ĐỀ TÀI: GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
I. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Sự biến đổi về quy mô, kết cấu của gia đình
1.1. Sự biến đổi về quy mô gia đình
Gia đình Việt Nam ngày nay có thể được coi là “gia đình quá độ” trong bước
chuyển biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại.
“Gia Đình đơn” (hay còn gọi là gia đình hạt nhân) đang trở nên rất phổ biến ở các
đô thị và cả nông thôn, thay thế cho kiểu “gia đình truyền thống” (gia đình bao
gồm nhiều thế hệ cùng chung sống với nhau) từng giữ vai trò chủ đạo trước đây.
Như vậy, sự giải thể hình thái cũ và hình thành hình thái mới là một điều tất yếu.
Quy mô gia đình ngày nay tồn tại theo xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số
thành viên trong gia đình trở nên ít đi. Nếu như gia đình truyền thống xưa có thể
tồn tại đến ba, bốn thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà thì hiện nay, quy mô
gia đình ngày càng được thu nhỏ lại. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ có hai thế hệ
cùng sống chung: cha mẹ - con cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như
trước, mỗi gia đình chỉ có 1 đến 2 con, cá biệt còn số ít gia đình đơn thân, nhưng
phổ biến nhất vẫn là loại gia đình hạt nhân quy mô nhỏ. Mỗi thành viên trong gia
đình đều muốn được có khoảng không gian riêng, thoải mái để làm những gì mình
thích, không phải bận tâm đến sự nhận xét của người khác. Do có công ăn việc làm
ổn định, con cái đến tuổi kết hôn cũng không phải phụ thuộc kinh tế nhiều vào cha
mẹ, từ đó sẽ nảy sinh ra nhu cầu riêng cho thuận tiện về sinh hoạt. Mặt khác, việc
duy trì gia đình truyền thống sẽ kìm hãm sự tự do, làm cho cái tôi, cá tính riêng,
năng lực của con người không có cơ hội phát triển, dẫn đến sự thiếu hụt về lực
lượng nhân tài cho đất nước trong thời buổi công nghiệp hóa hiện đại hóa.Quy mô
gia đình Việt Nam ngày càng được thu nhỏ, đáp ứng những nhu cầu và điều kiện
thời đại mới đặt ra: Sự bình đẳng nam- nữ được đề cao hơn, cuộc sống riêng tư của
con người được tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống gia
đình truyền thống. Sự biến đổi của quy mô gia đình cho thấy chính nó đang làm
chức năng tích cực, thay đổi chính bản thân gia đình và đây là thay đổi hệ thống xã
hội, làm cho xã hội trở nên thích nghi và phù hợp hơn với tình hình mới, thời đại
mới.
1.2. Sự biến đổi về kết cấu gia đình
Gia đình Việt Nam hiện đại có sự thay đổi về kết cấu so với gia đình ở thời
kì phong kiến, người đàn ông làm trụ cột gia đình và có quyền quyết định toàn bộ
các công việc quan trọng trong gia đình, trong khi đó, người phụ nữ phải nghe theo
chồng, họ không hề có quyền đưa ra quyết định. Nguyên nhân gây ra là do thời kì
này bị ảnh hưởng bởi nho giáo, người phụ nữ trong gia đình luôn phải tuân theo
“tam tòng tứ đức”. Trong đó: “Tam tòng”: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu
tử tòng tử. Tức là khi ở nhà thì phải theo cha, lấy chồng thì phải theo chồng, chồng
mất thì phải theo con trai. Như vậy, dù ở hoàn cảnh nào người phụ nữ cũng chịu
cảnh bị lệ thuộc và không có tiếng nói trong xã hội phong kiến. “Tứ đức”: Tứ đức
là các tiêu chuẩn về vẻ đẹp của người phụ nữ xưa: công, dung, ngôn, hạnh. Người
phụ nữ phải biết khéo léo trong công việc; nhan sắc phải xinh đẹp; lời ăn tiếng nói
phải biết đúng mực; phải biết nết na, thùy mị. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, kết cấu gia đình thay đổi, ở thời kì này, sự bình đẳng giới giữa nam và nữ
được nâng lên nhiều so với thời kỳ trước, người phụ nữ được giải phóng khỏi
những “xiềng xích vô hình” của xã hội cũ. Một minh chứng rõ ràng đó là chế độ
hôn nhân một vợ một chồng thay vì đàn ông năm thê bảy thiếp. Vậy nên quyền
quyết định trong gia đình sẽ thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Người phụ nữ
ngày càng được đối xử bình đẳng hơn và có nhiều điều kiện để phát triển, nâng cao
vị thế xã hội của mình; vai trò của họ trong cuộc sống, trong sản xuất,... ngày càng
trở nên quan trọng hơn, gánh nặng gia đình cũng dần được chia sẻ từ hai phía.Bình
đẳng giới nói riêng và bình đẳng nói chung được tôn trọng làm cho mỗi người
được tự do phát triển mà không phải chịu nhiều ràng buộc bởi các định kiến xã hội
truyền thống. Ngoài ra, ở thời kỳ này, các “gia đình khuyết” trở nên phổ biến hơn
so với thời kỳ trước. Một gia đình khuyết tức là gia đình không có đầy đủ cả bố mẹ
và con cái. Kết cấu của gia đình khuyết có thể thiếu đi bố hoặc mẹ, kiểu gia đình
khuyết này là gia đình đơn thân. Còn một loại gia đình khuyết khác đó là gia đình
có vợ chồng nhưng không thể sinh con hoặc không có ý định sinh con vì một lý do
nào đó.
2. Sự biến đổi trong thực hiện các chức năng gia đình
2.1. Chức năng sinh sản
Sinh con, đẻ cái luôn được coi vấn đề bản, tất yếu sau khi lập gia đình.
mỗi thời đại, con người những quan niệm khác nhau vchức năng sinh sản của
gia đình.
Trong hội Việt Nam truyền thống, con người quan niệm trọng nam,
khinh nữ “, gia đình nhất thiết phải con trai để nối dõi tông đường, những gia đình
không con trai thường bị khinh thường, người vợ trong gia đình ấy thì bị hội
chê trách, cho rằng họ là những người không biết đẻ. Phụ nữ không chồng mà chửa
thường bị cả hội lên án, chê trách, chửi rủa. Ngoài ra, họ còn phải chịu đựng
những hình phạt của lễ giáo phong kiến như : cạo đầu, bôi vôi, thả trôi sông. Có thể
thấy rằng, trong hội cũ, con người những quan niệm thiếu bình đẳng quá
khắt khe, tàn nhẫn với người phụ nữ.
hội ngày càng phát triển, hiện đại văn minh hơn, thế những quan
niệm cũ về chức năng sinh sản cũng dần được thay thế bằng những quan niệm mới
mang tính bình đẳng, phù hợp hơn với người phụ nnói riêng hội mới nói
chung. Họ không còn giữ quan niệm càng nhiều con càng tốt, giờ đây, họ chú trọng
hơn vào việc chăm sóc, nuôi dạy con cái hơn là số lượng con có được. Mỗi gia đình
thường có từ 1 - 2 con để đảm bảo nuôi dạy cho tốt. Quan niệm bắt buộc phải sinh
con trai cũng mất dần, nam, nữ được đối xử bình đẳng, công bằng.
2.2. Chức năng giáo dục
Giáo dục trong hội truyền thống đề cao nguyên tắc yêu cho roi cho vọt,
ghét cho ngọt cho bùi nên họ thường xu hướng sử dụng bạo lực để nuôi dạy con
cái. Trong đó, cha mẹ luôn phải nới rộng khoảng cách với con cái để tạo quyền lực
tuyệt đối, đặc biệt người cha. Theo họ, chỉ khắt khe răn đe con cái thì chúng
mới ngoan ngoãn nghe lời làm theo khuân khổ. Tuy nhiên, đây phương pháp
nuôi dạy tính ràng buộc cao không mang lại tính nhân văn, điều này cũng dễ
dẫn đến thái độ phản kháng của con cái. Vì còn tồn tại tư tưởng “ trọng nam, khinh
nữ “ nên thường chỉ có con trai được tới trường học tập, còn con gái thường phải ở
nhà để làm công việc nhà.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục đã nhiều biến đổi.
Thay la mắng, đánh đòn, phê bình,... thì phụ huynh xu hướng khuyên bảo, phân
tích, thuyết phục con cái, luôn động viên, khích lệ để tạo động lực phát triển cho con
cái. Ngoài ra, cha mẹ tôn trọng quyền tự do nhân của con cái, bình đẳng trong
quan hệ, không phân biệt đối xử nam, nữ. Cả nam nữ đều được tới trường đi học.
Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ, con người điều kiện tiếp xúc với
các ứng dụng công nghệ giúp cho việc giáo dục ngày càng mở rộng dễ dàng.
Trong xã hội hiện đại, kỹ năng sống là nội dung được đặc biệt chú trọng, góp phần
đẩy mạnh sự phát triển nhân, giúp trẻ dễ dàng hòa nhập, thích ứng với môi trường
mới.
2.3. Chức năng kinh tế
Trong những năm gần đây, biến đổi chức năng kinh tế của hộ gia đình Việt
Nam thể hiện khá nét. Các nghiên cứu cho rằng, biến đổi chức năng kinh tế của
hộ gia đình là quá trình chuyển đổi từ đơn vị sản xuất sang đơn vị tiêu dùng. Các hộ
gia đình dường như không còn đơn vị kinh tế tự sản xuất, tự tiêu thụ đã bắt
đầu cung ứng ra thị trường. Theo điều tra, số hộ gia đình hoạt động ở lĩnh vực nông,
lâm và thủy sản xu hướng giảm số hộ hoạt động lĩnh vực công nghiệp
dịch vụ tăng lên. Năm 2006, có 71,06% số hộ nông thôn hoạt động ở lĩnh vực nông,
lâm thủy sản. Cho đến năm 2011, tỷ lệ này giảm xuống 62,15%. Trong đó, tỷ lệ
hộ hoạt động công nghiệp tăng từ 10,18% (2006) lên 15,03% (2011).
Trong từng giai đoạn phát triển của xã hội thì chức năng kinh tế của gia đình
sự khác nhau về quy sản xuất, sở hữu liệu sản xuất, cách thức tổ chức
cách thức phân phối. Nhưng nhìn chung, bất cứ thời kỳ nào, chức năng kinh tế
cũng đóng vai trò quan trọng, đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của mỗi cá nhân.
Tham khảo: Xu hướng biến đổi chức năng kinh tế của hộ gia đình nông thôn Việt
Nam - Tạp trí điện tử Lý luận chính trị
2.4. Chức năng tâm lý, tình cảm gia đình
Tổ ấm gia đình vừa nơi giúp con người trưởng thành, vững tin vào cuộc
sống xã hội, đồng thời cũng là nơi bao dung, an ủi con người trước những songs gió
của cuộc đời. Bởi vậy, chức năng tâm lí, tình cảm gia đình ý nghĩa quan trọng,
bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu nh cảm, văn hóa, tinh thần của các thành viên, đảm
bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ, chăm sóc, quan tâm và gắn bó giữa họ.
Ngày xưa, chức năng này thường bị ràng buộc trong một gia đình lớn gồm có
ông bà, cha mẹ. Nhưng ngày nay, việc con cái đã tách hộ về thăm hỏi cha mẹ là tập
quán phổ biến nước ta. Nhiều người cho rằng, con cái lo toan cho bố mẹ về vật
chất nhiều hơn đầy đủ hơn so với việc trực tiếp trò chuyện, hỏi han tâm sự.
37,5% người cao tuổi cho biết họ thường xuyên trò chuyện, tâm sự chuyện vui buồn
với vợ hoặc chồng của mình; 24,8% tâm sự, trò chuyện với con và 12,5% tâm sự với
bạn bè, hàng xóm. Do vậy, gia đình chỗ dựa vtình cảm, tinh thần cho mỗi
nhân, chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con người.
Tóm lại, chức năng này rất cần thiết trong việc chia sẻ tình yêu thương giữa
các thành viên trong gia đình, đặc biệt tình yêu hanh phúc lứa đôi. Với việc duy
trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình ý nghĩa quyết định đến sự ổn định
phát triển của xã hội.
2.5. Các chức năng khác
Ngoài những chức năng trên, gia đình còn chức năng văn hóa (lưu giữ, sáng
tạo thụ hưởng những giá trị văn hóa của hội, truyền thống văn hóa dân tộc
cũng như tộc người), chức năng chính trị (tổ chức thực hiện và hưởng lợi từ chính
sách, pháp luật của nhà nước hương ước của làng xã) … không những biến đổi
đáng kể.
Sự biến đổi các chức năng bản trong gia đình đã làm thay đổi vai trò của
người phụ nữ trong gia đình Việt Nam. Trong xã hội hiện đại, vị thế của người phụ
nữ nói chung đã được xã hội xác nhận trên sở bình đẳng giới nhờ vào kết quả của
phong trào nữ quyền. Người phụ nữ ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất,
tái sản xuất, tiếp cận các nguồn lực phát triển, các quyết định, các sinh hoạt cộng
đồng và thụ hưởng các lợi ích, phúc lợi gia đình.
Nhìn chung, gia đình có bốn chức năng chức năng cơ bản (sinh sản, giáo dục,
kinh tế tâm tình cảm) một schức năng khác. Nhưng do sự biến đổi
cấu hội trong quá trình phát triển đất nước các chức năng của gia đình Việt
Nam đã có những biến đổi về nhiều mặt, va chạm yếu tố truyền thống và hiện đại.
3. Biến đổi về quan hệ gia đình
Trong những thập kỷ gần đây, gia đình Việt Nam đã có những chuyển biến quan
trọng từ gia đình truyền thống sang gia đình có nét mới hiện đại, tự do hơn. Quá
trình hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập, giao lưu văn hóa đã dẫn đến cái nhìn
cởi mở hơn về hôn nhân và gia đình của người Việt Nam.
3.1. Biến đổi quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng
Trong hiện thực, gia đình và hôn nhân ở Việt Nam đang phải đối mặt với những
thách thức và thay đổi đáng kể. Dưới tác động của cơ cấu thị trường, công nghệ
hiện đại và toàn cầu hóa, các gia đình phải đối mặt với nhiều vấn đề như quan hệ
hôn nhân và gia đình suy yếu, tỷ lệ ly hôn, ly thân gia tăng, ngoại tình, quan hệ tình
dục trước và ngoài hôn nhân cũng như xu hướng chung sống không hôn nhân, kết
hôn…
Các kiểu loại gia đình mới như hôn nhân đồng giới, chung sống không kết hôn,
làm mẹ đơn thân, tùy từng giai đoạn, thường rất hiếm hoặc không trong truyền
thống nhưng lại xu hướng gia tăng trong các hội đang chuyển đổi từ hội
nông nghiệp sang hội công nghiệp, hiện đại. Ở Việt Nam hiện nay, một bộ phận
người dân, chủ yếu là người dân tộc Kinh, trẻ tuổi, học vấn cao, ở thành thị có tỷ lệ
chấp nhận những kiểu loại gia đình mới cao hơn, tuy rằng có thể chưa thực sự hiểu
rõ những hệ quả tiêu cực của nó.
Với những thay đổi lớn trong kinh tế, hội hội nhập quốc tế, những hình thức
hôn nhân gia đình mới ủng hộ tính cá nhân có xu hướng tăng. Nghiên cứu cho thấy
38,5% người trả lời chấp nhận sống độc thân - mức độ này được chấp nhận cao hơn
nữ giới nhóm xã hội mang nhiều đặc điểm hiện đại; 28,4% nhu cầu, mong
muốn sống thử trước khi kết hôn; 58,3% không ủng hộ sống thử. Tỷ lệ này cho thấy
nhóm người vẫn theo khuôn mẫu truyền thống trong kết hôn tuy vẫn chiếm tỷ lệ cao
nhưng không mang tính gần như tuyệt đối như trong xã hội truyền thống trước đây.
Gần đây, hôn nhân đồng giới là vấn đề gây ra tranh cãi gay gắt giữa những người
ủng hộ không ủng hộ. Hôn nhân đồng tính mới được chấp nhận dè dặt, chỉ
27,7% người đồng ý, phần lớn ở nhóm mang nhiều đặc điểm hiện đại.
Trong hội Việt Nam truyền thống, người phụ nữ không lấy chồng nhưng
con thường phải chịu sự lên án gay gắt của xã hội, cộng đồng và gia đình. Hiện nay,
hôn nhân vẫn là quyết định hệ trọng trong cuộc đời của người phụ nữ. Tuy vậy, cùng
với sự tiếp nhận văn hóa phương y cộng với quyền cá nhân ngày càng được pháp
luật bảo vệ, người phụ nữ ngày càng quyền quyết định việc kết hôn con.
Quyền làm mẹ không chthể hiện sự biến đổi trong nhận thức còn biểu hiện
của sự nhân văn trong bảo vệ quyền của phụ nữ.
Tham khảo:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/816737/
nhung-bien-doi-cua-gia-dinh-viet-nam-hien-nay-va-mot-so-khuyen-nghi-
chinhsach.aspx
Ngoài ra, các vấn đề như bạo lực gia đình, ly hôn, ngoại tình, trẻ em ngày càng
sống ích kỷ, thu mình, bạo lực gia đình, lạm dụng tình dục cũng gây ra nhiều lo
ngại và ảnh hưởng đến giá trị gia đình truyền thống. Ngoài ra, áp lực của cuộc sống
hiện đại, công việc căng thẳng, bấp bênh cũng khiến hôn nhân của nhiều người
trong xã hội trở nên khó khăn.
Trong các gia đình truyền thống, đàn ông thường đảm nhận vai trò trụ cột gia
đình và mọi quyền lực trong gia đình thường nằm trong tay họ. Họ được coi là chủ
sở hữu tài sản của gia đình và có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của
gia đình, trong đó có quyền giáo dục vợ và trách nhiệm đối với con cái. Nhưng đi
cùng sự phát triển của xã hội, vai trò của người phụ nữ đã được đề cao khi xu
hướng các bạn trẻ đều tin rằng cả vợ lẫn chồng nên là “trụ cột” kinh tế của gia
đình. TS Xã hội học, chuyên gia tâm lý Phạm Thị Thúy (giảng viên Học viện Hành
chính quốc gia Phân viện TP.HCM) nhận định: “Xét cho cùng người ta bảo “Mạnh
vì gạo, bạo vì tiền”. Xưa nay quan điểm truyền thống đàn ông phải là người trụ
cột. Bây giờ cái vai này đổi rồi thì đàn ông sẽ có sự tự ái nhất định, có sự tự ti và
yếu thế nhất định. Điều đấy khó tránh lắm, đây là một tâm lý rất bản năng thôi ...
Quan điểm của tôi trong gia đình hiện đại thì đừng quan trọng ai kiếm tiền, quan
trọng là phân công hài hòa trách nhiệm lo lắng cho gia đình. Lo lắng về tiền bạc
cũng là một là cái lo lắng, mà lo lắng chăm sóc con cái, ổn định hạnh phúc gia
đình cũng là một vai trò rất quan trọng, không kém chuyện kiếm tiền”.
Tài liệu tham khảo https://thanhnien.vn/giu-hanh-phuc-gia-dinh-khi-can-canthu-
nhap-nghieng-ve-phu-nu-1851507260.htm
3.2. Sự thay đổi trong quan hệ giữa các thế hệ, giá trị và chuẩn mực văn hóa của
gia đình
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, quan hệ giữa các thế hệ cũng như giá
trị và chuẩn mực văn hóa của gia đình không ngừng biến đổi. Những biến đổi trong
mối quan hệ vợ chồng hiện nay dẫn đến mâu thuẫn và đấu tranh giữa các giá trị,
chuẩn mực văn hóa truyền thống với các giá trị, chuẩn mực văn hóa hiện đại.
Trong gia đình truyền thống, cha mẹ có uy quyền tuyệt đối với con cái và con
cái phải có bổn phận phục tùng uy quyền của cha mẹ. Trong mối quan hệ giữa cha
mẹ và con cái, người ta ít đề cập tới trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái nhưng
lại nhấn mạnh tới bổn phận của con cái đối với cha mẹ. Nguyên nhân là do quan
niệm đạo Hiếu truyền thống, nó đòi hỏi con cái phải thành kính và phụng dưỡng
cha mẹ, suốt đời làm theo cha và không bao giờ thay đổi... Trong khi đó, với quan
niệm “trời sinh voi thì trời sinh cỏ” cha mẹ có thể sinh nhiều con cái nhưng trách
nhiệm, nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục không phải lúc nào cũng đi cùng. Vấn đề đặt
ra trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái là cần phải củng cố chức năng giáo
dục của gia đình, xây dựng mối quan hệ mới giữa cha mẹ và con cái trên cơ sở tiếp
thu những giá trị, chuẩn mực văn hóa mới, đồng thời kế thừa những giá trị tốt đẹp
của gia đình truyền thống, cần tạo cho trẻ em môi trường, điều kiện để phát triển
nhân cách, năng lực nhưng cũng phải quan tâm đến giáo dục gia đình, giúp trẻ em
nhận thức được những giá trị, chuẩn mực truyền thống, đặc biệt phải sống có trách
nhiệm đối với gia đình, cộng đồng và xã hội.
Tham khảo: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-
/2018/40162/bien-doicac-gia-tri%2C-chuan-muc-van-hoa-gia-dinh.aspx
Đối với các thế hệ lớn hơn như là người cao tuổi, trong gia đình truyền thống họ
thường sống cùng với con cháu, và nhu cầu về tâm lý và tình cảm được đáp ứng
đầy đủ. Nhưng khi quy mô gia đình thay đổi, người cao tuổi phải đối mặt với sự cô
đơn và thiếu tình cảm. Hiện nay, có nhiều hiện tượng chưa từng xuất hiện hoặc ít
phổ biến như bạo lực gia đình, ly hôn, ly thân, ngoại tình, sống thử... Tất cả những
điều này đã làm sứt mẻ và đe dọa tính bền vững của gia đình, làm cho gia đình trở
nên dễ bị tan rã hơn. Ngoài ra, các tệ nạn như trẻ em lang thang, nghiện ngập, buôn
bán phụ nữ qua biên giới cũng đang tạo ra nhiều nguy cơ làm tan rã gia đình.
II. Sinh viên với vấn đề tình yêu, hôn nhân và gia đình
1. Quan niệm của sinh viên về vấn đề tình yêu, hôn nhân và gia đình
1.1. Quan niệm về tình yêu
Tình yêu là một khái niệm đa nghĩa trong cách diễn đạt và cách hiểu của người
Việt. Tình yêu, theo nghĩa chung nhất, là trạng thái tình cảm của chủ thể này đối
với một chủ thể khác ở mức cao hơn sự thích thú và phải nảy sinh ý muốn được
gắn kết với chủ thể đó ở một khía cạnh hay mức độ nhất định. Chủ thể của tình
yêu, ngoại trừ một số trường hợp được nhân cách hóa, còn lại đều là con người.
Còn chủ thể tác động của tình yêu thì rất đa dạng, có thể là bất kỳ thứ gì, từ đơn
giản đến phức tạp, từ nhỏ bé đến vĩ đại, từ hữu hình đến vô hình ...
Tình yêu nói chung và tình yêu trong giới trẻ (độ tuổi từ 18 đến 23) nói riêng
đang là một vấn đề được nhiều người quan tâm, không chỉ do tính phổ biến mà còn
do những gì mà nó mang lại.
Có thể nói quãng đời học sinh sinh viên là đẹp nhất của mỗi đời người, ít ai đã
mặc áo sinh viên mà không có mối tình đầu thơ mộng. Cũng có mối tình đã thực sự
làm chỗ dựa tinh thần cho học tập, nhưng cũng không ít sinh viên đã “đứt gánh
giữa đường” vì hậu quả khôn lường của nó. Với nhịp sống hối hả, nhất là lối sống
gấp của giới trẻ hiện nay thì việc sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng nảy nở
tình yêu cũng là lẽ thường, dĩ nhiên cái na ná tình yêu nhiều hơn tình yêu đích
thực. Xét ở góc độ mặt trái của yêu thời @ tức là kiểu yêu vội, cố tình tìm cho
mình một tình yêu cho oai, thậm chí để khoe mẽ, lợi dụng...thì thật đáng trách
phê phán.
Những mối tình sinh viên trung thực không dung hoà với giả dối, lọc lừa, nó
trong sạch đến thuần khiết, thánh thiện mà gần gũi, đời thường. Đẹp thế, trong sáng
thế - tình yêu sinh viên, nhưng những mối tình sinh viên lại thường “đứt gánh giữa
đường” hoặc “qua cầu gió bay”.
Tuổi trẻ, sức khoẻ và thời gian, ba yếu tố tạo nên tình yêu đẹp tuổi giảng
đường.
Trong cuộc đời, ai bước qua tuổi sinh viên cũng ít nhất một lần buộc trái tim
xao động. Sinh viên trong thời gian nào, không gian nào họ cũng có một tình yêu
tương đối giống nhau: giản dị, trong sáng, thánh thiện.
Ai cũng thừa nhận rằng thời sinh viên là thời gian đẹp nhất của đời người. Ở đó
mỗi người được tự do vùng vẫy trong cuộc sống tự lập của riêng mình mà không bị
bó buộc nhiều bởi gia đình.
Tuổi sinh viên cũng là cái tuổi bắt đầu những mối tình ở một giai đoạn mới.
Khác những rung động tuổi teen, tình yêu sinh viên hướng đến gắn kết và bộc lộ rõ
hơn. Sinh viên chủ yếu là những người trọ học xa nhà nên thường thiểu vắng tình
cảm. Có một chỗ dựa tinh thần để đỡ cô đơn là niềm mong ước của nhiều người.
Tình yêu sẽ giúp cho các bạn có thêm sức mạnh để vượt qua những khó khăn trong
cuộc sống tự lập của mình, để có động lực học tập tốt hơn.
1.2. Quan niệm về hôn nhân
Sinh viên nói chung và cộng đồng sinh viên nói riêng ngày nay có những suy
nghĩ về hôn nhân khác xa với thế hệ trước. Sinh viên hiện nay đặt nhiều giá trị vào
sự tự do cá nhân. Họ coi kết hôn là một cam kết lớn, có thể giới hạn quyền tự do
sự phát triển cá nhân. Do đó, một số sinh viên có suy nghĩ trì hoãn việc kết hôn để
tận hưởng cuộc sống độc thân và phát triển bản thân sau khi ra trường.
Với sự phổ biến của mạng xã hội và các ứng dụng hẹn hò trực tuyến, sinh viên
có thể tiếp cận với nhiều lựa chọn đối tượng tiềm năng. Điều này có thể dẫn đến sự
khó khăn trong việc đưa ra quyết định về kết hôn, vì họ có xu hướng tìm kiếm sự
hoàn hảo và không muốn đánh mất cơ hội tìm được đúng người.
Một số sinh viên có quan điểm lý tưởng về kết hôn, được hình thành từ những
ảo tưởng trên mạng xã hội và truyền thống gia đình. Tuy nhiên, khi tiếp xúc với
thực tế, họ nhận ra rằng hôn nhân không phải lúc nào cũng như mơ ước. Vì vậy,
sinh viên có xu hướng cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định kết hôn, để đảm bảo
sự phù hợp và đủ chín chắn để đối mặt với những thử thách trong hôn nhân.
Sinh viên hiện nay thường coi trọng sự đồng thuận phát triển nhân trong
mối quan hệ tình yêu. Họ muốn tìm được một nửa để chia sẻ, lắng nghe chung
mục tiêu phấn đấu. vậy, các bạn thường mong muốn kết hôn với đối tượng có thể
đồng hành cùng họ phát triển và đạt được những mục tiêu cá nhân.
Gia đình và xã hội vẫn đóng vai trò quan trọng trong quyết định kết hôn của
sinh viên. Một số người chịu áp lực từ gia đình và miễn cưỡng kết hôn sớm nhưng
ngược lại, một số khác tin rằng kết hôn không phải là chuyện có thể ép buộc. Mặc
cho những áp lực nặng nề đến từ gia đình và xã hội, họ kiên định chờ đợi đến thời
điểm thích hợp để kết hôn.
Sinh viên hầu hết suy nghĩ về việc đề cao sự bình đẳng giới trong gia đình. Điều
này có nghĩa là cả hai bên phải tham gia tích cực và chia sẻ trách nhiệm trong việc
quản lý gia đình, công việc, chăm sóc con cái và các nhiệm vụ hàng ngày khác. H
muốn xây dựng một gia đình dựa trên sự tôn trọng và chia sẻ thay vì đi theo mô
hình truyền thống áp đặt về giới tính. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những quan điểm
sống khác nhau có thể dẫn tới nhiều mâu thuẫn và sẽ gặp khó khăn trong việc hòa
hợp.
Tóm lại, nhận thức của sinh viên về vấn đề kết hôn đã trải qua sự thay đổi lớn
trong thời gian gần đây. Họ coi trọng sự tự do cá nhân, tìm kiếm sự hoàn hảo và
cân nhắc kỹ lưỡng hơn trước khi kết hôn. Thay vì áp đặt những quy chuẩn và mô
hình cũ, chúng ta cần thay đổi suy nghĩ và thích nghi với những thay đổi này. Sự đa
dạng và tiến bộ xã hội sẽ đem lại cơ hội cho mỗi cá nhân trở thành phiên bản tốt
nhất của chính mình và xây dựng một mô hình hôn nhân phù hợp với giá trị
mục tiêu của mỗi người.
1.3. Quan niệm về gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi nuôi dưỡng mỗi con người, có ý nghĩa quan
trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người, là trường
học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội. Lập gia đình là chuyện
trăm năm, là bước ngoặt của mỗi con người nên đó một trong những vấn đề cần
được tìm hiểu và quyết định đúng đắn của mỗi chúng ta
Hiện nay, giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng có nhiều quan niệm khác
nhau về việc lập gia đình. Vì có nhiều cơ hội và mối quan tâm khác như sự nghiệp,
hoài bão, trải nghiệm, ... làm bớt đi nhu cầu về tạo dựng gia đình, thậm chí họ còn
ngại dành thời gian cho một mối quan hệ ràng buộc. Nguyễn Minh Ánh (21tuổi,
sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) chia sẻ: "Mình thấy việc lập gia đình
phải đi kèm với hàng tá trách nhiệm. Giả dụ không khá giả về tài chính, công việc
thì kết hôn chắc chắn sẽ khổ. Mặt khác thời đại ngày nay cũng đã tiến bộ hơn,
người phụ nữ cũng đi làm như đàn ông, cũng tự kiếm tiền nuôi bản thân nên cũng
không còn quá đặt nặng gánh nặng phải có chồng, sinh con". Bên cạnh đó, vấn nạn
bạo lực gia đình cũng là một trong những nguyên nhân lớn dẫn tới sự e ngại lập gia
đình, ngoài ra không ít người sau một vài mối tình kém may mắn bị tổn thương lớn
đã không còn niềm tin với hạnh phúc tình yêu và kể cả việc lập gia đình.
Nhiều người có xu hướng lập gia đình muộn để chuẩn bị nền tảng tốt hơn. Hoài
Phương (22 tuổi, sinh viên Học viện ngân hàng) cho rằng hầu hết mọi người vẫn
mong mỏi có thể cân bằng công việc và gia đình: “Phụ nữ bây giờ có trình độ học
vấn cao hơn thế hệ trước, sau khi tốt nghiệp họ sẽ ưu tiên phát triển sự nghiệp rồi
mới kết hôn. Nên nếu không có sự nghiệp ổn định và các cơ hội đảm bảo cuộc
sống tương lai, thì mình nghĩ nhiều bạn trẻ sẽ không tiến tới hôn nhân”. Không
dừng lại ở đó, nhiều bạn trẻ coi hạnh phúc của bản thân là giá trị quan trọng nhất
nên họ không còn háo hức tới hôn nhân và lập gia đình.
Tuy nhiên, mỗi người có mỗi quan niệm khác nhau, gần đây nhiều bạn trẻ có xu
hướng chủ động kết hôn sớm ngay sau khi tốt nghiệp đại học để ổn định cuộc sống
và tập trung phát triển kinh tế. Họ cho rằng việc chủ động kết hôn sớm thể hiện
trách nhiệm của mình đối với bản thân và gia đình. Vũ Thu Hà (sinh viên năm cuối
Học viện Báo chí và Tuyên truyền) chia sẻ: “Chúng tôi quyết định kết hôn sớm do
cảm thấy đối phương phù hợp và được gia đình ủng hộ nên dự định về với nhau đã
có từ năm đầu tiên chúng tôi yêu nhau. Chúng tôi nghĩ rằng hôn nhân không giống
tình yêu mà đó còn là trách nhiệm với gia đình, với bản thân nữa”. Không chỉ thế,
nhiều người cho rằng lập gia đình giúp họ trưởng thành hơn, khi đã bước vào cuộc
sống gia đình giúp họ có suy nghĩ vững vàng có trách nhiệm hơn với mọi thứ mình
làm.
Trương Huỳnh Nhi (Trà Ôn) đã có một tình yêu ngọt ngào khi mới bước vào
năm học đầu tiên ở Trường Trung cấp Y tế. Bạn trai của Nhi là SV Trường ĐH Cửu
Long. Cả hai tình cờ quen biết nhau vì có cùng một người bạn thân. Nhi còn nhớ
như in những kỷ niệm: “Lần đầu gặp nhau mưa lất phất, tôi và nhỏ bạn vào Trường
ĐH Cửu Long đụt mưa thì gặp ảnh” hay “lần thứ 2 gặp nhau tại TP Vĩnh Long
cũng là hôm trời mưa”. Nổi tiếng trong lớp là cô bé nhí nhảnh nhưng khi yêu thì
“Nhi chọn một anh chàng ốm nhom, đen và… trông cù lần nữa”- Nhi cười. Nhi
thích rồi yêu anh SV nọ không vì đẹp trai mà vì anh nói chuyện rất có duyên, biết
chuyện, biết lo và đặc biệt là “tự đi làm thêm lo việc học”.
2. Trách nhiệm của sinh viên trong vấn đề tình yêu, hôn nhân, và gia đình
Đây là ba phạm trù liên quan chặt chẽ đến nhau, ảnh hưởng trực tiếp đến
cuộc sống cũng như cảm xúc của mỗi chúng ta trong mọi giai đoạn của cuộc đời,
vậy, chúng ta càng cần phải hiểu được trách nhiệm của bản thân trong ba mối quan
hệ ấy.
Là một sinh viên sống trong thời kỳ mới, chúng ta cần phải thực hiện tốt các
quy định của Nhà nước về tình yêu, hôn nhân và gia đình. Bên cạnh việc nuôi
dưỡng cảm xúc trong ba mối quan hệ thiêng liêng ấy, chúng ta còn cần phải nâng
cao trách nhiệm của bản thân hơn bằng cách tuân thủ chặt chẽ các quy định của
pháp luật về trách nhiệm của bản thân. Trong pháp luật Việt Nam có quy định rõ,
hôn nhân là sự bằng lòng tự nguyện của cả hai phía, nghiêm cấm mọi hình thức
hôn nhân giả, cũng như bạo lực, ngược đãi trong hôn nhân. Còn trong gia đình, cha
mẹ phải có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục con cái của mình tới nơi tới chốn,
đồng nghĩa với việc, con cái cũng phải có trách nhiệm yêu thương, phụng dưỡng,
kính trọng cha mẹ. Điều luật đã quy định rõ bổn phận của mỗi chúng ta trong gia
đình, vậy cớ gì chúng ta còn chưa thực hiện tốt trách nhiệm cao quý của mình.
Không chỉ về mặt pháp luật, ta còn cần phải đối xử với gia đình nói chung và
vợ chồng đôi lứa nói riêng bằng thứ tình cảm chân thành nhất. Điều đó còn có
nghĩa là, trong lúc trái tim ta tràn đầy niềm vui và sự hứng khởi, ta trao tình yêu
đến cho mọi người, nhưng có những lúc trái tim không vui, ta cũng không nên nói
những lời tổn thương với những người là máu thịt của ta, bởi họ, sẽ là người kế bên
ta khi ta cô đơn và tuyệt vọng nhất. Là một sinh viên, với kiến thức sâu rộng, mỗi
chúng ta cần phải hiểu rõ ràng những điều ấy, để tình yêu, hôn nhân và gia đình
mãi luôn là thứ hạnh phúc nhất khi ta nhắc lại.

Preview text:

ĐỀ TÀI: GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Sự biến đổi về quy mô, kết cấu của gia đình
1.1. Sự biến đổi về quy mô gia đình
Gia đình Việt Nam ngày nay có thể được coi là “gia đình quá độ” trong bước
chuyển biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại.
“Gia Đình đơn” (hay còn gọi là gia đình hạt nhân) đang trở nên rất phổ biến ở các
đô thị và cả nông thôn, thay thế cho kiểu “gia đình truyền thống” (gia đình bao
gồm nhiều thế hệ cùng chung sống với nhau) từng giữ vai trò chủ đạo trước đây.
Như vậy, sự giải thể hình thái cũ và hình thành hình thái mới là một điều tất yếu.
Quy mô gia đình ngày nay tồn tại theo xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số
thành viên trong gia đình trở nên ít đi. Nếu như gia đình truyền thống xưa có thể
tồn tại đến ba, bốn thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà thì hiện nay, quy mô
gia đình ngày càng được thu nhỏ lại. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ có hai thế hệ
cùng sống chung: cha mẹ - con cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như
trước, mỗi gia đình chỉ có 1 đến 2 con, cá biệt còn số ít gia đình đơn thân, nhưng
phổ biến nhất vẫn là loại gia đình hạt nhân quy mô nhỏ. Mỗi thành viên trong gia
đình đều muốn được có khoảng không gian riêng, thoải mái để làm những gì mình
thích, không phải bận tâm đến sự nhận xét của người khác. Do có công ăn việc làm
ổn định, con cái đến tuổi kết hôn cũng không phải phụ thuộc kinh tế nhiều vào cha
mẹ, từ đó sẽ nảy sinh ra nhu cầu riêng cho thuận tiện về sinh hoạt. Mặt khác, việc
duy trì gia đình truyền thống sẽ kìm hãm sự tự do, làm cho cái tôi, cá tính riêng,
năng lực của con người không có cơ hội phát triển, dẫn đến sự thiếu hụt về lực
lượng nhân tài cho đất nước trong thời buổi công nghiệp hóa hiện đại hóa.Quy mô
gia đình Việt Nam ngày càng được thu nhỏ, đáp ứng những nhu cầu và điều kiện
thời đại mới đặt ra: Sự bình đẳng nam- nữ được đề cao hơn, cuộc sống riêng tư của
con người được tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống gia
đình truyền thống. Sự biến đổi của quy mô gia đình cho thấy chính nó đang làm
chức năng tích cực, thay đổi chính bản thân gia đình và đây là thay đổi hệ thống xã
hội, làm cho xã hội trở nên thích nghi và phù hợp hơn với tình hình mới, thời đại mới.
1.2. Sự biến đổi về kết cấu gia đình
Gia đình Việt Nam hiện đại có sự thay đổi về kết cấu so với gia đình ở thời
kì phong kiến, người đàn ông làm trụ cột gia đình và có quyền quyết định toàn bộ
các công việc quan trọng trong gia đình, trong khi đó, người phụ nữ phải nghe theo
chồng, họ không hề có quyền đưa ra quyết định. Nguyên nhân gây ra là do thời kì
này bị ảnh hưởng bởi nho giáo, người phụ nữ trong gia đình luôn phải tuân theo
“tam tòng tứ đức”. Trong đó: “Tam tòng”: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu
tử tòng tử. Tức là khi ở nhà thì phải theo cha, lấy chồng thì phải theo chồng, chồng
mất thì phải theo con trai. Như vậy, dù ở hoàn cảnh nào người phụ nữ cũng chịu
cảnh bị lệ thuộc và không có tiếng nói trong xã hội phong kiến. “Tứ đức”: Tứ đức
là các tiêu chuẩn về vẻ đẹp của người phụ nữ xưa: công, dung, ngôn, hạnh. Người
phụ nữ phải biết khéo léo trong công việc; nhan sắc phải xinh đẹp; lời ăn tiếng nói
phải biết đúng mực; phải biết nết na, thùy mị. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, kết cấu gia đình thay đổi, ở thời kì này, sự bình đẳng giới giữa nam và nữ
được nâng lên nhiều so với thời kỳ trước, người phụ nữ được giải phóng khỏi
những “xiềng xích vô hình” của xã hội cũ. Một minh chứng rõ ràng đó là chế độ
hôn nhân một vợ một chồng thay vì đàn ông năm thê bảy thiếp. Vậy nên quyền
quyết định trong gia đình sẽ thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Người phụ nữ
ngày càng được đối xử bình đẳng hơn và có nhiều điều kiện để phát triển, nâng cao
vị thế xã hội của mình; vai trò của họ trong cuộc sống, trong sản xuất,... ngày càng
trở nên quan trọng hơn, gánh nặng gia đình cũng dần được chia sẻ từ hai phía.Bình
đẳng giới nói riêng và bình đẳng nói chung được tôn trọng làm cho mỗi người
được tự do phát triển mà không phải chịu nhiều ràng buộc bởi các định kiến xã hội
truyền thống. Ngoài ra, ở thời kỳ này, các “gia đình khuyết” trở nên phổ biến hơn
so với thời kỳ trước. Một gia đình khuyết tức là gia đình không có đầy đủ cả bố mẹ
và con cái. Kết cấu của gia đình khuyết có thể thiếu đi bố hoặc mẹ, kiểu gia đình
khuyết này là gia đình đơn thân. Còn một loại gia đình khuyết khác đó là gia đình
có vợ chồng nhưng không thể sinh con hoặc không có ý định sinh con vì một lý do nào đó.
2. Sự biến đổi trong thực hiện các chức năng gia đình
2.1. Chức năng sinh sản
Sinh con, đẻ cái luôn được coi là vấn đề cơ bản, tất yếu sau khi lập gia đình.
Ở mỗi thời đại, con người có những quan niệm khác nhau về chức năng sinh sản của gia đình.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, con người có quan niệm “ trọng nam,
khinh nữ “, gia đình nhất thiết phải có con trai để nối dõi tông đường, những gia đình
không có con trai thường bị khinh thường, người vợ trong gia đình ấy thì bị xã hội
chê trách, cho rằng họ là những người không biết đẻ. Phụ nữ không chồng mà chửa
thường bị cả xã hội lên án, chê trách, chửi rủa. Ngoài ra, họ còn phải chịu đựng
những hình phạt của lễ giáo phong kiến như : cạo đầu, bôi vôi, thả trôi sông. Có thể
thấy rằng, trong xã hội cũ, con người có những quan niệm thiếu bình đẳng và quá
khắt khe, tàn nhẫn với người phụ nữ.
Xã hội ngày càng phát triển, hiện đại và văn minh hơn, vì thế những quan
niệm cũ về chức năng sinh sản cũng dần được thay thế bằng những quan niệm mới
mang tính bình đẳng, phù hợp hơn với người phụ nữ nói riêng và xã hội mới nói
chung. Họ không còn giữ quan niệm càng nhiều con càng tốt, giờ đây, họ chú trọng
hơn vào việc chăm sóc, nuôi dạy con cái hơn là số lượng con có được. Mỗi gia đình
thường có từ 1 - 2 con để đảm bảo nuôi dạy cho tốt. Quan niệm bắt buộc phải sinh
con trai cũng mất dần, nam, nữ được đối xử bình đẳng, công bằng.
2.2. Chức năng giáo dục
Giáo dục trong xã hội truyền thống đề cao nguyên tắc “ yêu cho roi cho vọt,
ghét cho ngọt cho bùi “ nên họ thường có xu hướng sử dụng bạo lực để nuôi dạy con
cái. Trong đó, cha mẹ luôn phải nới rộng khoảng cách với con cái để tạo quyền lực
tuyệt đối, đặc biệt là người cha. Theo họ, chỉ có khắt khe răn đe con cái thì chúng
mới ngoan ngoãn nghe lời và làm theo khuân khổ. Tuy nhiên, đây là phương pháp
nuôi dạy có tính ràng buộc cao và không mang lại tính nhân văn, điều này cũng dễ
dẫn đến thái độ phản kháng của con cái. Vì còn tồn tại tư tưởng “ trọng nam, khinh
nữ “ nên thường chỉ có con trai được tới trường học tập, còn con gái thường phải ở
nhà để làm công việc nhà.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục đã có nhiều biến đổi.
Thay vì la mắng, đánh đòn, phê bình,... thì phụ huynh có xu hướng khuyên bảo, phân
tích, thuyết phục con cái, luôn động viên, khích lệ để tạo động lực phát triển cho con
cái. Ngoài ra, cha mẹ tôn trọng quyền tự do cá nhân của con cái, bình đẳng trong
quan hệ, không phân biệt đối xử nam, nữ. Cả nam và nữ đều được tới trường đi học.
Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ, con người có điều kiện tiếp xúc với
các ứng dụng công nghệ giúp cho việc giáo dục ngày càng mở rộng và dễ dàng.
Trong xã hội hiện đại, kỹ năng sống là nội dung được đặc biệt chú trọng, góp phần
đẩy mạnh sự phát triển cá nhân, giúp trẻ dễ dàng hòa nhập, thích ứng với môi trường mới.
2.3. Chức năng kinh tế
Trong những năm gần đây, biến đổi chức năng kinh tế của hộ gia đình Việt
Nam thể hiện khá rõ nét. Các nghiên cứu cho rằng, biến đổi chức năng kinh tế của
hộ gia đình là quá trình chuyển đổi từ đơn vị sản xuất sang đơn vị tiêu dùng. Các hộ
gia đình dường như không còn là đơn vị kinh tế tự sản xuất, tự tiêu thụ mà đã bắt
đầu cung ứng ra thị trường. Theo điều tra, số hộ gia đình hoạt động ở lĩnh vực nông,
lâm và thủy sản có xu hướng giảm và số hộ hoạt động ở lĩnh vực công nghiệp và
dịch vụ tăng lên. Năm 2006, có 71,06% số hộ nông thôn hoạt động ở lĩnh vực nông,
lâm và thủy sản. Cho đến năm 2011, tỷ lệ này giảm xuống 62,15%. Trong đó, tỷ lệ
hộ hoạt động công nghiệp tăng từ 10,18% (2006) lên 15,03% (2011).
Trong từng giai đoạn phát triển của xã hội thì chức năng kinh tế của gia đình
có sự khác nhau về quy mô sản xuất, sở hữu tư liệu sản xuất, cách thức tổ chức và
cách thức phân phối. Nhưng nhìn chung, ở bất cứ thời kỳ nào, chức năng kinh tế
cũng đóng vai trò quan trọng, đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của mỗi cá nhân.
Tham khảo: Xu hướng biến đổi chức năng kinh tế của hộ gia đình nông thôn Việt
Nam - Tạp trí điện tử Lý luận chính trị
2.4. Chức năng tâm lý, tình cảm gia đình
Tổ ấm gia đình vừa là nơi giúp con người trưởng thành, vững tin vào cuộc
sống xã hội, đồng thời cũng là nơi bao dung, an ủi con người trước những songs gió
của cuộc đời. Bởi vậy, chức năng tâm lí, tình cảm gia đình có ý nghĩa quan trọng,
bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm, văn hóa, tinh thần của các thành viên, đảm
bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ, chăm sóc, quan tâm và gắn bó giữa họ.
Ngày xưa, chức năng này thường bị ràng buộc trong một gia đình lớn gồm có
ông bà, cha mẹ. Nhưng ngày nay, việc con cái đã tách hộ về thăm hỏi cha mẹ là tập
quán phổ biến ở nước ta. Nhiều người cho rằng, con cái lo toan cho bố mẹ về vật
chất nhiều hơn và đầy đủ hơn so với việc trực tiếp trò chuyện, hỏi han và tâm sự. Có
37,5% người cao tuổi cho biết họ thường xuyên trò chuyện, tâm sự chuyện vui buồn
với vợ hoặc chồng của mình; 24,8% tâm sự, trò chuyện với con và 12,5% tâm sự với
bạn bè, hàng xóm. Do vậy, gia đình là chỗ dựa về tình cảm, tinh thần cho mỗi cá
nhân, chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con người.
Tóm lại, chức năng này rất cần thiết trong việc chia sẻ tình yêu thương giữa
các thành viên trong gia đình, đặc biệt là tình yêu hanh phúc lứa đôi. Với việc duy
trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và
phát triển của xã hội.
2.5. Các chức năng khác
Ngoài những chức năng trên, gia đình còn có chức năng văn hóa (lưu giữ, sáng
tạo và thụ hưởng những giá trị văn hóa của xã hội, truyền thống văn hóa dân tộc
cũng như tộc người), chức năng chính trị (tổ chức thực hiện và hưởng lợi từ chính
sách, pháp luật của nhà nước và hương ước của làng xã) … không có những biến đổi đáng kể.
Sự biến đổi các chức năng cơ bản trong gia đình đã làm thay đổi vai trò của
người phụ nữ trong gia đình Việt Nam. Trong xã hội hiện đại, vị thế của người phụ
nữ nói chung đã được xã hội xác nhận trên cơ sở bình đẳng giới nhờ vào kết quả của
phong trào nữ quyền. Người phụ nữ ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất,
tái sản xuất, tiếp cận các nguồn lực phát triển, các quyết định, các sinh hoạt cộng
đồng và thụ hưởng các lợi ích, phúc lợi gia đình.
Nhìn chung, gia đình có bốn chức năng chức năng cơ bản (sinh sản, giáo dục,
kinh tế và tâm lý – tình cảm) và một số chức năng khác. Nhưng do sự biến đổi cơ
cấu xã hội trong quá trình phát triển đất nước mà các chức năng của gia đình Việt
Nam đã có những biến đổi về nhiều mặt, va chạm yếu tố truyền thống và hiện đại.
3. Biến đổi về quan hệ gia đình
Trong những thập kỷ gần đây, gia đình Việt Nam đã có những chuyển biến quan
trọng từ gia đình truyền thống sang gia đình có nét mới hiện đại, tự do hơn. Quá
trình hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập, giao lưu văn hóa đã dẫn đến cái nhìn
cởi mở hơn về hôn nhân và gia đình của người Việt Nam.
3.1. Biến đổi quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng
Trong hiện thực, gia đình và hôn nhân ở Việt Nam đang phải đối mặt với những
thách thức và thay đổi đáng kể. Dưới tác động của cơ cấu thị trường, công nghệ
hiện đại và toàn cầu hóa, các gia đình phải đối mặt với nhiều vấn đề như quan hệ
hôn nhân và gia đình suy yếu, tỷ lệ ly hôn, ly thân gia tăng, ngoại tình, quan hệ tình
dục trước và ngoài hôn nhân cũng như xu hướng chung sống không hôn nhân, kết hôn…
Các kiểu loại gia đình mới như hôn nhân đồng giới, chung sống không kết hôn,
làm mẹ đơn thân, tùy từng giai đoạn, thường rất hiếm hoặc không có trong truyền
thống nhưng lại có xu hướng gia tăng trong các xã hội đang chuyển đổi từ xã hội
nông nghiệp sang xã hội công nghiệp, hiện đại. Ở Việt Nam hiện nay, một bộ phận
người dân, chủ yếu là người dân tộc Kinh, trẻ tuổi, học vấn cao, ở thành thị có tỷ lệ
chấp nhận những kiểu loại gia đình mới cao hơn, tuy rằng có thể chưa thực sự hiểu
rõ những hệ quả tiêu cực của nó.
Với những thay đổi lớn trong kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, những hình thức
hôn nhân gia đình mới ủng hộ tính cá nhân có xu hướng tăng. Nghiên cứu cho thấy
38,5% người trả lời chấp nhận sống độc thân - mức độ này được chấp nhận cao hơn
ở nữ giới và nhóm xã hội mang nhiều đặc điểm hiện đại; 28,4% có nhu cầu, mong
muốn sống thử trước khi kết hôn; 58,3% không ủng hộ sống thử. Tỷ lệ này cho thấy
nhóm người vẫn theo khuôn mẫu truyền thống trong kết hôn tuy vẫn chiếm tỷ lệ cao
nhưng không mang tính gần như tuyệt đối như trong xã hội truyền thống trước đây.
Gần đây, hôn nhân đồng giới là vấn đề gây ra tranh cãi gay gắt giữa những người
ủng hộ và không ủng hộ. Hôn nhân đồng tính mới được chấp nhận dè dặt, chỉ có
27,7% người đồng ý, phần lớn ở nhóm mang nhiều đặc điểm hiện đại.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, người phụ nữ không lấy chồng nhưng có
con thường phải chịu sự lên án gay gắt của xã hội, cộng đồng và gia đình. Hiện nay,
hôn nhân vẫn là quyết định hệ trọng trong cuộc đời của người phụ nữ. Tuy vậy, cùng
với sự tiếp nhận văn hóa phương Tây cộng với quyền cá nhân ngày càng được pháp
luật bảo vệ, người phụ nữ ngày càng có quyền quyết định việc kết hôn và có con.
Quyền làm mẹ không chỉ thể hiện sự biến đổi trong nhận thức mà còn là biểu hiện
của sự nhân văn trong bảo vệ quyền của phụ nữ. Tham khảo:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/816737/
nhung-bien-doi-cua-gia-dinh-viet-nam-hien-nay-va-mot-so-khuyen-nghi- chinhsach.aspx
Ngoài ra, các vấn đề như bạo lực gia đình, ly hôn, ngoại tình, trẻ em ngày càng
sống ích kỷ, thu mình, bạo lực gia đình, lạm dụng tình dục cũng gây ra nhiều lo
ngại và ảnh hưởng đến giá trị gia đình truyền thống. Ngoài ra, áp lực của cuộc sống
hiện đại, công việc căng thẳng, bấp bênh cũng khiến hôn nhân của nhiều người
trong xã hội trở nên khó khăn.
Trong các gia đình truyền thống, đàn ông thường đảm nhận vai trò trụ cột gia
đình và mọi quyền lực trong gia đình thường nằm trong tay họ. Họ được coi là chủ
sở hữu tài sản của gia đình và có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của
gia đình, trong đó có quyền giáo dục vợ và trách nhiệm đối với con cái. Nhưng đi
cùng sự phát triển của xã hội, vai trò của người phụ nữ đã được đề cao khi xu
hướng các bạn trẻ đều tin rằng cả vợ lẫn chồng nên là “trụ cột” kinh tế của gia
đình. TS Xã hội học, chuyên gia tâm lý Phạm Thị Thúy (giảng viên Học viện Hành
chính quốc gia Phân viện TP.HCM) nhận định: “Xét cho cùng người ta bảo “Mạnh
vì gạo, bạo vì tiền”. Xưa nay quan điểm truyền thống đàn ông phải là người trụ
cột. Bây giờ cái vai này đổi rồi thì đàn ông sẽ có sự tự ái nhất định, có sự tự ti và
yếu thế nhất định. Điều đấy khó tránh lắm, đây là một tâm lý rất bản năng thôi ...
Quan điểm của tôi trong gia đình hiện đại thì đừng quan trọng ai kiếm tiền, quan
trọng là phân công hài hòa trách nhiệm lo lắng cho gia đình. Lo lắng về tiền bạc
cũng là một là cái lo lắng, mà lo lắng chăm sóc con cái, ổn định hạnh phúc gia
đình cũng là một vai trò rất quan trọng, không kém chuyện kiếm tiền”.

Tài liệu tham khảo https://thanhnien.vn/giu-hanh-phuc-gia-dinh-khi-can-canthu-
nhap-nghieng-ve-phu-nu-1851507260.htm
3.2. Sự thay đổi trong quan hệ giữa các thế hệ, giá trị và chuẩn mực văn hóa của gia đình
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, quan hệ giữa các thế hệ cũng như giá
trị và chuẩn mực văn hóa của gia đình không ngừng biến đổi. Những biến đổi trong
mối quan hệ vợ chồng hiện nay dẫn đến mâu thuẫn và đấu tranh giữa các giá trị,
chuẩn mực văn hóa truyền thống với các giá trị, chuẩn mực văn hóa hiện đại.
Trong gia đình truyền thống, cha mẹ có uy quyền tuyệt đối với con cái và con
cái phải có bổn phận phục tùng uy quyền của cha mẹ. Trong mối quan hệ giữa cha
mẹ và con cái, người ta ít đề cập tới trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái nhưng
lại nhấn mạnh tới bổn phận của con cái đối với cha mẹ. Nguyên nhân là do quan
niệm đạo Hiếu truyền thống, nó đòi hỏi con cái phải thành kính và phụng dưỡng
cha mẹ, suốt đời làm theo cha và không bao giờ thay đổi... Trong khi đó, với quan
niệm “trời sinh voi thì trời sinh cỏ” cha mẹ có thể sinh nhiều con cái nhưng trách
nhiệm, nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục không phải lúc nào cũng đi cùng. Vấn đề đặt
ra trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái là cần phải củng cố chức năng giáo
dục của gia đình, xây dựng mối quan hệ mới giữa cha mẹ và con cái trên cơ sở tiếp
thu những giá trị, chuẩn mực văn hóa mới, đồng thời kế thừa những giá trị tốt đẹp
của gia đình truyền thống, cần tạo cho trẻ em môi trường, điều kiện để phát triển
nhân cách, năng lực nhưng cũng phải quan tâm đến giáo dục gia đình, giúp trẻ em
nhận thức được những giá trị, chuẩn mực truyền thống, đặc biệt phải sống có trách
nhiệm đối với gia đình, cộng đồng và xã hội.
Tham khảo: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-
/2018/40162/bien-doicac-gia-tri%2C-chuan-muc-van-hoa-gia-dinh.aspx
Đối với các thế hệ lớn hơn như là người cao tuổi, trong gia đình truyền thống họ
thường sống cùng với con cháu, và nhu cầu về tâm lý và tình cảm được đáp ứng
đầy đủ. Nhưng khi quy mô gia đình thay đổi, người cao tuổi phải đối mặt với sự cô
đơn và thiếu tình cảm. Hiện nay, có nhiều hiện tượng chưa từng xuất hiện hoặc ít
phổ biến như bạo lực gia đình, ly hôn, ly thân, ngoại tình, sống thử... Tất cả những
điều này đã làm sứt mẻ và đe dọa tính bền vững của gia đình, làm cho gia đình trở
nên dễ bị tan rã hơn. Ngoài ra, các tệ nạn như trẻ em lang thang, nghiện ngập, buôn
bán phụ nữ qua biên giới cũng đang tạo ra nhiều nguy cơ làm tan rã gia đình.
II. Sinh viên với vấn đề tình yêu, hôn nhân và gia đình
1. Quan niệm của sinh viên về vấn đề tình yêu, hôn nhân và gia đình
1.1. Quan niệm về tình yêu
Tình yêu là một khái niệm đa nghĩa trong cách diễn đạt và cách hiểu của người
Việt. Tình yêu, theo nghĩa chung nhất, là trạng thái tình cảm của chủ thể này đối
với một chủ thể khác ở mức cao hơn sự thích thú và phải nảy sinh ý muốn được
gắn kết với chủ thể đó ở một khía cạnh hay mức độ nhất định. Chủ thể của tình
yêu, ngoại trừ một số trường hợp được nhân cách hóa, còn lại đều là con người.
Còn chủ thể tác động của tình yêu thì rất đa dạng, có thể là bất kỳ thứ gì, từ đơn
giản đến phức tạp, từ nhỏ bé đến vĩ đại, từ hữu hình đến vô hình ...
Tình yêu nói chung và tình yêu trong giới trẻ (độ tuổi từ 18 đến 23) nói riêng
đang là một vấn đề được nhiều người quan tâm, không chỉ do tính phổ biến mà còn
do những gì mà nó mang lại.
Có thể nói quãng đời học sinh sinh viên là đẹp nhất của mỗi đời người, ít ai đã
mặc áo sinh viên mà không có mối tình đầu thơ mộng. Cũng có mối tình đã thực sự
làm chỗ dựa tinh thần cho học tập, nhưng cũng không ít sinh viên đã “đứt gánh
giữa đường” vì hậu quả khôn lường của nó. Với nhịp sống hối hả, nhất là lối sống
gấp của giới trẻ hiện nay thì việc sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng nảy nở
tình yêu cũng là lẽ thường, dĩ nhiên cái na ná tình yêu nhiều hơn tình yêu đích
thực. Xét ở góc độ mặt trái của yêu thời @ tức là kiểu yêu vội, cố tình tìm cho
mình một tình yêu cho oai, thậm chí để khoe mẽ, lợi dụng...thì thật đáng trách và phê phán.
Những mối tình sinh viên trung thực không dung hoà với giả dối, lọc lừa, nó
trong sạch đến thuần khiết, thánh thiện mà gần gũi, đời thường. Đẹp thế, trong sáng
thế - tình yêu sinh viên, nhưng những mối tình sinh viên lại thường “đứt gánh giữa
đường” hoặc “qua cầu gió bay”.
Tuổi trẻ, sức khoẻ và thời gian, ba yếu tố tạo nên tình yêu đẹp tuổi giảng đường.
Trong cuộc đời, ai bước qua tuổi sinh viên cũng ít nhất một lần buộc trái tim
xao động. Sinh viên trong thời gian nào, không gian nào họ cũng có một tình yêu
tương đối giống nhau: giản dị, trong sáng, thánh thiện.
Ai cũng thừa nhận rằng thời sinh viên là thời gian đẹp nhất của đời người. Ở đó
mỗi người được tự do vùng vẫy trong cuộc sống tự lập của riêng mình mà không bị
bó buộc nhiều bởi gia đình.
Tuổi sinh viên cũng là cái tuổi bắt đầu những mối tình ở một giai đoạn mới.
Khác những rung động tuổi teen, tình yêu sinh viên hướng đến gắn kết và bộc lộ rõ
hơn. Sinh viên chủ yếu là những người trọ học xa nhà nên thường thiểu vắng tình
cảm. Có một chỗ dựa tinh thần để đỡ cô đơn là niềm mong ước của nhiều người.
Tình yêu sẽ giúp cho các bạn có thêm sức mạnh để vượt qua những khó khăn trong
cuộc sống tự lập của mình, để có động lực học tập tốt hơn.
1.2. Quan niệm về hôn nhân
Sinh viên nói chung và cộng đồng sinh viên nói riêng ngày nay có những suy
nghĩ về hôn nhân khác xa với thế hệ trước. Sinh viên hiện nay đặt nhiều giá trị vào
sự tự do cá nhân. Họ coi kết hôn là một cam kết lớn, có thể giới hạn quyền tự do và
sự phát triển cá nhân. Do đó, một số sinh viên có suy nghĩ trì hoãn việc kết hôn để
tận hưởng cuộc sống độc thân và phát triển bản thân sau khi ra trường.
Với sự phổ biến của mạng xã hội và các ứng dụng hẹn hò trực tuyến, sinh viên
có thể tiếp cận với nhiều lựa chọn đối tượng tiềm năng. Điều này có thể dẫn đến sự
khó khăn trong việc đưa ra quyết định về kết hôn, vì họ có xu hướng tìm kiếm sự
hoàn hảo và không muốn đánh mất cơ hội tìm được đúng người.
Một số sinh viên có quan điểm lý tưởng về kết hôn, được hình thành từ những
ảo tưởng trên mạng xã hội và truyền thống gia đình. Tuy nhiên, khi tiếp xúc với
thực tế, họ nhận ra rằng hôn nhân không phải lúc nào cũng như mơ ước. Vì vậy,
sinh viên có xu hướng cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định kết hôn, để đảm bảo
sự phù hợp và đủ chín chắn để đối mặt với những thử thách trong hôn nhân.
Sinh viên hiện nay thường coi trọng sự đồng thuận và phát triển cá nhân trong
mối quan hệ tình yêu. Họ muốn tìm được một nửa để chia sẻ, lắng nghe và có chung
mục tiêu phấn đấu. Vì vậy, các bạn thường mong muốn kết hôn với đối tượng có thể
đồng hành cùng họ phát triển và đạt được những mục tiêu cá nhân.
Gia đình và xã hội vẫn đóng vai trò quan trọng trong quyết định kết hôn của
sinh viên. Một số người chịu áp lực từ gia đình và miễn cưỡng kết hôn sớm nhưng
ngược lại, một số khác tin rằng kết hôn không phải là chuyện có thể ép buộc. Mặc
cho những áp lực nặng nề đến từ gia đình và xã hội, họ kiên định chờ đợi đến thời
điểm thích hợp để kết hôn.
Sinh viên hầu hết suy nghĩ về việc đề cao sự bình đẳng giới trong gia đình. Điều
này có nghĩa là cả hai bên phải tham gia tích cực và chia sẻ trách nhiệm trong việc
quản lý gia đình, công việc, chăm sóc con cái và các nhiệm vụ hàng ngày khác. Họ
muốn xây dựng một gia đình dựa trên sự tôn trọng và chia sẻ thay vì đi theo mô
hình truyền thống áp đặt về giới tính. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những quan điểm
sống khác nhau có thể dẫn tới nhiều mâu thuẫn và sẽ gặp khó khăn trong việc hòa hợp.
Tóm lại, nhận thức của sinh viên về vấn đề kết hôn đã trải qua sự thay đổi lớn
trong thời gian gần đây. Họ coi trọng sự tự do cá nhân, tìm kiếm sự hoàn hảo và
cân nhắc kỹ lưỡng hơn trước khi kết hôn. Thay vì áp đặt những quy chuẩn và mô
hình cũ, chúng ta cần thay đổi suy nghĩ và thích nghi với những thay đổi này. Sự đa
dạng và tiến bộ xã hội sẽ đem lại cơ hội cho mỗi cá nhân trở thành phiên bản tốt
nhất của chính mình và xây dựng một mô hình hôn nhân phù hợp với giá trị và
mục tiêu của mỗi người.
1.3. Quan niệm về gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi nuôi dưỡng mỗi con người, có ý nghĩa quan
trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người, là trường
học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội. Lập gia đình là chuyện
trăm năm, là bước ngoặt của mỗi con người nên đó một trong những vấn đề cần
được tìm hiểu và quyết định đúng đắn của mỗi chúng ta
Hiện nay, giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng có nhiều quan niệm khác
nhau về việc lập gia đình. Vì có nhiều cơ hội và mối quan tâm khác như sự nghiệp,
hoài bão, trải nghiệm, ... làm bớt đi nhu cầu về tạo dựng gia đình, thậm chí họ còn
ngại dành thời gian cho một mối quan hệ ràng buộc. Nguyễn Minh Ánh (21tuổi,
sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) chia sẻ: "Mình thấy việc lập gia đình
phải đi kèm với hàng tá trách nhiệm. Giả dụ không khá giả về tài chính, công việc
thì kết hôn chắc chắn sẽ khổ. Mặt khác thời đại ngày nay cũng đã tiến bộ hơn,
người phụ nữ cũng đi làm như đàn ông, cũng tự kiếm tiền nuôi bản thân nên cũng
không còn quá đặt nặng gánh nặng phải có chồng, sinh con". Bên cạnh đó, vấn nạn
bạo lực gia đình cũng là một trong những nguyên nhân lớn dẫn tới sự e ngại lập gia
đình, ngoài ra không ít người sau một vài mối tình kém may mắn bị tổn thương lớn
đã không còn niềm tin với hạnh phúc tình yêu và kể cả việc lập gia đình.
Nhiều người có xu hướng lập gia đình muộn để chuẩn bị nền tảng tốt hơn. Hoài
Phương (22 tuổi, sinh viên Học viện ngân hàng) cho rằng hầu hết mọi người vẫn
mong mỏi có thể cân bằng công việc và gia đình: “Phụ nữ bây giờ có trình độ học
vấn cao hơn thế hệ trước, sau khi tốt nghiệp họ sẽ ưu tiên phát triển sự nghiệp rồi
mới kết hôn. Nên nếu không có sự nghiệp ổn định và các cơ hội đảm bảo cuộc
sống tương lai, thì mình nghĩ nhiều bạn trẻ sẽ không tiến tới hôn nhân”. Không
dừng lại ở đó, nhiều bạn trẻ coi hạnh phúc của bản thân là giá trị quan trọng nhất
nên họ không còn háo hức tới hôn nhân và lập gia đình.
Tuy nhiên, mỗi người có mỗi quan niệm khác nhau, gần đây nhiều bạn trẻ có xu
hướng chủ động kết hôn sớm ngay sau khi tốt nghiệp đại học để ổn định cuộc sống
và tập trung phát triển kinh tế. Họ cho rằng việc chủ động kết hôn sớm thể hiện
trách nhiệm của mình đối với bản thân và gia đình. Vũ Thu Hà (sinh viên năm cuối
Học viện Báo chí và Tuyên truyền) chia sẻ: “Chúng tôi quyết định kết hôn sớm do
cảm thấy đối phương phù hợp và được gia đình ủng hộ nên dự định về với nhau đã
có từ năm đầu tiên chúng tôi yêu nhau. Chúng tôi nghĩ rằng hôn nhân không giống
tình yêu mà đó còn là trách nhiệm với gia đình, với bản thân nữa”. Không chỉ thế,
nhiều người cho rằng lập gia đình giúp họ trưởng thành hơn, khi đã bước vào cuộc
sống gia đình giúp họ có suy nghĩ vững vàng có trách nhiệm hơn với mọi thứ mình làm.
Trương Huỳnh Nhi (Trà Ôn) đã có một tình yêu ngọt ngào khi mới bước vào
năm học đầu tiên ở Trường Trung cấp Y tế. Bạn trai của Nhi là SV Trường ĐH Cửu
Long. Cả hai tình cờ quen biết nhau vì có cùng một người bạn thân. Nhi còn nhớ
như in những kỷ niệm: “Lần đầu gặp nhau mưa lất phất, tôi và nhỏ bạn vào Trường
ĐH Cửu Long đụt mưa thì gặp ảnh” hay “lần thứ 2 gặp nhau tại TP Vĩnh Long
cũng là hôm trời mưa”. Nổi tiếng trong lớp là cô bé nhí nhảnh nhưng khi yêu thì
“Nhi chọn một anh chàng ốm nhom, đen và… trông cù lần nữa”- Nhi cười. Nhi
thích rồi yêu anh SV nọ không vì đẹp trai mà vì anh nói chuyện rất có duyên, biết
chuyện, biết lo và đặc biệt là “tự đi làm thêm lo việc học”.
2. Trách nhiệm của sinh viên trong vấn đề tình yêu, hôn nhân, và gia đình
Đây là ba phạm trù liên quan chặt chẽ đến nhau, ảnh hưởng trực tiếp đến
cuộc sống cũng như cảm xúc của mỗi chúng ta trong mọi giai đoạn của cuộc đời, vì
vậy, chúng ta càng cần phải hiểu được trách nhiệm của bản thân trong ba mối quan hệ ấy.
Là một sinh viên sống trong thời kỳ mới, chúng ta cần phải thực hiện tốt các
quy định của Nhà nước về tình yêu, hôn nhân và gia đình. Bên cạnh việc nuôi
dưỡng cảm xúc trong ba mối quan hệ thiêng liêng ấy, chúng ta còn cần phải nâng
cao trách nhiệm của bản thân hơn bằng cách tuân thủ chặt chẽ các quy định của
pháp luật về trách nhiệm của bản thân. Trong pháp luật Việt Nam có quy định rõ,
hôn nhân là sự bằng lòng tự nguyện của cả hai phía, nghiêm cấm mọi hình thức
hôn nhân giả, cũng như bạo lực, ngược đãi trong hôn nhân. Còn trong gia đình, cha
mẹ phải có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục con cái của mình tới nơi tới chốn,
đồng nghĩa với việc, con cái cũng phải có trách nhiệm yêu thương, phụng dưỡng,
kính trọng cha mẹ. Điều luật đã quy định rõ bổn phận của mỗi chúng ta trong gia
đình, vậy cớ gì chúng ta còn chưa thực hiện tốt trách nhiệm cao quý của mình.
Không chỉ về mặt pháp luật, ta còn cần phải đối xử với gia đình nói chung và
vợ chồng đôi lứa nói riêng bằng thứ tình cảm chân thành nhất. Điều đó còn có
nghĩa là, trong lúc trái tim ta tràn đầy niềm vui và sự hứng khởi, ta trao tình yêu
đến cho mọi người, nhưng có những lúc trái tim không vui, ta cũng không nên nói
những lời tổn thương với những người là máu thịt của ta, bởi họ, sẽ là người kế bên
ta khi ta cô đơn và tuyệt vọng nhất. Là một sinh viên, với kiến thức sâu rộng, mỗi
chúng ta cần phải hiểu rõ ràng những điều ấy, để tình yêu, hôn nhân và gia đình
mãi luôn là thứ hạnh phúc nhất khi ta nhắc lại.