưng không đi bầu. Sau đó, khi anh ta đến Ủy ban nhân dân
xã X nơi anh ta cư trú để làm hổ khẩu. Nhân viên của Ủy ban nhân dân đã
không tiến hành làm thủ tục cho anh ta với lý do anh ta đã không đi bầu cử.
Nhân viên Ủy ban nhân dân hành động có đúng Hiến pháp không?
+ Thứ nhất: Nhân viên UBND hành động không đúng Hiến pháp vì: Việc đi bầu
cử và việc đăng kí hộ khẩu là khác nhau, không thể vì việc không đi bầu cử mà
không dăng kí hộ khẩu cho một công dân. Theo hiến pháp, người dân có quyền
được khai sinh, được tự do cư trú (bao hàm cả việc đăng kí hộ khẩu). Quyền này
không phụ thuộc vào việc người đó đã hoàn thành nghĩa vụ bầu cử hay chưa.
+ Thứ hai: Việc công dân A không đi bầu là chưa hoàn thành nghĩa vụ của mình,
Quyền bầu cử là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp, pháp luật quy định
nhằm bảo đảm cho mọi công dân có đủ điều kiện thực hiện việc lựa chọn người đại
biểu của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền của công dân không tách
rời nghĩa vụ của công dân. Tuy nhiên hiện nay VN vẫn chưa có cơ chế xử phạt
những người không đi bầu cử, mà nhà nước ta chỉ vận động, khuyến khích nhân
dân đi bầu cử vì đó là quyền làm chủ của nhân dân.
Câu 22, Công dân H yêu cầu một Bộ cung cấp thông tin về một vấn đề mà Bộ
đang chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp. Bộ không cung cấp thông tin với lập
luận rằng Hiến pháp chỉ quy định quyền tiếp cận thông tin, tức là quyền được
truy cập các thông tin mà cơ quan nhà nước công khai, chứ không quy định
quyền của công dân được yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin mà cơ
quan đó đang nắm giữ. Hãy bình luận về hành động và sự giải thích của bộ.
Cách giải quyết của bộ là sai với hiến pháp vì theo điều 25 hiến pháp 2013 “công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội,
biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật định”.
Sự giải thích của Bộ là không có căn cứ bởi hiện nay chưa có Luật cụ thể nào quy
định về quyền tiếp cận thông tin của người dân. lOMoAR cPSD| 45936918
Hầu hết các văn bản hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc xác định trách nhiệm cung
cấp thông tin của cơ quan nhà nước cũng như quyền tự do thông tin mang tính
nguyên tắc, tính khái quát hơn là tính thực tiễn. Các quy định về tiếp cận thông tin
chủ yếu giao quyền tự quyết định việc cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý
thông tin thuộc lĩnh vực mà cơ quan đó phụ trách do đó mỗi cơ quan, mỗi lĩnh vực
lại có những quy định khác nhau về cách thức, quy trình cung cấp thông tin.
Do các quy định pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập nên việc tiếp cận thông tin
do các cơ quan nhà nước nắm giữ vẫn khó khăn, dẫn tới tính công khai, minh bạch
trong hoạt động của cơ quan công quyền chưa được thực hiện, biểu hiện rõ nhất là
trên lĩnh vực đất đai, đền bù giải toả, dự án ưu đãi, các khoản tín dụng, cứu trợ
thiên tai… Vì thế, hiện tượng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, hách dịch, lợi
dụng các kẽ hở của pháp luật trong cơ quan nhà nước vẫn phổ biến, dẫn tới hiện
tượng khiếu kiện đông người, khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện vượt cấp.
Đặt ra vấn đề: cần ban hành luật tiếp cận thông tin để xác định rõ những thông tin
nào được tiếp cận, chưa được tiếp cận hoặc không được tiếp cận; quy định trình tự,
thủ tục về việc tiếp cận thông tin; cơ sở từ chối cung cấp thông tin để tạo cơ sở
pháp lý cho cá nhân, tổ chức thực hiện quyền tiếp cận thông tin của mình…
Câu 25, Công dân A không tham gia bỏ phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội, vì
cho rằng bầu cử là quyền chứ không phải là nghĩa vụ. Nhưng các tổ chức chính
trị-xã hội khu vực dân cư nơi công dân A yêu cầu công dân A phải thực hiện
nghĩa vụ bầu cử. Hãy đánh giá về tranh cãi trên.
Nếu căn cứ vào hiến pháp 2013 :Tại điều 27 trong chương II chỉ ghi" công dân đủ
18 tuổi có quyền đi bầu cử " thì quan điểm công dân A là không sai. Tuy nhiên
- Ở nước ta, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của cử tri, bởi vì:
- Cử tri tham gia bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân là thực hiện quyền cơ bản về
bầu cử và ứng cử của công dân - những quyền chính trị cơ bản trong một nhà nước
dân chủ được Hiến pháp quy định. lOMoAR cPSD| 45936918
- Thông qua bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, cử tri vừa thực hiện quyền chính
trị của công dân đồng thời thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trong
việc xây dựng, tổ chức bộ máy chính quyền địa phương bằng việc lựa chọn, giới
thiệu và bầu người được nhân dân tín nhiệm vào Hội đồng nhân dân - cơ quan
quyền lực Nhà nước ở địa phương.
Câu 26, Một đại biểu Quốc hội có dự định đề xuất một dự án luật nhưng không
biết trình tự, thủ tục cho việc này thế nào? Hãy tư vấn cho đại biểu đó.
Việc lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được quy định cụ thể trong
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2008 và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Theo đó, Luật ban hành VBQPPL năm 2008 dành hẳn một
chương riêng quy định cụ thể về quy trình, thủ tục, quyền hạn của các chủ thể
trong việc lập dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội (từ
Điều 22 đến Điều 29). Nghị định số 24/NĐ-CP ngày 05-3-2009 của Chính phủ quy
định chi tiết quy trình lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh (từ Điều 1
đến Điều 19) cũng quy định cụ thể, rõ ràng, bảo đảm tính khả thi trong trình tự, thủ
tục, hồ sơ, thời hạn đề xuất xây dựng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Hồ sơ dự án, dự thảo gửi Chính phủ tham gia ý kiến bao gồm:
a) Tờ trình về dự án, dự thảo;
b) Dự thảo văn bản;
c) Bản thuyết minh chi tiết về dự án, dự thảo và báo cáo đánh giá tác động của dự án, dự thảo;
d) Báo cáo tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội
liên quan đến nội dung chính của dự án, dự thảo;
đ) Tài liệu khác (nếu có)
Câu 27, Quốc hội tổ chức bỏ phiếu để kéo dài nhiệm kỳ của mình thêm một
năm. Kết quả có 70% tổng số đại biểu tán thành việc kéo dài. Kết quả bỏ phiếu
này có đủ để Quốc hội kéo dài nhiệm kỳ không? +Có, vì lOMoAR cPSD| 45936918
Theo Khoản 3 Điều 71 HP 2013 có quy định rõ: 3. Trong trường hợp đặc biệt, nếu
được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Quốc
hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình theo đề nghị của Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được
quá mười hai tháng, trừ trường hợp có chiến tranh
=)) Trong tình huống này số phiếu bầu đã hơn 2/3, vậy đủ điều kiện để quốc hội kéo dài nhiệm kì
Câu 30, Sinh viên Nguyễn Văn A, không phải là đại biểu Quốc hội, nhận thấy
rằng cần thiết phải có một đạo luật về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Anh
ta cũng đã có những ý tưởng cơ bản thuộc nội dung của đạo luật đó. Anh A phải
làm thế nào để đề xuất ý tưởng của mình thành luật?
Do sinh viên Nguyễn Văn A không phải là đại biểu Quốc Hội nên không có điều
kiện để trình bày nguyện vọng của mình:”trích dẫn đề bài ” trước Quốc Hội 1 cách
trực tiếp qua các phiên họp quốc hôi về dự án luật . nhưng gián tiếp, anh có thể
thông qua HĐND, UBND , chính đại biểu QH của địa phương mình để trình bày ý
kiến của mình lên quốc hội.Anh sẽ phải đến cơ quan thẩm quyền đó là HĐND,
UBND nơi ở, trình bày trước đại biểu Quốc Hội ở địa phương và đề đạt mong
muốn QH xem xét. Như đã biết, theo định kỳ chính phủ tổ chức các buổi tiếp dân
trực tiếp tại các trụ sở tiếp dân của nhà nước theo nghị định số 64/2014/NĐ-CP,
quy định chi tiết 1 số điều luật tiếp công dân có hiệu lực từ ngày 1/7/2014,do có
tới 90% luật do Chính phủ đề đạt và cat thẩm định. Theo đó,A có thể tìm hiều về
thời gian và địa điểm làm việc cụ thể của buổi tiếp dân đó qua các phương tiện
thông tin đại chúng và tới các buổi tiếp công dân đó do các Bộ trưởng hay Thanh
tra chính phủ làm việc để trình bày , đề đạt mog muốn và nguyện vọng của mình.
Anh A nên chuẩn bị cho mình 1 vốn kiến thức khá toàn diện và đầy đủ về vấn đề
đó , đặc biết vấn đề mà anh mong muốn trở thành luật phải phù hợp với Hiến pháp
hiện hành để có thể thuyết phục được cơ quan nhà nước.
Câu 31. Một số cử tri trong cùng một khu vực dân cư cho rằng cần sửa đổi một
đạo luật hiện hành để có thể gần hơn với thực tiễn đời sống và áp dụng hiệu quả
hơn. Các cử tri này nên làm gì?
Hiện nay chỉ các cơ quan quốc hội, đại biểu quốc hội, mặt trận tổ quốc và chính
phủ mới được quyền trình dự án luật, pháp lệnh và nghị quyết. Các tổ chức cá nhân lOMoAR cPSD| 45936918
không thuộc các đối tượng trên không có quyền trình hoặc đề xuất dự án luật. Vì
vậy công dân không có quyền trình dự án luật. Tuy nhiên điều 79 Hiến pháp 2013
quy định : “ Đại biểu Quốc hội (…) thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện
vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hưũ quan”, vì vậy các cử tri có
thể bày tỏ ý kiến của mình với các đại biểu Quốc hội để họ xem xét và trình lên cấp trên
Hiện tại, các tổ chức phi chính phủ và người dân có thể góp ý vào Luật qua một số
kênh. Thứ nhất, người dân góp ý trực tiếp khi văn bản được đưa lên Trang thông
tin điện tử của chính phủ, hoặc của cơ quan chủ trì soạn thảo. Một kênh thứ hai
quan trọng hơn đó là các cơ hội trao đổi góp ý trực tiếp với Tổ thư ký hoặc Ban
soạn thảo. Việc này thường được tổ chức ở hình thức hội nghị, hội thảo góp ý cho
các vấn đề do Ban soạn thảo đưa ra, thường là những vấn đề phức tạp, còn nhiều ý kiến khác nhau
Câu 32, Sau khi Quốc hội thông qua một đạo luật và chuyển sang cho Chủ tịch
nước công bố nhưng Chủ tịch nước nhận thấy đạo luật có dấu hiệu bất hợp
hiến. Theo em Chủ tịch nước có thể làm gì trong trường hợp này? Hãy bình
luận về quy định của Hiến pháp hiện hành về vấn đề này.
CHỦ TỊCH NƯỚC PHẢI CÔNG BỐ
Trong trường hợp này Chủ tịch nước có quyền đề nghị ban thường vụ Quốc hội
xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày đạo luật được thông qua,
nếu pháp pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành
mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất
Quy định của hiến pháp hiện hành về vấn đề này được thể hiện qua khoản 1,điều
88 trong chương VI- Chủ tịch nước. Trong mối quan hệ với Quốc hội: Hiến pháp
đã quy định về thẩm quyền công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh và đề nghị Ủy ban
thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh
Câu 33. Sau khi Ủy ban thường vụ Quốc hội ban thông qua một Pháp lệnh và
chuyển sang cho Chủ tịch nước công bố nhưng Chủ tịch nước nhận thấy rằng
pháp lệnh này có dấu hiệu bất hợp hiến. Theo em, Chủ tịch nước có thể làm gì lOMoAR cPSD| 45936918
trong trường hợp này? Hãy bình luận về quy định của Hiến pháp hiện hành về vấn đề này.
- Theo em, Chủ tịch nước có thể: đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại
pháp lệnh trong 10 ngày kể từ ngày pháp lệnh đó được thông qua, nếu pháp lệnh
đó vẫn được Uỷ ban thường vụ QH tán thành mà Chủ tich nước vấn không nhất trí
thì Chủ tịch nước trình QH quyết định tại kỳ họp gần nhất.
- Theo em, quy định của HP về vấn đề này khá hợp lý về trình tự giải quyết.
Nhưng, nó lại không đề cao vai trò của Chủ tich nước.
CÂU HỎI THÊM CỦA THẦY: Chủ tịch nước như vậy cũng không gọi là có
quyền "phủ quyết tương đối". Theo em hiểu , "Phủ quyết tương đối" nghĩa là sự
phủ quyết của Chủ tịch nước đã chiếm đến ít nhất 50% biểu quyết. Mà ở đây, Chủ
tịch nước chỉ có quyền " Đề nghị", cao nhất cũng chỉ là Đề nghị ở kỳ họp QH tiếp
theo. Còn tán thành hay không thì lại do QH bàn bạc rồi mới đưa ra quyết định.
Nói chung, em cảm thấy quyền này của Chủ tịch nước giống như quyền của người
tư vấn nhà đất vậy, nêu ra những cái được, cái không của mảnh đất đó nhưng cuối
cùng cũng không có quyền quyết định mua hay không.
Câu 34. Bình luận nhận định của một đại biểu Quốc hội cho rằng trong thời
gian qua, Quốc hội “chưa thực sự thực hiện quyền quyết định của mình mà
phần lớn là dựa vào đề nghị của Chính phủ rồi đồng ý.”
Trên đây chỉ là ý kiến chủ quan của một đại biểu quốc hội, nhưng có phần đúng,
phần nào đã phản ánh chức năng của Quốc hội trong việc quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước chưa thực sự hiệu quả, còn tồn tại nhiều hạn chế. Còn thụ
động, phần lớn là dựa vào đề nghị của Chính phủ rồi đồng ý. Từ góc độ thực hiện
quy trình xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước trong hoạt động
của Quốc hội cho thấy những tồn tại, vướng mắc làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Tồn tại đầu tiên cần đề cập là chưa có sự phân biệt các lĩnh vực cần ra nghị quyết
với các nội dung, hình thức thể hiện trong nghị quyết để xây dựng quy trình xem
xét phù hợp. Quy định thời gian cho các khâu chuẩn bị chưa được rõ ràng, không
phù hợp với từng loại vấn đề mà Quốc hội bàn bạc, quyết định. Chưa phân biệt và lOMoAR cPSD| 45936918
quy định rõ ràng trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan phối hợp
soạn thảo, chỉnh lý dự thảo nghị quyết. Lúng túng, bị động trong việc phối hợp
hoặc có sự đùn đẩy trách nhiệm, "miễn cưỡng" tham gia. Hầu hết các nghị quyết về
các vấn đề quan trọng của đất nước thường chỉ do Đoàn thư ký kỳ họp soạn thảo,
chỉnh lý và xin ý kiến các cơ quan hữu quan. Trong khi đó, có những nghị quyết
quan trọng như nghị quyết về nhiệm vụ kinh tế- xã hội hàng năm với những chỉ
tiêu, giải pháp lẽ ra phải do Bộ kế hoạch và Đầu tư đứng ra chủ trì dự thảo năm
trước rồi gửi cho các cơ quan của Quốc hội tiến hành thẩm tra trước khi trình Quốc
hội quyết định. Nghị quyết là văn bản quy phạm pháp luật nhưng trên thực tế hầu
như các nghị quyết không chứa đựng cá quy phạm pháp luật, chủ yếu thể hiện thái
độ chung của Quốc hội là đồng tình hay không đồng tình việc đã làm hoặc dự kiến
làm của các cơ quan nhà nước, có khi là lời kêu gọi, là khẩu hiệu, mục tiêu phấn
đấu. Một số nghị quyết có chỉ tiêu cụ thể, có chứa các quy phạm pháp luật lại ít
được Quốc hội xem xét, đánh giá về việc triển khai thực hiện nên có tư tưởng xem
nhẹ tính ràng buộc pháp lý của nghị quyết nói chung và quy trình xem xét thông
qua nghị quyết. Nhìn tổng thể chúng ta chưa có một quy trình đầy đủ, chặt chẽ, phù
hợp với thực tiễn tổ chức và hoạt động của Quốc hội, phù hợp với yêu cầu nâng
cao vị trí, vai trò của Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước. Các quy định của quy trình còn tản mạn, thiếu thống nhất, thiếu cụ thể dẫn
đến việc áp dụng rất lúng túng và chưa hình thành một nền nếp quy củ, rõ ràng, cụ
thể, khoa học để giúp cho việc Quốc hội xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước một cách thực chất. Từ đây cho thấy muốn nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của Quốc hội thì việc hoàn thiện quy trình là một nhiệ vụ cấp thiết.
Hoàn thiện quy trình là một vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có nhận thức
đúng, đầy đủ, toàn diện về các công việc đã được tiến hành và sẽ phải tiến hành.
Đây còn là một quá trình vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Ở thời điểm hiện nay, việc
hoàn thiện quy trình hướng vào việc nghiên cứu sửa đổi Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, các quy chế hoạt động của Đại biểu Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, Nội quy kỳ họp quốc hội và các nghị quyết, đạo luật liên quan.
Câu 35, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Văn A cho rằng hoạt động của Bộ trưởng
Bộ B không hiệu quả. Đại biểu A muốn Bộ trưởng B phải bị bỏ phiếu tín
nhiệm trước Quốc hội. Hỏi Đại biểu A phải làm gì theo đúng trình tự của
Hiến pháp hiện hành. lOMoAR cPSD| 45936918
Đại biểu A phải vận động các đại biểu (ít nhất 1/4 số đại biểu đồng ý thì cuộc bỏ
phiếu tín nhiệm trước quốc hội mới xảy ra)
Câu 37, Quốc hội bỏ phiếu bãi nhiệm một đại biểu Quốc hội vì có nhiều ý
kiến cho rằng đại biểu không còn được cử tri tín nhiệm. Có 60% tổng số đại
biểu tán thành việc bãi nhiệm đại biểu này. Kết quả bỏ phiếu này có giá trị
như thế nào? Giá trị của bỏ phiếu bãi nhiệm khác gì so với bỏ phiếu tín nhiệm?
Theo Hiến pháp : “Luật , Nghị Quyết phải được quá nửa tổng số đại biểu QH biểu
quyết tán thành, trừ các trường hợp QH bãi nhiệm ĐBQH, rút ngắn kéo dài nhiệm
kỳ QH thì phải được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu QH biểu quyết tán thành ...”
Do vậy , QH bỏ phiếu bãi nhiệm 1 đại biểu QH vì có nhiều ý kiến cho rằng ĐBQH
đó không còn được cử tri tín nhiệm. Có 60% tổng số đại biểu tán thành việc bãi
nhiễm đại biểu này. Thì , kết quả bỏ phiếu như vậy sẽ không được QH thông qua,
vì mới 60% tổng số đại biểu tán thành, chưa đủ so với con số ít nhât 2/3 tổng đại
biều QH. Nên đại biểu đó sẽ không phải từ chức mà sẽ hoạt động công tác theo
nhiệm kỳ của mình. Nhưng đại biểu này cần phải xem xét lại việc thực hiện pháp
luật của mình,trách nhiệm của mình với nhân dân, tại sao nhiều cử tri của mình lại
lên tiếng bất tín nhiệm như vậy .
Giá trị của bỏ phiếu bãi nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm:
Bỏ phiếu bãi nhiệm : đại biểu quốc họi đại diện cho thực hiện ý chí mong
muốn của nhân dân, thay mặt dân thực hiện quyền lợi cho nhân dân, khi không còn
được cử tri tín nhiệm nếu đại biểu đại biểu QH nhận được ít nhất là ¼ tổng số của
tri tình, thành phố trực thuộc trung ương đã bầu ra đại biều đó, đại biểu sẽ bị QH
bãi nhiệm khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu QH biểu quyết tán thành việc bãi
nhiệm , đại biểu đó phải từ chức . Có thể thấy khi không có trách nhiệm với nhân
dân , không đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng ý chí của nhân dân thì đại biểu sẽ
bị nhân dân bãi nhiễm, QH chỉ là đại diện cho quyền lực của nhân dân , thay nhân
dân tìm ra những người đại biểu có năng lực , trách nhiệm phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân. Bỏ phiếu tín nhiệm:
- Giá trị của bỏ phiếu tín nhiệm là niềm tin của cử tri lOMoAR cPSD| 45936918
- Là kiểm chứng tính liên tục , bền vững về năng lực, phẩm chất những người được
tín nhiệm cao, đồng thời là dịp để đánh giá , khắc phục hạn chế trong quá trình
thực thi nhiệm vụ của những cán bộ có nhiều phiếu tín nhiệm thấp trong lần lấy
phiếu trước đó, và là cơ hội để các đại biểu có nhiều phiếu tín nhiệm thấp lần này
cố gắng lỗ lực hơn nữa với trách nhiệm của mình với nhân dân.
- Việc lấy phiếu tín nhiệm đảm bảo được tính khách quan , dân chủ , phản ánh
được ý chí của nhân dân trong việc đặt niềm tin của đại biểu của mình.
- Đây là cách đbQH thay mặt cử tri cua mình đánh giá mức độ hoàn thành công
việc , nhiệm vụ trách nhiệm của các cán bộ chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Khi
các ĐBQH lấy phiếu tín nhiệm những chức danh mà mình đã bầu và phê chuẩn thì
lá phiếu không còn là của chính họ mà là của cử tri đã bầu ra họ. Do đó nếu đại
biểu QH làm méo mó giá trị của lá phiếu thì tức là họ đã tự tước đi quyền lợi và
quyền lực chính dáng của mình.
Có 3 mức lấy phiếu tín nhiệm đó là: - Tín nhiệm cao - Tín nhiệm - Tín nhiệm thấp
Câu 41, Có ý kiến của một đại biểu Quốc hội cho rằng: Quốc hội là cơ quan lập
pháp, nếu quyết sai cũng phải nhận khuyết điểm chứ không phải kỷ luật, Chủ
tịch Quốc hội cũng không phải người đứng đầu Quốc hội. Vì thế, không thể vì
cả 500 đại biểu bỏ phiếu mà kỷ luật cả 500 vị hay kỷ luật ông Chủ tịch. Quốc hội
tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai. Hãy bình luận nhận định
trên từ góc độ lý luận của Luật Hiến pháp.
- Quốc hội là cơ quan Đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước CHXHCNVN. Ở VN, chưa có một cơ chế hay cơ
quan nào xử lí các sai phạm của Quốc hội. Vì vậy ý kiến của Chủ tịch Quốc
hội cho rằng: “, nếu quyết sai cũng phải nhận khuyết điểm chứ không phải
kỷ luật” là ý kiến đúng. Trên thực tế, "Không phải tất cả công trình đều đưa
ra QH, UBND, chỉ những công trình quan trọng, phạm vi ảnh hưởng rộng,
tác động nhiều môi trường dân cư, di dân, xã hội, nền kinh tế quốc dân mới lOMoAR cPSD| 45936918
đưa ra QH xem xét cho làm hay không. Ý chí của QH là cho biểu quyết, trên
51% thì được đánh giá là quan trọng. Ý chí của QH thể hiện trong tham
mưu, thảo luận đi - lại để cuối cùng đa số ĐBQH thấy là đồng ý chủ trương
làm rồi mới xây dựng dự án để đầu tư, qua hội đồng thẩm định, quan kênh
A, B, nhà khoa học, tham khảo, tư vấn... rồi mới đến quyết định đầu tư dự
án của ông Thủ tướng.”
- Tuy nhiên, QH cũng không thể đổ trách nhiệm về nhân dân, “Quốc hội tức
là đan, dân quyết sai thì dân chịu” mà QH phải tìm ra một giải pháp tối ưu
nhất để đẩm bảo lợi ích của người dân chứ không thể để tình trạng Quốc hội
làm, dân chịu và cần thiết có 1 cuộc bỏ phiếu tiếp quyết định lại chủ trương
để đạt hiệu quả cao nhất và cần hết sức thận trọng khi quyết định một chủ trương.
Câu 42, Trả lời phỏng vấn của một phóng viên về tình trạng quá tải của bệnh
viện tuyến trên, một vị lãnh đạo của Bộ Y Tế ngành y cho rằng: “Thiếu giường
bệnh thì phải hỏi Nhà nước”. Hãy bình luận quan điểm trên từ góc độ lý luận
của Luật Hiến pháp.
- Quan điểm của Bộ trưởng Bộ Y tế là hoàn toàn Sai, thể hiện sự vô trách hiệm của Bộ trưởng. -
Điều 99 Hiến pháp 2013 thì:
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là
người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan
ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân
công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến
ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc.
- Và nghị định 188/2007/NĐ-CP về chức năng nhiệm vụ,quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của bộ y tế,khoản 3 điều 2 quy định nhiệm vụ quyền hạn của
bộ y tế: “Chủ trì, phối hợp với bộ tài chính, trình thủ tướng chính phủ quyết
định danh mục dữ trữ quốc gia; tổ chức thực hiện dự trữ quốc gia về thuốc,
hóa chất, trang thiết bị y tế, phương tiện phòng chống dịch bệnh, thiên tai
thảm họa theo quy định của pháp luật.”
- Nhà nước chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động
của đời sống xã hội. Còn việc “thiếu giường bệnh” là vấn đề của Bộ Y tế, vì
thế Bộ trưởng phải có trách nhiệm với các lĩnh vực liên quan đến ngành của
mình. Trong tình huống này, nếu như bộ trưởng bộ y tế nhận thấy thiếu lOMoAR cPSD| 45936918
giường bệnh mà không đề xuất phối hợp với bộ tài chính và trình thủ tướng
chính phủ cấp chi phí khắc phục vấn đề trên thì bộ trưởng bộ y tế phải chịu
trách nhiệm về việc không thực hiện đúng nhiệm vụ của mình. Còn trong
trường hợp bộ trưởng đã báo cáo đến chính phủ nhưng không được phê
duyệt thì lại là trách nhiệm của thủ tướng chính phủ.
Câu 43, Bàn về chương tình làm luật, có đại biểu Quốc hội cho rằng: “Tôi đề
nghị Quốc hội lên tiếng để Chính phủ và các cơ quan giải thích vì sao đưa vào
(đưa dự luật vào chương trình làm luật) rất nhiều lập luận, đưa ra (rút dự luật
khỏi chương trình làm luật) lại rất nhẹ nhõm. Nhiều bộ luật lấy lý do nhạy cảm
liên quan quốc phòng an ninh hay quan hệ quốc tế thì đồng ý, nhưng nhiều vấn
đề không nhạy cảm thì sao?” Hãy bình luận quan điểm trên.
+ Quyền lập pháp của Chính phủ được thực hiện trên cơ sở quyền trình dự án luật, pháp lệnh.
+ Việc đưa vào (đưa dự luật vào chương trình làm luật) rất nhiều lập luận cho thấy:
CP muốn thể hiện tính đúng đắn, cần thiết của các dự án luật do CP trình QH thông
qua. Còn việc đưa ra (rút dự luật khỏi chương trình làm luật) lại rất nhẹ nhõm cho
thấy Chính phủ không muốn công khai với tàn thể nhân dân sự bất cập , bất hợp lí
trong các bộ luật do mình đề xuất, thể hiện sự thiếu trách nhiệm của CP, nhất là
trách nhiệm giải trình trước QH mà nếu có thì chỉ là những lí do hết sức đơn giản.
⇨ Vì vậy, trong qui trình lập pháp, Chính phủ phải cân nhắc thật kĩ, bản thân
các Đại biểu cũng phải có trách nhiệm trong việc đưa vào và rút ra các dự án luật.
Câu 45, Quốc hội tổ chức bỏ phiếu để kéo dài nhiệm kỳ của mình thêm một
năm. Kết quả có 60% tổng số đại biểu tán thành việc kéo dài. Kết quả bỏ phiếu
này đã đủ để Quốc hội kéo dài nhiệm kỳ không? KHÔNG vì:
Theo Khoản 3 Điều 71 HP 2013 có quy định rõ: 3. Trong trường hợp đặc biệt, nếu
được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Quốc
hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình theo đề nghị của Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được
quá mười hai tháng, trừ trường hợp cóchiến tranh. lOMoAR cPSD| 45936918
Tuy nhiên, trong tình huống mới chỉ có 60% tổng số đại biểu tán thành chưa đạt 2/3 vì vậy không đủ.
Câu 46, Ông H. là Giám đốc Công ty điện lực tỉnh C, đồng thời là đại biểu Quốc
hội. Cơ quan Công an phát hiện ông H có hành vi tham ô, muốn ra lệnh bắt để
tạm giam ông này phục vụ cho việc điều tra. Để thực hiện ý định đó, cơ quan
chức năng phải thực hiện thủ tục gì? Giả sử Ông H chỉ là đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh C, cơ quan chức năng phải thực hiện thủ tục gì?
+ Điều 20 Hiến pháp 2013
2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt,
giam, giữ người do luật định.
+ Điều 81 Hiến pháp 2013 “ Không được bắt, giam, giữ, khởi tố đại biểu Quốc hội
nếu không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội không họp,
không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; trong trường hợp đại biểu
Quốc hội phạm tội quả tang mà bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo
cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.”
Trong trường hợp này cơ quan Công an không bắt quả tang vị đại biểu này nên
không được phép tạm giữ. Mà cơ quan công an cần phải trình lên Ủy ban thường
vụ Quốc hội xem xét, nếu ủy ban thường vụ Quốc hội đồng ý thì cơ quan công an
mới có quyền bắt giữ để điều tra.
Câu 47, Trả lời phỏng vấn báo chí, một đại biểu Quốc hội phát biểu về vai trò
của luật sư: “Luật sư ở Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền”. Phản
ứng trước phát biểu này, Liên đoàn Luật sư đã có công văn đề nghị Chủ tịch
Quốc hội và Chủ tịch Ủy ban tư pháp xem xét tư cách và trách nhiệm của đại
biểu Quốc hội đó. Hãy bình luận về vụ việc trên dưới góc độ lý luận của Luật Hiến pháp.
Theo điều 25, Hiến pháp 2013 quy định: Công dân có quyền tự do ngôn luận. Tuy
nhiên trong trường hợp phát ngôn của vị đại biểu quốc hội này đã đưa ra một cách
đánh giá phiến diện, “mang tính quy chụp và thiếu căn cứ đối với nghề luật sư” lOMoAR cPSD| 45936918
Phát ngôn này của đại biểu quốc hội là một nhận định thiếu căn cứ và trái với quy
định tại Điều 3, Luật luật sư (được sửa đổi bổ sung năm 2012) về chức năng xã hội
của luật sư, theo đó: “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công
lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ qua, tổ chức, phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”
Bởi vậy có thể nói việc phát ngôn của đại biểu quốc hội trên cần được xem xét
lại và đại biểu quốc hôi trên cần phải xin lỗi hoặc có câu trả lời thỏa đáng cho
những luật sư làm việc với lương tâm và đạo đức nghề nghiệp.
Tuy nhiên, câu nói của đại biểu quốc hội này cũng nêu lên được thực trạng xã hội
Việt Nam hiện nay, đó là việc những người nghèo thường không có tiền thuê luật
sư bào chữa. Một con số đáng để chúng ta suy nghĩ đó là trong 100 vụ án hiện nay,
có đến 80% không có luật sư bào chữa. Một phần do thiếu luật sư và cũng vì 80%
cá vụ án đó liên quan đến người nghèo không có tiền thuê luật sư để bào chữa. Thê
nhưng điều ngược lại 100% số vụ án kinh tế như tham nhũng, tranh chấp đất đai
thì rất nhiều luật sư bào chữa,..
Từ thực trạng nêu trên, điều đặt ra cho giới luật sư, những người muốn đảm bảo
công bằng, công lý cho xã hội đó là tập trung giải quyết vấn đề làm sao để xóa bỏ
thực tế chỉ người có tiền mới nhờ được luật sư?
Vì nhiều hạn chế mà hiện nay ở Việt Nam, chỉ trong một số trường hợp cụ thể
Nhà nước mới đứng ra trả tiền cho luật sư bào chữa thay cho các bị can, bị cáo
không được bào chữa vì lý do kinh tế trước tòa án. Để cải thiện điều này, giới luật
sư Việt Nam cần góp ý một cách thỏa đáng hơn trong bộ luật Tố tụng hình sự, kêu
gọi mở rộng quyền được bào chữa của bị can, bị cáo cho những vụ án hình sự lớn
nhỏ và nếu bị can, bị cáo không thể trả tiền thuê mướn luật sư, nhà nước sẽ phải trả
tiền cho họ. Đó là cách giải quyết tốt hơn cho xã hôi và phản ánh được lập trường
của giới luật sư Việt Nam.
+ Mặc dù vậy, ĐBQH Đỗ Văn Đương vẫn khẳng định “điều tôi nói là tiếng nói của
dân, xuất phát từ thực tế” và ông cũng cho rằng: “Hiến pháp quy định đại biểu phát
ngôn được quyền miễn trừ trách nhiệm” Nhưng quyền không chịu trách nhiệm về
phát biểu của đại biểu chỉ ở tại phiên họp, chứ không phải ở ngoài đường, hay bên lOMoAR cPSD| 45936918
ngoài hành lang thế này có lẽ cũng không được coi là ở trong phiên họp. Các phát
biểu bên ngoài thì đại biểu vẫn phải chịu trách nhiệm như người bình thường.
Thiết nghĩ, nếu đã phát biểu tại tổ, hay hội trường thì cũng phải cân nhắc, thận
trọng, chứ không phải suồng sã, hay xúc phạm người khác. Đại biểu có quyền như
thế nhưng nếu phát biểu xúc phạm người ta thì họ cũng có quyền lên tiếng.
Câu 48, Trên một diễn đàn blog cá nhân của mình, một đại biểu Quốc hội đã có
những nhận định thiếu văn minh về một vị đại biểu Quốc hội khác. Cho rằng
phát biểu của đại biểu Quốc hội này là không phù hợp với chuẩn mực văn hóa
tranh luận và làm ảnh hưởng đến ủy tín của Đoàn đại biểu, Đoàn đại biểu Quốc
hội đã họp yêu cầu đại biểu Quốc hội đó xin lỗi công khai. Hãy bình luận về vụ
việc trên dưới góc độ lý luận của Luật Hiến pháp.
+ Trước hết cần phải biết rằng Blog cá nhân như là một cuốn nhật kí online nhằm
thông báo, chia sẻ những cảm xúc, sự kiện diễn ra hằng ngày, mọi người đều có thể xem và chia sẻ.
+ Vấn đề thứ nhất: Đại biểu A có những nhận định gay gắt về đại biểu B trên Blog
cá nhân là không đúng. Bởi vì Blog cũng là 1 loại mạng xã hội, thông tin rất nhanh
và sẽ được nhiều người biết đến. Việc có những nhận định gay gắt về đại biểu B có
nghĩa là đại biểu A đã xâm phạm đến quyền tự do ngôn luận của A và sẽ ảnh
hưởng đến uy tín và danh dự của ĐB A, như thế là không nên mà nếu có bức xúc
gì thì ĐB A nên gặp trực tiếp ĐB B để cùng trao đổi về quan điểm của cả 2 người
+ Vấn đề thứ hai: khi nghe ý kiến của đại biểu A , Đoàn đại biểu đã đưa ra yêu cầu
ĐB B phải xin lỗi là chưa đảm bảo tính khách quan. Vì Đoàn đại biểu chưa có 1
cuộc họp hay 1 hoạt động xem xét nào mà đã họp đưa ra kết luận đại biểu B phải
xin lỗi với nhận đinh của mình. Đoàn đại biểu mới chỉ nghe ý kiến đưa ra từ phía
Đại biểu A. Do đó nếu như bị buộc xin lỗi công khai khi chưa được xem xét rõ
ràng thì danh dự của đại biểu B sẽ bị ảnh hưởng. Nhưng nếu thực sự đại biểu B đã
sai thì việc xin lỗi công khai thì không có gì phải bàn cãi .Điều quan trọng ở đây là
thấy được cái hạn chế trong cách làm việc của Đoàn đại biểu là chưa khách quan
và đảm bảo quyền con người .