Bài tập chương 3+4 - Khoa học chủ nghĩa xã hội | Học viện Phụ nữ Việt Nam
Bài tập chương 3+4 - Khoa học chủ nghĩa xã hội | Học viện Phụ nữ Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học (K10)
Trường: Học viện Phụ nữ Việt Nam
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BÀI TẬP CHƯƠNG 3 + 4
1. Trình bày điều kiện ra đời và những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội? Liên hệ với
những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
2. Trình bày đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa?
3. Phân tích đặc trưng và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay?
Anh /chị làm gì để góp phần thực hiện các phương hướng đó?
4. Trình bày những mục tiêu được xác định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng và những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030? Anh chị làm gì để góp
phần thực hiện các mục tiêu đó? Bài làm:
Câu 1: Điều kiện ra đời và những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội:
Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của hính thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nó có sự
khác nhau về chất và nguyên tắc xây dựng so với Chủ nghĩa tư bản. Dựa vào cơ sở lý luận
khoa học của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lenin và thực tiễn xây dựng chỉ nghĩa
xã hội, chúng ta có thể nêu ra những được trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau: - Đặc trưng thứ nhất:
- Cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Chỉ có
nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo ra ngày càng
nhiều của cải vật chất cho xã họi, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu về vật chất và văn hóa của
nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân.
- CHXH đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những tư
liệu sản xuất chủ yếu. Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập
chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể. Chế độ sở hữu này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ dần
những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho mọi thành viên trong xã hội ngày càng gắn
bó với nhau vì những lợi ích căn bản.
- CNXH tạo ra cách tố chức lao động và kỷ luật lao động mới. Quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một quá trình hoạt động tự giác của đại đa số
nhân dân lao động, vì lợi ích của đa số nhân dân.
- CNXH có Nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, nhà nước mang bản chất giai cấp công
nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân
dân. Nhà nước XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước, Đảng lãnh đạo toàn
xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt
của xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây là một “nhà nước
nửa nhà nước” với tính tự giác tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm
chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam:
Căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước và những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội theo quan
điểm chủ nghĩa Mác – Lenin, trong “ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH”, Đảng ra đã xác định những đặc trưng của CNXH ở VN mà chúng ta sẽ xây dựng là:
- Do nhân dân lao động làm chủ
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, có cuộc sống ấm no, tư do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến độ.
- Có quan hệ hưu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới Câu 2:
Đến với con đường đấu tranh của HCM, Người đã chọn hình thức đấu tranh vô sản, do giai
câp công nhân, nông dân lãnh đạo, và đã giành được thắng lợi thể hiện ở CMT8 thành công,
miền Bắc đi lên xây dựng XHCN, cuộc cách mạng này chứng minh sự lựa chọn của Đảng và
nhân dân ta là đúng đắn, phù hợp với thực tế VN.
Đồng thời ,theo lý luận của khoa học của Lê Nin thì :
a) CNXH có thể diễn ra ở các nước thuộc địa.
b) Giữa 2 giai đọan của chế độ CNXH ko có vách ngăn phù hợp, vì vậy miền Bắc đi lên CNXH trước miền Nam.
c) “Quá độ bỏ qua” chế độ TBCN trong thời đại hịên nay chỉ là sự vận dụng đúng lịch sử của
nhân lọai đã có như Nga Đức Pháp Mỹ… từ chế độ nô lệ bỏ qua chết độ phong kiến lên TBCN
Đây chính là cơ sở lý luận mang tính tất yếu của thời kỳ qúa độ lâu dài ở VN. Vậy tính tất
yếu của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam là gì?
Đây chính là quy luật phù hợp với sự chuyển đổi đối với các nước đi lên XHCN trong thời
đại ngày nay, hay nói cách khác đấy chính là sự phù hợp với lý luận cách mạng ko ngừng của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Sau cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thành công, dưới sự lãnh đạo
của Đảng CSVN ở miền Bắc, nước ta chuyển ngay sang cách mạng XHCN, vừa xây dựng
XHCN ở miền Bắc, vừa đấu tranh chống Đế Quốc Mỹ ở miền Nam, đồng thời đấy cũng là sự
phù hợp với xu thế của thời đại ngày nay: CNTB với những mâu thuẫn ngày càng gay gắt và
sâu sắc chắc chắn sẽ bị thay thế bởi hệ thống XHCN trên phạm vi tòan thế giới. CNTB không
phải là tương lai của loài người. Đây là xu hướng khách quan thích hợp với lịch sử.
Đây là sự phù hợp với lịch sử của Việt Nam thể hiện ở sự phù hợp TKQĐ ở nước ta với lý
luận chung về tính chất tất yếu của TKQĐ, cụ thể là:
– Nhà nứớc ta đã thực hiện rõ điều này trên quan điểm: ”Bỏ qua CNTB tức là bỏ qua việc xác
lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN nhưng hấp thu kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới thời TBCN.”
– Đất nước ta còn yếu kém, nhìều tàn dư của chế độ xã hội cũ và chiến tranh để lại. Công
cuộc đi lên CNXH là một công việc khó khăn phức tạp do đó cần phải có thời gian để cải tạo
xã hội, tạo điều kiện về vật chất và tinh thần cho CNXH.
– Và sự thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nứoc ta đã có đủ điều kiện quá độ
lên TBCN, đó là những điều kịên:
+ Nhân dân đoàn kết tin tưởng vào chế độ XHCN
+ Chính quyền thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng CS
+ Có sự giúp đỡ của các nước tiên tiến, các nước XHCN anh em và phong trào cách mạng tiến bộ của thế giới
Tóm lại, thời kỳ qúa độ lên CNXH bỏ qua thời kỳ TBCN là tính tất yếu, là sự lựa chọn sáng
suốt của Đảng và nhân dân ta. Câu 3:
- ĐẶC TRƯNG CỦA XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh 2. Do nhân dân làm chủ
3. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
4. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
5. Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
6. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển
7. Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo
8. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới
- PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo
vệ tài nguyên, môi trường
2. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
4. Đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
5. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
6. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường và mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất
7. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
8. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh Câu 4: Về mục tiêu
- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là
nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp
hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Việc xác định mục tiêu như trên theo cách tiếp cận mới: Trình độ phát triển, trình độ công
nghiệp và thu nhập bình quân đầu người. Đây là tổng hợp cách tiếp cận của Đảng ta trong 35
năm đổi mới và phù hợp với cách tiếp cận của thế giới.
Có thể thấy, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đặt ra mục tiêu không phải chỉ cho nhiệm kỳ 2021
- 2025 mà còn tầm nhìn tới 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và năm 2045, kỷ niệm
100 năm thành lập nước và chúng ta gọi đây là khát vọng phồn vinh dân tộc.
Sau khi những mục tiêu của Đại hội đưa ra, đã có những quan điểm cho rằng những mục tiêu
chính của Đại hội XIII là chủ quan, duy ý chí, không thực hiện được. Thực chất của luận
điểm này là đòi dân tộc ta phải từ bỏ mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà toàn
Đảng, toàn dân ta đã chọn và đi theo con đường khác, vì họ cho rằng đó là "con đường sai
lầm, dẫn dân tộc đến đường cùng, ngõ cụt". Mục đích của những kẻ tung ra luận điệu trên là
rất rõ ràng, nếu chưa thể xóa bỏ được chủ nghĩa xã hội, lái nước ta đi theo con đường khác -
con đường tư bản chủ nghĩa, thì cũng làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi, bi quan, dao
động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII – một Đại hội có tầm nhìn chiến lược cho cả một thời gian dài, một giai
đoạn đặc biệt có nhiều sự kiện quan trọng đối với toàn Đảng, toàn dân tộc ta. Đây là những
luận điệu sai lầm, không có cơ sở, phản động, phản khoa học.
Một là, trong mọi thời điểm, mọi hoàn cảnh đều phải kiên định, nghiên cứu và vận dụng sáng
tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với bối cảnh mới của
tình hình thế giới và trong nước theo Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9/2/2018 của Ban Bí thư
khóa XII về "Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng
và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới", đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; kiên định đường
lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. So với các đại hội trước, Đại hội XIII bổ sung "kiên định
các nguyên tắc xây dựng Đảng". Vấn đề mấu chốt nhất của xây dựng Đảng là phải không
ngừng củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đó là sự trung thành và
vận dụng đúng đắn di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đồng thời là nhiệm vụ có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Hai là, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát
triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong
đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là
nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Toàn cầu hóa,
hội nhập quốc tế là xu hướng thời đại hiện nay. Nếu đứng ngoài xu thế đó, đất nước không
thể phát triển và khó bảo vệ được vững chắc.
Ba là, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt
Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế thu hút, trọng dụng
nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là
những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển
nhanh và bền vững đất nước.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ
động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh
thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.
Năm là, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng
Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là
đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó
mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây
dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp; làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn
cán bộ; đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ
sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo
chủ yếu; không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa; thực hiện nghiêm
quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đặc biệt, trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cùng với cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư là sự phát triển bùng nổ của internet, mạng xã hội toàn cầu và những vấn đề
nảy sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, các thế lực thù địch, phản động ngày càng có
những chiêu thức, thủ đoạn mới tinh vi hơn để chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi
mới của đất nước. Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ an ninh tư tưởng trong giai
đoạn hiện nay cần nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về công tác bảo vệ
an ninh tư tưởng; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò quản lý, điều hành của
chính quyền, vai trò tham mưu của cơ quan các cấp đối với công tác đấu tranh, phản bác
những luận điệu sai trái, thù địch; nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng, tăng
cường "sức đề kháng" cho cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân, đẩy mạnh
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chức năng, đa
dạng hóa các hình thức đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch.