Bài tập lớn môn đại cương về khoa học tổ chức | Trường Đại Học Thủ Đô Hà Nội

Bài tập lớn môn đại cương về khoa học tổ chức của Trường Đại Học Thủ Đô Hà Nội. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 21 trang giúp bạn tham khảo, ôn tập và hoàn thành tốt bài tập của mình đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC HỘI NHÂN N
BÀI TẬP LỚN
(Thay thế bài thi kết thúc học phần)
MÔN: ĐẠI CƯƠNG VỀ KHOA HỌC TỔ CHỨC
ĐỀ I:
Trình bày các thành tố của tổ chức. Liên hệ phân tích mối quan
hệ giữa các thành tố của tổ chức nhà trường.
Họ tên: TRẦN HOÀI THU
Lớp: QLGD D2021B
SV: 221000643
Học kì: 1; Năm học: 2021 - 2022
Người dạy: TS. Thị Quỳnh
Nội, tháng 12/2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC HỘI NHÂN N
BÀI TẬP LỚN
(Thay thế bài thi kết thúc học phần)
MÔN: ĐẠI CƯƠNG VỀ KHOA HỌC TỔ CHỨC
ĐỀ I:
Trình bày các thành tố của tổ chức. Liên hệ phân tích mối quan
hệ giữa các thành tố của tổ chức nhà trường.
Họ tên: TRẦN HOÀI THU
Lớp: QLGD D2021B
SV: 221000643
Học kì: 1; Năm học: 2021 - 2022
Người dạy: TS. Thị Quỳnh
Nội, tháng 12/2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................1
1.1. Tổ chức các thành tố của tổ chức.....................................................3
1.1.1. Tổ chức.......................................................................................3
1.1.2. Các thành tố của tổ chức............................................................3
1.1.2.1. Mục tiêu...................................................................................3
1.1.2.2. Con người, nguồn lực và cơ cấu..............................................5
1.1.2.3. Quyền lực................................................................................6
1.1.2.4. Văn hoá tổ chức.......................................................................7
1.2. Tổ chức nhà trường các thành tố của tổ chức nhà trường.............8
1.2.1. Tổ chức nhà trường....................................................................8
1.2.2. Các thành tố của tổ chức nhà trường..........................................8
1.2.2.1. Mục tiêu...................................................................................8
1.2.2.2. Con người, nguồn lực và cơ cấu..............................................8
1.2.2.3. Quyền lực................................................................................9
1.2.2.4. Văn hoá tổ chức.......................................................................9
2.1. Mối quan hệ giữa các thành tố của tổ chức nhà trường....................10
LIÊN HỆ THỰC TIỄN BẢN THÂN.................................................12
KẾT LUẬN..................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................15
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ đầu, những lí luận về Tổ chức vẫn chỉ được gộp chung
với Khoa học Quản lí khiến nhiều người có những nhìn nhận sai lầm. Rằng
tổ chức chỉ là những nhóm người với một người đứng đầu quản lí tất cả
hoạt động của nhóm đó. Chạy theo dòng phát triển của xã hội con người,
những lí luận về Tổ chức đã được tách riêng thành một môn Khoa học Tổ
chức độc lập. Môn Khoa học này tập trung sử dụng con người làm trung
tâm tất yếu trong quá trình hình thành và phát triển xã hội loài người.
Ngày nay Khoa học Tổ chức đã được nhìn nhận với những tiếp cận
đa dạng, tổng hợp, hiện đại hơn trước nhiều. Tiếp cận tổ chức như một cơ
thể sống, một hệ thống mở, một nền văn hoá, một hệ thống chính trị, một sự
tiến hoá với sự tích hợp trong nó các khoa học như: Khoa học Quản lí, Lí
thuyết hệ thống, Điều khiển học, Khoa học Chính trị, Tâm lý học, Triết học,
Xã hội học, Nhân chủng học, Lí thuyết thông tin,... đã khiến người ta nhìn
nhận tổ chức một cách đầy đủ hơn, rộng rãi hơn, súc tích hơn, hấp dẫn hơn
nhiều. Khoa học Tổ chức luôn dựa trên Khoa học Quản lí để có thể phát
triển lí luận riêng biệt của mình.
Thực tế, trên các trang thông tin đại chúng, sách, báo thường có rất ít
bài viết về công tác quản lý, tổ chức trong phạm vi trường học. Trường học
chính là một tổ chức riêng biệt, làm việc trong lĩnh vực giáo dục. Hiệu
trưởng là người quản lý và dẫn dắt Nhà trường cũng như các giáo viên trong
trường. Họ cùng nhau phát triển trường học thành một ngôi nhà thứ hai cho
học sinh. Họ phấn đấu vì mục tiêu “trường học hiệu quả”, “trường học hạnh
phúc”.
Dù là mô hình tổ chức nào, chúng đều có những thành tố riêng biệt
tác động lên cơ cấu, cách vận hành và quản lý của từng tổ chức. Vì thế mà
bài tiểu luận này sẽ tập trung làm rõ vấn đề: các thành tố của tổ chức. Để rồi
dựa vào đó Liên hệ và phân tích mối quan hệ giữa các thành tố của tổ chức
nhà trường. Để hoàn thành bài tập lớn này, ngoài việc áp dụng những kiến
thức đã được học trên lớp, tôi còn dùng những phương pháp khác.
1
Những kiến thức làm bài của tôi còn hạn chế khi tiếp xúc với các tư
liệu và không tránh khỏi những sai sót. Tôi mong nhận được những ý kiến
đóng góp của quý thầy cô khoa Khoa học xã hội và nhân văn cũng như
giảng viên bộ môn TS. Vũ Thị Quỳnh. Từ đó bài tập lớn lần này của tôi có
thể hoàn thiện và rút được những kinh nghiệm cho bản thân trong những lần
làm bài tới.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
1.1. Tổ chức các thành tố của tổ chức
1.1.1. Tổ chức
Tổ chức là tập hợp sự hiện diện các hoạt động có chức năng nhiệm vụ
và hoạt động cụ thể nhằm thực hiện những mục tiêu chung. Ví dụ: Tổ chức
Hội thi giáo viên giỏi, Tổ chức Chương trình kỷ niệm…
Tổ chức là một hệ mở kết hợp các thực thể xã hội hoạt động theo
những phân công lao động rõ ràng để đạt được những mục tiêu nhất định. Ví
dụ: Nhà trường, Nhà máy…
Tổ chức là thuộc tính của bản thân sự vật và hiện tượng trong tự
nhiên và xã hội. Tổ chức được hiểu theo hai cấp độ: tổ chức vĩ mô và tổ
chức vi mô. Tổ chức vĩ mô chỉ hệ thống lớn chi phối nhiều lĩnh vực xã hội
như hệ thống kinh tế - xã hội, hệ thống chính trị,... Tổ chức vi mô chỉ những
tổ chức cơ sở như cơ sở sản xuất, kinh doanh, cơ sở giáo dục,...
1.1.2. Các thành tố của tổ chức
Thành tố của tổ chức là những thành phần, những bộ phận trực tiếp
cấu thành của một tổ chức. Các vấn đề liên quan đến cơ cấu nhằm phối hợp
và kiểm soát mọi nguồn lực để đạt mục tiêu của tổ chức rất được coi trọng.
Mỗi khi tổ chức vận hành không hiệu quả thì lập tức cơ cấu tổ chức nên cần
được thay đổi.
Khi thiết kế tổ chức phải tính toán đầy đủ tính chất của nó để có thể
đạt được mục tiêu đã đặt ra và xây dựng cấu trúc tổ chức sao cho phù hợp.
Bốn thành tố là các điều kiện cần không thể thiếu để hình thành tổ chức đó
là: Có mục tiêu xác định. Có con người, có các nguồn lực thực hiện các
khâu vận hành tổ chức, có cơ cấu tổ chức và rất quan trọng là có người
đứng đầu tổ chức. Có quyền lực của tổ chức. Có văn hoá tổ chức.
1.1.2.1. Mục tiêu
Mục tiêu là điều kiện cơ bản để thực hiện các hành động, là cái cần
đạt được của tổ chức. Tổ chức có nhiều loại mục tiêu tùy vào cách phân loại
khác nhau để chịu sự chế ước của mục tiêu tổng quát như mục tiêu lâu dài,
mục tiêu trước mắt, mục tiêu dài hạn, mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu vi mô,
mục tiêu vĩ mô, mục tiêu toàn thể, mục tiêu bộ phận, mục tiêu chiến lược,
mục tiêu tác nghiệp,...
Mục tiêu là thành tố có tính quyết định sự tồn tại của tổ chức. Tất cả
những đặc điểm của công tác tổ chức được quyết định bởi tính chất của mục
tiêu. Một tổ chức không có mục tiêu thì không thành tổ chức. Sự khác nhau
giữa tổ chức này với tổ chức khác trước hết ở sự khác nhau về mục tiêu.
Nếu để tìm kiếm lợi nhuận thì đó là doanh nghiệp, còn để giáo dục thì đó là
nhà trường.
Mục tiêu của tổ chức phải hết sức rõ ràng. Mục tiêu không rõ ràng,
không ổn định sẽ dẫn đến nguy cơ hỗn loạn trong tổ chức. Ví dụ: Mục tiêu
của trường học là tổ chức giáo dục, không phải tổ chức kinh tế. Nếu coi mục
tiêu kinh tế là quan trọng nhất thì các thành viên sẽ bị chi phối hành vi, sớm
muộn nhà trường sẽ bị xã hội đào thải. Khi thành lập tổ chức, người có trách
nhiệm phải trả lời câu hỏi: Tổ chức lập ra để làm gì? Việc trả lời câu hỏi này
càng tường minh, việc xác định lí tưởng của tổ chức, cơ sở tuyển chọn nhân
lực càng cụ thể bấy nhiêu.
Vai trò của việc xác định mục tiêu tổ chức có vai trò hết sức quan
trọng. Chúng là cơ sở để tạo nên sự thống nhất về quan điểm, về giá trị, về
niềm tin, về lợi ích,... của tất cả các thành viên trong tổ chức. Là cơ sở để
hoạch định kế hoạch hành động (nhiệm vụ) cho các thành viên trong tổ
chức, các bộ phận của tổ chức và toàn tổ chức. Là cơ sở để xác định chức
năng, cơ chế phối hợp hành động giữa các bộ phận, cá nhân trong tổ chức.
Là cơ sở để xây dựng bầu không khí lành mạnh, giải quyết những vấn đề
cạnh tranh, xung đột về lợi ích, tạo sự đồng thuận trong toàn tổ chức. Là cơ
sở để kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh hành vi của các bộ phận, các cá nhân và
toàn tổ chức. Và đó cũng là cơ sở để xã hội xem xét, đánh giá hiệu quả của
tổ chức.
Về hình thức trình bày mục tiêu, có thể trình bày “cây mục tiêu” như
sau: thân cây là mục tiêu của toàn tổ chức, các nhánh, cành là mục tiêu của
các bộ phận. Cũng có thể biểu đạt mục tiêu thành các khẩu hiệu theo từng
giai đoạn cụ thể. Chẳng hạn, trong những năm đầu của nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, mục tiêu của cả nước là “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt
giặc ngoại xâm”; nhưng trong những năm chống Mỹ cứu nước thì “Tất cả
cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước”
lại là mục tiêu hàng đầu.
Ví dụ, mục tiêu của một doanh nghiệp là “Tất cả vì năng suất, chất
lượng sản phẩm”, nhưng điều này phải được thể hiện ở “100% công nghệ
sản xuất cũ được thay bằng Công nghệ mới”, ở “100% nhân viên phải được
huấn luyện để nắm bắt được Công nghệ sản xuất mới”, ở “Thay đổi phương
thức quản lý theo mạng đối với 100% các bộ phận”,...
Mục tiêu của tổ chức cần phải được tất cả các thành viên thấu hiểu.
Nếu lãnh đạo chỉ ra lệnh với lề lối quản lý lạc hậu, thừa hành sẽ chỉ phục
tùng mù quáng mà không biết làm để làm gì. Tổ chức không được mang
mục tiêu tự thân, tách biệt. Một trường học không chỉ vì sự phát triển của
học sinh và giáo viên, mà còn vì sự phát triển của xã hội,...
1.1.2.2. Con người, nguồn lực và cơ cấu
Mỗi con người, mỗi nguồn lực, mỗi thành phần cơ cấu đều có vai trò,
chức năng xã hội cụ thể. Vị trí giá trị xã hội tuỳ thuộc vào những phẩm chất
cá nhân, trình độ nghề nghiệp và thái độ trách nhiệm đối với tổ chức, cộng
đồng xã hội. Ở đây có hai mặt gắn bó với nhau: Một mặt tổ chức quy định
vai trò của con người. Mặt khác, tổ chức chú ý đến những năng lực và
khuynh hướng, những phẩm chất cá nhân của họ.
Dù công nghệ xã hội nay hiện đại, tự động hoá ngày càng phát triển,
nhưng con người vẫn là yếu tố trung tâm quyết định hành vi tổ chức. Như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Muốn xã hội chủ nghĩa, phải có người xã
hội chủ nghĩa. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan
trọng và rất cần thiết”. Con người là thành tố quyết định sự thành bại của tổ
chức. Con người là thành tố cơ bản, trung tâm của tổ chức. Tất cả các tổ
chức tồn tại đều vì con người, đều hướng tới một chức năng xã hội nhất
định. Một tổ chức không có con người thì không thành tổ chức.
Trong tổ chức, con người là vốn quý nhất, là tài nguyên người của tổ
chức. Con người có ý chí tự hành động theo mục đích định trước, có thể
điều khiển được những suy nghĩ và những công việc của mình một cách có
ý thức. Con người có những phẩm chất tinh thần đặc biệt tinh tế, hết sức
phức tạp, có cuộc sống nội tâm phong phú và độc đáo. Con người vừa là
chủ thể đích thực, vừa là khách thể của tổ chức. Nhân cách con người được
sinh ra và phát triển thông qua hoạt động. Nhờ có con người mà tổ chức
được vận hành. Sự thành công của một tổ chức phụ thuộc vào cách con
người tác động, phối hợp với nhau, cách con người chuẩn bị hành động
thích hợp.
Hệ thống tác động lẫn nhau giữa các nguồn lực, cơ cấu trong tổ chức
khá chặt chẽ nhưng mang tính chất mềm dẻo, đa nghĩa. Cơ cấu tổ chức phải
gọn nhẹ với các bộ phận có chức năng, quyền hạn cụ thể, tránh chồng chéo
và có cơ chế phối hợp rõ ràng. Tổ chức mang bộ máy cồng kềnh, tình trạng
người thừa thiếu, thủ tục hành chính rườm rà sẽ làm cho tổ chức trì trệ, mất
hiệu lực. Và Người đứng đầu tổ chức (thủ trưởng) là nhân tố quan trọng và
không thể thiếu.
1.1.2.3. Quyền lực
Quyền lực là khả năng cá nhân, khả năng tổ chức ảnh hưởng đến suy
nghĩ, ảnh hưởng đến hành vi của người hay nhóm người khác. Tuy nhiên
không vì thế mà quá đề cao quyền lực địa vị. Điều đó sẽ dễ dẫn đến độc
đoán, coi sự phục tùng của thuộc cấp là mục đích cao nhất, dẫn đến mị dân,
ba phải, mất kỉ cương cần thiết.
Tổ chức không thể thiếu quyền lực, đặc biệt là người lãnh đạo. Sự
phục tùng của thuộc cấp sẽ mang tính cưỡng bức, đối phó khi người thủ
trưởng coi trọng quyền lực địa vị. Tính tự giác của thuộc cấp sẽ rất cao nếu
họ được phục tùng một người thủ trưởng có trình độ chuyên môn giỏi. Giỏi
là người đứng đầu tổ chức phải là người có kinh nghiệm, đủ nhiệt tình, đủ
kiến thức và khả năng quản lý. Nếu không, người đứng đầu tổ chức sẽ trở
thành nhân tố tiêu cực phá hoại tổ chức nhanh nhất. Nói như M. Lênin:
“Người dốt nát mà nhiệt tình thì sẽ phá hoại Cách mạng nhanh hơn, khủng
khiếp hơn.” Do đó, để vận hành tổ chức hiệu quả, người đứng đầu tổ chức
phải có kiến thức mang tính tổng hợp về Triết học, về Khoa học Tổ chức,
Khoa học quản lí, về Kinh tế học, Xã hội học, Tâm lý học, Điều khiển
học,...
Quyền lực của người lãnh đạo theo Yuki năm 1994 gồm ba loại:
chuyên môn, quan hệ với nhân viên và khả năng lôi cuốn người khác.
Quyền lực chuyên môn là năng lực giải quyết vấn đề, là sự tín nhiệm của
nhân viên khi gặp khó khăn đối với lãnh đạo. Quyền lực quan hệ với nhân
viên đòi hỏi người lãnh đạo phải có đức tính chân tình, sự tin tưởng, tôn
trọng người khác, công bằng,... để có kĩ năng giao tiếp và biết cách xây
dựng mối quan hệ. Quyền lực khả năng lôi cuốn người khác là loại quyền
lực không chỉ dành cho người lãnh đạo tổ chức hoặc lãnh đạo cấp trên mà
còn có ở một vài cá nhân chỉ là nhân viên trong tổ chức được thể hiện ở sự
thực hiện lời hứa, nhiệt tình, cách giao tiếp thuyết phục, hài hước,...
Vị lãnh đạo ham quyền lực, chỉ quan tâm lợi ích, yêu bản thân mình
chính là nhân tố đầu tiên dẫn đến sự đổ vỡ của tổ chức. Địa vị càng cao, tác
hại càng lớn. Tính cách nổi bật của những người này là sợ trách nhiệm, sợ
đổi mới, sợ không được lòng cấp trên, sợ trái ý cấp trên kể cả khi cấp trên
sai,...
1.1.2.4. Văn hoá tổ chức
Ngoài các thành tố trên, tổ chức cần phải được xây dựng nên bầu
không khí lành mạnh, tức là văn hoá của tổ chức. Văn hoá tổ chức là nhân tố
không thể thiếu để tổ chức phát triển. Tổ chức phải có văn hoá tổng thể thể
hiện trên các mặt vật chất, tinh thần, tri thức và tình cảm. Có thể nói một
cách khách quan, văn hóa đang thấm vào tất cả các hoạt động của đời sống
xã hội.
Văn hoá tổ chức (organization culture) là tập hợp các chuẩn mực giá
trị của một tổ chức tạo nên sự khác biệt giữa các thành viên. (Greert
Hofstede, Cultures & Organisations, 1991). Văn hoá tổ chức liên quan đến
toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của một tổ chức. Nó biểu hiện trước hết
trong tầm nhìn, sứ mạng, mục tiêu, triết lí, các giá trị, phong cách lãnh đạo,
quản lí, bầu không khí,... được thể hiện và được mọi người trong tổ chức
chấp nhận. Văn hoá của tổ chức quy định hành vi của mọi thành viên trong
tổ chức; đồng thời nó đem lại cho tổ chức một bản sắc riêng. Văn hoá tổ
chức sẽ ngày càng phong phú thêm bởi chính các thành viên của tổ chức và
vì vậy có thể thay đổi theo thời gian.
Văn hoá tổ chức đòi hỏi mọi thành viên, trước hết là người lãnh đạo
phải hành động vì con người, vì lợi ích của tổ chức và của xã hội. Văn hoá
tổ chức mang trong nó ba chức năng quan trọng: Thứ nhất, gắn chặt các
quyết định, hành vi của mọi thành viên trong tổ chức. Thứ hai, là “chất keo
xã hội” gắn mọi người với nhau và khiến họ cảm thấy mình như một phần
trong sự thành công của tổ chức. Cuối cùng, văn hoá tổ chức hỗ trợ quy
trình tạo ý thức.
Văn hoá tổ chức bao gồm sáu thành tố con: Triết lí, giá trị chủ đạo,
chuẩn mực, quy tắc, bầu không khí và các nghi thức ứng xử trong tập thể.
Một tổ chức có đầy đủ sáu thành tố con ấy là đã hình thành được văn hoá tổ
chức. Một tổ chức có văn hoá mạnh chưa chắc đã hoạt động tốt.
Văn hoá tổ chức được hình thành từ hai nhóm vấn đề:
- Nhóm thứ nhất gồm xây dựng ngôn ngữ chung, xác định giới hạn,
xây dựng cơ chế trao quyền lực và quy định các cách đánh giá trong ứng xử.
- Nhóm thứ hai gồm các vấn đề phải giải quyết trong quá trình tác
động qua lại giữa tổ chức và môi trường xung quanh.
Theo Edgar Sain (chuyên gia về Văn hoá tổ chức) cho rằng có hai cấp
nhóm nhân tố quy định sự hình thành và thay đổi văn hoá tổ chức. Cụ thể
nhóm nhân tố thứ nhất gồm: Các tập trung chú ý của lãnh đạo cao cấp. Phản
ứng của lãnh đạo đối với các tình huống gay cấn nảy sinh trong tập thể. Thái
độ đối với công việc và phong cách ứng xử của người lãnh đạo. Cơ sở tiêu
chuẩn khuyến khích cán bộ.
Nhóm nhân tố thứ hai gồm: Cấu trúc của tổ chức. Chức năng nhiệm
vụ được phân công giữa các bộ phận. Hệ thống truyền đạt thông tin và các
thủ tục tổ chức. Các truyền thống, lịch sử và các sự kiện quan trọng của tổ
chức. Các nguyên tắc được hình thức hoá về triết lí và ý nghĩa tồn tại của tổ
chức (ví dụ “Tất cả vì học sinh thân yêu”). Trang trí phòng làm việc, thiết
kế bên trong và bên ngoài nơi làm việc.
1.2. Tổ chức nhà trường các thành tố của tổ chức nhà trường
1.2.1. Tổ chức nhà trường
Nhà trường thực hiện mục tiêu nhiệm vụ giáo dục và đào tạo cho
người học và hoàn thiện nhân cách cho mọi công dân. Nhà trường do cơ
quan nhà nước thành lập hoặc cho phép thành lập. Nhà trường đảm bảo tính
dân chủ và bình đẳng cho mọi người học. Hệ thống nhà trường được chia
thành cấp học, từng loại trường khác nhau.
1.2.2. Các thành tố của tổ chức nhà trường
Nhà trường là một tổ chức - tổ chức giáo dục. Vì vậy, nhà trường có
đầy đủ các thành tố của một tổ chức bao gồm: mục tiêu xác định, chương
trình giáo dục, nội dung và phương pháp điều hành, cơ sở vật chất, học sinh,
giáo viên, người quản lý và các điều kiện giáo dục khác.
1.2.2.1. Mục tiêu
Ví dụ như mục tiêu giáo dục phổ thông đã được ghi cụ thể trong Điều
27 Luật Giáo dục năm 2005. Chung là để giúp học sinh phát triển toàn diện,
hình thành cơ sở nhân cách và được củng cố kiến thức cho những định
hướng trong tương lai.
1.2.2.2. Con người, nguồn lực và cơ cấu
Trong nhà trường, giáo viên là lực lượng nòng cốt thực hiện trọng
trách giáo dục thế hệ trẻ. Giáo viên được chia thành các tổ theo chuyên
môn. Trong nhà trường còn có Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam chịu trách
nhiệm lãnh đạo toàn diện hoạt động của nhà trường. Ngoài ra còn có Công
đoàn giáo dục, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Đội TNTP Hồ Chí Minh và các
bộ phận khác (như Hội đồng trường, Hội đồng tư vấn trong nhà trường, Hội
Phụ huynh học sinh,...) cùng với Ban Giám hiệu có trách nhiệm tổ chức và
điều hành hoạt động của nhà trường. Hiệu trưởng do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền bổ nhiệm chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà
trường.
1.2.2.3. Quyền lực
Nhà trường trong quyền hạn cho phép là một tổ chức quyền lực.
Quyền lực đó được quy định cụ thể như sau:
1. Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động khác theo mục
tiêu trình giáo dục; xác nhận hoặc cấp văn bằng, chứng chỉ theo thẩm
quyền;
2. Tuyển dụng, quản lí nhà giáo, cán bộ, nhân viên; tham gia vào
quá trình điều động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với
cán bộ, nhà giáo, nhân viên;
3. Tuyển sinh và quản lý người học;
4. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp
luật;
hoá;
5. Xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại
6. Phối hợp với gia đình người học, tổ chức, cá nhân trong hoạt động
giáo dục;
7. Tổ chức cho nhà giáo, cán bộ nhân viên và người học tham gia các
hoạt động xã hội;
8. Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng
giáo dục của cơ quan có thẩm quyền kiểm định chất lượng giáo dục;
9. Các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1.2.2.4. Văn hoá tổ chức
Văn hoá tổ chức là quan niệm giá trị cơ bản của tổ chức được toàn thể
các thành viên trong tổ chức tự giác chấp nhận. Nó quy định cung cách tư
duy, hành động của mọi thành viên trong tổ chức, đến mức trở thành những
thói quen, nếp nghĩ của mọi người. Đây cũng là tài sản chung, là truyền
thống của tổ chức.
Một tổ chức mạnh là tạo được nền văn hoá những quan niệm giá trị
cơ bản, ý thức trách nhiệm của tất cả các thành viên trong tổ chức. Là tạo
nên một không khí tâm lí thúc đẩy phấn đấu góp phần tích cực thúc đẩy quá
trình đổi mới và phát triển của tổ chức.
Trong tổ chức giáo dục - nhà trường, mọi thành viên đều có nhận
thức, hành vi và thái độ tích cực góp phần phát triển nhà trường. Điều đó
được triển khai theo ba thành tố: nhận thức, hành vi và thái độ của tất cả các
thành viên trong nhà trường.
Để trở thành một tổ chức có văn hoá, nhà trường cần phải đặt ra một
số câu hỏi sau đây để giải đáp:
- Trách nhiệm của nhà trường đối với xã hội, đối với môi trường,
đối với cộng đồng và đối với sự phát triển của học sinh?
- Sự đối xử đối với học sinh?
- Sự đối xử giữa các thành viên trong nhà trường?
- Sự đối xử giữa các liên đới (phụ huynh học sinh, lãnh đạo địa
phương, lãnh đạo chuyên môn cấp trên, các lực lượng xã hội, các cơ quan
chức năng địa phương, người tuyển dụng học sinh ra trường,...)?
- Quan niệm về chất lượng nhân cách được nhà trường đào tạo, giáo
dục?
- Quan niệm về hợp tác và cạnh tranh trong giáo dục (với các trường
bạn, với các tổ chức văn hoá, sản xuất, kinh doanh,...)?
2.1. Mối quan hệ giữa các thành tố của tổ chức nhà trường
Xã hội là môi trường mà trong đó con người được hoàn thiện và phát
triển. Là bộ phận hợp thành cơ bản của hệ thống xã hội, con người cũng là
sản phẩm và là người sáng tạo ra hệ thống đó. Doanh nghiệp, trường học,...
cũng đều là những tổ chức tồn tại trong môi trường.
Môi trường là một trong những yếu tố mang tính điều kiện cần thiết
để đảm bảo chất lượng các hoạt động của một tổ chức. Chúng sẽ mang đến
không chỉ là cơ hội cho tổ chức mà còn có những thách thức yêu cầu tổ
chức phải vượt qua. Môi trường có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến
cuộc sống con người. Mối quan hệ giữa con người – môi trường được xem
là mối quan hệ tự nhiên – xã hội.
Để có được sự đồng thuận, tương hợp trong tổ chức, cần xác định rõ
và đúng mục tiêu của tổ chức, số lượng và các loại thành viên.
Mục tiêu là lý do tồn tại, là cái đích mà mọi phần tử trong tổ chức (cá
nhân hay tập thể) luôn luôn hướng tới. Một tổ chức không có mục tiêu thì
không có lý do tồn tại, mục tiêu không rõ ràng thì tổ chức hoạt động kém
hiệu quả. Mục tiêu của tổ chức do con người đặt ra nhằm thực hiện chúng để
phát triển tổ chức.
Con người, nguồn lực và cơ cấu là sức mạnh ngăn chặn hạn chế các
nguy cơ mà yếu tố môi trường sinh ra nhằm làm hại tổ chức. Chính là yếu
tố chính, yếu tố chủ đạo quyết định đến sự thành công của tổ chức. Sự sắp
xếp cơ cấu của tổ chức sẽ đặt ra câu hỏi liệu tổ chức đó có đang phát triển
vững mạnh và đúng hướng không? Nếu nguồn lực được phân bố đủ và
đúng vị trí thì tổ chức mới đạt được mục tiêu. Nguồn lực của tổ chức quyết
định khả năng hoạt động thành hay bại của tổ chức. Tổ chức muốn tồn tại
và phát triển, nguồn lực đầu tiên - con người - càng trở nên trung tâm không
thể không có. Phát triển con người là tổ chức đang coi trọng mục tiêu được
đề ra. Đảng ta từng khẳng định: “Con người vốn quý nhất, chăm lo cho
hạnh phúc của con người mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”.
Quyền lực là khả năng gây ảnh hưởng áp lực không chịu kiểm soát
trước đối phương. Nếu người nắm quyền không biết tận dụng thế mạnh,
không thực tâm hướng đến mục tiêu thì sớm muộn cũng thất bại. Nếu người
nắm quyền giao nhiệm vụ sai nguồn lực sẽ gây nguy hiểm cho môi trường
làm việc.
Văn hóa tổ chức trong nhà trường là giáo dục nhà trường mang tính
tự giác và có mục đích. Giáo dục nhà trường được tổ chức và diễn ra theo kế
hoạch. Nội dung giáo dục nhà trường được chọn lọc bảo đảm tính cơ bản,
hệ thống. Hoạt động giáo dục của nhà trường được tiến hành bởi những
người được đào tạo về chuyên môn, tức là các nhà giáo.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN BẢN THÂN
Những thành tố kết hợp với nhau để tạo nên một tổ chức, nhưng có lẽ
yếu tố con người là yếu tố quan trọng và cần được quan tâm nhất. Bởi muốn
có mục tiêu hoạt động, ta luôn cần những người đứng đầu hoạch định kế
hoạch và kiểm soát quá trình thực hiện kế hoạch. Việc huấn luyện những
con người trong tổ chức mà ở đây là chỉ đến “Giáo viên” trong tổ chức Nhà
trường. Họ là "bộ mặt" của Nhà trường đang trực tiếp tiếp xúc và truyền đạt
kiến thức cho học sinh. Vậy nên họ là đối tượng cần được ưu tiên và suy
nghĩ đến đầu tiên khi muốn phát triển Nhà trường ngày càng tốt hơn. Những
sự ưu tiên, chăm sóc này nên đến từ cả những chính sách, quy định của cả
Pháp luật. Thế nhưng mà, cuối thế kỉ XIX, “làm giáo viên” chưa được coi là
“có một nghề”. Thời đó, người ta coi dạy học là một việc làm mà mọi người
đều có thể thực hiện được.
Nhưng ngày nay, không còn nghi ngờ gì nữa, dạy học là một nghề
đích thực. Không những thế, dạy học còn được coi vừa là một khoa học,
vừa là một nghệ thuật. Và để trở thành giáo viên thì phải được đào tạo về
bốn lĩnh vực: những kiến thức thuộc phạm vi bộ môn, năng lực sư phạm
thuộc các kiến thức giáo dục học và lí luận dạy học, các kiến thức thuộc
phạm vi tâm lí học và cuối cùng, các năng lực cần chiếm lĩnh (như năng lực
phân tích thái độ của học sinh, năng lực giáo dục, năng lực cá nhân hoá,
năng lực thấy trước tình huống xảy ra trong lớp học,...).
Theo quy định của Luật Giáo dục (Điều 70) nước ta, “Nhà giáo phải
có những tiêu chuẩn về phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ chuẩn
được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khoẻ theo yêu cầu của nghề
nghiệp và lí lịch bản thân rõ ràng.”
Như vậy, nhà giáo trong nhà trường được đào tạo và hệ thống về
nghề dạy học. Bao gồm những kiến thức chuyên ngành, phương pháp giảng
dạy sư phạm, kĩ năng giáo dục, giao tiếp và làm việc với học sinh. Trong
bối cảnh hiện nay, nhà giáo còn được bồi dưỡng phương pháp và kĩ năng
hoạt động xã hội, những kiến thức cập nhật về một số lĩnh vực như: công
nghệ
thông tin, truyền thông, môi trường, dân số,... tạo điều kiện cho họ thực hiện
có hiệu quả chức trách của mình.
Phương pháp, phương tiện giáo dục của nhà trường phải luôn luôn
cải tiến nhằm phát huy năng lực sáng tạo của học sinh. Phương pháp giáo
dục trong nhà trường phải phù hợp với mục đích, nội dung giáo dục. Chúng
luôn được đổi mới hướng vào người học, nâng cao năng lực sáng tạo, chú ý
bồi dưỡng năng lực tự học, tự phát triển ở người học. Trong quá trình giáo
dục, yếu tố phương pháp là năng động nhất, là mảnh đất cho sự sáng tạo của
người dạy và người học trong nhà trường. Hiện nay xuất hiện nhiều xu
hướng đổi mới tối ưu phương pháp dạy học hiện đại, tạo thuận lợi cho
người dạy và người học. Mặt khác, người dạy không còn giữ vai trò độc tôn
cung cấp kiến thức thì vấn đề tự nâng cao tri thức và trình độ nghiệp vụ, vấn
đề đổi mới phương pháp dạy học càng trở nên yêu cầu bức thiết.
Là một sinh viên ngành Quản lý giáo dục, tôi sẽ cố gắng phấn đấu
học tập, lĩnh hội những kiến thức chuyên để phát triển bản thân. Và có thể
phát triển những thành tố của Tổ chức hiệu quả và phù hợp nhất.
KẾT LUẬN
Qua những sự tìm hiều về các thành tố trong tổ chức, tôi nhận thấy
được tầm quan trọng của những thành tố khi tạo nên một tổ chức. Chúng có
những liên kết chặt chẽ với nhau, không thể thiếu xót bất kỳ thành tố nào vì
thành tố nào cũng mang tính quan trọng. Để vận hành tổ chức hiệu quả, ta
cần tập trung phân tích những thành tố ấy ngay khi thành lập.
Những thành tố trên có những tên gọi tưởng chừng như riêng biệt với
những chức năng khác nhau. Thế nhưng khi kết hợp, chúng lại đều phục vụ
cho mục đích phát triển và xây dựng hiệu quả Tổ chức nhà trường. Để mọi
Tổ chức được lớn mạnh và bền vững, chúng ta cần phải nắm chắc những
kiến thức về các thành tố đã được nêu trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1990, trang
211.
2. Hồ Chí Minh: Sđd, trang 181, 144.
3. Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VII,
Lưu hành nội bộ, tháng 02/1993, trang 5.
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2007, trang 292.
5. Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VII,
Lưu hành nội bộ, tháng 12/1993, trang 5, 6.
6. Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, trang 9.
7. “Trích theo: v.G. Afanaxep. Con người trong quản lí xã hội. Nxb
Khoa học Xã hội, 1979, trang 12.
8. Xem thêm: Trần Kiểm. Tiếp cận hiện đại trong quản lý giáo dục. Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2006, trang 71.
9. Theo: Nguyễn Hồng Chí, Tản mạn về nghệ thuật lãnh đạo trong thời đại
mới. Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2008.
10. Phạm Minh Hạc. Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 153.
11. Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Tổ chức, quản lí. Khoa học tổ chức
và quản lí – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn. Nxb Thống kê, Hà Nội,
1999, trang 316.
12. Theo PGS.TS. Nguyễn Bá Dương (Chủ biên), PGS.TS. Nguyễn Cúc,
TS. Đức Uy. Những vấn để bản của Khoa học Tổ chức. Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
13. Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1990, trang
139, 181.
14. Luật giáo dục của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nxb Chính trị Quốc gia, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005, trang 27.
15. Luật Giáo dục của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nxb Chính trị Quốc gia, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2009, trang 45.
16. Xem thêm Trần Kiểm. Tiếp cận hiện đại trong quản lý giáo dục.
Nxb Đại học Hà Nội, 2006.
| 1/21

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

KHOA KHOA HỌC HỘI NHÂN VĂN

BÀI TẬP LỚN

(Thay thế bài thi kết thúc học phần)

MÔN: ĐẠI CƯƠNG VỀ KHOA HỌC TỔ CHỨC

ĐỀ TÀI:

Trình bày các thành tố của tổ chức. Liên hệ phân tích mối quan hệ giữa các thành tố của tổ chức nhà trường.

Họ tên: TRẦN HOÀI THU Lớp: QLGD D2021B

SV: 221000643

Học kì: 1; Năm học: 2021 - 2022 Người dạy: TS. Thị Quỳnh

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

KHOA KHOA HỌC HỘI NHÂN VĂN

BÀI TẬP LỚN

(Thay thế bài thi kết thúc học phần)

MÔN: ĐẠI CƯƠNG VỀ KHOA HỌC TỔ CHỨC

ĐỀ TÀI:

Trình bày các thành tố của tổ chức. Liên hệ phân tích mối quan hệ giữa các thành tố của tổ chức nhà trường.

Họ tên: TRẦN HOÀI THU Lớp: QLGD D2021B

SV: 221000643

Học kì: 1; Năm học: 2021 - 2022 Người dạy: TS. Thị Quỳnh

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

LIÊN HỆ THỰC TIỄN BẢN THÂN 12

KẾT LUẬN 14

TÀI LIỆU THAM KHẢO 15

LỜI MỞ ĐẦU

Trong thời kỳ đầu, những lí luận về Tổ chức vẫn chỉ được gộp chung với Khoa học Quản lí khiến nhiều người có những nhìn nhận sai lầm. Rằng tổ chức chỉ là những nhóm người với một người đứng đầu quản lí tất cả hoạt động của nhóm đó. Chạy theo dòng phát triển của xã hội con người, những lí luận về Tổ chức đã được tách riêng thành một môn Khoa học Tổ chức độc lập. Môn Khoa học này tập trung sử dụng con người làm trung tâm tất yếu trong quá trình hình thành và phát triển xã hội loài người.

Ngày nay Khoa học Tổ chức đã được nhìn nhận với những tiếp cận đa dạng, tổng hợp, hiện đại hơn trước nhiều. Tiếp cận tổ chức như một cơ thể sống, một hệ thống mở, một nền văn hoá, một hệ thống chính trị, một sự tiến hoá với sự tích hợp trong nó các khoa học như: Khoa học Quản lí, Lí thuyết hệ thống, Điều khiển học, Khoa học Chính trị, Tâm lý học, Triết học, Xã hội học, Nhân chủng học, Lí thuyết thông tin,... đã khiến người ta nhìn nhận tổ chức một cách đầy đủ hơn, rộng rãi hơn, súc tích hơn, hấp dẫn hơn nhiều. Khoa học Tổ chức luôn dựa trên Khoa học Quản lí để có thể phát triển lí luận riêng biệt của mình.

Thực tế, trên các trang thông tin đại chúng, sách, báo thường có rất ít bài viết về công tác quản lý, tổ chức trong phạm vi trường học. Trường học chính là một tổ chức riêng biệt, làm việc trong lĩnh vực giáo dục. Hiệu trưởng là người quản lý và dẫn dắt Nhà trường cũng như các giáo viên trong trường. Họ cùng nhau phát triển trường học thành một ngôi nhà thứ hai cho học sinh. Họ phấn đấu vì mục tiêu “trường học hiệu quả”, “trường học hạnh phúc”.

Dù là mô hình tổ chức nào, chúng đều có những thành tố riêng biệt tác động lên cơ cấu, cách vận hành và quản lý của từng tổ chức. Vì thế mà bài tiểu luận này sẽ tập trung làm rõ vấn đề: các thành tố của tổ chức. Để rồi dựa vào đó Liên hệ và phân tích mối quan hệ giữa các thành tố của tổ chức nhà trường. Để hoàn thành bài tập lớn này, ngoài việc áp dụng những kiến thức đã được học trên lớp, tôi còn dùng những phương pháp khác.

1

Những kiến thức làm bài của tôi còn hạn chế khi tiếp xúc với các tư liệu và không tránh khỏi những sai sót. Tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô khoa Khoa học xã hội và nhân văn cũng như giảng viên bộ môn TS. Vũ Thị Quỳnh. Từ đó bài tập lớn lần này của tôi có thể hoàn thiện và rút được những kinh nghiệm cho bản thân trong những lần làm bài tới.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

    1. Tổ chức các thành tố của tổ chức
      1. Tổ chức

Tổ chức là tập hợp sự hiện diện các hoạt động có chức năng nhiệm vụ và hoạt động cụ thể nhằm thực hiện những mục tiêu chung. Ví dụ: Tổ chức Hội thi giáo viên giỏi, Tổ chức Chương trình kỷ niệm…

Tổ chức là một hệ mở kết hợp các thực thể xã hội hoạt động theo những phân công lao động rõ ràng để đạt được những mục tiêu nhất định. Ví dụ: Nhà trường, Nhà máy…

Tổ chức là thuộc tính của bản thân sự vật và hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. Tổ chức được hiểu theo hai cấp độ: tổ chức vĩ mô và tổ chức vi mô. Tổ chức vĩ mô chỉ hệ thống lớn chi phối nhiều lĩnh vực xã hội như hệ thống kinh tế - xã hội, hệ thống chính trị,... Tổ chức vi mô chỉ những tổ chức cơ sở như cơ sở sản xuất, kinh doanh, cơ sở giáo dục,...

      1. Các thành tố của tổ chức

Thành tố của tổ chức là những thành phần, những bộ phận trực tiếp cấu thành của một tổ chức. Các vấn đề liên quan đến cơ cấu nhằm phối hợp và kiểm soát mọi nguồn lực để đạt mục tiêu của tổ chức rất được coi trọng. Mỗi khi tổ chức vận hành không hiệu quả thì lập tức cơ cấu tổ chức nên cần được thay đổi.

Khi thiết kế tổ chức phải tính toán đầy đủ tính chất của nó để có thể đạt được mục tiêu đã đặt ra và xây dựng cấu trúc tổ chức sao cho phù hợp. Bốn thành tố là các điều kiện cần không thể thiếu để hình thành tổ chức đó là: Có mục tiêu xác định. Có con người, có các nguồn lực thực hiện các khâu vận hành tổ chức, có cơ cấu tổ chức và rất quan trọng là có người đứng đầu tổ chức. Có quyền lực của tổ chức. Có văn hoá tổ chức.

        1. Mục tiêu

Mục tiêu là điều kiện cơ bản để thực hiện các hành động, là cái cần đạt được của tổ chức. Tổ chức có nhiều loại mục tiêu tùy vào cách phân loại khác nhau để chịu sự chế ước của mục tiêu tổng quát như mục tiêu lâu dài, mục tiêu trước mắt, mục tiêu dài hạn, mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu vi mô, mục tiêu vĩ mô, mục tiêu toàn thể, mục tiêu bộ phận, mục tiêu chiến lược, mục tiêu tác nghiệp,...

Mục tiêu là thành tố có tính quyết định sự tồn tại của tổ chức. Tất cả những đặc điểm của công tác tổ chức được quyết định bởi tính chất của mục

tiêu. Một tổ chức không có mục tiêu thì không thành tổ chức. Sự khác nhau giữa tổ chức này với tổ chức khác trước hết ở sự khác nhau về mục tiêu.

Nếu để tìm kiếm lợi nhuận thì đó là doanh nghiệp, còn để giáo dục thì đó là nhà trường.

Mục tiêu của tổ chức phải hết sức rõ ràng. Mục tiêu không rõ ràng, không ổn định sẽ dẫn đến nguy cơ hỗn loạn trong tổ chức. Ví dụ: Mục tiêu của trường học là tổ chức giáo dục, không phải tổ chức kinh tế. Nếu coi mục tiêu kinh tế là quan trọng nhất thì các thành viên sẽ bị chi phối hành vi, sớm muộn nhà trường sẽ bị xã hội đào thải. Khi thành lập tổ chức, người có trách nhiệm phải trả lời câu hỏi: Tổ chức lập ra để làm gì? Việc trả lời câu hỏi này càng tường minh, việc xác định lí tưởng của tổ chức, cơ sở tuyển chọn nhân lực càng cụ thể bấy nhiêu.

Vai trò của việc xác định mục tiêu tổ chức có vai trò hết sức quan trọng. Chúng là cơ sở để tạo nên sự thống nhất về quan điểm, về giá trị, về niềm tin, về lợi ích,... của tất cả các thành viên trong tổ chức. Là cơ sở để hoạch định kế hoạch hành động (nhiệm vụ) cho các thành viên trong tổ chức, các bộ phận của tổ chức và toàn tổ chức. Là cơ sở để xác định chức năng, cơ chế phối hợp hành động giữa các bộ phận, cá nhân trong tổ chức. Là cơ sở để xây dựng bầu không khí lành mạnh, giải quyết những vấn đề cạnh tranh, xung đột về lợi ích, tạo sự đồng thuận trong toàn tổ chức. Là cơ sở để kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh hành vi của các bộ phận, các cá nhân và toàn tổ chức. Và đó cũng là cơ sở để xã hội xem xét, đánh giá hiệu quả của tổ chức.

Về hình thức trình bày mục tiêu, có thể trình bày “cây mục tiêu” như sau: thân cây là mục tiêu của toàn tổ chức, các nhánh, cành là mục tiêu của các bộ phận. Cũng có thể biểu đạt mục tiêu thành các khẩu hiệu theo từng giai đoạn cụ thể. Chẳng hạn, trong những năm đầu của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mục tiêu của cả nước là “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”; nhưng trong những năm chống Mỹ cứu nước thì “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước” lại là mục tiêu hàng đầu.

Ví dụ, mục tiêu của một doanh nghiệp là “Tất cả vì năng suất, chất lượng sản phẩm”, nhưng điều này phải được thể hiện ở “100% công nghệ sản xuất cũ được thay bằng Công nghệ mới”, ở “100% nhân viên phải được huấn luyện để nắm bắt được Công nghệ sản xuất mới”, ở “Thay đổi phương thức quản lý theo mạng đối với 100% các bộ phận”,...

Mục tiêu của tổ chức cần phải được tất cả các thành viên thấu hiểu. Nếu lãnh đạo chỉ ra lệnh với lề lối quản lý lạc hậu, thừa hành sẽ chỉ phục

tùng mù quáng mà không biết làm để làm gì. Tổ chức không được mang mục tiêu tự thân, tách biệt. Một trường học không chỉ vì sự phát triển của học sinh và giáo viên, mà còn vì sự phát triển của xã hội,...

        1. Con người, nguồn lực và cơ cấu

Mỗi con người, mỗi nguồn lực, mỗi thành phần cơ cấu đều có vai trò, chức năng xã hội cụ thể. Vị trí giá trị xã hội tuỳ thuộc vào những phẩm chất cá nhân, trình độ nghề nghiệp và thái độ trách nhiệm đối với tổ chức, cộng đồng xã hội. Ở đây có hai mặt gắn bó với nhau: Một mặt tổ chức quy định vai trò của con người. Mặt khác, tổ chức chú ý đến những năng lực và khuynh hướng, những phẩm chất cá nhân của họ.

Dù công nghệ xã hội nay hiện đại, tự động hoá ngày càng phát triển, nhưng con người vẫn là yếu tố trung tâm quyết định hành vi tổ chức. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Muốn xã hội chủ nghĩa, phải có người xã hội chủ nghĩa. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Con người là thành tố quyết định sự thành bại của tổ chức. Con người là thành tố cơ bản, trung tâm của tổ chức. Tất cả các tổ chức tồn tại đều vì con người, đều hướng tới một chức năng xã hội nhất định. Một tổ chức không có con người thì không thành tổ chức.

Trong tổ chức, con người là vốn quý nhất, là tài nguyên người của tổ chức. Con người có ý chí tự hành động theo mục đích định trước, có thể điều khiển được những suy nghĩ và những công việc của mình một cách có ý thức. Con người có những phẩm chất tinh thần đặc biệt tinh tế, hết sức phức tạp, có cuộc sống nội tâm phong phú và độc đáo. Con người vừa là chủ thể đích thực, vừa là khách thể của tổ chức. Nhân cách con người được sinh ra và phát triển thông qua hoạt động. Nhờ có con người mà tổ chức được vận hành. Sự thành công của một tổ chức phụ thuộc vào cách con người tác động, phối hợp với nhau, cách con người chuẩn bị hành động thích hợp.

Hệ thống tác động lẫn nhau giữa các nguồn lực, cơ cấu trong tổ chức khá chặt chẽ nhưng mang tính chất mềm dẻo, đa nghĩa. Cơ cấu tổ chức phải gọn nhẹ với các bộ phận có chức năng, quyền hạn cụ thể, tránh chồng chéo và có cơ chế phối hợp rõ ràng. Tổ chức mang bộ máy cồng kềnh, tình trạng người thừa thiếu, thủ tục hành chính rườm rà sẽ làm cho tổ chức trì trệ, mất hiệu lực. Và Người đứng đầu tổ chức (thủ trưởng) là nhân tố quan trọng và không thể thiếu.

        1. Quyền lực

Quyền lực là khả năng cá nhân, khả năng tổ chức ảnh hưởng đến suy nghĩ, ảnh hưởng đến hành vi của người hay nhóm người khác. Tuy nhiên không vì thế mà quá đề cao quyền lực địa vị. Điều đó sẽ dễ dẫn đến độc đoán, coi sự phục tùng của thuộc cấp là mục đích cao nhất, dẫn đến mị dân, ba phải, mất kỉ cương cần thiết.

Tổ chức không thể thiếu quyền lực, đặc biệt là người lãnh đạo. Sự phục tùng của thuộc cấp sẽ mang tính cưỡng bức, đối phó khi người thủ trưởng coi trọng quyền lực địa vị. Tính tự giác của thuộc cấp sẽ rất cao nếu họ được phục tùng một người thủ trưởng có trình độ chuyên môn giỏi. Giỏi là người đứng đầu tổ chức phải là người có kinh nghiệm, đủ nhiệt tình, đủ kiến thức và khả năng quản lý. Nếu không, người đứng đầu tổ chức sẽ trở thành nhân tố tiêu cực phá hoại tổ chức nhanh nhất. Nói như M. Lênin: “Người dốt nát mà nhiệt tình thì sẽ phá hoại Cách mạng nhanh hơn, khủng khiếp hơn.” Do đó, để vận hành tổ chức hiệu quả, người đứng đầu tổ chức phải có kiến thức mang tính tổng hợp về Triết học, về Khoa học Tổ chức, Khoa học quản lí, về Kinh tế học, Xã hội học, Tâm lý học, Điều khiển học,...

Quyền lực của người lãnh đạo theo Yuki năm 1994 gồm ba loại: chuyên môn, quan hệ với nhân viên và khả năng lôi cuốn người khác. Quyền lực chuyên môn là năng lực giải quyết vấn đề, là sự tín nhiệm của nhân viên khi gặp khó khăn đối với lãnh đạo. Quyền lực quan hệ với nhân viên đòi hỏi người lãnh đạo phải có đức tính chân tình, sự tin tưởng, tôn trọng người khác, công bằng,... để có kĩ năng giao tiếp và biết cách xây dựng mối quan hệ. Quyền lực khả năng lôi cuốn người khác là loại quyền lực không chỉ dành cho người lãnh đạo tổ chức hoặc lãnh đạo cấp trên mà còn có ở một vài cá nhân chỉ là nhân viên trong tổ chức được thể hiện ở sự thực hiện lời hứa, nhiệt tình, cách giao tiếp thuyết phục, hài hước,...

Vị lãnh đạo ham quyền lực, chỉ quan tâm lợi ích, yêu bản thân mình chính là nhân tố đầu tiên dẫn đến sự đổ vỡ của tổ chức. Địa vị càng cao, tác hại càng lớn. Tính cách nổi bật của những người này là sợ trách nhiệm, sợ đổi mới, sợ không được lòng cấp trên, sợ trái ý cấp trên kể cả khi cấp trên sai,...

        1. Văn hoá tổ chức

Ngoài các thành tố trên, tổ chức cần phải được xây dựng nên bầu không khí lành mạnh, tức là văn hoá của tổ chức. Văn hoá tổ chức là nhân tố không thể thiếu để tổ chức phát triển. Tổ chức phải có văn hoá tổng thể thể hiện trên các mặt vật chất, tinh thần, tri thức và tình cảm. Có thể nói một cách khách quan, văn hóa đang thấm vào tất cả các hoạt động của đời sống xã hội.

Văn hoá tổ chức (organization culture) là tập hợp các chuẩn mực giá trị của một tổ chức tạo nên sự khác biệt giữa các thành viên. (Greert Hofstede, Cultures & Organisations, 1991). Văn hoá tổ chức liên quan đến toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của một tổ chức. Nó biểu hiện trước hết trong tầm nhìn, sứ mạng, mục tiêu, triết lí, các giá trị, phong cách lãnh đạo, quản lí, bầu không khí,... được thể hiện và được mọi người trong tổ chức chấp nhận. Văn hoá của tổ chức quy định hành vi của mọi thành viên trong tổ chức; đồng thời nó đem lại cho tổ chức một bản sắc riêng. Văn hoá tổ chức sẽ ngày càng phong phú thêm bởi chính các thành viên của tổ chức và vì vậy có thể thay đổi theo thời gian.

Văn hoá tổ chức đòi hỏi mọi thành viên, trước hết là người lãnh đạo phải hành động vì con người, vì lợi ích của tổ chức và của xã hội. Văn hoá tổ chức mang trong nó ba chức năng quan trọng: Thứ nhất, gắn chặt các quyết định, hành vi của mọi thành viên trong tổ chức. Thứ hai, là “chất keo xã hội” gắn mọi người với nhau và khiến họ cảm thấy mình như một phần trong sự thành công của tổ chức. Cuối cùng, văn hoá tổ chức hỗ trợ quy trình tạo ý thức.

Văn hoá tổ chức bao gồm sáu thành tố con: Triết lí, giá trị chủ đạo, chuẩn mực, quy tắc, bầu không khí và các nghi thức ứng xử trong tập thể. Một tổ chức có đầy đủ sáu thành tố con ấy là đã hình thành được văn hoá tổ chức. Một tổ chức có văn hoá mạnh chưa chắc đã hoạt động tốt.

Văn hoá tổ chức được hình thành từ hai nhóm vấn đề:

  • Nhóm thứ nhất gồm xây dựng ngôn ngữ chung, xác định giới hạn, xây dựng cơ chế trao quyền lực và quy định các cách đánh giá trong ứng xử.
  • Nhóm thứ hai gồm các vấn đề phải giải quyết trong quá trình tác động qua lại giữa tổ chức và môi trường xung quanh.

Theo Edgar Sain (chuyên gia về Văn hoá tổ chức) cho rằng có hai cấp nhóm nhân tố quy định sự hình thành và thay đổi văn hoá tổ chức. Cụ thể

nhóm nhân tố thứ nhất gồm: Các tập trung chú ý của lãnh đạo cao cấp. Phản ứng của lãnh đạo đối với các tình huống gay cấn nảy sinh trong tập thể. Thái độ đối với công việc và phong cách ứng xử của người lãnh đạo. Cơ sở tiêu chuẩn khuyến khích cán bộ.

Nhóm nhân tố thứ hai gồm: Cấu trúc của tổ chức. Chức năng nhiệm vụ được phân công giữa các bộ phận. Hệ thống truyền đạt thông tin và các thủ tục tổ chức. Các truyền thống, lịch sử và các sự kiện quan trọng của tổ chức. Các nguyên tắc được hình thức hoá về triết lí và ý nghĩa tồn tại của tổ chức (ví dụ “Tất cả vì học sinh thân yêu”). Trang trí phòng làm việc, thiết kế bên trong và bên ngoài nơi làm việc.

    1. Tổ chức nhà trường các thành tố của tổ chức nhà trường
      1. Tổ chức nhà trường

Nhà trường thực hiện mục tiêu nhiệm vụ giáo dục và đào tạo cho người học và hoàn thiện nhân cách cho mọi công dân. Nhà trường do cơ quan nhà nước thành lập hoặc cho phép thành lập. Nhà trường đảm bảo tính dân chủ và bình đẳng cho mọi người học. Hệ thống nhà trường được chia thành cấp học, từng loại trường khác nhau.

      1. Các thành tố của tổ chức nhà trường

Nhà trường là một tổ chức - tổ chức giáo dục. Vì vậy, nhà trường có đầy đủ các thành tố của một tổ chức bao gồm: mục tiêu xác định, chương trình giáo dục, nội dung và phương pháp điều hành, cơ sở vật chất, học sinh, giáo viên, người quản lý và các điều kiện giáo dục khác.

        1. Mục tiêu

Ví dụ như mục tiêu giáo dục phổ thông đã được ghi cụ thể trong Điều 27 Luật Giáo dục năm 2005. Chung là để giúp học sinh phát triển toàn diện, hình thành cơ sở nhân cách và được củng cố kiến thức cho những định hướng trong tương lai.

        1. Con người, nguồn lực và cơ cấu

Trong nhà trường, giáo viên là lực lượng nòng cốt thực hiện trọng trách giáo dục thế hệ trẻ. Giáo viên được chia thành các tổ theo chuyên môn. Trong nhà trường còn có Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam chịu trách nhiệm lãnh đạo toàn diện hoạt động của nhà trường. Ngoài ra còn có Công đoàn giáo dục, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Đội TNTP Hồ Chí Minh và các bộ phận khác (như Hội đồng trường, Hội đồng tư vấn trong nhà trường, Hội Phụ huynh học sinh,...) cùng với Ban Giám hiệu có trách nhiệm tổ chức và

điều hành hoạt động của nhà trường. Hiệu trưởng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường.

        1. Quyền lực

Nhà trường trong quyền hạn cho phép là một tổ chức quyền lực.

Quyền lực đó được quy định cụ thể như sau:

  1. Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động khác theo mục tiêu trình giáo dục; xác nhận hoặc cấp văn bằng, chứng chỉ theo thẩm quyền;
  2. Tuyển dụng, quản lí nhà giáo, cán bộ, nhân viên; tham gia vào quá trình điều động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với cán bộ, nhà giáo, nhân viên;
  3. Tuyển sinh và quản lý người học;
  4. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp

luật; hoá;

  1. Xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại
  2. Phối hợp với gia đình người học, tổ chức, cá nhân trong hoạt động

giáo dục;

  1. Tổ chức cho nhà giáo, cán bộ nhân viên và người học tham gia các hoạt động xã hội;
  2. Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng giáo dục của cơ quan có thẩm quyền kiểm định chất lượng giáo dục;
  3. Các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
        1. Văn hoá tổ chức

Văn hoá tổ chức là quan niệm giá trị cơ bản của tổ chức được toàn thể các thành viên trong tổ chức tự giác chấp nhận. Nó quy định cung cách tư duy, hành động của mọi thành viên trong tổ chức, đến mức trở thành những thói quen, nếp nghĩ của mọi người. Đây cũng là tài sản chung, là truyền thống của tổ chức.

Một tổ chức mạnh là tạo được nền văn hoá những quan niệm giá trị cơ bản, ý thức trách nhiệm của tất cả các thành viên trong tổ chức. Là tạo

nên một không khí tâm lí thúc đẩy phấn đấu góp phần tích cực thúc đẩy quá trình đổi mới và phát triển của tổ chức.

Trong tổ chức giáo dục - nhà trường, mọi thành viên đều có nhận thức, hành vi và thái độ tích cực góp phần phát triển nhà trường. Điều đó được triển khai theo ba thành tố: nhận thức, hành vi và thái độ của tất cả các thành viên trong nhà trường.

Để trở thành một tổ chức có văn hoá, nhà trường cần phải đặt ra một số câu hỏi sau đây để giải đáp:

  • Trách nhiệm của nhà trường đối với xã hội, đối với môi trường, đối với cộng đồng và đối với sự phát triển của học sinh?
  • Sự đối xử đối với học sinh?
  • Sự đối xử giữa các thành viên trong nhà trường?
  • Sự đối xử giữa các liên đới (phụ huynh học sinh, lãnh đạo địa phương, lãnh đạo chuyên môn cấp trên, các lực lượng xã hội, các cơ quan chức năng địa phương, người tuyển dụng học sinh ra trường,...)?
  • Quan niệm về chất lượng nhân cách được nhà trường đào tạo, giáo

dục?

  • Quan niệm về hợp tác và cạnh tranh trong giáo dục (với các trường

bạn, với các tổ chức văn hoá, sản xuất, kinh doanh,...)?

    1. Mối quan hệ giữa các thành tố của tổ chức nhà trường

Xã hội là môi trường mà trong đó con người được hoàn thiện và phát triển. Là bộ phận hợp thành cơ bản của hệ thống xã hội, con người cũng là sản phẩm và là người sáng tạo ra hệ thống đó. Doanh nghiệp, trường học,... cũng đều là những tổ chức tồn tại trong môi trường.

Môi trường là một trong những yếu tố mang tính điều kiện cần thiết để đảm bảo chất lượng các hoạt động của một tổ chức. Chúng sẽ mang đến không chỉ là cơ hội cho tổ chức mà còn có những thách thức yêu cầu tổ chức phải vượt qua. Môi trường có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống con người. Mối quan hệ giữa con người – môi trường được xem là mối quan hệ tự nhiên – xã hội.

Để có được sự đồng thuận, tương hợp trong tổ chức, cần xác định rõ và đúng mục tiêu của tổ chức, số lượng và các loại thành viên.

Mục tiêu là lý do tồn tại, là cái đích mà mọi phần tử trong tổ chức (cá nhân hay tập thể) luôn luôn hướng tới. Một tổ chức không có mục tiêu thì không có lý do tồn tại, mục tiêu không rõ ràng thì tổ chức hoạt động kém hiệu quả. Mục tiêu của tổ chức do con người đặt ra nhằm thực hiện chúng để phát triển tổ chức.

Con người, nguồn lực và cơ cấu là sức mạnh ngăn chặn hạn chế các nguy cơ mà yếu tố môi trường sinh ra nhằm làm hại tổ chức. Chính là yếu tố chính, yếu tố chủ đạo quyết định đến sự thành công của tổ chức. Sự sắp xếp cơ cấu của tổ chức sẽ đặt ra câu hỏi liệu tổ chức đó có đang phát triển vững mạnh và đúng hướng không? Nếu nguồn lực được phân bố đủ và đúng vị trí thì tổ chức mới đạt được mục tiêu. Nguồn lực của tổ chức quyết định khả năng hoạt động thành hay bại của tổ chức. Tổ chức muốn tồn tại và phát triển, nguồn lực đầu tiên - con người - càng trở nên trung tâm không thể không có. Phát triển con người là tổ chức đang coi trọng mục tiêu được đề ra. Đảng ta từng khẳng định: “Con người vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”.

Quyền lực là khả năng gây ảnh hưởng áp lực không chịu kiểm soát trước đối phương. Nếu người nắm quyền không biết tận dụng thế mạnh, không thực tâm hướng đến mục tiêu thì sớm muộn cũng thất bại. Nếu người nắm quyền giao nhiệm vụ sai nguồn lực sẽ gây nguy hiểm cho môi trường làm việc.

Văn hóa tổ chức trong nhà trường là giáo dục nhà trường mang tính tự giác và có mục đích. Giáo dục nhà trường được tổ chức và diễn ra theo kế hoạch. Nội dung giáo dục nhà trường được chọn lọc bảo đảm tính cơ bản, hệ thống. Hoạt động giáo dục của nhà trường được tiến hành bởi những người được đào tạo về chuyên môn, tức là các nhà giáo.

LIÊN HỆ THỰC TIỄN BẢN THÂN

Những thành tố kết hợp với nhau để tạo nên một tổ chức, nhưng có lẽ yếu tố con người là yếu tố quan trọng và cần được quan tâm nhất. Bởi muốn có mục tiêu hoạt động, ta luôn cần những người đứng đầu hoạch định kế hoạch và kiểm soát quá trình thực hiện kế hoạch. Việc huấn luyện những con người trong tổ chức mà ở đây là chỉ đến “Giáo viên” trong tổ chức Nhà trường. Họ là "bộ mặt" của Nhà trường đang trực tiếp tiếp xúc và truyền đạt kiến thức cho học sinh. Vậy nên họ là đối tượng cần được ưu tiên và suy nghĩ đến đầu tiên khi muốn phát triển Nhà trường ngày càng tốt hơn. Những sự ưu tiên, chăm sóc này nên đến từ cả những chính sách, quy định của cả Pháp luật. Thế nhưng mà, cuối thế kỉ XIX, “làm giáo viên” chưa được coi là “có một nghề”. Thời đó, người ta coi dạy học là một việc làm mà mọi người đều có thể thực hiện được.

Nhưng ngày nay, không còn nghi ngờ gì nữa, dạy học là một nghề đích thực. Không những thế, dạy học còn được coi vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật. Và để trở thành giáo viên thì phải được đào tạo về bốn lĩnh vực: những kiến thức thuộc phạm vi bộ môn, năng lực sư phạm thuộc các kiến thức giáo dục học và lí luận dạy học, các kiến thức thuộc phạm vi tâm lí học và cuối cùng, các năng lực cần chiếm lĩnh (như năng lực phân tích thái độ của học sinh, năng lực giáo dục, năng lực cá nhân hoá, năng lực thấy trước tình huống xảy ra trong lớp học,...).

Theo quy định của Luật Giáo dục (Điều 70) nước ta, “Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn về phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khoẻ theo yêu cầu của nghề nghiệp và lí lịch bản thân rõ ràng.”

Như vậy, nhà giáo trong nhà trường được đào tạo và hệ thống về nghề dạy học. Bao gồm những kiến thức chuyên ngành, phương pháp giảng dạy sư phạm, kĩ năng giáo dục, giao tiếp và làm việc với học sinh. Trong bối cảnh hiện nay, nhà giáo còn được bồi dưỡng phương pháp và kĩ năng hoạt động xã hội, những kiến thức cập nhật về một số lĩnh vực như: công nghệ

thông tin, truyền thông, môi trường, dân số,... tạo điều kiện cho họ thực hiện có hiệu quả chức trách của mình.

Phương pháp, phương tiện giáo dục của nhà trường phải luôn luôn cải tiến nhằm phát huy năng lực sáng tạo của học sinh. Phương pháp giáo dục trong nhà trường phải phù hợp với mục đích, nội dung giáo dục. Chúng luôn được đổi mới hướng vào người học, nâng cao năng lực sáng tạo, chú ý bồi dưỡng năng lực tự học, tự phát triển ở người học. Trong quá trình giáo dục, yếu tố phương pháp là năng động nhất, là mảnh đất cho sự sáng tạo của người dạy và người học trong nhà trường. Hiện nay xuất hiện nhiều xu hướng đổi mới tối ưu phương pháp dạy học hiện đại, tạo thuận lợi cho người dạy và người học. Mặt khác, người dạy không còn giữ vai trò độc tôn cung cấp kiến thức thì vấn đề tự nâng cao tri thức và trình độ nghiệp vụ, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học càng trở nên yêu cầu bức thiết.

Là một sinh viên ngành Quản lý giáo dục, tôi sẽ cố gắng phấn đấu học tập, lĩnh hội những kiến thức chuyên để phát triển bản thân. Và có thể phát triển những thành tố của Tổ chức hiệu quả và phù hợp nhất.

KẾT LUẬN

Qua những sự tìm hiều về các thành tố trong tổ chức, tôi nhận thấy được tầm quan trọng của những thành tố khi tạo nên một tổ chức. Chúng có những liên kết chặt chẽ với nhau, không thể thiếu xót bất kỳ thành tố nào vì thành tố nào cũng mang tính quan trọng. Để vận hành tổ chức hiệu quả, ta cần tập trung phân tích những thành tố ấy ngay khi thành lập.

Những thành tố trên có những tên gọi tưởng chừng như riêng biệt với những chức năng khác nhau. Thế nhưng khi kết hợp, chúng lại đều phục vụ cho mục đích phát triển và xây dựng hiệu quả Tổ chức nhà trường. Để mọi Tổ chức được lớn mạnh và bền vững, chúng ta cần phải nắm chắc những kiến thức về các thành tố đã được nêu trên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1990, trang 211.
  2. Hồ Chí Minh: Sđd, trang 181, 144.
  3. Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, Lưu hành nội bộ, tháng 02/1993, trang 5.
  4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007, trang 292.
  5. Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, Lưu hành nội bộ, tháng 12/1993, trang 5, 6.
  6. Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, trang 9.
  7. “Trích theo: v.G. Afanaxep. Con người trong quản lí xã hội. Nxb Khoa học Xã hội, 1979, trang 12.
  8. Xem thêm: Trần Kiểm. Tiếp cận hiện đại trong quản lý giáo dục. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2006, trang 71.
  9. Theo: Nguyễn Hồng Chí, Tản mạn về nghệ thuật lãnh đạo trong thời đại mới. Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2008.
  10. Phạm Minh Hạc. Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 153.
  11. Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Tổ chức, quản lí. Khoa học tổ chức và quản lí – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn. Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999, trang 316.
  12. Theo PGS.TS. Nguyễn Bá Dương (Chủ biên), PGS.TS. Nguyễn Cúc, TS. Đức Uy. Những vấn để cơ bản của Khoa học Tổ chức. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
  13. Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1990, trang 139, 181.
  14. Luật giáo dục của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005, trang 27.
  15. Luật Giáo dục của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2009, trang 45.
  16. Xem thêm Trần Kiểm. Tiếp cận hiện đại trong quản lý giáo dục. Nxb Đại học Hà Nội, 2006.