Địa chính trị khu vực Trung đông - Nhóm 5
STT
Họ tên
Nhiệm vụ
1
Trần Quang Minh
Nội dung + Thuyết trình
2
Lưu Mạnh Đức
Nội dung + Thuyết trình
3
Phan Quốc Lâm
Nội dung
4
Nguyễn Trọng Quang Huy
Powerpoint + video
I) Khái quát đặc điểm địa lý, lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa - hội
vị trí chiến lược khu vực trung đông
1) Đặc điểm địa tự nhiên vị trí chiến lược
Đặc điểm địa tự nhiên:
Diện tích vị trí địa :
Diện tích: 10.111.394 km²
Tiếp giáp biển: Vịnh Persian, biển Rập, biển Đỏ, biển Đen, biển
Địa Trung Hải, biển Caspi
Tiếp giáp đất liền: Trung Á, Nam Á, châu Phi, châu Âu
Địa hình khí hậu:
Địa hình: Núi sơn nguyên, đất đai khô cằn, đồng cỏ hoang mạc
Sông ngòi: Hai sông lớn Euphrates Tigris
Khí hậu: Nhiệt đới cận xích đạo, khô nóng quanh năm, nguồn nước
ngọt khan hiếm
Tài nguyên thiên nhiên:
Dầu mỏ: Trữ lượng 89,3 tỷ tấn, chiếm 65,2% trữ lượng dầu mỏ thế
giới
Khí đốt: Các nước khai thác lớn nhất Iran, Angiêri, Cata, Ai
Cập, Ôman
Nhôm, sắt, thép: Sản xuất thép bình quân 20 triệu tấn/năm, Iran sản
xuất lớn nhất với 7,6 triệu tấn/năm
Tầm quan trọng chiến lược:
Cung cấp 35% mức tiêu thụ dầu mỏ thế giới
Mỹ lợi ích chiến lược quan trọng, 5 trong 8 công ty khai thác
dầu mỏ của Mỹ
bản vị vàng pretro dollar
Vị trí quan trọng trong bản đồ khí đốt thế giới
Khó khăn thuận lợi:
Điều kiện tự nhiên vừa thuận lợi vừa khó khăn cho sinh hoạt sản
xuất
Gần 60% nguồn nước thuộc về các vùng biên giới, khó quản
Vị trí chiến lược:
Vị trí địa chiến lược:
Trung Đông nối liền phương Tây phương Đông, ngã ba
đường nối ba châu lục Á - Âu - Phi.
sườn phía Đông của NATO, cửa ngõ vào châu Phi qua kênh đào
Suez.
Mọi biến động chính trị Trung Đông ảnh hưởng đến toàn thế
giới.
Kiểm soát Trung Đông thể chi phối ba châu lục các eo biển,
đảo trên biển Địa Trung Hải.
Tầm quan trọng quân sự kinh tế:
Uy hiếp Bắc Phi, Balkan Nam Á.
Vị trí thuận lợi cho triển khai lực lượng quân sự tại Nam châu Âu,
bờ biển Đông Phi châu Á.
Quan trọng trong cạnh tranh chiến lược các nước lớn bởi tài
nguyên dầu mỏ, khí đốt.
Dân số đa dạng văn hóa:
Dân số năm 2022: khoảng 453 triệu người, tăng trưởng 1,9%/năm.
Đa dạng về chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ (tiếng Arab, Assiry,
Hebrew, Kurd, Thổ Nhĩ Kỳ,…).
Tuổi thọ trung bình: 68,8 tuổi.
Tôn giáo tầm ảnh hưởng:
Cái nôi của Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo.
Tôn giáo chi phối sâu sắc đời sống chính trị, tinh thần.
Hồi giáo ảnh hưởng lớn đến chính trị - hội, chiếm 1/3 người Hồi
giáo thế giới.
Chủ nghĩa liên rập sở hội từ tôn giáo, ảnh hưởng đến
quốc tế.
=> Từ những yếu tố kể trên chúng ta thể suy ra được Khu vực Trung
Đông khu vực cùng nhạy cảm về kinh tế, chính trị, văn hóa, tôn giáo
nguyên nhân gây ra bất đồng, mâu thuẫn, dễ dẫn tới xung đột.
2) Đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa - hội
Quốc gia vùng lãnh thổ:
Trung Đông gồm 16 quốc gia vùng lãnh thổ: Bahrain, Ai Cập,
Iran, Iraq, Israel, Jordan, Kuwait, Liban, Palestine, Oman, Qatar,
Rập Út, Sudan, Syria, Các Tiểu vương quốc Rập Thống nhất,
Yemen.
Thể chế chính trị:
Đa dạng: Cộng hòa Hồi giáo, quân chủ lập hiến, quân chủ Hồi
giáo,....
Đánh giá kém hiệu quả do tôn giáo, xung đột, chiến tranh, nguồn
lợi dầu mỏ, sự can thiệp từ bên ngoài.
vậy nhiều quan niệm cho rằng Trung Đông bị coi một khu
vực lạc hậu, chậm thay đổi về chính trị.
Lịch sử:
Nơi tranh giành quyền lực của các cường quốc, nên đây cũng
một trong những nguyên nhân khiến tình hình chính trị của Trung
Đông bất ổn
Thời kỳ Chiến tranh lạnh: Nằm trung tâm các sự kiện quốc tế chiến
lược như kinh tế, chính trị, văn hóa, tôn giáo,....
=> Cục diện địa chính trị phức tạp, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ
gây bất ổn.
II) Quá trình vận động địa chính trị Trung Đông từ trước năm 1990 đến
nay
1) Giai đoạn trước 1990
Thế kỷ VII - XV:
Thế kỳ VII, Đế chế Rập xâm chiếm Bắc Phi Tây Phi, tạo
nên thế giới Arập thống nhất Trung Đông với nền văn minh phát
triển mạnh mẽ về nhiều lĩnh vực như tưởng văn hóa, khoa học,
thiên văn, tôn giáo, triết học,....
Thế Kỷ XV, Đế chế Ottoman thống trị vùng Trung Đông trong
400 năm.
Chủ nghĩa bản phương Tây:
Đến thế kỷ XVII, chủ nghĩa bản phương Tây bắt đầu thâm
nhập vào Trung Đông bằng cách chia cắt thế giới Arập bằng
cách mua các vùng đất biến chúng thành các tiểu vương quốc
hình thành 12 tiểu vương quốc rập
Sau Chiến tranh thế giới thứ I, đế chế Ottoman bị xóa bỏ,
Trung Đông bị chủ nghĩa bản sử dụng chính sách chia để trị
nhằm tạo sự chênh lệch, khác biệt, từ đó dễ dàng cai trị kiềm
chế lẫn nhau.
Sự xuất hiện của Nhà nước Do Thái:
Cuối thiên niên kỷ II trước Công nguyên, người Do Thái di
sống tại vùng đất Canaan.
Thế kỷ XVII trước Công nguyên Người Hichxột thống trị miền
hạ lưu sông Nile. Một bộ phận người Do Thái xâm nhập Ai Cập,
giúp đỡ người Hichxột thu thuế áp bức người Ai Cập. Khi người
Ai Cập lật đổ người Hichxột, họ báo thù người Do Thái, bắt làm
lệ lao động khổ sai.
Sau 400 năm lệ Người Do Thái nổi dậy chống lại người Ai
Cập, trốn khỏi Ai Cập. Sống phiêu bạt nhiều năm trên sa mạc
Sinai, rồi trở về vùng đất của người Canaan, đồng hóa dung hợp
thành một bộ tộc.
Thế kỷ XII trước Công nguyên: Người Hy Lạp di xuống
phương Nam, làm người Philíxtin phải di xuống xứ Canaan.
Người Do Thái người Canaan hợp lực chiến đấu bảo vệ đất đai,
dồn người Philíxtin vào vùng đất hẹp ven biển.
Dưới triều đại Solomon: Kinh tế văn hóa của người Do Thái
phát triển mạnh mẽ. Sau khi Solomon chết, vương quốc Do Thái bị
chia làm hai: Ixraen miền Bắc, đóng đô Samari Giuđê (Do
Thái) miền Nam, đóng đô Jerusalem.
T năm 722-586 trước Công nguyên Hai nhà nước Do Thái lần
lượt bị Babylon, Canđê, Ba La thống trị áp bức
nặng nề. Nhà nước Do Thái bị xóa bỏ, người Do Thái mất độc
lập, phải sống lưu vong. Với chất thông minh giỏi buôn bán,
giáo của đạo Do Thái trở thành sợi dây kết dính người Do Thái
khắp nơi trên thế giới. Giáo cũng chiêu bài để vận động người
Do Thái phục quốc. Đạo Do Thái ảnh hưởng rộng sâu sắc
đến các dân tộc châu Âu.
Di Do Thái xung đột giữa Rập - Do Thái:
Năm 1897, Đại hội phục quốc Do Thái được tổ chức với mục
tiêu thiết lập “ngôi nhà cho người Do Thái tại Palestine”. Thành
lập Tổ chức Phục quốc thế giới (World Zionist Organization -
WZO).
Năm 1903, khoảng 25.000 người Do Thái quay trở lại mảnh đất
tổ tiên cùng với khoảng nửa triệu người Rập. Đến giai đoạn
1904-1914 khoảng 40.000 người Do Thái tiếp tục tới khu vực
Palestine.
Các lực lượng Rập được người Anh ủng hộ. Năm 1917, Anh
cam kết trả lại độc lập cho các tỉnh Rập (Ottoman cũ). Ngoại
trưởng Arthur Balfour tiến hành thành lập chính quyền cho
người Do Thái Palestine (Tuyên ngôn Balfour).
=> Kết thúc sự cai trị của đế quốc Ottoman:
Tuyên ngôn Balfour năm 1917 (do Anh ủy nhiệm cho người Do
Thái) khiến hàng trăm nghìn người Do Thái từ Anh trở về
Palextin, chương trình này đã làm cộng đồng người Arập hết sức
bất bình. Dẫn đến sự gia tăng căng thẳng giữa người Do Thái
người Arập.
Trong khoảng thời gian diễn ra chiến tranh thế giới thứ 2, Phát
xít Đức thực hiện chính sách tàn sát người Do Thái với học
thuyết không gian sinh tồn dân tộc thượng đẳng. Khoảng 6
triệu người Do Thái bị tàn sát, những người còn lại phải trốn khỏi
châu Âu.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, liên hợp quốc ra đời với mục
tiêu duy trì hòa bình bảo vệ các dân tộc bị áp bức. Tạo hội
cho chủ nghĩa phục quốc Do Thái phát triển. Người Do Thái đòi
Liên hợp quốc cắt đất cho họ vùng đồi Siôn - nơi được coi
thánh địa của người Do Thái.
Thành lập Nhà nước Ixraen:
Ngày 29/11/1947: Liên hợp quốc ra Nghị quyết 181, chấm dứt
quyền ủy trị của Anh chia Palestine thành hai quốc gia: một
của người Rập, một của người Do Thái.
Ngày 14/5/1948: Nhà nước Israel được thành lập tại Tel Aviv
được Mỹ ủng hộ. Người Do Thái trở về lập quốc trên các vùng đất
của người Rập, gặp phải sự phản đối của các nước láng giềng
người Palestine.
Các cuộc chiến tranh Rập - Israel: Các năm 1948-1949, 1956,
1967 1973. Người Do Thái chiếm đóng mở rộng lãnh thổ,
hàng trăm nghìn người Rập phải trốn chạy sang Liban, Ai Cập
khu vực bờ Tây. Quốc gia Palestine không được thành lập.
Người Palestine kêu gọi các nước Rập đoàn kết đánh đuổi người
Do Thái, tấn công Israel.
Sau các cuộc chiến tranh: Người Do Thái bảo vệ được thành
quả giành thắng lợi, chiếm được vùng đất rộng gấp 4 lần
phần đất được chia. Liên đoàn Rập sử dụng dầu mỏ làm con
bài ép Mỹ buộc Israel rút quân, dẫn đến cuộc chiến tranh năm
1973. Mâu thuẫn Palestine - Israel kéo dài đến ngày nay.
Giai đoạn 1978-1982: Israel can thiệp mạnh vào Liban
chiếm đóng phía Nam nước này. Phong trào đấu tranh cho độc lập
dân tộc của người Palestine phát triển mạnh mẽ, được người Rập
Hồi giáo ủng hộ.
Năm 1988: Jordan từ bỏ trách nhiệm của mình bờ Tây.
Năm 1990: Dòng hồi hương lớn của người Israel từ Liên đổ
về. Việc bành trướng mở rộng lãnh thổ làm dấy lên phong trào đấu
tranh của người Palestine chống lại sự chiếm đóng của Israel đối
với khu vực dải Gaza bờ Tây sông Jordan. Israel chịu sức ép của
cộng đồng quốc tế trong việc đưa ra giải pháp cho vấn đề Trung
Đông.
Phong trào độc lập của người Palextin:
Năm 1958: Tổ chức Al-Fatah, tổ chức cách mạng đầu tiên của
nhân dân Palestine, được thành lập.
Tháng 5/1964: Hội đồng Dân tộc Palestine (PNC) lần thứ nhất
họp Đông Jerusalem. Tuyên bố thành lập Tổ chức Giải phóng
Palestine (PLO), tổ chức chính thức đại diện hợp pháp duy
nhất của nhân dân Palestine.
Năm 1974: Tại khóa họp lần thứ 30 của Liên hợp quốc, Đại hội
đồng mời PLO tham gia Liên hợp quốc với cách quan sát
viên thường trực.
Năm 1975: Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết công nhận
quyền bất khả xâm phạm của nhân dân Palestine.
Tháng 11/1988: Hội đồng Dân tộc Palestine (PNC) thông qua
quyết định thành lập Nhà nước Palestine độc lập. Chấp nhận
Nghị quyết 242 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, ngầm thừa
nhận sự tồn tại của Palestine.
Tình hình Trung Đông sau Chiến tranh thế giới thứ hai:
Trung Đông trở thành nơi đối đầu Đông - Tây gay gắt. Khu vực
trở thành chiến trường của các cường quốc, đặc biệt Mỹ Liên
Xô. Liên coi trọng khu vực Trung Đông, đưa đảng viên đến xây
dựng lực lượng các nước Iraq, Liban, Syria, Ai Cập. Mỹ tìm cách
gạt dần ảnh hưởng của Anh Pháp ra khỏi khu vực. Mỹ thành lập
khối quân sự Bátđa đầu nhiều vào Trung Đông, khiến mâu
thuẫn Mỹ - gia tăng.
Hậu quả của đầu ủng hộ nhóm đối lập:
Tình hình khu vực trở nên phức tạp, gây ra các cuộc
chiến xung đột:
Chiến tranh Israel - Ai Cập (năm 1971).
Chiến tranh Israel - Rập (năm 1973).
Thảm kịch Liban (1979-1989).
Chiến tranh Iran-Iraq (1980-1988).
=> Các cuộc xung đột tiếp tục diễn ra, tình hình chính trị khu vực luôn
căng thẳng.
Những thách thức đối với hòa bình:
Thế giới Rập bị chia cắt: Nảy sinh nhiều mâu thuẫn nội bộ,
khó thiết lập sự đoàn kết thống nhất giữa các nước Rập.
Đa số các nước nhiều chính đảng, tổ chức chính trị nên không
thể thống nhất được nhiều vấn đề. Dưới sự viện trợ của Mỹ, Israel
không thể dập tắt phong trào đấu tranh giành quyền độc lập của
người Palestine. Sự chia rẽ làm cho những mục tiêu các nước
Rập đề ra khó đạt được.
Thời kỳ Chiến tranh lạnh (1945-1991): Cục diện địa chính trị
khu vực Trung Đông diễn biến phức tạp quyết liệt. Mâu
thuẫn, xung đột về sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ, mâu thuẫn Đông -
Tây đan xen chồng chéo. Tình hình chính trị khu vực luôn căng
thẳng, nóng bỏng bởi các cuộc chiến tranh, luôn trong tình trạng
bất ổn định. (Bổ sung thêm)
Giải pháp hòa bình:
Hòa bình chỉ thể đạt được khi giải pháp chính trị khôi
phục lại niềm tin, đi vào đàm phán thay các hành động trả
đũa, đánh bom “khủng bố”.
Buộc Israel phải rút quân ra khỏi các khu vực người
Palestine quản lý.
Kế hoạch hòa bình được Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc tán
thành về lộ trình hòa bình Trung Đông mới lối ra cho các
bên.
2) Quá trình vận động địa chính trị Trung Đông từ Giai đoạn 1991 đến
nay
2.1) Tiến trình hòa bình Trung Đông
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình thế giới Trung Đông
nhiều biến động, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất quyền lợi sức
ảnh hưởng lớn nhất Trung Đông. Mỹ đã buộc các nhà cầm quyền Israel
phải điều chỉnh chiến lược từ chỗ xâm lấn lãnh thổ trong thời kỳ Chiến tranh
lạnh sang đàm phán với Palestine thế giới rập xung quanh nội dung chính
: “Đổi đất lấy hòa bình” an ninh cho Israel. Quá trình giải quyết mâu
thuẫn giữa Ixraen Palextin còn một tên gọi khác “Tiến trình hòa
bình Trung Đông”. Mục đích cuối cùng tiến tới thành lập Nhà nước
Palestine biên giới, chủ quyền, thể chế chính trị độc lập cách pháp
chính thức trên đài quốc tế.
Ngày 30/10/1991, Hội nghị hòa bình Trung Đông với sự tham dự của Ixraen
bốn nước Li băng, Syria, Gioócđani, Bahrain đã được tổ chức tại
Madrid ( Tây Ban Nha ). Liên sụp đổ, Mỹ không còn đối thủ cạnh tranh
giành vị trí quyền khu vực này. Đặc biệt sau Chiến tranh vùng Vịnh lần
thứ nhất, ảnh hưởng của Mỹ Trung Đông càng lớn. Một số nước như
Ảrập Xêút, Côét đã dựa vào Mỹ cả về quân sự kinh tế.
nhiều nguyên nhân gây cản trở hòa đàm giữa Ixraen Palextin,
ngay trong nội bộ cũng những quan điểm trái ngược nhau giữa các phe
phái. Nhân dân Palextin kiên trì đấu tranh đòi thành lập nhà nước độc lập
nhưng Ixraen không nhượng bộ việc Palextin quyền lập pháp.
Ngày 04/05/1994, Hiệp định về nền tự trị của người Palextin tại dải Gaza
Jericho đã được kết giữa Ixraen PLO tại Cairo ( Ai Cập ).
Ngày 28/09/1995, Hiệp định Oslo II được kết, theo đó Israel trao trả
thêm một phần khu vực Cis Jordan thuộc bờ Tây sông Jordan cho người
Palestine.
Ngày 20/01/1996 đã diễn ra cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của người
Palestine dưới sự giám sát của các quan sát viên quốc tế. Ông Y. Arafat
trúng cử Chủ tịch Hội đồng. Điều này đặt nền tảng để tiến tới thành lập
một Nhà nước Palestine độc lập.
Ngày 23/10/1998, Hiệp định Wye được kết, theo đó Ixraen phải rút quân
ra khỏi 13% bờ Tây mở tuyến đường “hành lang hòa bình”, thả hàng
trăm nhân Palestine, thi hành mở rộng quyền tự trị của người Palestine.
Israel cũng đồng ý cho Palestine mở một sân bay công viên công nghiệp của
Gaza. Đổi lại, Palextin chấp nhận bảo đảm an ninh cho Israel khỏi các đe dọa
khủng bố.
Ngày 04/09/1999, Tổng thống Palestine Thủ tướng Israel thỏa thuận
thực thi Hiệp định Wye, đặt thời hạn 1 năm để thực hiện các điều khoản
bao gồm : rút quân Israel ra khỏi bờ Tây trong 5 tháng, trao trả binh,
mở cảng biển Gaza lập một hành lang giao thông an toàn từ Gaza sang
bờ Tây. Thỏa thuận này còn được gọi Hiệp định Wye II.
Sau sự kiện khủng bố 11/9/2001, cục diện tình hình Trung Đông thay đổi về
căn bản, Palestine bị liệt vào dạng tình nghi. Chính quyền Palestine ra sức
thanh minh mình không liên quan thì Israel lại tìm cách lợi dụng yếu thế này.
Các nước rập tỏ ra thân thiện hơn với Ixraen ủng hộ cuộc chiến chống
khủng bố. Lợi dụng việc này, Israel đã cho quân đội tấn công Palestine.
Tháng 12/2002, Mỹ, Nga, Liên minh Châu Âu Liên hợp quốc đa triệp
tập Hội nghị về vấn đề hòa bình Trung Đông đưa ra “Lộ trình hòa bình
Trung Đông”. Lộ trình này chính thức được công bố gồm những bước : Chấm
dứt hoạt động khủng bố, Palestine tổ chức bầu cử lại, Israel phải rút quân, thành
lập Nhà nước Palestine độc lập với đường biên giới tạm thời.
Tháng 11/2003, Liên hợp quốc xác nhận lộ trình giải quyết xung đột
Palestine Israel, yêu cầu chấm dứt bạo lực. Palestine được công nhận
một nước chủ quyền, Israel phải rút quân khỏi các vùng đất chiếm đóng
từ năm 1967. Palestine được nhận những diện tích đất tương đương dải Gaza,
Israel cam kết giữ nguyên kết cấu hạ tầng tại những vùng họ rời đi, chuyển cho
Palextin quản lý. Thành phố Jerusalem sẽ thủ đô của cả Ixraen
Palextin.
Vào ngày 11/11/2004, Chủ tịch Y. Arafat qua đời gây ra tổn thất lớn cho
người Palestine. Sau đó, Mahmoud Abbas lên làm Tổng thống Palestine, kiên
trì xây dựng nhà nước không từ bỏ quyền hồi hương quả nạn dân Palestine.
Ngày 15/08/2005, Israel rút người Do Thái ra khỏi các khu định tại dải
Gaza trao trả lại cho Palextin kiểm soát.
Tình hình bất ổn định Trung Đông như gắn chặt với lịch sử mối quan hệ
của Palestine Israel. Sự đối nghịch thể hiện trên mọi phương diện từ tôn giáo,
tưởng chính trị, kinh tế - hội.
Ngày 06/01/2013, Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas ra sắc lệnh
đổi tên Chính quyền Palestine thành Nhà nước Palestine. Đây thành
công mang tính lịch sử của Palestine, những nỗ lực đã được sự ủng hộ của thế
giới. Đồng thời đây bước đi quan trọng để tiến tới thiết lập nền độc lập
thật sự của Nhà nước Palestine, vị thế ngang hàng với Israel trong các cuộc
đàm phán.
Tuy nhiên chiến thắng này cũng rất gian nan khi Israel tuyên bố sẽ
áp đặt những biện pháp kinh tế khắc chống lại Palestine, Mỹ ngừng viện
trợ cho Palestine. Trong khi đó, Liên minh Châu Âu tuyên bố đứng về phía
Palestine trên các phương diện kinh tế, chính trị. Tháng 02/2015, Liên
minh Châu Âu hỗ trợ 212 triệu Euro nhằm trợ giúp người tị nạn, các dịch
vụ y tế, giáo dục bản cho Palestine.
=> Với vị trí địa-chính trị quan trọng nguồn tài nguyên dầu mỏ giàu có,
Trung Đông luôn tâm điểm can thiệp của các cường quốc. Các nước
trong khu vực cộng đồng quốc tế luôn nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa
bình.
2.2) Bất ổn chính trị Trung Đông Bắc Phi
1. Biến động chính trị sau Chiến tranh lạnh
Trung Đông Bắc Phi trải qua nhiều biến động chính trị. “Tiến trình hòa
bình Trung Đông” phụ thuộc vào nhiều yếu tố thể mang lại hy vọng
cho các cuộc xung đột tại đây.
2. Khủng hoảng chính trị biểu tình
- Cuộc khủng hoảng chính trị Ai Cập năm 2010 gây ra “hiệu ứng
domino” trong thế giới Arập, dẫn đến làn sóng biểu tình chống chính
phủ lan rộng khắp khu vực. Các quốc gia như Bahrain, Libya,
Yemen, Tuynidi đều trải qua tình trạng bất ổn chính trị do chế độ
độc tài sự can thiệp của các thế lực bên ngoài.
- Tại thủ đô Tehran của Iran, người biểu tình thuộc phe đối lập đã trở
lại càn quét, gây náo loạn khắp thành phố khiến lực lượng cảnh sát
phải sử dụng phun khí gas để giải tán người biểu tình
- Tại Yemen, tình hình trở nên căng thẳng khi người dân đổ ra đường
yêu cầu nhà cầm quyền từ chức…
3. Tình hình chính trị hội trong khu vực
- Chế độ độc tài hầu hết các quốc gia khiến người dân phẫn nộ do
chính phủ không những chủ trương, biện pháp kịp thời để đưa đất
nước thoát ra khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát triển, sự can thiệp
của các thế lực bên ngoài các trào lưu dân chủ làm cho chính trị
các quốc gia trong khu vực tiềm ẩn nhiều nguy bất ổn.
4. Vấn đề hạt nhân căng thẳng quốc tế
Vấn đề Iran phát triển chương trình hạt nhân thể làm thay đổi cán cân
sức mạnh vùng Vịnh dẫn đến cuộc chạy đua khí hạt nhân. Israel lo
ngại về sự tồn tại của mình nếu Iran sở hữu khí hạt nhân thể dùng
lực để ngăn chặn. Sự phản đối của Mỹ các động thái nhằm ngăn
chặn Iran cũng làm tăng thêm căng thẳng trong khu vực.
5. Xung đột Israel - Palestine
Cuộc xung đột giữa Israel Palestine vẫn tiếp diễn không thỏa
hiệp quan trọng nào đạt được. Nếu không giải quyết được xung đột này,
nguy bất ổn xung đột giữa lực lượng Hồi giáo phương Tây vẫn sẽ
tiếp tục.
2.3) Xu hướng tăng cường liên kết, hợp tác, liên minh khu vực
Xu hướng địa chính trị tại Trung Đông:
Tăng cường hợp tác, liên minh, liên kết khu vực liên khu vực để
phát huy nội lực.
Xây dựng lộ trình quan hệ đối ngoại để tìm kiếm hội đầu
tranh thủ sự ủng hộ của nước ngoài.
Xây dựng lộ trình quan hệ đối ngoại để tìm kiếm hội đầu
tranh thủ sự ủng hộ của nước ngoài.
Tác động của địa chính trị Trung Đông đến thế giới:
Bất ổn địa chính trị tại Trung Đông đe dọa kinh tế, an ninh, hòa
bình thế giới.
Tác động đến các khu vực cường quốc như Mỹ, Trung Quốc,
EU, Nga do Trung Đông cung cấp dầu mỏ quan trọng.
Khả năng chi phối Trung Đông giúp đảm bảo nguồn cung cấp
nguyên liệu vị trí địa chính trị quan trọng.
Vai trò của Trung Đông trong hòa giải xung đột:
Trung Đông quan trọng trong hòa giải xung đột giữa thế giới Hồi
giáo với Mỹ phương Tây.
1/3 số người theo đạo Hồi trên thế giới sống tại Trung Đông.
Mỹ châu Âu coi trọng ổn định giá nhiên liệu hòa bình
Trung Đông.
Trung Quốc tăng cường lôi kéo các nước Trung Đông để đảm bảo
nguồn cung ứng dầu mỏ.
Trung Đông vị trí địa thuận lợi trữ lượng dầu mỏ lớn nhất
thế giới.
Chiến tranh xung đột thường xuyên xảy ra khiến nhiều quốc gia
Trung Đông vẫn đói nghèo.
Thời kỳ Chiến tranh lạnh, cục diện địa chính trị Trung Đông phức
tạp quyết liệt với nhiều mâu thuẫn đan xen.
Sau Chiến tranh lạnh, tình hình chính trị Trung Đông vẫn phức tạp
xu hướng hợp tác, liên kết diễn ra mạnh mẽ.
Diễn biến địa chính trị Trung Đông vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố khó
dự báo.
Kết luận: Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng Trung Đông vẫn khu vực
thường xuyên bị xung đột chiến tranh, khiến nhiều quốc gia nơi đây vẫn còn
đói nghèo. Từ thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cục diện địa chính trị Trung Đông đã
rất phức tạp với nhiều mâu thuẫn. Mặc sau Chiến tranh Lạnh, xu hướng hợp
tác, liên kết đã diễn ra mạnh mẽ, nhưng tình hình chính trị đây vẫn còn phức
tạp tiềm ẩn nhiều yếu tố khó dự đoán.
Địa chính trị khu vực Trung đông - Nhóm 5 (Kịch bản
video)
Dẫn mở: Trung Đông, với vị trí chiến lược nằm giữa ba châu lục Á, Âu Phi,
luôn tâm điểm của các cuộc xung đột tranh chấp địa chính trị. Khu vực
này không chỉ giàu tài nguyên dầu mỏ còn nơi giao thoa của nhiều nền
văn hóa tôn giáo lớn như Hồi giáo, Do Thái giáo Đốc giáo.
Trong video này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về những yếu tố địa chính trị đã
đang định hình Trung Đông, từ sự hình thành của các quốc gia hiện đại sau Thế
chiến thứ hai, đến các cuộc xung đột kéo dài như cuộc chiến Israel-Palestine,
vai trò của các cường quốc như Mỹ, Nga Iran trong khu vực.
I) Khái quát đặc điểm địa lý, lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa - hội
vị trí chiến lược khu vực trung đông
1) Đặc điểm địa tự nhiên vị trí chiến lược
*Đặc điểm địa tự nhiên
Trung Đông diện tích khoảng 10.111.394 km², với phần biển tiếp giáp vịnh
Persian, biển Rập, biển Đỏ, biển Đen, biển Địa Trung Hải biển Caspi.
Phần đất liền của khu vực này tiếp giáp với Trung Á, Nam Á, châu Phi châu
Âu, tạo nên một vị trí chiến lược cùng quan trọng.
Địa hình của Trung Đông chủ yếu núi sơn nguyên, với đất đai khô cằn
đồng cỏ hoang mạc. Khu vực này hai con sông lớn Euphrates Tigris,
cùng với hệ thống sông ngòi đan xen. Khí hậu đây đặc trưng bởi nhiệt đới cận
xích đạo, khô nóng quanh năm, nguồn nước ngọt khan hiếm. Điều kiện tự
nhiên này vừa mang lại những thuận lợi nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho
sinh hoạt sản xuất của người dân.
Hiện nay, gần 60% nguồn nước Trung Đông thuộc về các vùng biên giới,
khiến cho việc quản nguồn nước trở nên rất khó khăn. Tuy nhiên, Trung
Đông lại rất giàu về tài nguyên dầu mỏ, khí đốt, nhôm sắt. Tổng trữ lượng
dầu mỏ ước tính 89,3 tỷ tấn, chiếm 65,2% trữ lượng dầu mỏ của thế giới. Mỗi
năm, khu vực này cung cấp 35% mức tiêu thụ dầu mỏ cho cả thế giới, đáp ứng
70% nhu cầu của Tây Âu, 80% của Nhật Bản 35% của Mỹ.
Nước Mỹ lợi ích chiến lược rất quan trọng Trung Đông, với 5 trong tổng số
8 công ty độc quyền xuyên quốc gia khai thác dầu mỏ đây của Mỹ. Trung
Đông cũng chiếm một vị trí quan trọng trong bản đồ khí đốt thế giới, với những
nước sản lượng khai thác khí đốt lớn nhất Iran, Algeria, Qatar, Ai Cập
Oman. Những nước dự trữ khí đốt lớn nhất Iran, Qatar Iraq.
Ngoài ra, Trung Đông còn các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác như nhôm
thép, với sản lượng thép bình quân đạt 20 triệu tấn/năm. Iran nước năng
lực sản xuất thép lớn nhất trong khu vực với 7,6 triệu tấn/năm.
Với sự giàu về nguồn tài nguyên vị trí chiến lược quan trọng, Trung Đông
trở thành mục tiêu của các cường quốc nhằm bảo đảm nguồn năng lượng thiết
yếu, từ đó duy trì thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cũng như phát huy ảnh
hưởng trên thế giới.
Middle East geopolitics explained simply || The Middle East explained in …
*Vị trí chiến lược
Trung Đông vị trí chiến lược cùng quan trọng, nằm trên tuyến đường
huyết mạch quan trọng nhất thế giới, nối liền phương Tây phương Đông,
ngã ba đường nối ba châu lục Á, Âu Phi. Khu vực này nằm sườn phía
Đông của NATO cửa ngõ vào châu Phi qua kênh đào Suez. Với vị trí trung
tâm này, mọi biến động chính trị Trung Đông đều ảnh hưởng đến toàn thế
giới.
thể nói, lực lượng nào nắm được Trung Đông sẽ khả năng chi phối cả ba
châu lục thông qua việc kiểm soát các eo biển các đảo trên biển Địa Trung
Hải. Điều này tác động trực tiếp đến sự liên lạc giữa các vùng, các châu lục
giữa các đại dương. Mọi hoạt động quân sự kinh tế mang tính quốc tế đều
phải trung chuyển qua khu vực này. Từ Trung Đông, thể uy hiếp Bắc Phi,
Balkan Nam Á, đây cũng vị trí thuận lợi cho việc triển khai lực lượng
quân sự tại Nam châu Âu, bờ biển Đông Phi châu Á.
Trung Đông còn tầm quan trọng trong cạnh tranh chiến lược giữa các nước
lớn bởi nguồn tài nguyên dầu mỏ khí đốt với trữ lượng lớn, yếu tố ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu. thế, Trung Đông luôn bị tác động mạnh
bởi sự can thiệp của các thế lực chính trị bên ngoài, đặc biệt các nước lớn.
Dân số khu vực Trung Đông tính đến năm 2022 khoảng trên 453 triệu người,
với tỷ lệ gia tăng dân số trung bình hiện nay 1,9%/năm. Một số nước tỷ lệ
tăng dân số rất cao như Kuwait, Palestine, Oman Iraq. Tuổi thọ trung bình
của người dân khu vực này 68,8 tuổi. Thành phần dân đây rất đa dạng về
chủng tộc, văn hóa ngôn ngữ, bao gồm người Ai Cập, người Amhara, người
Phi, người Giecgiam, người Kurd, người Hy Lạp, người Assyria, người Azeris,
người Do Thái nhiều nhóm khác. Các ngôn ngữ chính Trung Đông bao
gồm tiếng Arab, tiếng Assyria, tiếng Hebrew, tiếng Kurd tiếng Thổ Nhĩ Kỳ.
Trung Đông cái nôi của các tôn giáo cổ như Thiên Chúa giáo, Hồi giáo Do
Thái giáo. Tôn giáo chi phối sâu sắc đời sống chính trị tinh thần của người
dân nơi đây. Hồi giáo ảnh hưởng rất lớn đến việc tập hợp lực lượng vận
động chính trị - hội Trung Đông, với số người theo Hồi giáo chiếm 1/3
người Hồi giáo trên thế giới. Không nơi nào trên thế giới tôn giáo lại chi
phối sâu sắc đến đời sống chính trị tinh thần người dân như Trung Đông.
Hồi giáo đã trở thành một vấn đề lớn trong khu vực chứng minh rằng chủ
nghĩa liên Rập một sở hội từ tôn giáo, một nội lực mãnh liệt khiến
các nước lớn phải chú ý tới. Sức mạnh đó vượt ra khỏi phạm vi Trung Đông,
xuyên suốt thế giới Hồi giáo trở thành một thế lực quốc tế buộc các nước
phải tính đến trong quá trình hoạch định chiến lược của mình Trung Đông.
Đây khu vực nhạy cảm về kinh tế, chính trị, văn hóa tôn giáo, điều này
cũng nguyên nhân gây ra những bất đồng, mâu thuẫn xung đột không thể
điều hòa trong khu vực.
Middle East geopolitics explained simply || The Middle East explained in …
2) Đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa - hội
Theo Hiệp hội Hàng không quốc tế, Trung Đông bao gồm 16 quốc gia vùng
lãnh thổ: Bahrain, Ai Cập, Iran, Iraq, Israel, Jordan, Kuwait, Lebanon, Palestine,
Oman, Qatar, Rập Út, Sudan, Syria, Các Tiểu vương quốc Rập Thống
nhất Yemen.
Các quốc gia Trung Đông thể chế chính trị rất đa dạng, từ cộng hòa Hồi giáo,
quân chủ lập hiến đến quân chủ Hồi giáo. Tuy nhiên, so với các khu vực khác,
thể chế chính trị Trung Đông thường bị đánh giá kém hiệu quả. Nguyên
nhân chính bao gồm tôn giáo, xung đột, chiến tranh triền miên, nguồn lợi dầu
mỏ ảnh hưởng đến lợi ích chính phủ sự can thiệp của các quốc gia bên ngoài.
vậy, nhiều người cho rằng Trung Đông một khu vực lạc hậu chậm thay
đổi về chính trị.
Trong lịch sử, Trung Đông luôn nơi tranh giành quyền lực ảnh hưởng của
các cường quốc, điều này cũng góp phần làm cho tình hình chính trị đây luôn
bất ổn. Thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Trung Đông nằm trong vùng trung tâm của
các sự kiện quốc tế mang tính chiến lược như kinh tế, chính trị, văn hóa tôn
giáo. Cục diện địa chính trị khu vực Trung Đông diễn biến hết sức phức tạp
quyết liệt, với các mâu thuẫn xung đột về sắc tộc, tôn giáo lãnh thổ khiến
khu vực này luôn trong tình trạng bất ổn định.
Middle East geopolitics explained simply || The Middle East explained in …
Cả phần 1 2 lấy 1:26 trờ về đầu (Còn lại anh thể tìm ảnh chèn =))))
II) Quá trình vận động địa chính trị Trung Đông từ trước năm 1990 đến
nay
1) Giai đoạn trước 1990
Vào thế kỷ VII, đế chế Rập hùng mạnh đã xâm chiếm Bắc Phi Tây Phi,
hình thành nên thế giới Rập thống nhất Trung Đông. Với nền văn minh phát
triển rực rỡ trong nhiều lĩnh vực như tưởng văn hóa, khoa học, thiên văn, tôn
giáo triết học, người dân Trung Đông đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm
phong phú về nhận thức thế giới xung quanh hiểu được các quy luật tự nhiên.
Đến thế kỷ XV, đế chế Ottoman xâm chiếm thống nhất cả vùng Trung Đông,
giữ quyền thống trị trong suốt 400 năm. Thế kỷ XVII, chủ nghĩa bản phương
Tây bắt đầu xâm chiếm Trung Đông nhưng không thể xâm nhập ngay lập tức do
tính cố kết cao của các nhà nước phong kiến tại đây. Để xâm nhập, chủ nghĩa
bản phương Tây đã tìm cách chia cắt thế giới Rập bằng cách mua các vùng
đất, thành lập các tiểu vương quốc riêng sử dụng người địa phương cai trị,
hình thành nên 12 tiểu vương quốc Rập.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, đế chế Ottoman bị xóa bỏ Trung Đông bị
chủ nghĩa bản sử dụng chính sách chia để trị nhằm tạo ra sự chênh lệch
khác biệt, từ đó dễ dàng cai trị kiềm chế lẫn nhau.
Sự xuất hiện của Nhà nước Do Thái Trung Đông giữa các quốc gia Rập
cũng một yếu tố quan trọng. Vào thời cổ đại, miền bờ biển phía Đông Địa
Trung Hải nơi nhiều bộ tộc cùng sinh sống. Cuối thiên niên kỷ II trước
Công nguyên, một bộ tộc du mục khác của người Semit, gọi người Hebrew
hay người Do Thái, từ bên kia sông Jordan tràn vào lãnh thổ của người Canaan
chung sống với họ. Về sau, người Do Thái dần thay thế người Canaan làm
chủ mảnh đất ấy định cư, làm nông nghiệp.
Đến thế kỷ XVII trước Công nguyên, khi người Hyksos thống trị miền hạ lưu
sông Nile, một bộ phận người Do Thái thừa xâm nhập Ai Cập giúp đỡ
người Hyksos thu thuế, áp bức người Ai Cập. Khi người Ai Cập lật đổ nền
thống trị của người Hyksos khôi phục lại đất nước, họ báo thù người Do Thái
rất tàn khốc, bắt người Do Thái làm lệ lao động khổ sai. Sau 400 năm
chịu cảnh lệ bạo ngược, người Do Thái đã nổi dậy chống lại người Ai Cập
sau đó trốn khỏi đất Ai Cập, sống phiêu bạt nhiều năm trên sa mạc của bán
đảo Sinai, rồi tìm cách trở về vùng đất của người Canaan, từng bước đồng hóa
dung hợp thành một bộ tộc.
Thế kỷ XII, người Hy Lạp di xuống phương Nam làm cho người Philistine
phải di xuống xứ Canaan. Người Do Thái người Canaan đã hợp lực chiến
đấu bảo vệ đất đai dồn người Philistine vào một vùng đất hẹp ven biển.
Dưới triều đại Solomon, kinh tế văn hóa của người Do Thái khá phát triển.
Khi Solomon chết, vương quốc của người Do Thái bị chia làm hai nước nhỏ:
Israel miền Bắc, đóng đô Samaria; Judah (Do Thái) miền Nam, đóng
đô Jerusalem. Từ những năm 722-586 trước Công nguyên, lần lượt hai nhà
nước này bị người Babylon, Chaldea, Ba La đến thống trị áp bức
nặng nề, nhà nước của người Do Thái bị xóa bỏ dân tộc này phải sống lưu
vong.
Với cuộc sống bế tắc bị áp bức, người Do Thái hy vọng vào sự xuất hiện của
thiên sứ của thần tối cao (sau này chúa cứu thế của đạo Đốc), làm cầu nối
giữa thần người. Sự xuất hiện của các nhà tiên tri giáo của họ kết hợp
với các nghi thức tôn giáo, truyện thần thoại, sự việc lịch sử những phong tục
tập quán qua thời gian được trau chuốt bổ sung, kinh Cựu ước trở thành kinh
thánh của đạo Do Thái.
Khi bị mất độc lập phải sống lưu vong, với chất thông minh giỏi buôn
bán, giáo của đạo Do Thái trở thành sợi dây kết dính người Do Thái sinh
sống khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, cũng chiêu bài để vận động người
Do Thái phục quốc bởi ảnh hưởng của đạo Do Thái đối với các dân tộc châu Âu
rất rộng sâu sắc.
Năm 1897, Đại hội phục quốc Do Thái được tổ chức với mục tiêu thiết lập một
“ngôi nhà cho người Do Thái tại Palestine” thành lập Tổ chức Phục quốc Thế
giới (WZO). Đến năm 1903, khoảng 25.000 người Do Thái đã quay trở lại
mảnh đất tổ tiên của họ, sống cùng với khoảng nửa triệu người Rập. Trong
giai đoạn 1904-1914, thêm khoảng 40.000 người Do Thái tiếp tục đến khu vực
này.
Sự cai trị của đế quốc Ottoman kết thúc khi các lực lượng Rập được người
Anh ủng hộ. Năm 1917, Anh cam kết trả lại độc lập cho các tỉnh Rập, nhưng
Ngoại trưởng Arthur Balfour lại tiến hành việc thành lập chính quyền cho người
Do Thái Palestine. Tuyên ngôn Balfour đã khiến hàng trăm nghìn người Do
Thái từ Anh trở về Palestine, gây ra sự bất bình lớn trong cộng đồng người
Rập. Đến năm 1922, theo số liệu của Anh, tới 11% người Do Thái trong tổng
số 750.000 dân sống tại Palestine. 15 năm sau, con số này đã tăng lên hơn
300.000 người Do Thái. Sự hận thù giữa hai dân tộc ngày càng gia tăng, đến
tháng 8/1929, xung đột chính thức nổ ra khi 110 người Palestine bị cảnh sát Anh
bắn chết khoảng 130 người Do Thái bị người Palestine sát hại.
Người Do Thái, sống lưu vong, vẫn giữ vững bản sắc văn hóa tôn giáo
của mình. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, phát xít Đức đã thực hiện chính
sách tàn sát người Do Thái, khiến khoảng 6 triệu người Do Thái bị giết hại
buộc những người còn lại phải trốn khỏi châu Âu. Sau chiến tranh, Liên hợp
quốc ra đời với mục tiêu duy trì hòa bình bảo vệ các dân tộc bị áp bức, tạo
hội cho chủ nghĩa phục quốc Do Thái phát triển. Người Do Thái yêu cầu Liên
hợp quốc cắt đất cho họ tại vùng đồi Siôn, nơi được coi thánh địa của họ.
Ngày 29/11/1947, Liên hợp quốc ra Nghị quyết 181, chấm dứt quyền ủy trị của
Anh chia Palestine thành hai quốc gia: một của người Rập một của
người Do Thái. Ngày 14/5/1948, Nhà nước Israel được thành lập tại Tel Aviv
ngay sau đó được Mỹ ủng hộ. Người Do Thái trở về lập quốc trên các vùng đất
của người Rập, gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các nước láng giềng
người Palestine. Đây nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh Rập -
Israel vào các năm 1948-1949, 1956, 1967 1973. Trong các cuộc chiến này,
người Do Thái ngày càng chiếm đóng mở rộng lãnh thổ, khiến hàng trăm
nghìn người Rập phải trốn chạy sang Lebanon, Ai Cập khu vực Bờ Tây.
Quốc gia Palestine không được thành lập, mảnh đất Palestine nhuộm đầy

Preview text:

Địa chính trị khu vực Trung đông - Nhóm 5 STT Họ và tên Nhiệm vụ 1 Trần Lê Quang Minh
Nội dung + Thuyết trình 2 Lưu Mạnh Đức
Nội dung + Thuyết trình 3 Phan Quốc Lâm Nội dung 4
Nguyễn Trọng Quang Huy Powerpoint + video
I) Khái quát đặc điểm địa lý, lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và
vị trí chiến lược khu vực trung đông

1) Đặc điểm địa lý tự nhiên và vị trí chiến lược
● Đặc điểm địa lý tự nhiên:

Diện tích và vị trí địa lý:
○ Diện tích: 10.111.394 km²
○ Tiếp giáp biển: Vịnh Persian, biển Ả Rập, biển Đỏ, biển Đen, biển
Địa Trung Hải, biển Caspi
○ Tiếp giáp đất liền: Trung Á, Nam Á, châu Phi, châu Âu
Địa hình và khí hậu:
○ Địa hình: Núi và sơn nguyên, đất đai khô cằn, đồng cỏ hoang mạc
○ Sông ngòi: Hai sông lớn là Euphrates và Tigris
○ Khí hậu: Nhiệt đới cận xích đạo, khô nóng quanh năm, nguồn nước ngọt khan hiếm
Tài nguyên thiên nhiên:
○ Dầu mỏ: Trữ lượng 89,3 tỷ tấn, chiếm 65,2% trữ lượng dầu mỏ thế giới
○ Khí đốt: Các nước khai thác lớn nhất là Iran, Angiêri, Cata, Ai Cập, Ôman
○ Nhôm, sắt, thép: Sản xuất thép bình quân 20 triệu tấn/năm, Iran sản
xuất lớn nhất với 7,6 triệu tấn/năm
Tầm quan trọng chiến lược:
○ Cung cấp 35% mức tiêu thụ dầu mỏ thế giới
○ Mỹ có lợi ích chiến lược quan trọng, 5 trong 8 công ty khai thác dầu mỏ là của Mỹ
○ bản vị vàng pretro dollar
○ Vị trí quan trọng trong bản đồ khí đốt thế giới
Khó khăn và thuận lợi:
○ Điều kiện tự nhiên vừa thuận lợi vừa khó khăn cho sinh hoạt và sản xuất
○ Gần 60% nguồn nước thuộc về các vùng biên giới, khó quản lý
● Vị trí chiến lược:
Vị trí địa lý và chiến lược:
○ Trung Đông nối liền phương Tây và phương Đông, là ngã ba
đường nối ba châu lục Á - Âu - Phi.
○ Ở sườn phía Đông của NATO, cửa ngõ vào châu Phi qua kênh đào Suez.
○ Mọi biến động chính trị ở Trung Đông ảnh hưởng đến toàn thế giới.
○ Kiểm soát Trung Đông có thể chi phối ba châu lục và các eo biển,
đảo trên biển Địa Trung Hải.
Tầm quan trọng quân sự và kinh tế:
○ Uy hiếp Bắc Phi, Balkan và Nam Á.
○ Vị trí thuận lợi cho triển khai lực lượng quân sự tại Nam châu Âu,
bờ biển Đông Phi và châu Á.
○ Quan trọng trong cạnh tranh chiến lược ở các nước lớn bởi tài
nguyên dầu mỏ, khí đốt.
Dân số và đa dạng văn hóa:
○ Dân số năm 2022: khoảng 453 triệu người, tăng trưởng 1,9%/năm.
○ Đa dạng về chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ (tiếng Arab, Assiry,
Hebrew, Kurd, Thổ Nhĩ Kỳ,…).
○ Tuổi thọ trung bình: 68,8 tuổi.
Tôn giáo và tầm ảnh hưởng:
○ Cái nôi của Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo.
○ Tôn giáo chi phối sâu sắc đời sống chính trị, tinh thần.
○ Hồi giáo ảnh hưởng lớn đến chính trị - xã hội, chiếm 1/3 người Hồi giáo thế giới.
○ Chủ nghĩa liên Ả rập có cơ sở xã hội từ tôn giáo, có ảnh hưởng đến quốc tế.
=> Từ những yếu tố kể trên chúng ta có thể suy ra được Khu vực Trung
Đông là khu vực vô cùng nhạy cảm về kinh tế, chính trị, văn hóa, tôn giáo
và là nguyên nhân gây ra bất đồng, mâu thuẫn, dễ dẫn tới xung đột.

2) Đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội
Quốc gia và vùng lãnh thổ:
○ Trung Đông gồm 16 quốc gia và vùng lãnh thổ: Bahrain, Ai Cập,
Iran, Iraq, Israel, Jordan, Kuwait, Liban, Palestine, Oman, Qatar, Ả
Rập Xê Út, Sudan, Syria, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Yemen.
Thể chế chính trị:
○ Đa dạng: Cộng hòa Hồi giáo, quân chủ lập hiến, quân chủ Hồi giáo,....
○ Đánh giá kém hiệu quả do tôn giáo, xung đột, chiến tranh, nguồn
lợi dầu mỏ, sự can thiệp từ bên ngoài.
○ Vì vậy nhiều quan niệm cho rằng Trung Đông bị coi là một khu
vực lạc hậu, chậm thay đổi về chính trị. Lịch sử:
○ Nơi tranh giành quyền lực của các cường quốc, nên đây cũng là
một trong những nguyên nhân khiến tình hình chính trị của Trung Đông bất ổn
○ Thời kỳ Chiến tranh lạnh: Nằm trung tâm các sự kiện quốc tế chiến
lược như kinh tế, chính trị, văn hóa, tôn giáo,....
=> Cục diện địa chính trị phức tạp, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ gây bất ổn.
II) Quá trình vận động địa chính trị Trung Đông từ trước năm 1990 đến nay
1) Giai đoạn trước 1990
Thế kỷ VII - XV:
Thế kỳ VII, Đế chế Ả Rập xâm chiếm Bắc Phi và Tây Phi, tạo
nên thế giới Arập thống nhất ở Trung Đông với nền văn minh phát
triển mạnh mẽ về nhiều lĩnh vực như tư tưởng văn hóa, khoa học,
thiên văn, tôn giáo, triết học,....
○ Thế Kỷ XV, Đế chế Ottoman thống trị vùng Trung Đông trong 400 năm.
Chủ nghĩa tư bản phương Tây:
Đến thế kỷ XVII, chủ nghĩa tư bản phương Tây bắt đầu thâm
nhập vào Trung Đông bằng cách chia cắt thế giới Arập bằng
cách mua các vùng đất biến chúng thành các tiểu vương quốc và
hình thành 12 tiểu vương quốc Ả rập
Sau Chiến tranh thế giới thứ I, đế chế Ottoman bị xóa bỏ,
Trung Đông bị chủ nghĩa tư bản sử dụng chính sách chia để trị
nhằm tạo sự chênh lệch, khác biệt, từ đó dễ dàng cai trị và kiềm chế lẫn nhau.
Sự xuất hiện của Nhà nước Do Thái:
Cuối thiên niên kỷ II trước Công nguyên, người Do Thái di cư
và sống tại vùng đất Canaan.
Thế kỷ XVII trước Công nguyên Người Hichxột thống trị miền
hạ lưu sông Nile. Một bộ phận người Do Thái xâm nhập Ai Cập,
giúp đỡ người Hichxột thu thuế và áp bức người Ai Cập. Khi người
Ai Cập lật đổ người Hichxột, họ báo thù người Do Thái, bắt làm nô
lệ và lao động khổ sai.
Sau 400 năm nô lệ Người Do Thái nổi dậy chống lại người Ai
Cập, trốn khỏi Ai Cập. Sống phiêu bạt nhiều năm trên sa mạc
Sinai, rồi trở về vùng đất của người Canaan, đồng hóa và dung hợp thành một bộ tộc.
Thế kỷ XII trước Công nguyên: Người Hy Lạp di cư xuống
phương Nam, làm người Philíxtin phải di cư xuống xứ Canaan.
Người Do Thái và người Canaan hợp lực chiến đấu bảo vệ đất đai,
dồn người Philíxtin vào vùng đất hẹp ven biển.
Dưới triều đại Solomon: Kinh tế và văn hóa của người Do Thái
phát triển mạnh mẽ. Sau khi Solomon chết, vương quốc Do Thái bị
chia làm hai: Ixraen ở miền Bắc, đóng đô ở Samari và Giuđê (Do
Thái) ở miền Nam, đóng đô ở Jerusalem.
Từ năm 722-586 trước Công nguyên Hai nhà nước Do Thái lần
lượt bị Babylon, Canđê, Ba Tư và La Mã thống trị và áp bức
nặng nề. Nhà nước Do Thái bị xóa bỏ, người Do Thái mất độc
lập, phải sống lưu vong.
Với tư chất thông minh và giỏi buôn bán,
giáo lý của đạo Do Thái trở thành sợi dây kết dính người Do Thái
khắp nơi trên thế giới. Giáo lý cũng là chiêu bài để vận động người
Do Thái phục quốc. Đạo Do Thái có ảnh hưởng rộng và sâu sắc
đến các dân tộc châu Âu.
Di cư Do Thái và xung đột giữa Ả Rập - Do Thái:
Năm 1897, Đại hội phục quốc Do Thái được tổ chức với mục
tiêu thiết lập “ngôi nhà cho người Do Thái tại Palestine”. Thành
lập Tổ chức Phục quốc thế giới (World Zionist Organization - WZO).
Năm 1903, khoảng 25.000 người Do Thái quay trở lại mảnh đất
tổ tiên cùng với khoảng nửa triệu người Ả Rập. Đến giai đoạn
1904-1914 khoảng 40.000 người Do Thái tiếp tục tới khu vực Palestine.
○ Các lực lượng Ả Rập được người Anh ủng hộ. Năm 1917, Anh
cam kết trả lại độc lập cho các tỉnh Ả Rập (Ottoman cũ). Ngoại
trưởng Arthur Balfour tiến hành thành lập chính quyền cho
người Do Thái ở Palestine (Tuyên ngôn Balfour).

=> Kết thúc sự cai trị của đế quốc Ottoman:
Tuyên ngôn Balfour năm 1917 (do Anh ủy nhiệm cho người Do
Thái) khiến hàng trăm nghìn người Do Thái từ Anh trở về
Palextin,
chương trình này đã làm cộng đồng người Arập hết sức
bất bình. Dẫn đến sự gia tăng căng thẳng giữa người Do Thái và người Arập.
Trong khoảng thời gian diễn ra chiến tranh thế giới thứ 2, Phát
xít Đức thực hiện chính sách tàn sát người Do Thái với học
thuyết không gian sinh tồn và dân tộc thượng đẳng.
Khoảng 6
triệu người Do Thái bị tàn sát, những người còn lại phải trốn khỏi châu Âu.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, liên hợp quốc ra đời với mục
tiêu duy trì hòa bình và bảo vệ các dân tộc bị áp bức. Tạo cơ hội
cho chủ nghĩa phục quốc Do Thái phát triển. Người Do Thái đòi
Liên hợp quốc cắt đất cho họ và vùng đồi Siôn - nơi được coi là
thánh địa của người Do Thái.
Thành lập Nhà nước Ixraen:
Ngày 29/11/1947: Liên hợp quốc ra Nghị quyết 181, chấm dứt
quyền ủy trị của Anh và chia Palestine thành hai quốc gia: một
của người Ả Rập, một của người Do Thái.

Ngày 14/5/1948: Nhà nước Israel được thành lập tại Tel Aviv và
được Mỹ ủng hộ. Người Do Thái trở về lập quốc trên các vùng đất
của người Ả Rập, gặp phải sự phản đối của các nước láng giềng và người Palestine.
Các cuộc chiến tranh Ả Rập - Israel: Các năm 1948-1949, 1956,
1967 và 1973. Người Do Thái chiếm đóng và mở rộng lãnh thổ,
hàng trăm nghìn người Ả Rập phải trốn chạy sang Liban, Ai Cập
và khu vực bờ Tây. Quốc gia Palestine không được thành lập.
Người Palestine kêu gọi các nước Ả Rập đoàn kết đánh đuổi người Do Thái, tấn công Israel.
Sau các cuộc chiến tranh: Người Do Thái bảo vệ được thành
quả và giành thắng lợi, chiếm được vùng đất rộng gấp 4 lần
phần đất được chia.
Liên đoàn Ả Rập sử dụng dầu mỏ làm con
bài ép Mỹ buộc Israel rút quân, dẫn đến cuộc chiến tranh năm
1973. Mâu thuẫn Palestine - Israel kéo dài đến ngày nay.
Giai đoạn 1978-1982: Israel can thiệp mạnh vào Liban và
chiếm đóng phía Nam nước này. Phong trào đấu tranh cho độc lập
dân tộc của người Palestine phát triển mạnh mẽ, được người Ả Rập và Hồi giáo ủng hộ.
Năm 1988: Jordan từ bỏ trách nhiệm của mình ở bờ Tây.
Năm 1990: Dòng hồi hương lớn của người Israel từ Liên Xô đổ
về. Việc bành trướng mở rộng lãnh thổ làm dấy lên phong trào đấu
tranh của người Palestine chống lại sự chiếm đóng của Israel đối
với khu vực dải Gaza và bờ Tây sông Jordan. Israel chịu sức ép của
cộng đồng quốc tế trong việc đưa ra giải pháp cho vấn đề Trung Đông.
Phong trào độc lập của người Palextin:
Năm 1958: Tổ chức Al-Fatah, tổ chức cách mạng đầu tiên của
nhân dân Palestine, được thành lập.
Tháng 5/1964: Hội đồng Dân tộc Palestine (PNC) lần thứ nhất
họp ở Đông Jerusalem. Tuyên bố thành lập Tổ chức Giải phóng
Palestine (PLO), tổ chức chính thức đại diện hợp pháp duy
nhất của nhân dân Palestine.

Năm 1974: Tại khóa họp lần thứ 30 của Liên hợp quốc, Đại hội
đồng mời PLO tham gia Liên hợp quốc với tư cách là quan sát viên thường trực.
Năm 1975: Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết công nhận
quyền bất khả xâm phạm của nhân dân Palestine.
Tháng 11/1988: Hội đồng Dân tộc Palestine (PNC) thông qua
quyết định thành lập Nhà nước Palestine độc lập. Chấp nhận
Nghị quyết 242 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, ngầm thừa
nhận sự tồn tại của Palestine.
Tình hình Trung Đông sau Chiến tranh thế giới thứ hai:
Trung Đông trở thành nơi đối đầu Đông - Tây gay gắt. Khu vực
trở thành chiến trường của các cường quốc, đặc biệt là Mỹ và Liên
Xô. Liên Xô coi trọng khu vực Trung Đông, đưa đảng viên đến xây
dựng lực lượng ở các nước Iraq, Liban, Syria, Ai Cập. Mỹ tìm cách
gạt dần ảnh hưởng của Anh và Pháp ra khỏi khu vực. Mỹ thành lập
khối quân sự Bátđa và đầu tư nhiều vào Trung Đông, khiến mâu thuẫn Mỹ - Xô gia tăng.
○ Hậu quả của đầu tư và ủng hộ nhóm đối lập:
■ Tình hình khu vực trở nên phức tạp, gây ra các cuộc
chiến và xung đột:
● Chiến tranh Israel - Ai Cập (năm 1971).
● Chiến tranh Israel - Ả Rập (năm 1973).
● Thảm kịch ở Liban (1979-1989).
● Chiến tranh Iran-Iraq (1980-1988).

=> Các cuộc xung đột tiếp tục diễn ra, tình hình chính trị khu vực luôn căng thẳng.
Những thách thức đối với hòa bình:
Thế giới Ả Rập bị chia cắt: Nảy sinh nhiều mâu thuẫn nội bộ,
khó thiết lập sự đoàn kết và thống nhất giữa các nước Ả Rập.
Đa số các nước có nhiều chính đảng, tổ chức chính trị nên không
thể thống nhất được nhiều vấn đề. Dưới sự viện trợ của Mỹ, Israel
không thể dập tắt phong trào đấu tranh giành quyền độc lập của
người Palestine. Sự chia rẽ làm cho những mục tiêu mà các nước Ả
Rập đề ra khó đạt được.
Thời kỳ Chiến tranh lạnh (1945-1991): Cục diện địa chính trị
khu vực Trung Đông diễn biến phức tạp và quyết liệt. Mâu
thuẫn, xung đột về sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ, mâu thuẫn Đông -
Tây đan xen chồng chéo. Tình hình chính trị khu vực luôn căng
thẳng, nóng bỏng bởi các cuộc chiến tranh, luôn trong tình trạng
bất ổn định. (Bổ sung thêm)
○ Giải pháp hòa bình:
■ Hòa bình chỉ có thể đạt được khi giải pháp chính trị khôi
phục lại niềm tin, đi vào đàm phán thay vì các hành động trả
đũa, đánh bom “khủng bố”.
■ Buộc Israel phải rút quân ra khỏi các khu vực mà người Palestine quản lý.
■ Kế hoạch hòa bình được Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc tán
thành về lộ trình hòa bình Trung Đông mới có lối ra cho các bên.
2) Quá trình vận động địa chính trị Trung Đông từ Giai đoạn 1991 đến nay
2.1) Tiến trình hòa bình Trung Đông
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình thế giới và Trung Đông
có nhiều biến động, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất có quyền lợi và sức
ảnh hưởng lớn nhất ở Trung Đông.
Mỹ đã buộc các nhà cầm quyền Israel
phải điều chỉnh chiến lược từ chỗ xâm lấn lãnh thổ trong thời kỳ Chiến tranh
lạnh sang đàm phán với Palestine và thế giới Ả rập xung quanh nội dung chính
là : “Đổi đất lấy hòa bình” và an ninh cho Israel. Quá trình giải quyết mâu
thuẫn giữa Ixraen và Palextin còn có một tên gọi khác là “Tiến trình hòa
bình Trung Đông”. Mục đích cuối cùng là tiến tới thành lập Nhà nước
Palestine có biên giới, chủ quyền, thể chế chính trị độc lập và tư cách pháp
lý chính thức trên vũ đài quốc tế.

Ngày 30/10/1991, Hội nghị hòa bình Trung Đông với sự tham dự của Ixraen
và bốn nước Li băng, Syria, Gioócđani, Bahrain đã được tổ chức tại
Madrid ( Tây Ban Nha ).
Liên Xô sụp đổ, Mỹ không còn đối thủ cạnh tranh
giành vị trí bá quyền ở khu vực này. Đặc biệt sau Chiến tranh vùng Vịnh lần
thứ nhất, ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Đông càng lớn. Một số nước như
Ảrập Xêút, Côét đã dựa vào Mỹ cả về quân sự và kinh tế.

Có nhiều nguyên nhân gây cản trở hòa đàm giữa Ixraen và Palextin,
ngay trong nội bộ cũng có những quan điểm trái ngược nhau giữa các phe
phái.
Nhân dân Palextin kiên trì đấu tranh đòi thành lập nhà nước độc lập
nhưng Ixraen không nhượng bộ việc Palextin có quyền lập pháp.
Ngày 04/05/1994, Hiệp định về nền tự trị của người Palextin tại dải Gaza và
Jericho đã được ký kết giữa Ixraen và PLO tại Cairo ( Ai Cập ).

Ngày 28/09/1995, Hiệp định Oslo II được ký kết, theo đó Israel trao trả
thêm một phần khu vực Cis Jordan thuộc bờ Tây sông Jordan cho người Palestine.

Ngày 20/01/1996 đã diễn ra cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của người
Palestine dưới sự giám sát của các quan sát viên quốc tế. Ông Y. Arafat
trúng cử Chủ tịch Hội đồng. Điều này đặt nền tảng để tiến tới thành lập
một Nhà nước Palestine độc lập.

Ngày 23/10/1998, Hiệp định Wye được ký kết, theo đó Ixraen phải rút quân
ra khỏi 13% bờ Tây và mở tuyến đường “hành lang hòa bình”, thả hàng
trăm tù nhân Palestine, thi hành mở rộng quyền tự trị của người
Palestine.
Israel cũng đồng ý cho Palestine mở một sân bay và công viên công nghiệp của
Gaza. Đổi lại, Palextin chấp nhận bảo đảm an ninh cho Israel khỏi các đe dọa khủng bố.
Ngày 04/09/1999, Tổng thống Palestine và Thủ tướng Israel ký thỏa thuận
thực thi Hiệp định Wye, đặt thời hạn 1 năm để thực hiện các điều khoản
bao gồm : rút quân Israel ra khỏi bờ Tây trong 5 tháng, trao trả tù binh,
mở cảng biển Gaza và lập một hành lang giao thông an toàn từ Gaza sang
bờ Tây.
Thỏa thuận này còn được gọi là Hiệp định Wye II.
Sau sự kiện khủng bố 11/9/2001, cục diện tình hình Trung Đông thay đổi về
căn bản, Palestine bị liệt vào dạng tình nghi.
Chính quyền Palestine ra sức
thanh minh mình không liên quan thì Israel lại tìm cách lợi dụng yếu thế này.
Các nước Ả rập tỏ ra thân thiện hơn với Ixraen và ủng hộ cuộc chiến chống
khủng bố. Lợi dụng việc này, Israel đã cho quân đội tấn công Palestine.
Tháng 12/2002, Mỹ, Nga, Liên minh Châu Âu và Liên hợp quốc đa triệp
tập Hội nghị về vấn đề hòa bình Trung Đông và đưa ra “Lộ trình hòa bình
Trung Đông”.
Lộ trình này chính thức được công bố gồm những bước : Chấm
dứt hoạt động khủng bố, Palestine tổ chức bầu cử lại, Israel phải rút quân, thành
lập Nhà nước Palestine độc lập với đường biên giới tạm thời.
Tháng 11/2003, Liên hợp quốc xác nhận lộ trình giải quyết xung đột
Palestine và Israel, yêu cầu chấm dứt bạo lực. Palestine được công nhận là
một nước có chủ quyền, Israel phải rút quân khỏi các vùng đất chiếm đóng
từ năm 1967.
Palestine được nhận những diện tích đất tương đương ở dải Gaza,
Israel cam kết giữ nguyên kết cấu hạ tầng tại những vùng họ rời đi, chuyển cho
Palextin quản lý. Thành phố Jerusalem sẽ là thủ đô của cả Ixraen và Palextin.
Vào ngày 11/11/2004, Chủ tịch Y. Arafat qua đời gây ra tổn thất lớn cho
người Palestine.
Sau đó, Mahmoud Abbas lên làm Tổng thống Palestine, kiên
trì xây dựng nhà nước và không từ bỏ quyền hồi hương quả nạn dân Palestine.
Ngày 15/08/2005, Israel rút người Do Thái ra khỏi các khu định cư tại dải
Gaza và trao trả lại cho Palextin kiểm soát.

Tình hình bất ổn định ở Trung Đông như gắn chặt với lịch sử mối quan hệ
của Palestine và Israel. Sự đối nghịch thể hiện trên mọi phương diện từ tôn giáo,
tư tưởng chính trị, kinh tế - xã hội.
Ngày 06/01/2013, Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas ra sắc lệnh
đổi tên Chính quyền Palestine thành Nhà nước Palestine. Đây là thành
công mang tính lịch sử của Palestine
, những nỗ lực đã được sự ủng hộ của thế
giới. Đồng thời đây là bước đi quan trọng để tiến tới thiết lập nền độc lập
thật sự của Nhà nước Palestine, vị thế ngang hàng với Israel trong các cuộc đàm phán.

Tuy nhiên chiến thắng này cũng rất gian nan khi Israel tuyên bố sẽ
áp đặt những biện pháp kinh tế hà khắc chống lại Palestine, Mỹ ngừng viện
trợ cho Palestine. Trong khi đó, Liên minh Châu Âu tuyên bố đứng về phía
Palestine trên các phương diện kinh tế, chính trị. Tháng 02/2015, Liên

minh Châu Âu hỗ trợ 212 triệu Euro nhằm trợ giúp người tị nạn, các dịch
vụ y tế, giáo dục cơ bản cho Palestine.

=> Với vị trí địa-chính trị quan trọng và nguồn tài nguyên dầu mỏ giàu có,
Trung Đông luôn là tâm điểm can thiệp của các cường quốc. Các nước
trong khu vực và cộng đồng quốc tế luôn nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình.

2.2) Bất ổn chính trị ở Trung Đông và Bắc Phi
1. Biến động chính trị sau Chiến tranh lạnh
Trung Đông và Bắc Phi trải qua nhiều biến động chính trị. “Tiến trình hòa
bình Trung Đông” phụ thuộc vào nhiều yếu tố và có thể mang lại hy vọng
cho các cuộc xung đột tại đây.
2. Khủng hoảng chính trị và biểu tình
- Cuộc khủng hoảng chính trị ở Ai Cập năm 2010 gây ra “hiệu ứng
domino” trong thế giới Arập, dẫn đến làn sóng biểu tình chống chính
phủ lan rộng khắp khu vực. Các quốc gia như Bahrain, Libya,
Yemen, và Tuynidi đều trải qua tình trạng bất ổn chính trị do chế độ
độc tài và sự can thiệp của các thế lực bên ngoài.
- Tại thủ đô Tehran của Iran, người biểu tình thuộc phe đối lập đã trở
lại càn quét, gây náo loạn khắp thành phố khiến lực lượng cảnh sát
phải sử dụng phun khí gas để giải tán người biểu tình
- Tại Yemen, tình hình trở nên căng thẳng khi người dân đổ ra đường
yêu cầu nhà cầm quyền từ chức…
3. Tình hình chính trị và xã hội trong khu vực
- Chế độ độc tài ở hầu hết các quốc gia khiến người dân phẫn nộ do
chính phủ không có những chủ trương, biện pháp kịp thời để đưa đất
nước thoát ra khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát triển, sự can thiệp
của các thế lực bên ngoài và các trào lưu dân chủ làm cho chính trị
các quốc gia trong khu vực tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn.
4. Vấn đề hạt nhân và căng thẳng quốc tế
Vấn đề Iran phát triển chương trình hạt nhân có thể làm thay đổi cán cân
sức mạnh ở vùng Vịnh và dẫn đến cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân. Israel lo
ngại về sự tồn tại của mình nếu Iran sở hữu vũ khí hạt nhân và có thể dùng
vũ lực để ngăn chặn. Sự phản đối của Mỹ và các động thái nhằm ngăn
chặn Iran cũng làm tăng thêm căng thẳng trong khu vực.
5. Xung đột Israel - Palestine
Cuộc xung đột giữa Israel và Palestine vẫn tiếp diễn mà không có thỏa
hiệp quan trọng nào đạt được. Nếu không giải quyết được xung đột này,
nguy cơ bất ổn và xung đột giữa lực lượng Hồi giáo và phương Tây vẫn sẽ tiếp tục.
2.3) Xu hướng tăng cường liên kết, hợp tác, liên minh ở khu vực
● Xu hướng địa chính trị tại Trung Đông:
○ Tăng cường hợp tác, liên minh, liên kết khu vực và liên khu vực để phát huy nội lực.
○ Xây dựng lộ trình quan hệ đối ngoại để tìm kiếm cơ hội đầu tư và
tranh thủ sự ủng hộ của nước ngoài.
○ Xây dựng lộ trình quan hệ đối ngoại để tìm kiếm cơ hội đầu tư và
tranh thủ sự ủng hộ của nước ngoài.
● Tác động của địa chính trị Trung Đông đến thế giới:
○ Bất ổn địa chính trị tại Trung Đông đe dọa kinh tế, an ninh, hòa bình thế giới.
○ Tác động đến các khu vực và cường quốc như Mỹ, Trung Quốc,
EU, Nga do Trung Đông cung cấp dầu mỏ quan trọng.
○ Khả năng chi phối Trung Đông giúp đảm bảo nguồn cung cấp
nguyên liệu và vị trí địa chính trị quan trọng.
● Vai trò của Trung Đông trong hòa giải xung đột:
○ Trung Đông quan trọng trong hòa giải xung đột giữa thế giới Hồi
giáo với Mỹ và phương Tây.
○ 1/3 số người theo đạo Hồi trên thế giới sống tại Trung Đông.
○ Mỹ và châu Âu coi trọng ổn định giá nhiên liệu và hòa bình ở Trung Đông.
○ Trung Quốc tăng cường lôi kéo các nước Trung Đông để đảm bảo nguồn cung ứng dầu mỏ.
○ Trung Đông có vị trí địa lý thuận lợi và trữ lượng dầu mỏ lớn nhất thế giới.
○ Chiến tranh và xung đột thường xuyên xảy ra khiến nhiều quốc gia
ở Trung Đông vẫn đói nghèo.
○ Thời kỳ Chiến tranh lạnh, cục diện địa chính trị Trung Đông phức
tạp và quyết liệt với nhiều mâu thuẫn đan xen.
○ Sau Chiến tranh lạnh, tình hình chính trị Trung Đông vẫn phức tạp
dù xu hướng hợp tác, liên kết diễn ra mạnh mẽ.
○ Diễn biến địa chính trị Trung Đông vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố khó dự báo.
Kết luận: Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng Trung Đông vẫn là khu vực
thường xuyên bị xung đột và chiến tranh, khiến nhiều quốc gia nơi đây vẫn còn
đói nghèo. Từ thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cục diện địa chính trị ở Trung Đông đã
rất phức tạp với nhiều mâu thuẫn. Mặc dù sau Chiến tranh Lạnh, xu hướng hợp
tác, liên kết đã diễn ra mạnh mẽ, nhưng tình hình chính trị ở đây vẫn còn phức
tạp và tiềm ẩn nhiều yếu tố khó dự đoán.
Địa chính trị khu vực Trung đông - Nhóm 5 (Kịch bản video)
Dẫn mở: Trung Đông, với vị trí chiến lược nằm giữa ba châu lục Á, Âu và Phi,
luôn là tâm điểm của các cuộc xung đột và tranh chấp địa chính trị. Khu vực
này không chỉ giàu tài nguyên dầu mỏ mà còn là nơi giao thoa của nhiều nền
văn hóa và tôn giáo lớn như Hồi giáo, Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo.
Trong video này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về những yếu tố địa chính trị đã và
đang định hình Trung Đông, từ sự hình thành của các quốc gia hiện đại sau Thế
chiến thứ hai, đến các cuộc xung đột kéo dài như cuộc chiến Israel-Palestine, và
vai trò của các cường quốc như Mỹ, Nga và Iran trong khu vực.
I) Khái quát đặc điểm địa lý, lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và
vị trí chiến lược khu vực trung đông

1) Đặc điểm địa lý tự nhiên và vị trí chiến lược
*Đặc điểm địa lý tự nhiên
Trung Đông có diện tích khoảng 10.111.394 km², với phần biển tiếp giáp vịnh
Persian, biển Ả Rập, biển Đỏ, biển Đen, biển Địa Trung Hải và biển Caspi.
Phần đất liền của khu vực này tiếp giáp với Trung Á, Nam Á, châu Phi và châu
Âu, tạo nên một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng.
Địa hình của Trung Đông chủ yếu là núi và sơn nguyên, với đất đai khô cằn và
đồng cỏ hoang mạc. Khu vực này có hai con sông lớn là Euphrates và Tigris,
cùng với hệ thống sông ngòi đan xen. Khí hậu ở đây đặc trưng bởi nhiệt đới cận
xích đạo, khô nóng quanh năm, và nguồn nước ngọt khan hiếm. Điều kiện tự
nhiên này vừa mang lại những thuận lợi nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho
sinh hoạt và sản xuất của người dân.
Hiện nay, gần 60% nguồn nước ở Trung Đông thuộc về các vùng biên giới,
khiến cho việc quản lý nguồn nước trở nên rất khó khăn. Tuy nhiên, Trung
Đông lại rất giàu có về tài nguyên dầu mỏ, khí đốt, nhôm và sắt. Tổng trữ lượng
dầu mỏ ước tính là 89,3 tỷ tấn, chiếm 65,2% trữ lượng dầu mỏ của thế giới. Mỗi
năm, khu vực này cung cấp 35% mức tiêu thụ dầu mỏ cho cả thế giới, đáp ứng
70% nhu cầu của Tây Âu, 80% của Nhật Bản và 35% của Mỹ.
Nước Mỹ có lợi ích chiến lược rất quan trọng ở Trung Đông, với 5 trong tổng số
8 công ty độc quyền xuyên quốc gia khai thác dầu mỏ ở đây là của Mỹ. Trung
Đông cũng chiếm một vị trí quan trọng trong bản đồ khí đốt thế giới, với những
nước có sản lượng khai thác khí đốt lớn nhất là Iran, Algeria, Qatar, Ai Cập và
Oman. Những nước có dự trữ khí đốt lớn nhất là Iran, Qatar và Iraq.
Ngoài ra, Trung Đông còn có các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác như nhôm
và thép, với sản lượng thép bình quân đạt 20 triệu tấn/năm. Iran là nước có năng
lực sản xuất thép lớn nhất trong khu vực với 7,6 triệu tấn/năm.
Với sự giàu có về nguồn tài nguyên và vị trí chiến lược quan trọng, Trung Đông
trở thành mục tiêu của các cường quốc nhằm bảo đảm nguồn năng lượng thiết
yếu, từ đó duy trì và thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cũng như phát huy ảnh hưởng trên thế giới.
Middle East geopolitics explained simply | The Middle East explained in …
*Vị trí chiến lược
Trung Đông có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng, nằm trên tuyến đường
huyết mạch quan trọng nhất thế giới, nối liền phương Tây và phương Đông, và
là ngã ba đường nối ba châu lục Á, Âu và Phi. Khu vực này nằm ở sườn phía
Đông của NATO và là cửa ngõ vào châu Phi qua kênh đào Suez. Với vị trí trung
tâm này, mọi biến động chính trị ở Trung Đông đều có ảnh hưởng đến toàn thế giới.
Có thể nói, lực lượng nào nắm được Trung Đông sẽ có khả năng chi phối cả ba
châu lục thông qua việc kiểm soát các eo biển và các đảo trên biển Địa Trung
Hải. Điều này tác động trực tiếp đến sự liên lạc giữa các vùng, các châu lục và
giữa các đại dương. Mọi hoạt động quân sự và kinh tế mang tính quốc tế đều
phải trung chuyển qua khu vực này. Từ Trung Đông, có thể uy hiếp Bắc Phi,
Balkan và Nam Á, và đây cũng là vị trí thuận lợi cho việc triển khai lực lượng
quân sự tại Nam châu Âu, bờ biển Đông Phi và châu Á.
Trung Đông còn có tầm quan trọng trong cạnh tranh chiến lược giữa các nước
lớn bởi nguồn tài nguyên dầu mỏ và khí đốt với trữ lượng lớn, yếu tố có ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Vì thế, Trung Đông luôn bị tác động mạnh
bởi sự can thiệp của các thế lực chính trị bên ngoài, đặc biệt là các nước lớn.
Dân số khu vực Trung Đông tính đến năm 2022 là khoảng trên 453 triệu người,
với tỷ lệ gia tăng dân số trung bình hiện nay là 1,9%/năm. Một số nước có tỷ lệ
tăng dân số rất cao như Kuwait, Palestine, Oman và Iraq. Tuổi thọ trung bình
của người dân khu vực này là 68,8 tuổi. Thành phần dân cư ở đây rất đa dạng về
chủng tộc, văn hóa và ngôn ngữ, bao gồm người Ai Cập, người Amhara, người
Phi, người Giecgiam, người Kurd, người Hy Lạp, người Assyria, người Azeris,
người Do Thái và nhiều nhóm khác. Các ngôn ngữ chính ở Trung Đông bao
gồm tiếng Arab, tiếng Assyria, tiếng Hebrew, tiếng Kurd và tiếng Thổ Nhĩ Kỳ.
Trung Đông là cái nôi của các tôn giáo cổ như Thiên Chúa giáo, Hồi giáo và Do
Thái giáo. Tôn giáo chi phối sâu sắc đời sống chính trị và tinh thần của người
dân nơi đây. Hồi giáo có ảnh hưởng rất lớn đến việc tập hợp lực lượng và vận
động chính trị - xã hội ở Trung Đông, với số người theo Hồi giáo chiếm 1/3
người Hồi giáo trên thế giới. Không nơi nào trên thế giới mà tôn giáo lại chi
phối sâu sắc đến đời sống chính trị và tinh thần người dân như ở Trung Đông.
Hồi giáo đã trở thành một vấn đề lớn trong khu vực và chứng minh rằng chủ
nghĩa liên Ả Rập có một cơ sở xã hội từ tôn giáo, một nội lực mãnh liệt khiến
các nước lớn phải chú ý tới. Sức mạnh đó vượt ra khỏi phạm vi Trung Đông,
xuyên suốt thế giới Hồi giáo và trở thành một thế lực quốc tế buộc các nước
phải tính đến trong quá trình hoạch định chiến lược của mình ở Trung Đông.
Đây là khu vực nhạy cảm về kinh tế, chính trị, văn hóa và tôn giáo, điều này
cũng là nguyên nhân gây ra những bất đồng, mâu thuẫn và xung đột không thể điều hòa trong khu vực.
Middle East geopolitics explained simply | The Middle East explained in …
2) Đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội
Theo Hiệp hội Hàng không quốc tế, Trung Đông bao gồm 16 quốc gia và vùng
lãnh thổ: Bahrain, Ai Cập, Iran, Iraq, Israel, Jordan, Kuwait, Lebanon, Palestine,
Oman, Qatar, Ả Rập Xê Út, Sudan, Syria, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Yemen.
Các quốc gia Trung Đông có thể chế chính trị rất đa dạng, từ cộng hòa Hồi giáo,
quân chủ lập hiến đến quân chủ Hồi giáo. Tuy nhiên, so với các khu vực khác,
thể chế chính trị ở Trung Đông thường bị đánh giá là kém hiệu quả. Nguyên
nhân chính bao gồm tôn giáo, xung đột, chiến tranh triền miên, nguồn lợi dầu
mỏ ảnh hưởng đến lợi ích chính phủ và sự can thiệp của các quốc gia bên ngoài.
Vì vậy, nhiều người cho rằng Trung Đông là một khu vực lạc hậu và chậm thay đổi về chính trị.
Trong lịch sử, Trung Đông luôn là nơi tranh giành quyền lực và ảnh hưởng của
các cường quốc, điều này cũng góp phần làm cho tình hình chính trị ở đây luôn
bất ổn. Thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Trung Đông nằm trong vùng trung tâm của
các sự kiện quốc tế mang tính chiến lược như kinh tế, chính trị, văn hóa và tôn
giáo. Cục diện địa chính trị khu vực Trung Đông diễn biến hết sức phức tạp và
quyết liệt, với các mâu thuẫn và xung đột về sắc tộc, tôn giáo và lãnh thổ khiến
khu vực này luôn ở trong tình trạng bất ổn định.
Middle East geopolitics explained simply | The Middle East explained in …
Cả phần 1 và 2 lấy 1:26 trờ về đầu (Còn lại anh có thể tìm ảnh chèn và =))))
II) Quá trình vận động địa chính trị Trung Đông từ trước năm 1990 đến nay
1) Giai đoạn trước 1990
Vào thế kỷ VII, đế chế Ả Rập hùng mạnh đã xâm chiếm Bắc Phi và Tây Phi,
hình thành nên thế giới Ả Rập thống nhất ở Trung Đông. Với nền văn minh phát
triển rực rỡ trong nhiều lĩnh vực như tư tưởng văn hóa, khoa học, thiên văn, tôn
giáo và triết học, người dân Trung Đông đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm
phong phú về nhận thức thế giới xung quanh và hiểu được các quy luật tự nhiên.
Đến thế kỷ XV, đế chế Ottoman xâm chiếm và thống nhất cả vùng Trung Đông,
giữ quyền thống trị trong suốt 400 năm. Thế kỷ XVII, chủ nghĩa tư bản phương
Tây bắt đầu xâm chiếm Trung Đông nhưng không thể xâm nhập ngay lập tức do
tính cố kết cao của các nhà nước phong kiến tại đây. Để xâm nhập, chủ nghĩa tư
bản phương Tây đã tìm cách chia cắt thế giới Ả Rập bằng cách mua các vùng
đất, thành lập các tiểu vương quốc riêng và sử dụng người địa phương cai trị,
hình thành nên 12 tiểu vương quốc Ả Rập.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, đế chế Ottoman bị xóa bỏ và Trung Đông bị
chủ nghĩa tư bản sử dụng chính sách chia để trị nhằm tạo ra sự chênh lệch và
khác biệt, từ đó dễ dàng cai trị và kiềm chế lẫn nhau.
Sự xuất hiện của Nhà nước Do Thái ở Trung Đông giữa các quốc gia Ả Rập
cũng là một yếu tố quan trọng. Vào thời cổ đại, miền bờ biển phía Đông Địa
Trung Hải là nơi có nhiều bộ tộc cùng sinh sống. Cuối thiên niên kỷ II trước
Công nguyên, một bộ tộc du mục khác của người Semit, gọi là người Hebrew
hay người Do Thái, từ bên kia sông Jordan tràn vào lãnh thổ của người Canaan
và chung sống với họ. Về sau, người Do Thái dần thay thế người Canaan làm
chủ mảnh đất ấy và định cư, làm nông nghiệp.
Đến thế kỷ XVII trước Công nguyên, khi người Hyksos thống trị miền hạ lưu
sông Nile, một bộ phận người Do Thái thừa cơ xâm nhập Ai Cập và giúp đỡ
người Hyksos thu thuế, áp bức người Ai Cập. Khi người Ai Cập lật đổ nền
thống trị của người Hyksos và khôi phục lại đất nước, họ báo thù người Do Thái
rất tàn khốc, bắt người Do Thái làm nô lệ và lao động khổ sai. Sau 400 năm
chịu cảnh nô lệ và bạo ngược, người Do Thái đã nổi dậy chống lại người Ai Cập
và sau đó trốn khỏi đất Ai Cập, sống phiêu bạt nhiều năm trên sa mạc của bán
đảo Sinai, rồi tìm cách trở về vùng đất của người Canaan, từng bước đồng hóa
và dung hợp thành một bộ tộc.
Thế kỷ XII, người Hy Lạp di cư xuống phương Nam làm cho người Philistine
phải di cư xuống xứ Canaan. Người Do Thái và người Canaan đã hợp lực chiến
đấu bảo vệ đất đai và dồn người Philistine vào một vùng đất hẹp ven biển.
Dưới triều đại Solomon, kinh tế và văn hóa của người Do Thái khá phát triển.
Khi Solomon chết, vương quốc của người Do Thái bị chia làm hai nước nhỏ:
Israel ở miền Bắc, đóng đô ở Samaria; và Judah (Do Thái) ở miền Nam, đóng
đô ở Jerusalem. Từ những năm 722-586 trước Công nguyên, lần lượt hai nhà
nước này bị người Babylon, Chaldea, Ba Tư và La Mã đến thống trị và áp bức
nặng nề, nhà nước của người Do Thái bị xóa bỏ và dân tộc này phải sống lưu vong.
Với cuộc sống bế tắc và bị áp bức, người Do Thái hy vọng vào sự xuất hiện của
thiên sứ của thần tối cao (sau này là chúa cứu thế của đạo Cơ Đốc), làm cầu nối
giữa thần và người. Sự xuất hiện của các nhà tiên tri và giáo lý của họ kết hợp
với các nghi thức tôn giáo, truyện thần thoại, sự việc lịch sử và những phong tục
tập quán qua thời gian được trau chuốt và bổ sung, kinh Cựu ước trở thành kinh thánh của đạo Do Thái.
Khi bị mất độc lập và phải sống lưu vong, với tư chất thông minh và giỏi buôn
bán, giáo lý của đạo Do Thái trở thành sợi dây kết dính người Do Thái sinh
sống khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, nó cũng là chiêu bài để vận động người
Do Thái phục quốc bởi ảnh hưởng của đạo Do Thái đối với các dân tộc châu Âu rất rộng và sâu sắc.
Năm 1897, Đại hội phục quốc Do Thái được tổ chức với mục tiêu thiết lập một
“ngôi nhà cho người Do Thái tại Palestine” và thành lập Tổ chức Phục quốc Thế
giới (WZO). Đến năm 1903, khoảng 25.000 người Do Thái đã quay trở lại
mảnh đất tổ tiên của họ, sống cùng với khoảng nửa triệu người Ả Rập. Trong
giai đoạn 1904-1914, thêm khoảng 40.000 người Do Thái tiếp tục đến khu vực này.
Sự cai trị của đế quốc Ottoman kết thúc khi các lực lượng Ả Rập được người
Anh ủng hộ. Năm 1917, Anh cam kết trả lại độc lập cho các tỉnh Ả Rập, nhưng
Ngoại trưởng Arthur Balfour lại tiến hành việc thành lập chính quyền cho người
Do Thái ở Palestine. Tuyên ngôn Balfour đã khiến hàng trăm nghìn người Do
Thái từ Anh trở về Palestine, gây ra sự bất bình lớn trong cộng đồng người Ả
Rập. Đến năm 1922, theo số liệu của Anh, có tới 11% người Do Thái trong tổng
số 750.000 cư dân sống tại Palestine. 15 năm sau, con số này đã tăng lên hơn
300.000 người Do Thái. Sự hận thù giữa hai dân tộc ngày càng gia tăng, và đến
tháng 8/1929, xung đột chính thức nổ ra khi 110 người Palestine bị cảnh sát Anh
bắn chết và khoảng 130 người Do Thái bị người Palestine sát hại.
Người Do Thái, dù sống lưu vong, vẫn giữ vững bản sắc văn hóa và tôn giáo
của mình. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, phát xít Đức đã thực hiện chính
sách tàn sát người Do Thái, khiến khoảng 6 triệu người Do Thái bị giết hại và
buộc những người còn lại phải trốn khỏi châu Âu. Sau chiến tranh, Liên hợp
quốc ra đời với mục tiêu duy trì hòa bình và bảo vệ các dân tộc bị áp bức, tạo cơ
hội cho chủ nghĩa phục quốc Do Thái phát triển. Người Do Thái yêu cầu Liên
hợp quốc cắt đất cho họ tại vùng đồi Siôn, nơi được coi là thánh địa của họ.
Ngày 29/11/1947, Liên hợp quốc ra Nghị quyết 181, chấm dứt quyền ủy trị của
Anh và chia Palestine thành hai quốc gia: một của người Ả Rập và một của
người Do Thái. Ngày 14/5/1948, Nhà nước Israel được thành lập tại Tel Aviv và
ngay sau đó được Mỹ ủng hộ. Người Do Thái trở về lập quốc trên các vùng đất
của người Ả Rập, gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các nước láng giềng và
người Palestine. Đây là nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh Ả Rập -
Israel vào các năm 1948-1949, 1956, 1967 và 1973. Trong các cuộc chiến này,
người Do Thái ngày càng chiếm đóng và mở rộng lãnh thổ, khiến hàng trăm
nghìn người Ả Rập phải trốn chạy sang Lebanon, Ai Cập và khu vực Bờ Tây.
Quốc gia Palestine không được thành lập, và mảnh đất Palestine nhuộm đầy