lOMoARcPSD| 59452058
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, nhóm tác giả xin chân thành bày tỏ lời biết ơn sâu sắc nhất đến Giảng
viên học phần đã nhiệt tình chdạy, hướng dẫn đóng góp những ý kiến trong
quá trình học tập, thực hiện để đề tài.
Em cũng xin được gửi lời cảm ơn đến Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc
gia, cùng toàn thể các thầy, giáo đã đang làm việc tại Học viện, đã tận tình
giúp đỡ và tạo điều kiện để em hoàn thành đề tài của mình.
Lời cuối cùng, em xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy giáo, cô giáo
và bạn bè đã luôn động viên và giúp đỡ để nhóm hoàn thành đề tài.
lOMoARcPSD| 59452058
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan bài tập lớn đề tài chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định
chính sách công thực tiễn Việt Nam” bài tập lớn của riêng em không
trùng với bất chủ đnào. Các số liệu nghiên cứu, các kết quả nghiên cứu
trong đề tài này đúng với thực tiễn, hoàn toàn được chính em thu thập và tổng
hợp điều tra.
lOMoARcPSD| 59452058
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lời lý do chọn đề tài
Chính sách công có vai trò cơ bản là công cụ hữu hiệu chủ yếu để Nhà nước thực
hiện, thể hiện, khẳng định, duy trì, phát triển chức năng, nhiệm vụ của mình trong
việc điều tiết, quản kinh tế - hội và phục vụ người dân. Chính sách công
được xác định một chuỗi các quyết định của Nhà nước, ban hành, thực thi nhằm
giải quyết các vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục
đích, mục tiêu xác định. Chính sách công định hướng mục tiêu tạo động lực
cho các chủ thể, đối tượng tham gia hoạt động kinh tế - xã hội, phát huy mặt tích
cực, hạn chế, khắc phục những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường, kiểm soát
phân bổ các nguồn lực, tạo lập môi trường thích hợp, nhân tố phù hợp các
yếu tố cân đối cho phát triển kinh tế - hội cũng như đòi hỏi, thúc đẩy sphối
hợp hoạt động giữa các cấp, các ngành vì mục tiêu chung. Chính sách công ý
nghĩa chính trị, hội, pháp lý, khoa học thực tiễn quan trọng, to lớn đối với
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc
tế. vậy, việc xây dựng, hoạch định chính sách công khâu quyết định hàng
đầu trong toàn bộ chu trình chính sách công nước ta. Hoạch định chính sách
công khâu khởi đầu của chu trình chính sách, được xây dựng thành quy trình,
bao gồm trình tcác công đoạn để hình thành, tạo nên từng chính sách công.
Hoạch định chính sách công khoa học, phù hợp, dựa trên cơ sở lý luận, thực tiễn,
phản ánh và đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của xã hội tiền đề để chính sách đó
đi vào cuộc sống, phát huy giá trị và mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, sẽ gây
những tổn hại, thậm chí hậu quả tiêu cực trong quá trình quản lý, điều hành các
lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, không chỉ trước mắt còn lâu dài ảnh
hưởng đến uy tín của Nhà nước đối với niềm tin xã hội. Trong quá trình thực hiện
vai trò, chức năng quản lý, điều hành hội, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng,
hoạch định ban hành nhiều . Các chính sách công này cùng hệ thống chính
sách, giải pháp toàn diện, đồng bộ khác đã phát huy giá trị, hiệu quả góp phần vào
những thành tựu tăng trưởng, phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng hội của
đất nước sau hơn 30 năm Đổi Mới. Công tác hoạch định chính sách công đã không
lOMoARcPSD| 59452058
ngừng được hoàn thiện, nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Chính sách công
từng bước được hoạch định, thực thi trên các lĩnh vực trọng yếu, cấp bách, đáp
ứng yêu cầu đặt ra về phát triển hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng hội chủ nghĩa, an sinh hội, tổ chức bộ máy Nhà nước, quốc phòng,
an ninh, ngoại giao... Một số chính sách công quan trọng đã được hoạch định và
ban hành dựa trên sở luận chứng khoa học, luận thực tiễn vững chắc, thiết
thực hơn. Nhờ đó, Việt Nam đã bước đầu tạo lập được một hthống chính sách
công đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của quản Nhà nước, phục vụ chiến lược
phát triển kinh tế xã hội, có khả năng ứng phó với những biến động của tình hình
trong nước, quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, kết quả đạt được, quy
trình hoạch định chính sách công nước ta vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, bất
cập. Vì vậy, em xin chọn đề tài Chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định
chính sách công và thực tiễn ở Việt Nam” là bài tập lớn kết thúc học phần.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề luận về chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định
chính sách công, trên sở đó đánh giá thực trạng chủ thể tham gia vào quá trình
hoạch định chính sách công và thực tiễn ở Việt Nam. Đề xuất các giải pháp hoàn
thiện chủ thể tham gia vào qtrình hoạch định chính sách công và từ thực tiễn
Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, hệ thống hoá cơ sở lí luận về chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định
chính sách công
Thứ hai, phân tích thực trạng về chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định chính
sách công và thực tiễn ở Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả chủ thể tham gia vào
quá trình hoạch định chính sách công và từ thực tiễn ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
lOMoARcPSD| 59452058
Bài tập lớn nghiên cứu về các chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định chính
sách công và thực tiễn ở Việt Nam, cụ thể về các quy định của pháp luật hiện
hành, các điều kiện, quy trình tham gia theo quy định của pháp luật hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- phạm vi nội dung: bài tập lớn đề cập về các chủ thể tham gia vào quá trình hoạch
định chính sách công và thực tiễn ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tập lớn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị học trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa
kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế trên các nguồn tài liệu thông tin, các
cuộc hội thảo khoa học, sách, báo, tạp chí liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
Đồng thời, sử dụng phương pháp đối chiếu và so sánh, phương pháp phân tích và
tổng hợp để giải quyết nội dung nghiên cứu, để thực hiện đề tài này em đã tiến
hành thu thập các tài liệu liên quan, việc thu thập tài liệu cả một quá trình
tìm hiểu và thu thập tnhiều nguồn khác nhau như: Sưu tầm, tìm kiếm các nguồn
tài liệu sẵn sách báo, tổng hợp đánh giá,được sử dụng trong việc thống
những số liệu cụ thể về thực trạng các chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định
chính sách công, việc thống phân tích đòi hỏi phải schính xác cao để
làm vấn đề nghiên cứu. Sau khi thu thập tài liệu tôi tiến hành thống kê phân
tích xử số liệu, lựa chọn số liệu theo những mục đích, yêu cầu cần làm từ
dẫn chứng vào đề tài của mình.
5. Kết cấu của bài tập lớn
Kết cấu của bài tập lớn có ba phần: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận thì bài tập
lớn còn có phần nội dung được chia như sau:
Chương 1: Lí luận về chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định chính sách
công
Chương 2: Thực trạng của chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định chính
sách công và thực tiễn ở việt nam
Chương 3: Giải pháp ng cao chất lượng, hiệu quả của các chủ thể tham gia
vào quá trình hoạch định chính sách công và thực tiễn ở việt nam.
lOMoARcPSD| 59452058
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN VỀ CHỦ THỂ THAM GIAO QUÁ TRÌNH
HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG
1.1. Các khái niệm cơ bản
lOMoARcPSD| 59452058
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, dưới góc độ luận đề tài đã tập trung làm được các nội
dung như sau:
Thứ nhất, qua nghiên cứu và tìm hiểu không chỉ ở những lý luận, khái niệm trong
nước nói riêng, mà còn mở rộng tìm tòi cả các thuật ngữ trên thế giới nói chung,
đề tài đã làm rõ được các khái niệm hoạch định chính sách công. Tiếp đó, làm rõ
được sự tham gia của các chủ thể trong quá trình hoạch định chính sách công.
lOMoARcPSD| 59452058
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA CHỦ THỂ THAM GIA VÀO QUÁ
TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG THỰC TIỄN Ở VIỆT
NAM
2.1. Thực trạng về quy định pháp luật về sự tham gia của các bên liên quan
trong hoạch định chính sách công
Việt Nam, sự tham gia của các chủ thmột trong những nội dung bắt buộc
trong quy trình xây dựng chính sách được quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật (VBQPPL) nluật, nghị quyết, nghị định. Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định vviệc lấy ý
kiến đối với chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh (Điều 36), lấy ý
kiến đối với chính sách trong đề nghị xây dựng nghị định của Chính phủ (Điều
86), đối với chính sách trong đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh (Điều 113). Đồng thời, Luật cũng quy định về việc lấy ý kiến đối với dự
thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội Ủy ban Thường vụ Quốc hội
(Điều 57), lấy ý kiến đối với dự thảo nghị định của Chính phủ (Điều 91), đối với
dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (Điều 120). Ngoài ra, Nghị
định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định sự tham gia của
tổ chức, nhân trong quá trình lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật(Điều 11), sự tham gia của tổ chức, cá nhân trong quá trình soạn thảo văn bản
quy phạm pháp luật(Điều 32).
Theo các quy định nêu trên có thể nhận thấy:
Thứ nhất, các bên liên quan được quyền tham gia góp ý kiến trong qtrình hoạch
định chính sách công, gồm: (1) Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ
pháp; (2) Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ chức thành
viên; (3) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (đối với đề nghị xây dựng
VBQPPL liên quan tới quyền nghĩa vcủa doanh nghiệp); Hội đồng dân
tộc ối với dự thảo nghị định quy định về thực hiện chính sách dân tộc); (4)
Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban Mặt trận
lOMoARcPSD| 59452058
Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh (đối với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh);
(5) Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, quản lý ngành, lĩnh vực
liên quan, các quan, tổ chức khác liên quan; (6) Các đối tượng chịu sự
tác động trực tiếp của chính sách, bao gồm các nhân, doanh nghiệp, quan
nhà nước, hội, hiệp hội, tổ chức đại diện cho cá nhân, doanh nghiệp có quyền và
lợi ích bị ảnh hưởng khi có chính sách mới.
Thứ hai, các tổ chức, cá nhân có thể được huy động tham gia vào quá trình lập đề
nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quá trình soạn thảo văn bản quy
phạm pháp luật, gồm: các viện nghiên cứu, trường đại học, hội, hiệp hội, tổ chức
khác có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học.
Thứ ba, tài liệu cần lấy ý kiến là hồ sơ đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật, báo cáo tổng kết, báo cáo đánh gtác động của chính sách trong đề nghị xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật quy định
chính sách.
Thứ tư, cơ quan hoạch định chính sách công cung cấp thông tin cho các bên liên
quan, tham vấn và thu hút các bên liên quan tham gia thông qua nhiều hình thức,
bao gồm: (1) Lấy ý kiến thông qua việc đăng tải trên trang thông tin điện tử của
cơ quan lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; cơ quan, đơn vị thực
hiện đánh gtác động chính sách; cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản và ban hành
văn bản; (2) Lấy ý kiến bằng việc gửi các dự thảo văn bản đnghị góp ý kiến đến
các nhân, tổ chức có liên quan; (3) Tổ chức hội nghị, tọa đàm đlấy ý kiến của
các nhân, tổ chức liên quan; (4) Tổ chức đối thoại trực tiếp về chính sách
với các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo nghị quyết; (5) Lấy ý kiến
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để các quan, tổ chức, nhân
tham gia ý kiến.
Như vậy, sự tham gia của các bên liên quan một nội dung quan trọng của quá
trình hoạch định chính sách công, bảo đảm quá trình hoạch h được tiến hành một
cách dân chủ, công khai, minh bạch và góp phần nâng cao chất lượng của hoạch
lOMoARcPSD| 59452058
định chính sách công sự thành công của thực thi hoạch định chính sách công.
Việc thu hút sự tham gia của các bên liên quan trong quy trình hoạch định chính
sách công Việt Nam được thực hiện thông qua việc chủ th(cơ quan, tổ chức,
cá nhân) lập đề xuất chính sách tổ chức các hoạt động lấy ý kiến để các cơ quan,
tổ chức, cá nhân liên quan hội tiếp cận và bày tỏ ý kiến, quan điểm của
mình vcác chính sách đề xuất; giúp chủ thđề xuất chính sách thu thập được
thêm thông tin ý kiến đa chiều tcác quan, tổ chức, cá nhân liên quan;
nâng cao trách nhiệm giải trình của các chthể đxuất chính sách ý thức trách
nhiệm, năng lực tham gia, năng lực phản biện chính sách của nhân, tổ chức,
doanh nghiệp; từ đó góp phần xây dựng được các chính sách phù hợp với thực
tiễn, tạo thuận lợi cho việc thi hành các chính sách trong các văn bản quy phạm
pháp luật sau khi được thông qua.
Các bên liên quan khác nhau có những mối quan tâm khác nhau, nên để việc thu
hút sự tham gia của các bên liên quan vào hoạch định chính sách công thực sự có
chất lượng hiệu quả, quan hoạch định chính sách công cần tiến hành phân
tích các bên liên quan để lựa chọn cấp độ tham gia thích hợp (cung cấp thông tin,
tham vấn tham gia tích cực), đồng thời quán triệt thực hành tốt 10 nguyên
tắc: cam kết, quyền, minh bạch, thời gian, khách quan, nguồn lực, phối hợp, trách
nhiệm giải trình, đánh giá, công dân tích cực.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA VÀO QUÁ TRÌNH
HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
Một là, sở xuất phát, các kiến nghị hoạch định chính sách dự thảo chính
sách công về cơ bản vẫn mang tính chủ quan từ các quan quản lý Nnước
quy trình hoạch định chính sách công còn mang tính khép kín, nội bộ. Việc d
thảo chính sách công thường do các cơ quan quản Nhà nước cấp bộ hoặc tương
đương, các cơ quan đặc biệt của Chính phủ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương thực hiện. không ít chính sách công chủ yếu được hoạch
định dựa trên nhận định, suy luận, phân tích của cơ quan Nhà nước, trực tiếp là ý
chí, mong muốn của từng quan quản Nhà nước, trong khi đó lại hạn chế
lOMoARcPSD| 59452058
hoặc rất ít chính sách công được hoạch định căn cứ chính dựa vào sự tham gia đề
xuất ý tưởng, nhu cầu, thực tế của đối tượng mà chính sách công đó chi phối, ảnh
hưởng. Đây một trong những do bản khiến cho một số chính sách công
khi ban hành, thực hiện, tính khthi thấp, thể nảy sinh tình trạng cục bộ, có lợi
hoặc chú trọng đến lợi ích của cơ quan quản lý Nhà nước, lĩnh vực, địa bàn mình
quản lý hơn đến lợi ích tổng thể chung, thiếu sphối hợp giữa các cơ quan, bộ,
ngành, địa phương, tạo nên tình trạng “khoảng đậm hoặc khoảng trống” trong
quản lý chính sách dẫn đến hiệu quả không như mong muốn. Việc lấy ý kiến của
các đối tượng chịu sự tác động, điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít, nặng
về hình thức, chưa thực sự rộng rãi, chưa đảm bảo điều kiện đại diện toàn diện.
Kênh thông tin đối thoại giữa Chính phủ, các quan quản lý Nhà nước với các
tổ chức, nhân và hội còn thiếu và khai thác hiệu quả, chưa thể hiện tính chủ
động, linh hoạt, thiếu quy định chặt chẽ, cụ thể nhằm khích lệ, huy động, do đó
chưa phát huy tối đa ttuệ các tầng lớp hội, đặc biệt các chuyên gia, các nhà
khoa học, nhà hoạt động thực tiễn tham gia vào quy trình hoạch định chính sách
công.
Hai là, chính sách công còn có những khoảng trống, chưa theo kịp tình hình thực
tiễn. Đời sống kinh tế - hội luôn vận động, phát triển, nảy sinh nhiều vấn đề
mới, nhiều vấn đề bức thiết đặt ra cần tác động, giải quyết nhưng chính sách công
chưa theo kịp hoặc chưa đề cập, can thiệp. những chính sách công đã được
ban hành, nhưng những do như việc hoạch định mang nặng tính chủ quan
của quan quản Nhà nước, hạn chế trong nghiên cứu, cập nhật thực tế, tiếp
thu ý kiến, đánh giá tác động của chính sách công trước khi hoạch định, ban hành...
nên ít hoặc không có hiệu lực, cần phải điểu chỉnh, bổ sung, thay đổi.
Ba là, hạn chế trong tổ chức bộ máy năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức hoạch định chính sách công. Có thể khẳng định rằng, năng lực thực tế
hoạch định chính sách công của một bộ phận cán bộ công chức trong tổ chức bộ
máy Nhà nước ở nước ta còn hạn chế, chưa mang tính chuyên nghiệp. Sự bất cập,
hiệu quả thấp, thậm chí cả những hậu quả tiêu cực của một số chính sách công
lOMoARcPSD| 59452058
trong thời gian qua minh chứng nét cho điều đó. Tình trạng thiếu luận chứng
khoa học, bỏ sót vấn đề, tầm nhìn hạn hẹp, phiến diện... dẫn đến khi ban hành,
thực thi chính sách công bị lạc hậu, nảy sinh bất cập, không theo kịp, phản ánh
đúng thực tiễn, nhu cầu, vấp phải sự phản đối của luận hội nên phải điều
chỉnh, sửa đổi.
Bốn là, ít thực hiện hoặc chưa thực schú trọng đến hoạt động phản biện chính
sách công. Phản biện chính sách công ngay từ khâu hoạch định chính sách những
bước đầu tiên rất quan trọng. Thực tế trong thời gian qua, nhiều chính sách công
không tổ chức tiến hành công tác phản biện ở tất cả các khâu. Đây cũng là một
do làm cho chính sách côngbị hạn chế, ít đi vào cuộc sống, hiệu quả thấp. Trong
bối cảnh xây dựng, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giai
đoạn mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, đã đang đặt ra
những đòi hỏi về đổi mới, nâng cao hiệu quả của hoạch định chính sách công. Để
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hoạch định chính sách công nước ta hiện
nay, cần chú trọng vào các giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, cần phải thiết lập một quy trình xây dựng, hoạch định chính sách công
với sự tham gia thực chất, mở rộng phối hợp tham dự một cách hiệu quả của
tất cả các bên, bao gồm cơ quan Nhà nước hoạch định chính sách, Chính phủ, đối
tượng chịu tác động của chính sách, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần
chúng, người dân, các nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản hoạt động thực
tiễn.
Thứ hai, tăng cường nâng cao hiệu quả các kênh thông tin để quan hoạch
định chính sách công lắng nghe, tiếp thu ý kiến rộng rãi, đa chiều trong quy trình
hoạch định chính sách. Xuất phát từ thực tế, lấy ý kiến sâu rộng và chọn lọc thông
tin là sở, nền tảng để xây dựng, hoạch định chính sách công sát với nhu cầu
thực tiễn sinh động của đời sống kinh tế - xã hội.
Thứ ba, thành lập các nhóm chuyên gia, các quan nghiên cứu, các nhóm nghiên
cứu độc lập, đồng thời có cơ chế cạnh tranh trong ý tưởng chính sách, xây dựng,
lOMoARcPSD| 59452058
hoạch định chính sách công. Đội ngũ nòng cốt, chuyên gia làm công tác hoạch
định chính sách công phải đủ trình độ, năng lực, có phẩm chất trí tuệ, đạo đức,
tầm nhìn bao quát biết cầu thị, lắng nghe trong quá trình lấy ý kiến, phản
biện chính sách. Thực hiện giải pháp này sẽ phá vỡ tính đặc quyền, từ đó đảm bảo
tính khách quan, công bằng, khoa học và dân chủ thực sự trong hoạch định chính
sách công.
Thứ tư, đổi mới quy trình hoạch định chính sách công, từ chỗ là nhiệm vụ chính,
thể hiện chức năng mang tính chất đóng và khép kín của cơ quan Nhà nước sang
tính chất mở, trở thành mối quan tâm chung trách nhiệm chung của toàn
hội.
Thứ năm, chú trọng thực hiện công tác phản biện chính sách công. Xác định phản
biện chính sách công ngay tgiai đoạn hoạch định chính sách rất cần thiết
có ý nghĩa quan trọng. Phản biện chính sách công bên cạnh việc chỉ ra, phê phán,
phản đối những yếu tố bất hợp hay bất đồng, xung đột lợi ích cần làm rõ, ủng
hộ những yếu tố đúng đắn, phù hợp, đi đến sự thống nhất, đồng thuận để hoạch
định chính sách công. Phản biện chính sách công được thực hiện thông qua các
hình thức tham dự, lấy ý kiến, lắng nghe công chúng, tham vấn phi chính thức
phản biện có trọng tâm.
Tiểu kết chương 2
Từ nghiên cứu thực trạng chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định chính sách
công thực tiễn Việt Nam cho thấy: Một là, sở xuất phát, các kiến nghị
hoạch định chính sách dự thảo chính sách công vbản vẫn mang tính chủ
quan từ các quan quản Nhà nước quy trình hoạch định chính sách công
còn mang tính khép kín, nội bộ. Hai là, chính sách công còn những khoảng
trống, chưa theo kịp tình hình thực tiễn. Đời sống kinh tế - xã hội luôn vận động,
phát triển, nảy sinh nhiều vấn đề mới, nhiều vấn đề bức thiết đặt ra cần tác động,
giải quyết nhưng chính sách công chưa theo kịp hoặc chưa đề cập, can thiệp. Thứ
ba, thành lập các nhóm chuyên gia, các quan nghiên cứu, các nhóm nghiên cứu
lOMoARcPSD| 59452058
độc lập, đồng thời chế cạnh tranh trong ý tưởng chính sách, xây dựng, hoạch
định chính sách công.
lOMoARcPSD| 59452058
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CỦA
CÁC CHỦ THỂ THAM GIA VÀO QUÁ TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHÍNH
SÁCH CÔNG THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM.
3.1. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạch định chính sách công Việt
Nam
Thứ nhất, tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định chính
sách.
Hiện nay, việc tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách hoặc đóng góp vào
xây dựng các phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng chịu tác động
bởi chính sách còn nhiều hạn chế. Không nhiều chính sách công được ban hành
xuất phát từ ý tưởng của những đối tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng
các biện pháp thực hiện chính sách do những nhà quản xây dựng nên nhiều
chính sách không tính khả thi khó thực hiện. Do vậy, cần phải tăng cường
sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân coi đây một yêu cầu bắt buộc
trong quá trình hoạch định chính sách, tạo điều kiện để mọi người dân nắm được
thông tin và đóng góp vào các dự thảo chính sách liên quan trực tiếp đến mình.
Thứ hai, tăng cường đối thoại chính sách giữa Chính phủ các nhóm lợi ích, đặc
biệt là các doanh nghiệp.
Hiện nay, việc phối hợp giữa các tổ chức với quan nnước còn khá rời rạc.
Thông thường, khi có dự thảo chính sách, các cơ quan nhà nước mới gửi cho các
bên có liên quan (trong đó có các tổ chức có lợi ích liên quan). Vì thế, ý kiến của
các nhóm lợi ích thường ở thế bị động. Do đó, cần tạo ra kênh đối thoại, trao đổi
thường xuyên giữa các nhóm lợi ích và Nhà nước để các ý kiến, nguyện vọng của
các nhóm lợi ích được truyền tải một cách nhanh nhất đến các quan thẩm
quyền.
Thứ ba, hình thành nhóm nghiên cứu và thiết kế chính sách.
Cần xem xét hình thành nhóm nghiên cứu riêng chịu trách nhiệm trực tiếp trước
Thủ tướng Chính phủ, được tuyển chọn từ các chuyên viên, công chức trẻ, trình
lOMoARcPSD| 59452058
độ từ các bộ, ngành để tham gia, lồng ghép ý tưởng. Nhóm này trách nhiệm
xây dựng chính sách của Chính phủ, thường xuyên tương tác hai chiều với Thủ
tướng Chính phủ và các bộ, cơ quan thực thi chính sách.
Thứ tư, thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan xây dựng chính sách.
Việc hoạch định các chính sách hiện nay còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các
bộ, thường chỉ là bản liệt kê các chính sách mà thiếu kế hoạch hành động cụ thể.
Mỗi bộ, ngành nhiều kế hoạch nhưng lại không xác định được nh vực ưu tiên.
Do đó, để xây dựng chính sách một cách toàn diện nhất, cần xây dựng các quy
định phối hợp phân công trách nhiệm ràng giữa các bộ, ngành. Đồng thời,
xác định trách nhiệm giữa các cơ quan một cách cụ thể hơn.
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập quốc tế, mỗi chính sách khi ban hành đều
có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước và của
người dân. Do đó, hoàn thiện quá trình hoạch định nhằm nâng cao hiệu lực
hiệu quả của chính sách một yêu cầu quan trọng đòi hỏi mỗi cấp, mỗi ngành
phải nỗ lực để tạo ra những chính sách tốt cho xã hội.
3.2. Ứng dụng các yếu tố của kỹ thuật số trong cách mạng công nghiệp 4.0
vào hoạch định chính sách công Việt Nam hững nội dung nghiên cứu ở trên
cho thấy, các yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
là: Ttuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối và Dữ liệu lớn đều có thể hỗ trợ cho việc
thực hiện các hoạt động chính của xây dựng chính sách, chẳng hạn cung cấp, thu
thập, trao đổi thông tin, dữ liệu ; xử thông tin và phân tích thông tin để giải
quyết vấn đề . Việc áp dụng này sẽ mang lại nhiều lợi ích như làm tăng tốc độ và
hiệu quả xây dựng chính sách, tăng được tính công khai minh bạch của quá
trình xây dựng chính sách, nâng cao chất lượng của chính sách. Cụ thể:
Xây dựng chính sách đòi hỏi một khối lượng thông tin, dữ liệu lớn về
nhiềulĩnh vực khác nhau. Do đó, áp dụng thuật svào quá trình xây dựng chính
sách sẽ giúp cung cấp thông tin đầy đủ, đa dạng, chính xác tăng tốc độ xử
lOMoARcPSD| 59452058
thông tin, từ đó rút ngắn thời gian xây dựng chính sách tiết kiệm chi phí cho
việc thu thập và xử lý thông tin.
Trong xây dựng chính sách, nhà hoạch định chính sách công phải vận dụng
tri thức rất nhiều kthuật khác nhau dựa trên tri thức liên ngành của các bộ
môn khoa học, như: chính trị học, hành chính công, luật học, kinh tế học, xã hội
học vào phân tích vấn đề, thiết lập mục tiêu, xác định các giải pháp giải quyết vấn
đề đánh giá tác động của từng giải pháp. Để làm được những nhiệm vụ trên,
nhà hoạch định chính sách công phải áp dụng các kỹ thuật để thu thập xử
thông tin cần thiết phục vụ việc xác định đúng vấn đề chính sách cần giải quyết
và thiết kế được tất cả các phương án giải quyết vấn đề. Việc áp dụng kĩ thuật số
vào xây dựng chính sách sẽ tạo thuận lợi cho nhà hoạch định chính sách công thực
hiện tốt các nhiệm vụ trên.
Một nhiệm vụ rất quan trọng trong xây dựng chính sách đánh giá tác
độngcủa các phương án chính sách đề xuất lựa chọn phương án tối ưu. Đánh
giá tác động chính sách đòi hỏi phải dự đoán được tất cả các tác động về kinh tế
hội, môi trường, thủ tục hành chính, tác động về giới, tác động đến tính thống
nhất của hệ thống pháp luật các tác động khác của phương án giải quyết vấn
đề.
Khi thực hiện nhiệm vụ này, nhà hoạch định chính sách công không chỉ phải thu
thập một khối lượng dliệu, thông tin lớn, n phải vận dụng các phương
pháp đánh giá tác động định tính định lượng để xác định dự đoán các tác
động của từng phương án chính sách, thậm chí, phải tham vấn ý kiến của các bên
liên quan. Do đó, khi vận dụng thuật svào đánh giá tác động chính sách sẽ
giúp bảo đảm tính khách quan, công khai, minh bạch và tiết kiệm thời gian, nhân
lực trong xây dựng báo cáo giá tác động chính sách, nâng cao chất lượng của báo
cáo đánh giá tác động chính sách và lựa chọn phương án chính sách tối ưu.
Trong xây dựng chính sách cần lấy ý kiến của các quan, tổ chức
liênquan theo quy định, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách
lOMoARcPSD| 59452058
giải pháp thực hiện chính sách; tổng hợp, nghiên cứu, giải trình, tiếp thu các ý
kiến góp ý. Việc áp dụng thuật số vào việc lấy ý kiến góp ý tổng hợp, tiếp
thu giải trình các ý kiến góp ý sẽ giúp quá trình này được tiếp hành nhanh hơn,
phạm vi bao phủ rộng hơn, bảo đảm khách quan và dân chủ hơn.
lOMoARcPSD| 59452058
Tiểu kết chương 3
Từ thực tiễn về thực trạng của chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định chính
sách công thực tiễn Việt Nam tại chương 2, thì trong chương 3 đã xác định
những phương hướng, giải pháp về chủ ththam gia vào quá trình hoạch định
chính sách công với những nội dung cụ thể nsau: Thứ nhất, tăng cường sự tham
gia của người dân vào qtrình hoạch định chính sách. Thứ hai, tăng cường đối
thoại chính sách giữa Chính phủ các nhóm lợi ích, đặc biệt các doanh nghiệp.
Thứ ba, hình thành nhóm nghiên cứu thiết kế chính sách. Thứ tư, thiết lập
chế phối hợp giữa các cơ quan xây dựng chính sách.
lOMoARcPSD| 59452058
KẾT LUẬN
Chính sách công là chính sách của Nhà nước với vai trò là công cụ quan trọng để
quản lý điều tiết mọi vấn đề của xã hội. Để chính sách phát huy vai trò quan
trọng của , các quan, tổ chức thẩm quyền hoạch định thực thi chính
sách công cần xem xét đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Việc
hoạch định và thực thi chính sách suy cho đến cùng là để chính sách đi vào được
thực tiễn của đời sống hội nhưng đchính sách đi vào được đời sống xã hội thì
đời sống xã hội phải đi vào chính sách trước. Muốn vậy, cần phải đổi mới tư duy
làm chính sách; đổi mới quá trình hoạch định thực thi chính sách công theo
hướng hiện đại, ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình hoạch định và
thực thi chính sách; huy động stham gia của các bên liên quan và của người dân
vào quá trình hoạch định thực thi chính sách theo hướng công khai, minh bạch,
dân chủ, như vậy chính sách công mới đáp ứng được yêu cầu của hội đầy
biến động như hiện nay.Hoạch định và thực thi chính sách công là hai bước trong
chu trình chính sách công. Hai hoạt động này mối quan hệ biện chứng với nhau,
nếu hoạch định chính sách tốt nhưng quá trình thực thi chính ch không tốt rất
thể hiệu lực hiệu quả của chính sách không cao, thậm chí “thất bại”
ngược lại, thực thi chính sách tốt nhưng chất lượng hoạch định chính sách không
tốt, nó cũng có những ảnh hưởng nhất định, thậm chí không thực thi được. Chính
vì vậy, hoạch định và thực thi chính sách luôn phải song hành, đồng bộ và tương
xứng với nhau, tác động và tương hỗ với nhau một cách chặt chẽ, góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của chính sách công.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trịnh Thị Kiều Anh, Sự cần thiết hoàn thiện quy trình hoạch định chính
sách công của Việt Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Giáo trình Hoạch định Phân tích chính sách, Học viện Hành chính Quốc
gia, Nxb Khoa học kỹ thuật, H.2008.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59452058 LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, nhóm tác giả xin chân thành bày tỏ lời biết ơn sâu sắc nhất đến Giảng
viên học phần đã nhiệt tình chỉ dạy, hướng dẫn và đóng góp những ý kiến trong
quá trình học tập, thực hiện để đề tài.
Em cũng xin được gửi lời cảm ơn đến Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc
gia, cùng toàn thể các thầy, cô giáo đã và đang làm việc tại Học viện, đã tận tình
giúp đỡ và tạo điều kiện để em hoàn thành đề tài của mình.
Lời cuối cùng, em xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy giáo, cô giáo
và bạn bè đã luôn động viên và giúp đỡ để nhóm hoàn thành đề tài. lOMoAR cPSD| 59452058 LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan bài tập lớn đề tài “ chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định
chính sách công và thực tiễn ở Việt Nam” là bài tập lớn của riêng em và không
trùng với bất kì chủ đề nào. Các số liệu nghiên cứu, các kết quả nghiên cứu có
trong đề tài này là đúng với thực tiễn, hoàn toàn được chính em thu thập và tổng hợp điều tra. lOMoAR cPSD| 59452058 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lời lý do chọn đề tài
Chính sách công có vai trò cơ bản là công cụ hữu hiệu chủ yếu để Nhà nước thực
hiện, thể hiện, khẳng định, duy trì, phát triển chức năng, nhiệm vụ của mình trong
việc điều tiết, quản lý kinh tế - xã hội và phục vụ người dân. Chính sách công
được xác định là một chuỗi các quyết định của Nhà nước, ban hành, thực thi nhằm
giải quyết các vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục
đích, mục tiêu xác định. Chính sách công định hướng mục tiêu và tạo động lực
cho các chủ thể, đối tượng tham gia hoạt động kinh tế - xã hội, phát huy mặt tích
cực, hạn chế, khắc phục những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường, kiểm soát
và phân bổ các nguồn lực, tạo lập môi trường thích hợp, nhân tố phù hợp và các
yếu tố cân đối cho phát triển kinh tế - xã hội cũng như đòi hỏi, thúc đẩy sự phối
hợp hoạt động giữa các cấp, các ngành vì mục tiêu chung. Chính sách công có ý
nghĩa chính trị, xã hội, pháp lý, khoa học và thực tiễn quan trọng, to lớn đối với
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc
tế. Vì vậy, việc xây dựng, hoạch định chính sách công là khâu quyết định hàng
đầu trong toàn bộ chu trình chính sách công ở nước ta. Hoạch định chính sách
công là khâu khởi đầu của chu trình chính sách, được xây dựng thành quy trình,
bao gồm trình tự các công đoạn để hình thành, tạo nên từng chính sách công.
Hoạch định chính sách công khoa học, phù hợp, dựa trên cơ sở lý luận, thực tiễn,
phản ánh và đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của xã hội là tiền đề để chính sách đó
đi vào cuộc sống, phát huy giá trị và mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, sẽ gây
những tổn hại, thậm chí hậu quả tiêu cực trong quá trình quản lý, điều hành các
lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, không chỉ trước mắt mà còn lâu dài và ảnh
hưởng đến uy tín của Nhà nước đối với niềm tin xã hội. Trong quá trình thực hiện
vai trò, chức năng quản lý, điều hành xã hội, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng,
hoạch định và ban hành nhiều . Các chính sách công này cùng hệ thống chính
sách, giải pháp toàn diện, đồng bộ khác đã phát huy giá trị, hiệu quả góp phần vào
những thành tựu tăng trưởng, phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội của
đất nước sau hơn 30 năm Đổi Mới. Công tác hoạch định chính sách công đã không lOMoAR cPSD| 59452058
ngừng được hoàn thiện, nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Chính sách công
từng bước được hoạch định, thực thi trên các lĩnh vực trọng yếu, cấp bách, đáp
ứng yêu cầu đặt ra về phát triển và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, an sinh xã hội, tổ chức bộ máy Nhà nước, quốc phòng,
an ninh, ngoại giao... Một số chính sách công quan trọng đã được hoạch định và
ban hành dựa trên cơ sở luận chứng khoa học, lý luận và thực tiễn vững chắc, thiết
thực hơn. Nhờ đó, Việt Nam đã bước đầu tạo lập được một hệ thống chính sách
công đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của quản lý Nhà nước, phục vụ chiến lược
phát triển kinh tế xã hội, có khả năng ứng phó với những biến động của tình hình
trong nước, quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, kết quả đạt được, quy
trình hoạch định chính sách công ở nước ta vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, bất
cập. Vì vậy, em xin chọn đề tài “ Chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định
chính sách công và thực tiễn ở Việt Nam” là bài tập lớn kết thúc học phần.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lí luận về chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định
chính sách công, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng chủ thể tham gia vào quá trình
hoạch định chính sách công và thực tiễn ở Việt Nam. Đề xuất các giải pháp hoàn
thiện chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định chính sách công và từ thực tiễn ở
Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, hệ thống hoá cơ sở lí luận về chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định chính sách công
Thứ hai, phân tích thực trạng về chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định chính
sách công và thực tiễn ở Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả chủ thể tham gia vào
quá trình hoạch định chính sách công và từ thực tiễn ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu lOMoAR cPSD| 59452058
Bài tập lớn nghiên cứu về các chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định chính
sách công và thực tiễn ở Việt Nam, cụ thể là về các quy định của pháp luật hiện
hành, các điều kiện, quy trình tham gia theo quy định của pháp luật hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- phạm vi nội dung: bài tập lớn đề cập về các chủ thể tham gia vào quá trình hoạch
định chính sách công và thực tiễn ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tập lớn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị học trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa
kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế trên các nguồn tài liệu và thông tin, các
cuộc hội thảo khoa học, sách, báo, tạp chí có liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
Đồng thời, sử dụng phương pháp đối chiếu và so sánh, phương pháp phân tích và
tổng hợp để giải quyết nội dung nghiên cứu, để thực hiện đề tài này em đã tiến
hành thu thập các tài liệu có liên quan, việc thu thập tài liệu là cả một quá trình
tìm hiểu và thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như: Sưu tầm, tìm kiếm các nguồn
tài liệu có sẵn ở sách báo, tổng hợp đánh giá,được sử dụng trong việc thống kê
những số liệu cụ thể về thực trạng các chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định
chính sách công, việc thống kê và phân tích đòi hỏi phải có sự chính xác cao để
làm rõ vấn đề nghiên cứu. Sau khi thu thập tài liệu tôi tiến hành thống kê phân
tích xử lý số liệu, lựa chọn số liệu theo những mục đích, yêu cầu cần làm rõ từ
dẫn chứng vào đề tài của mình.
5. Kết cấu của bài tập lớn
Kết cấu của bài tập lớn có ba phần: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận thì bài tập
lớn còn có phần nội dung được chia như sau:
Chương 1: Lí luận về chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định chính sách công
Chương 2: Thực trạng của chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định chính
sách công và thực tiễn ở việt nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của các chủ thể tham gia
vào quá trình hoạch định chính sách công và thực tiễn ở việt nam. lOMoAR cPSD| 59452058 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN VỀ CHỦ THỂ THAM GIA VÀO QUÁ TRÌNH
HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG
1.1. Các khái niệm cơ bản lOMoAR cPSD| 59452058
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, dưới góc độ lý luận đề tài đã tập trung làm rõ được các nội dung như sau:
Thứ nhất, qua nghiên cứu và tìm hiểu không chỉ ở những lý luận, khái niệm trong
nước nói riêng, mà còn mở rộng tìm tòi cả các thuật ngữ trên thế giới nói chung,
đề tài đã làm rõ được các khái niệm hoạch định chính sách công. Tiếp đó, làm rõ
được sự tham gia của các chủ thể trong quá trình hoạch định chính sách công. lOMoAR cPSD| 59452058
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA CHỦ THỂ THAM GIA VÀO QUÁ
TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng về quy định pháp luật về sự tham gia của các bên liên quan
trong hoạch định chính sách công
Ở Việt Nam, sự tham gia của các chủ thể là một trong những nội dung bắt buộc
trong quy trình xây dựng chính sách được quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật (VBQPPL) như luật, nghị quyết, nghị định. Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định về việc lấy ý
kiến đối với chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh (Điều 36), lấy ý
kiến đối với chính sách trong đề nghị xây dựng nghị định của Chính phủ (Điều
86), đối với chính sách trong đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh (Điều 113). Đồng thời, Luật cũng quy định về việc lấy ý kiến đối với dự
thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội
(Điều 57), lấy ý kiến đối với dự thảo nghị định của Chính phủ (Điều 91), đối với
dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (Điều 120). Ngoài ra, Nghị
định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định sự tham gia của
tổ chức, cá nhân trong quá trình lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật(Điều 11), sự tham gia của tổ chức, cá nhân trong quá trình soạn thảo văn bản
quy phạm pháp luật(Điều 32).
Theo các quy định nêu trên có thể nhận thấy:
Thứ nhất, các bên liên quan được quyền tham gia góp ý kiến trong quá trình hoạch
định chính sách công, gồm: (1) Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư
pháp; (2) Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên; (3) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (đối với đề nghị xây dựng
VBQPPL có liên quan tới quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp); Hội đồng dân
tộc (đối với dự thảo nghị định có quy định về thực hiện chính sách dân tộc); (4)
Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban Mặt trận lOMoAR cPSD| 59452058
Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh (đối với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh);
(5) Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, quản lý ngành, lĩnh vực
có liên quan, các cơ quan, tổ chức khác có liên quan; (6) Các đối tượng chịu sự
tác động trực tiếp của chính sách, bao gồm các cá nhân, doanh nghiệp, cơ quan
nhà nước, hội, hiệp hội, tổ chức đại diện cho cá nhân, doanh nghiệp có quyền và
lợi ích bị ảnh hưởng khi có chính sách mới.
Thứ hai, các tổ chức, cá nhân có thể được huy động tham gia vào quá trình lập đề
nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và quá trình soạn thảo văn bản quy
phạm pháp luật, gồm: các viện nghiên cứu, trường đại học, hội, hiệp hội, tổ chức
khác có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học.
Thứ ba, tài liệu cần lấy ý kiến là hồ sơ đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật, báo cáo tổng kết, báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật quy định chính sách.
Thứ tư, cơ quan hoạch định chính sách công cung cấp thông tin cho các bên liên
quan, tham vấn và thu hút các bên liên quan tham gia thông qua nhiều hình thức,
bao gồm: (1) Lấy ý kiến thông qua việc đăng tải trên trang thông tin điện tử của
cơ quan lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; cơ quan, đơn vị thực
hiện đánh giá tác động chính sách; cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản và ban hành
văn bản; (2) Lấy ý kiến bằng việc gửi các dự thảo văn bản đề nghị góp ý kiến đến
các cá nhân, tổ chức có liên quan; (3) Tổ chức hội nghị, tọa đàm để lấy ý kiến của
các cá nhân, tổ chức có liên quan; (4) Tổ chức đối thoại trực tiếp về chính sách
với các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo nghị quyết; (5) Lấy ý kiến
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.
Như vậy, sự tham gia của các bên liên quan là một nội dung quan trọng của quá
trình hoạch định chính sách công, bảo đảm quá trình hoạch h được tiến hành một
cách dân chủ, công khai, minh bạch và góp phần nâng cao chất lượng của hoạch lOMoAR cPSD| 59452058
định chính sách công và sự thành công của thực thi hoạch định chính sách công.
Việc thu hút sự tham gia của các bên liên quan trong quy trình hoạch định chính
sách công ở Việt Nam được thực hiện thông qua việc chủ thể (cơ quan, tổ chức,
cá nhân) lập đề xuất chính sách tổ chức các hoạt động lấy ý kiến để các cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan có cơ hội tiếp cận và bày tỏ ý kiến, quan điểm của
mình về các chính sách đề xuất; giúp chủ thể đề xuất chính sách thu thập được
thêm thông tin và ý kiến đa chiều từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;
nâng cao trách nhiệm giải trình của các chủ thể đề xuất chính sách và ý thức trách
nhiệm, năng lực tham gia, năng lực phản biện chính sách của cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp; từ đó góp phần xây dựng được các chính sách phù hợp với thực
tiễn, tạo thuận lợi cho việc thi hành các chính sách trong các văn bản quy phạm
pháp luật sau khi được thông qua.
Các bên liên quan khác nhau có những mối quan tâm khác nhau, nên để việc thu
hút sự tham gia của các bên liên quan vào hoạch định chính sách công thực sự có
chất lượng và hiệu quả, cơ quan hoạch định chính sách công cần tiến hành phân
tích các bên liên quan để lựa chọn cấp độ tham gia thích hợp (cung cấp thông tin,
tham vấn và tham gia tích cực), đồng thời quán triệt và thực hành tốt 10 nguyên
tắc: cam kết, quyền, minh bạch, thời gian, khách quan, nguồn lực, phối hợp, trách
nhiệm giải trình, đánh giá, công dân tích cực.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA VÀO QUÁ TRÌNH
HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
Một là, cơ sở xuất phát, các kiến nghị hoạch định chính sách và dự thảo chính
sách công về cơ bản vẫn mang tính chủ quan từ các cơ quan quản lý Nhà nước và
quy trình hoạch định chính sách công còn mang tính khép kín, nội bộ. Việc dự
thảo chính sách công thường do các cơ quan quản lý Nhà nước cấp bộ hoặc tương
đương, các cơ quan đặc biệt của Chính phủ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương thực hiện. Có không ít chính sách công chủ yếu được hoạch
định dựa trên nhận định, suy luận, phân tích của cơ quan Nhà nước, trực tiếp là ý
chí, mong muốn của từng cơ quan quản lý Nhà nước, trong khi đó lại hạn chế lOMoAR cPSD| 59452058
hoặc rất ít chính sách công được hoạch định căn cứ chính dựa vào sự tham gia đề
xuất ý tưởng, nhu cầu, thực tế của đối tượng mà chính sách công đó chi phối, ảnh
hưởng. Đây là một trong những lý do cơ bản khiến cho một số chính sách công
khi ban hành, thực hiện, tính khả thi thấp, có thể nảy sinh tình trạng cục bộ, có lợi
hoặc chú trọng đến lợi ích của cơ quan quản lý Nhà nước, lĩnh vực, địa bàn mình
quản lý hơn là đến lợi ích tổng thể chung, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan, bộ,
ngành, địa phương, tạo nên tình trạng “khoảng đậm hoặc khoảng trống” trong
quản lý chính sách dẫn đến hiệu quả không như mong muốn. Việc lấy ý kiến của
các đối tượng chịu sự tác động, điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít, nặng
về hình thức, chưa thực sự rộng rãi, chưa đảm bảo điều kiện đại diện toàn diện.
Kênh thông tin đối thoại giữa Chính phủ, các cơ quan quản lý Nhà nước với các
tổ chức, cá nhân và xã hội còn thiếu và khai thác hiệu quả, chưa thể hiện tính chủ
động, linh hoạt, thiếu quy định chặt chẽ, cụ thể nhằm khích lệ, huy động, do đó
chưa phát huy tối đa trí tuệ các tầng lớp xã hội, đặc biệt là các chuyên gia, các nhà
khoa học, nhà hoạt động thực tiễn tham gia vào quy trình hoạch định chính sách công.
Hai là, chính sách công còn có những khoảng trống, chưa theo kịp tình hình thực
tiễn. Đời sống kinh tế - xã hội luôn vận động, phát triển, nảy sinh nhiều vấn đề
mới, nhiều vấn đề bức thiết đặt ra cần tác động, giải quyết nhưng chính sách công
chưa theo kịp hoặc chưa đề cập, can thiệp. Có những chính sách công đã được
ban hành, nhưng vì những lý do như việc hoạch định mang nặng tính chủ quan
của cơ quan quản lý Nhà nước, hạn chế trong nghiên cứu, cập nhật thực tế, tiếp
thu ý kiến, đánh giá tác động của chính sách công trước khi hoạch định, ban hành...
nên ít hoặc không có hiệu lực, cần phải điểu chỉnh, bổ sung, thay đổi.
Ba là, hạn chế trong tổ chức bộ máy và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức hoạch định chính sách công. Có thể khẳng định rằng, năng lực thực tế
hoạch định chính sách công của một bộ phận cán bộ công chức trong tổ chức bộ
máy Nhà nước ở nước ta còn hạn chế, chưa mang tính chuyên nghiệp. Sự bất cập,
hiệu quả thấp, thậm chí cả những hậu quả tiêu cực của một số chính sách công lOMoAR cPSD| 59452058
trong thời gian qua là minh chứng rõ nét cho điều đó. Tình trạng thiếu luận chứng
khoa học, bỏ sót vấn đề, tầm nhìn hạn hẹp, phiến diện... dẫn đến khi ban hành,
thực thi chính sách công bị lạc hậu, nảy sinh bất cập, không theo kịp, phản ánh
đúng thực tiễn, nhu cầu, vấp phải sự phản đối của dư luận xã hội nên phải điều chỉnh, sửa đổi.
Bốn là, ít thực hiện hoặc chưa thực sự chú trọng đến hoạt động phản biện chính
sách công. Phản biện chính sách công ngay từ khâu hoạch định chính sách ở những
bước đầu tiên là rất quan trọng. Thực tế trong thời gian qua, nhiều chính sách công
không tổ chức tiến hành công tác phản biện ở tất cả các khâu. Đây cũng là một lý
do làm cho chính sách côngbị hạn chế, ít đi vào cuộc sống, hiệu quả thấp. Trong
bối cảnh xây dựng, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giai
đoạn mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, đã và đang đặt ra
những đòi hỏi về đổi mới, nâng cao hiệu quả của hoạch định chính sách công. Để
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hoạch định chính sách công ở nước ta hiện
nay, cần chú trọng vào các giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, cần phải thiết lập một quy trình xây dựng, hoạch định chính sách công
với sự tham gia thực chất, mở rộng và phối hợp tham dự một cách có hiệu quả của
tất cả các bên, bao gồm cơ quan Nhà nước hoạch định chính sách, Chính phủ, đối
tượng chịu tác động của chính sách, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần
chúng, người dân, các nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lý và hoạt động thực tiễn.
Thứ hai, tăng cường và nâng cao hiệu quả các kênh thông tin để cơ quan hoạch
định chính sách công lắng nghe, tiếp thu ý kiến rộng rãi, đa chiều trong quy trình
hoạch định chính sách. Xuất phát từ thực tế, lấy ý kiến sâu rộng và chọn lọc thông
tin là cơ sở, nền tảng để xây dựng, hoạch định chính sách công sát với nhu cầu và
thực tiễn sinh động của đời sống kinh tế - xã hội.
Thứ ba, thành lập các nhóm chuyên gia, các cơ quan nghiên cứu, các nhóm nghiên
cứu độc lập, đồng thời có cơ chế cạnh tranh trong ý tưởng chính sách, xây dựng, lOMoAR cPSD| 59452058
hoạch định chính sách công. Đội ngũ nòng cốt, chuyên gia làm công tác hoạch
định chính sách công phải có đủ trình độ, năng lực, có phẩm chất trí tuệ, đạo đức,
có tầm nhìn bao quát và biết cầu thị, lắng nghe trong quá trình lấy ý kiến, phản
biện chính sách. Thực hiện giải pháp này sẽ phá vỡ tính đặc quyền, từ đó đảm bảo
tính khách quan, công bằng, khoa học và dân chủ thực sự trong hoạch định chính sách công.
Thứ tư, đổi mới quy trình hoạch định chính sách công, từ chỗ là nhiệm vụ chính,
thể hiện chức năng mang tính chất đóng và khép kín của cơ quan Nhà nước sang
tính chất mở, trở thành mối quan tâm chung và trách nhiệm chung của toàn xã hội.
Thứ năm, chú trọng thực hiện công tác phản biện chính sách công. Xác định phản
biện chính sách công ngay từ giai đoạn hoạch định chính sách là rất cần thiết và
có ý nghĩa quan trọng. Phản biện chính sách công bên cạnh việc chỉ ra, phê phán,
phản đối những yếu tố bất hợp lý hay bất đồng, xung đột lợi ích cần làm rõ, ủng
hộ những yếu tố đúng đắn, phù hợp, đi đến sự thống nhất, đồng thuận để hoạch
định chính sách công. Phản biện chính sách công được thực hiện thông qua các
hình thức tham dự, lấy ý kiến, lắng nghe công chúng, tham vấn phi chính thức và
phản biện có trọng tâm.
Tiểu kết chương 2
Từ nghiên cứu thực trạng chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định chính sách
công và thực tiễn ở Việt Nam cho thấy: Một là, cơ sở xuất phát, các kiến nghị
hoạch định chính sách và dự thảo chính sách công về cơ bản vẫn mang tính chủ
quan từ các cơ quan quản lý Nhà nước và quy trình hoạch định chính sách công
còn mang tính khép kín, nội bộ. Hai là, chính sách công còn có những khoảng
trống, chưa theo kịp tình hình thực tiễn. Đời sống kinh tế - xã hội luôn vận động,
phát triển, nảy sinh nhiều vấn đề mới, nhiều vấn đề bức thiết đặt ra cần tác động,
giải quyết nhưng chính sách công chưa theo kịp hoặc chưa đề cập, can thiệp. Thứ
ba, thành lập các nhóm chuyên gia, các cơ quan nghiên cứu, các nhóm nghiên cứu lOMoAR cPSD| 59452058
độc lập, đồng thời có cơ chế cạnh tranh trong ý tưởng chính sách, xây dựng, hoạch định chính sách công. lOMoAR cPSD| 59452058
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CỦA
CÁC CHỦ THỂ THAM GIA VÀO QUÁ TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHÍNH
SÁCH CÔNG VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM.
3.1. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạch định chính sách công ở Việt Nam
Thứ nhất, tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định chính sách.
Hiện nay, việc tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách hoặc đóng góp vào
xây dựng các phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng chịu tác động
bởi chính sách còn nhiều hạn chế. Không nhiều chính sách công được ban hành
xuất phát từ ý tưởng của những đối tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và
các biện pháp thực hiện chính sách do những nhà quản lý xây dựng nên nhiều
chính sách không có tính khả thi và khó thực hiện. Do vậy, cần phải tăng cường
sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân và coi đây là một yêu cầu bắt buộc
trong quá trình hoạch định chính sách, tạo điều kiện để mọi người dân nắm được
thông tin và đóng góp vào các dự thảo chính sách liên quan trực tiếp đến mình.
Thứ hai, tăng cường đối thoại chính sách giữa Chính phủ và các nhóm lợi ích, đặc
biệt là các doanh nghiệp.
Hiện nay, việc phối hợp giữa các tổ chức với cơ quan nhà nước còn khá rời rạc.
Thông thường, khi có dự thảo chính sách, các cơ quan nhà nước mới gửi cho các
bên có liên quan (trong đó có các tổ chức có lợi ích liên quan). Vì thế, ý kiến của
các nhóm lợi ích thường ở thế bị động. Do đó, cần tạo ra kênh đối thoại, trao đổi
thường xuyên giữa các nhóm lợi ích và Nhà nước để các ý kiến, nguyện vọng của
các nhóm lợi ích được truyền tải một cách nhanh nhất đến các cơ quan có thẩm quyền.
Thứ ba, hình thành nhóm nghiên cứu và thiết kế chính sách.
Cần xem xét hình thành nhóm nghiên cứu riêng chịu trách nhiệm trực tiếp trước
Thủ tướng Chính phủ, được tuyển chọn từ các chuyên viên, công chức trẻ, có trình lOMoAR cPSD| 59452058
độ từ các bộ, ngành để tham gia, lồng ghép ý tưởng. Nhóm này có trách nhiệm
xây dựng chính sách của Chính phủ, thường xuyên có tương tác hai chiều với Thủ
tướng Chính phủ và các bộ, cơ quan thực thi chính sách.
Thứ tư, thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan xây dựng chính sách.
Việc hoạch định các chính sách hiện nay còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các
bộ, thường chỉ là bản liệt kê các chính sách mà thiếu kế hoạch hành động cụ thể.
Mỗi bộ, ngành có nhiều kế hoạch nhưng lại không xác định được lĩnh vực ưu tiên.
Do đó, để xây dựng chính sách một cách toàn diện nhất, cần xây dựng các quy
định phối hợp và phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ, ngành. Đồng thời,
xác định trách nhiệm giữa các cơ quan một cách cụ thể hơn.
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập quốc tế, mỗi chính sách khi ban hành đều
có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước và của
người dân. Do đó, hoàn thiện quá trình hoạch định nhằm nâng cao hiệu lực và
hiệu quả của chính sách là một yêu cầu quan trọng đòi hỏi mỗi cấp, mỗi ngành
phải nỗ lực để tạo ra những chính sách tốt cho xã hội.
3.2. Ứng dụng các yếu tố của kỹ thuật số trong cách mạng công nghiệp 4.0
vào hoạch định chính sách công ở Việt Nam hững nội dung nghiên cứu ở trên
cho thấy, các yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối và Dữ liệu lớn đều có thể hỗ trợ cho việc
thực hiện các hoạt động chính của xây dựng chính sách, chẳng hạn cung cấp, thu
thập, trao đổi thông tin, dữ liệu ; xử lý thông tin và phân tích thông tin để giải
quyết vấn đề . Việc áp dụng này sẽ mang lại nhiều lợi ích như làm tăng tốc độ và
hiệu quả xây dựng chính sách, tăng được tính công khai và minh bạch của quá
trình xây dựng chính sách, nâng cao chất lượng của chính sách. Cụ thể: –
Xây dựng chính sách đòi hỏi một khối lượng thông tin, dữ liệu lớn về
nhiềulĩnh vực khác nhau. Do đó, áp dụng kĩ thuật số vào quá trình xây dựng chính
sách sẽ giúp cung cấp thông tin đầy đủ, đa dạng, chính xác và tăng tốc độ xử lý lOMoAR cPSD| 59452058
thông tin, từ đó rút ngắn thời gian xây dựng chính sách và tiết kiệm chi phí cho
việc thu thập và xử lý thông tin. –
Trong xây dựng chính sách, nhà hoạch định chính sách công phải vận dụng
tri thức và rất nhiều kỹ thuật khác nhau dựa trên tri thức liên ngành của các bộ
môn khoa học, như: chính trị học, hành chính công, luật học, kinh tế học, xã hội
học vào phân tích vấn đề, thiết lập mục tiêu, xác định các giải pháp giải quyết vấn
đề và đánh giá tác động của từng giải pháp. Để làm được những nhiệm vụ trên,
nhà hoạch định chính sách công phải áp dụng các kỹ thuật để thu thập và xử lý
thông tin cần thiết phục vụ việc xác định đúng vấn đề chính sách cần giải quyết
và thiết kế được tất cả các phương án giải quyết vấn đề. Việc áp dụng kĩ thuật số
vào xây dựng chính sách sẽ tạo thuận lợi cho nhà hoạch định chính sách công thực
hiện tốt các nhiệm vụ trên. –
Một nhiệm vụ rất quan trọng trong xây dựng chính sách là đánh giá tác
độngcủa các phương án chính sách và đề xuất lựa chọn phương án tối ưu. Đánh
giá tác động chính sách đòi hỏi phải dự đoán được tất cả các tác động về kinh tế
– xã hội, môi trường, thủ tục hành chính, tác động về giới, tác động đến tính thống
nhất của hệ thống pháp luật và các tác động khác của phương án giải quyết vấn đề.
Khi thực hiện nhiệm vụ này, nhà hoạch định chính sách công không chỉ phải thu
thập một khối lượng dữ liệu, thông tin lớn, mà còn phải vận dụng các phương
pháp đánh giá tác động định tính và định lượng để xác định và dự đoán các tác
động của từng phương án chính sách, thậm chí, phải tham vấn ý kiến của các bên
liên quan. Do đó, khi vận dụng kĩ thuật số vào đánh giá tác động chính sách sẽ
giúp bảo đảm tính khách quan, công khai, minh bạch và tiết kiệm thời gian, nhân
lực trong xây dựng báo cáo giá tác động chính sách, nâng cao chất lượng của báo
cáo đánh giá tác động chính sách và lựa chọn phương án chính sách tối ưu. –
Trong xây dựng chính sách cần lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức có
liênquan theo quy định, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và lOMoAR cPSD| 59452058
giải pháp thực hiện chính sách; tổng hợp, nghiên cứu, giải trình, tiếp thu các ý
kiến góp ý. Việc áp dụng kĩ thuật số vào việc lấy ý kiến góp ý và tổng hợp, tiếp
thu và giải trình các ý kiến góp ý sẽ giúp quá trình này được tiếp hành nhanh hơn,
phạm vi bao phủ rộng hơn, bảo đảm khách quan và dân chủ hơn. lOMoAR cPSD| 59452058
Tiểu kết chương 3
Từ thực tiễn về thực trạng của chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định chính
sách công và thực tiễn ở Việt Nam tại chương 2, thì trong chương 3 đã xác định
những phương hướng, giải pháp về chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định
chính sách công với những nội dung cụ thể như sau: Thứ nhất, tăng cường sự tham
gia của người dân vào quá trình hoạch định chính sách. Thứ hai, tăng cường đối
thoại chính sách giữa Chính phủ và các nhóm lợi ích, đặc biệt là các doanh nghiệp.
Thứ ba, hình thành nhóm nghiên cứu và thiết kế chính sách. Thứ tư, thiết lập cơ
chế phối hợp giữa các cơ quan xây dựng chính sách. lOMoAR cPSD| 59452058 KẾT LUẬN
Chính sách công là chính sách của Nhà nước với vai trò là công cụ quan trọng để
quản lý và điều tiết mọi vấn đề của xã hội. Để chính sách phát huy vai trò quan
trọng của nó, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoạch định và thực thi chính
sách công cần xem xét và đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Việc
hoạch định và thực thi chính sách suy cho đến cùng là để chính sách đi vào được
thực tiễn của đời sống xã hội nhưng để chính sách đi vào được đời sống xã hội thì
đời sống xã hội phải đi vào chính sách trước. Muốn vậy, cần phải đổi mới tư duy
làm chính sách; đổi mới quá trình hoạch định và thực thi chính sách công theo
hướng hiện đại, ứng dụng khoa học và công nghệ vào quá trình hoạch định và
thực thi chính sách; huy động sự tham gia của các bên liên quan và của người dân
vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách theo hướng công khai, minh bạch,
dân chủ, có như vậy chính sách công mới đáp ứng được yêu cầu của xã hội đầy
biến động như hiện nay.Hoạch định và thực thi chính sách công là hai bước trong
chu trình chính sách công. Hai hoạt động này có mối quan hệ biện chứng với nhau,
nếu hoạch định chính sách tốt nhưng quá trình thực thi chính sách không tốt rất
có thể hiệu lực và hiệu quả của chính sách không cao, thậm chí là “thất bại” và
ngược lại, thực thi chính sách tốt nhưng chất lượng hoạch định chính sách không
tốt, nó cũng có những ảnh hưởng nhất định, thậm chí không thực thi được. Chính
vì vậy, hoạch định và thực thi chính sách luôn phải song hành, đồng bộ và tương
xứng với nhau, tác động và tương hỗ với nhau một cách chặt chẽ, góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của chính sách công.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Trịnh Thị Kiều Anh, Sự cần thiết hoàn thiện quy trình hoạch định chính
sách công của Việt Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. 2.
Giáo trình Hoạch định và Phân tích chính sách, Học viện Hành chính Quốc
gia, Nxb Khoa học kỹ thuật, H.2008.