Bài tập lớn môn kinh tế chính trị | Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Bài tập lớn môn kinh tế chính trị | Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân. Tài liệu gồm 12 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

B GIÁO DỤC ĐÀO TO
TRƯỜNG ĐẠI HC KINH T QUC N
-------o0o-------
BÀI TP LN
MÔN KINH T CHÍNH TR
ĐỀ TÀI : SN XUT HÀNG HÓA TÍNH KHÁCH QUAN TT
YU TN TI NN KINH TNG HÓA VIT NAM
H và tên sinh viên : Nguyn Th Tho Chi
Mã sinh viên : 11200616
S th t : 07
Lp: : Kế toán CFAB 4
Khóa : 62
Giáo viên hướng dn : TS. Nguyn Tho
Hà Ni - Tháng 1/2021
ĐỀ BÀI
Phân tích hai điu kiện ra đời tn ti sn xut hàng a. Liên h
vi thc tiễn nước ta hin nay để làm tính tt yếu khách quan tn
ti nn kinh tế hàng hóa c ta.
Sn xut hàng hóa mt khái nim đưc s dng trong kinh tế chính tr Marx-
Lenin dùng để ch v kiu t chc kinh tế trong đó sn phẩm được sn xut không
phải để đáp ng nhu cu tiêu dùng của chính người trc tiếp sn xut ra
để đáp ng nhu cu tiêu dùng của ngưi khác, thông qua việc trao đổi, mua bán
trên th trưng
1
”. Đây cũng là hình thứ t chc sn xut ph biến trên thế gii và là
cơ s cho tn ti và phát trin ca xã hi loài người.
Sn xut hàng hóa đã từng tn ti trong nhiu hình thái kinh tế - hi, kiu
t chc kinh tế phân bit vi sn xut t cung t cp thi kì đu ca lch s loài
người. Trong các hình thái hi trước Ch nghĩa bản, sn xuất hàng hoá chưa
phát trin. Đầu tiên nn kinh tế t cung t cp xut hin, gn lin vi nn kinh tế t
nhiên. thời kì đó, sn phm ca s lao đng được to ra ch để phc v trc tiếp
cho nhu cu của chính người sn xuất ra chúng. Nhưng do sn xut ngày ng phát
trin, nhu cu của con người ngày ng tăng cao cùng vi vic vic xut hin s
chuyên môn hóa làm cho sn xut t cung t cp dn dn b chuyn hóa thành sn
xut hàng hóa. Sn xuất hàng hóa đã tồn ti t trong chế độ chiếm hu nô l, chế độ
phong kiến, sau đó là chế đ tư bản ch nghĩa và chế độ hi ch nghĩa. Đến thi
k Tư bản ch nghĩa, nó đã phát triển ti đỉnh cao nht, tr thành quan h thng tr,
ph bin trong xã hi. Dưới Ch nghĩa tư bản, quan h hàng hóa thâm nhp vào mi
lĩnh vực, mi chức năng ca nn sn xut xã hi, hàng hóa tr thành tế bào ca nn
1
Trần Đình Thảo (2010), Giáo trình Kinh tế Chính tr, NXB Chính tr Quc Gia, Hà Ni.
sn xut hội. mang đặc điểm da trên s tách ri tư liệu sn xut vi sc lao
động trên cơ s bóc lột lao đng làm thuê dưới hình thc chiếm đoạt giá tr thng
dư. Cho đến hi hi ch nghĩa, sản xut hàng hoá vn n quy lut giá tr -
quy lut kinh tế ca sn xut ng hoá vn còn hoạt động, tiếp tc tn ti pt
trin mặc dù đặc điểm ca sn xut hàng hóa xã hi ch nghĩa không dựa trên cơ s
chế độ người bóc lột người nhm mục đích thỏa mãn nhu cu vt cht, tinh
thn ca mi thành viên xã hi trên cơ s sn xut kinh doanh.
Sn xut hàng hóa tn tại tn cơ s ca s trao đổi hàng hóa và là nn tng cho
mi nn kinh tế. Đồng thi, sn xut hàng hóa là mt phm trù lch s, ch xut hin
tn ti trong hi khi những điều kin nhất định. Theo quan điểm ca ch
nghĩa Marx thì sự ra đời và tn ti ca sn xut hàng hóa ph thuộc vào hai điều kin
cơ bn sau:
Th nht là s phân công lao đng.
Phân công lao động là s phân chia lao động trong xã hi thành các ngành, các
lĩnh vực sn xut khác nhau, to nên s chuyên môn hóa ca nhng ngưi sn xut
thành nhng ngành, ngh khác nhau
2
. Hay nói cách khác, phân ng lao đng
hi s phân chia lao đng trong hi vào các ngành ngh khác nhau trong đó
mỗi người ch sn xut ra mt hoc mt vài loi sn phm nht định. Tuy nhiên, bn
thân con người li có nhiu nhu cu khác nhau yêu cu nhng sn phm khác nhau,
bi vậy đòi hỏi h phi đi trao đi sn phm ca mình vi người khác để tha mãn
các nhu cầu đó. Đây chính là nhu cầu trao đổi sn phm gia nhng người sn xut.
Trao đổi hàng hóa xut hin dn đến s ra đời ca sn xut hàng hóa. Vì thế, s xut
hin và phát trin của phân công lao động xã hi là mt khách quan, tt yếu.
2
PGS.TS Ngô Tuấn Nga (2019), Giáo trình Kinh tế Chính tr c-Lênin, NXB Chính tr Quc Gia, Hà Ni.
S phân ng lao đng hội đồng thời chính cơ s, tiền đề, điều kin
cn ca qtrình sn xut, trao đổi hàng hóa vì nó kéo theo s phát trin ca chuyên
môn hóa sn xut. Phân công lao động hi, chuyên môn hóa sn xuất đng thi
làm cho ng suất lao động tăng lên, sn phm thng ngày càng nhiều nên càng
thúc đẩy s trao đổi sn phm. Theo C.Mác:“S phân ng lao đng xã hi là điều
kin tn ti ca nn sn xut hàng hóa, mc dầu ngưc li, sn xut hàng hóa không
phải là điều kin tn ti ca s phân công lao động xã hi
3
”. Phân công lao động xã
hi ngày càng phát trin, tsn xut trao đổi hàng hóa càng m rng hơn, đa
dạng hơn.
Th hai là s tách biệt tương đi v mt kinh tế gia các ch th sn xut.
S tách biệt tương đi v mt kinh tế gia c ch th sn xut hiểu đơn giản
những người sn xut tr thành nhng ch th s độc lp tách bit nhất đnh
vi nhau v li ích. Trong lch s, s tách bit này do chế độ hữu v liệu sn
xuất quy định. “Trong chế độ tư hữu v liệu sn xuất thì tư liệu sn xut thuc s
hu ca mi cá nhân kết qu sn phm làm ra thuc quyn s hu ca h
4
.
Do đó, khi những ch th sn xut to ra sn phm thì sn phẩm đó thuộc quyn s
hu ca riêng h, h có quyn t ch trong sn xut kinh doanh phân phi sn
phm đó. Người y mun tiêu dùng sn phm lao động của người khác buc phi
thông qua trao đi, mua n hàng hóa. Tuy nhiên, khi s tách bit v kinh tế gia
nhng ch th sn xut tn ti trong điều kin s phân ng lao đng hi thì
việc trao đổi sn phm gia nhng ch th khác nhau phi đảm bảo được li ích ca
họ, nghĩa ch th được khi trao đổi da trên nguyên tc ngang giá trao
đổi dưới hình thc ng hóa. C.Mác viết: chỉ sn phm ca những lao động
nhân độc lp không ph thuc vào nhau mới đối din với nhau như những hàng
3
C.Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, NXB. Chính tr quc gia, Hà Ni, 1993, t.23, tr.72
4
. Wikipedia (2021),Sản xuất hang hóa”, https://bitly.com.vn/4y2flk , trích dn ngày 23.01.2021
hóa”
5
. S tách bit v mt kinh tế gia nhng người sn xuất là điều kiện đ để nn
sn xuất hàng hóa ra đời, phát trin và ngày càng trn phong phú.
Như vậy, trong khi phân ng lao đng hi làm ny sinh các quan h kinh tế
gia nhng ch th sn xut trong hi, làm cho h liên quan đến nhau, phi
da vào nhau, ph thuc ln nhau; thì s tách bit v li ích kinh tế gia các ch th
sn xut trong hi li chia r h, làm cho h độc lp với nhau. Đây một mâu
thun mâu thun y ch gii quyết thông qua trao đi, mua bán sn phm ca
nhau. Đó hai điều kin cn đủ ca sn xut hàng hóa. C hai điều kin vai
trò quan trng như nhau, tác đng qua li ln nhau, thiếu mt trong hai điều kiện đó
s không sn xut hàng hóa. Chính vy, hai điều kiện y quy đnh s ra đời,
tn ti và phát trin ca nn kinh tế sn xut hàng hóa.
Sn xuất ng hóa m thúc đy s phát trin ca lực ng sn xut, nâng cao
năng suất lao động hi. Nó thúc đẩy qtrình hi hóa sn xut nhanh chóng,
làm cho s phân ng chuyên môn hóa sn xut ngày càng sâu sc, hp tác hóa cht
ch hình thành các mi liên h kinh tế s ph thuc ln nhau ca những người
sn xut hình thành th trường trong nước thế giới. thúc đy nhanh quá trình
ch t tp trung sn xuất, đó cơ s để thúc đẩy quá trình n ch háo, bình
đẳng tiến b hi. Sn xut hàng hóa gn lin vi nn kinh tế hàng hóa. Trái
vi nn kinh tế t cung t cp t sn xut sn phm, t tiêu dùng tnn kinh tế
hàng hóa có s phân công lao động và trao đổi hàng hóa, dch v gia những người
này vi người khác thông qua hot động mua-bán trên th trường. Nn kinh tế hàng
hóa phát trin càng mnh m đến đỉnh cao ca là nn kinh tế th trường. Sn
xut hàng hóa mt b phn ca kinh tế quc tế, tng th các quan h kinh tế,
khoa hc, k thut, ng ngh đưc thc hin dưới nhiu hình thc, hình thành
5
C.Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, NXB. Chính tr quc gia, Hà Ni, 1993, t.23, tr.72
phát trin trên s phát trin ca lực lượng sn xut và pn ng lao động quc
tế. Trong quá trình công nghip hóa hiện đại hóa đất nước, sn xuất hàng hóa được
như mt mt xích quan trng trong gung mt ca nn kinh tế, nht trong xu
thế hi nhp phát trin hin nay, không nhng góp phn đắc lc vào qtrình
thúc đẩy toàn b nn kinh tế phát trin mà còn m rng quan h giao lưu, hợp tác
quc tế c v các lĩnh vực khác. Vì thế, mi quc gia phi nghiên cu tìm ra hướng
đi đúng đn cho nn kinh tế, php với điều kin, hoàn cnh đất nước, phù hp
vi khu vc thế gii và thời đại.
Trong chiu i lch s ca nn sn xuất c ta, s xut hin ca nn kinh tế
hàng hóa là mt điu tt yếu, khách quan. Theo quan điểm ca C.Mác: Kinh tếng
hóa không phi một phương thức sn xuất độc lp mt hình thc t chc
kinh tế tn ti trong các phương thức xã hi. Vi phm vi và mức độ khác nhau, tuy
cùng nn kinh tế hàng hóa nhưng bản cht ca xã hội quy định đặc đim kinh tế
hàng hóa ca hi đó. Thời kì phong kiến, trình đ lao động, năng suất lao động
nước ta chưa cao, chính sách bế quan mt s triều đại kim m s lưu thông ng
hóa. S hu v liệu lao động nm trong tay mt s ít người tng lp trên. Tóm
li, thi kì này, nn sn xut hàng hóa nước ta mi ch xut hin, chưa phát triển.
Trong thi kì bao cp trước đi mới, chế kế hoch hóa tp trung quan liêu, bao
cp kìm m s phát trin ca nn sn xut hàng hóa, biến hình thc tiền lương thành
lương hiện vt, th tiêu động lc sn xut, th tiêu cạnh tranh lưu thông th trường.
S nhn thc sai lm ca nước ta thời kì y đã khiến nn kinh tế suy sp, sc sn
xut hàng hóa tut dc không phanh. T năm 1976 đến 1985, thu nhp quc n
tăng rất thấp, có năm còn b giảm: Năm 1977 tăng 2,8%, năm 1978 tăng 2,3%, m
1979 gim 2%, năm 1980 gim 1,4%, bình quân 1977-1980 ch tăng 0,4%/năm, thấp
xa so vi tốc độ tăng trưởng n s
6
. Đứng trước tình hình trên, tháng 12/1986, ti
đại hi VI, ĐảngNhà nước ta đã có quyết định quan trng trong việc đổi mi nn
kinh tế, thay thế nn kinh tế tp trung quan liêu bao cp bng nn kinh tế sn xut
hàng hóa. t đó, nền kinh tế sn xuất hàng hóa đã trở thành nn tng, đng lc
thúc đẩy ng nghip hóa hiện đại hóa và phát trin bn vứng đất nước; giúp nn
kinh tế của nước ta tng bước hi nhp vi s đi lên không ngng ca khu vc
thế gii, đạt được nhiu thành tu quan trng.
S chuyn mình ca nn kinh tế Vit Nam không phi là ngẫu nhiên, mà đó là tất
yếu khách quan ca lch s bi trong giai đon qđộ lên ch nghĩa hội,
nước ta những điều kin chung ca nn kinh tế hàng hóa vn còn:
- Nn kinh tế ng hóa, hay nói cách khác, nn kinh tế th trường là sn phm,
thành qu chung trong s phát trin ca hội loài người. S phát trin ca hi
li người được đánh dấu bng nhiều tiêu chí, trong đó tiêu cvề s phát trin
kinh tế nhng thi k, nhng giai đoạn khác nhau. T ch ban đầu thc hành mt
“nn kinh tế ớp đoạt” (theo cách i của Ph. Ăng-ghen), con người đã phải tri
qua hàng vạn năm để biết dùng la nu chín thức ăn và sưởi m, biết thun hóa súc
vt, biết chăn nuôi, biết làm ngh nông, biết chế to ra nhng vt phẩm đơn giản đáp
ng nhu cu đơn giản rt hn chế trong mt phm vi cng đồng nh hp. Dn
dn, khi mt cộng đồng có tha mt loi sn phm nào đó đã được làm ra nhưng lại
cần đến nhng loi sn phm khác cộng đồng khác tha thì s trao đi bt
đầu din ra. Sn xut phát trin ts trao đi y diễn ra ngày ng thường xuyên
hơn tn phạm vi ngày ng m rng hơn. Như vậy, t hình thái kinh tế t nhiên,
nhân loi chuyn dn lên mt hình thái kinh tế cao hơn sản xut hàng hóa - đó
kinh tế hàng hóa. Nn kinh tế hàng hóa ra đờimột bước tiến ln trong lch s nhân
6
Thi báo knh tế (2006), Kinh tế Việt Nam 61 năm sau Cách mng, https://bitly.com.vn/rlmo65 , trích dn ngày
23.01.2021
loi, đánh dấu s phát trin ca nn kinh tế, cho ti nay đã phát triển đt ti
trình đ rất cao đó nn kinh tế th trường hiện đại. Vì thế, trong chiu dài lch s
phát trin ca nn kinh tế Vit Nam, vic tn ti nn kinh tếng hóa là mt tt yếu
khách quan.
- Phân công lao động xã hi vi tư cách cơ sở của trao đổi chng nhng không
mất đi, trái lại ngày mt phát trin c v chiu rng ln chiu sâu, s chuyên n
hóa và hợp tác hóa lao đng đã vượt khi biên gii quc gia và ngày càng mang tính
quc tế. Phân công lao động xã hội đã phá vỡ các mi quan h truyn thng ca nn
kinh tế t nhiên khép kín, tạo s thng nht, ph thuc ln nhau gia nhng người
sn xut vào h thng ca hợp tác lao đng. S phân ng lao động của ta đã ngày
càng chi tiết n đến tng ngành, từng sở phm vi rng hơn nữa là toàn b
nn kinh tế quc n, hiện nay ta đã hàng lot c th trường được hình thành t
s phân công lao đng đó : thị trường công ngh, th trường chng khoán, th
trường may mc,…… Tạo đà cho nền kinh tế hàng hoá nhiu thành phn phát trin
giúp ta nhanh chóng hoà nhập được vi kinh tế trong khu vc và thế gii.
- Trong nn kinh tế đã đang tn ti nhiu hình thc s hu khác nhau v
liu sn xut và sn phm lao động như s hu toàn n, s hu tp th ca nhng
người sn xut hàng hoá nh, s hu tư nhân bn ch nghĩa, ,…Chế độ xã hi hoá
sn xut gia các ngành, các nghip trong cùng mt hình thc s hu vẫn chưa
đều nhau. S dĩ như vậy là do cơ cấu kinh tế ca ta gi cơ cấu kinh tế nhiu thành
phn, s tn ti ca các thành phn kinh tế là mt tt yếu khách quan.
T góc đ lch s chúng ta thy, trong ng cuc xây dng ch nghĩa xã hội, sut
mt thi gian i, c v mt lun thc tiễn, người ta đã đem đi lp mt cách
tuyt đối siêu hình ch nghĩa hội vi ch nghĩa tư bản; coi nhng gì có trong
ch nghĩa tư bản thì ch nghĩa hội phải xóa đi hết ngưc li, trong đó có kinh
tế th trường vn thành qu phát trin ca lch s loài người. Cn nhn thc
rng, xã hi cng sn vi tính ch mt hình thái kinh tế - hi không th sn
mi th trong lòng xã hội tư bản nhưng cũng đã có những tiền đề v nhiu mt quan
trng cho s ra đời ca mt hình ti kinh tế - xã hi mi. Mt trong nhng tiền đề
y nn kinh tế th trường đã rất phát trin nh s phát trin hết sc cao mnh
m ca lc ng sn xut. Chính V.I. Lê-nin cũng đã sớm nhn ra sai lm nóng vi
khi đề ra thc hin Chính sách cng sn thi chiến n đã kp thi sa cha
sai lm y bng cách đề ra Chính sách kinh tế mi (NEP) để nước Nga chp nhn
phát trin nn sn xut ng hóa nhiu thành phn bước đầu đi vào nền kinh tế
th trường. V điều này, V.I. Lê-nin đã khẳng đnh mnh m rng, “chúng ta không
hình dung mt th ch nghĩa hội nào khác hơn ch nghĩa hi dựa trên
s tt c nhng bài hc mà nền văn minh ln ca ch nghĩa tư bản đã thu được”
7
.
Vic dt khoát t b chế độ kinh tế tp trung, quan liêu bao cấp để chính thức đi
vào nn kinh tế th trường định hướng hi ch nghĩa là s la chn khách quan,
sáng tạo, độc lp và phù hp vi xu thế vn động chung ca nn kinh tế thế gii hin
đại. Chúng ta thc hin nn kinh tế th trường định hướng hi ch nghĩa nhằm
xây dng một đất nưc tt c đều con ngưi do con người. Mt nn kinh tế như
vy, mt mt, tôn trng và tuân theo các quy lut khách quan ca kinh tế th trường;
nghĩa là sản xut và kinh doanh phi thu được li nhun, phi chp nhn cnh tranh
theo pháp luật để thúc đẩy sn xut, kinh doanh phát trin; mt khác, quan trọng hơn
là nn kinh tế y phi to được mt lực lượng sn xut ngày ng phát trin, trong
đó con người va phải đng lc, va phi là mc tiêu ca s phát trin. Đng
thi, nn kinh tế th trường mà chúng ta ch trương xây dựng phải được hướng dn
bi các nguyên tc thuc bn cht ca ch nghĩa hội v quyn s hu, v ch
thc t chc sn xut và v phương thức phân phi thành qu lao động.
7
V.I. Lê-nin: Toàn tp, Nxb. Tiến b, Mát-xcơ-va, 1977, t. 36, tr. 334
Đảng Nnước ta ch trương nhất quán vn hành nn kinh tế th trường
ch yếu bng chế th trường và tng qua chế th trường nhưng coi trng s
qun lý và s điu tiết của Nhà nước, thc hin phân phi công bng, nhưng kng
cào bng thành qu thu được cho mọi thành viên đ không ai, k c nhng người
yếu thế, b b li phía sau. Đó chính định hướng cc k quan trng cho toàn b
quá trình phát trin theo định hướng hi ch nghĩa. Tuy nhiên, s kết hp các mt
này hoàn toàn không phi là s lp ghép mt cách tùy tin, ch quan, duy ý chí như
mt s người ng nhn hoc c tình quy kết. Đây là s la chn dựa trên cơ s đúc
kết nhng kinh nghim quý báu đã được thc tin lch s xác nhn; nm bt xu thế
khách quan ca thời đại, nhm tiếp thu nhng gì đã được coi là tt nht ca kinh tế
th trường tư bản ch nghĩa; tiếp thu mt cách chn lc thành tu ca văn minh nhân
loi; phát huy vai trò tích cc và các động lc ca kinh tế th trường trong vic thúc
đẩy phát trin sc sn xut, hội hóa lao động, áp dng nhanh nht các tiến b
khoa hc k thut ng ngh mi, đng thời cũng để tng bước hn chế dn
dn khc phc nhng khiếm khuyết, nhng bt công nn kinh tế ấy đã không thể
làm được t khi nó ra đời cho đến nay.
Nn kinh tế th trường nói chung và nn kinh tế th trường định hướng xã hi ch
nghĩa của nước ta nói riêng, có kh năng kích thích tính độc lp, s ng động, tính
hiu qu, s t do sáng tạo, năng lực phát minh, sáng chế s áp dng nhanh chóng
các công ngh mi nht của con người vào tt c các lĩnh vc của đi sng hi.
S dĩ kinh tế th trường có th làm được như vậy là vì trong nn kinh tế này s cnh
tranh để tn ti phát trin ph thuc rt nhiu vào nhng kh năng y. Tt c
nhng kh năng y s không phát huy tác dng nếu thiếu s t do được lut pháp
bo v và hi khuyến khích. Trong điều kin thế gii toàn cu hóa hiện nay, để
phát trin nhanh và lành mnh thì kinh tế ca một nước không ch cn có th trường
nội đa còn cn c th trường quc tế rng ln. Do vy, bên cnh vic to dng
nim tin của người tiêu dùng trong nước, phi tranh th được nim tin của người tiêu
dùng ngi biên gii quốc gia. Điều này đòi hỏi người sn xut, kinh doanh phi
người n a đạo đức kinh doanhn cnh nhng năng lực nhiu
phm cht quan trng khác. Mỗi người đều phi trách nhim vi bn thân, vi
cộng đồng hi với đất nước; bi con người văn hóa trong nn kinh tế
chính là chìa khóa m ra hội giành thng li trong cnh tranh ng bng, lành
mnh, qua đó thúc đy sn xut phát trin.
Ch nghĩa xã hi và ch nghĩa tư bản đều s dng c xe kinh tế hàng hóa để phát
trin lực lượng sn xuất. Nhưng dưới tư bản ch nghĩa không tránh khỏi quy lut cá
ln nut bé, bất bình đẳng, bt công. Chúng ta phát trin nn kinh tế hàng hóa
nhm tăng trưởng kinh tế, khuyến khích làm giàu, xóa đói giảm nghèo, gia ng về
mc sng nhưng vẫn gi gìn bn sắc văn hóa dân tộc. Chúng ta phi ch động nm
thời cơ, kiên quyết đẩy lùi và khc phc nhng nguy cơ nhằm vượt lên đ phát trin
nhanh, vng chắc và đúng hướng. Có như vậy đất nưc ta mi ngày ng phn vinh,
giàu đẹp hơn.
TÀI LIU THAM KHO
(1) Trn Đình Thảo (2010), Giáo trình Kinh tế Chính tr, NXB Chính tr Quc Gia,
Hà Ni.
(2) PGS.TS Ngô Tun Nghĩa (2019), Giáo trình Kinh tế Chính tr Mác-Lênin, NXB
Chính tr Quc Gia, Hà Ni.
(3) C.Mác Ph Ăngghen: Toàn tp, NXB. Chính tr quc gia, Hà Ni, 1993, t.23,
tr.72
(4) Wikipedia (2021), Sản xuất hang hóa”, https://bitly.com.vn/4y2flk , trích dn
ngày 23.01.2021
(5) C.Mác Ph Ăngghen: Toàn tp, NXB. Chính tr quc gia, Hà Ni, 1993, t.23,
tr.72
(6) Thi báo knh tế (2006), Kinh tế Việt Nam 61 năm sau Cách mạng,
https://bitly.com.vn/rlmo65 , trích dn ngày 23.01.2021
(7) V.I. Lê-nin: Toàn tp, Nxb. Tiến b, Mát-xcơ-va, 1977, t. 36, tr. 334
| 1/12

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------o0o------- BÀI TẬP LỚN
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI : SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ TÍNH KHÁCH QUAN TẤT
YẾU TỒN TẠI NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thị Thảo Chi
Mã sinh viên : 11200616 Số thứ tự : 07
Lớp: : Kế toán CFAB 4 Khóa : 62
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Hào
Hà Nội - Tháng 1/2021 ĐỀ BÀI
Phân tích hai điều kiện ra đời và tồn tại sản xuất hàng hóa. Liên hệ
với thực tiễn nước ta hiện nay để làm rõ tính tất yếu khách quan tồn
tại nền kinh tế hàng hóa ở nước ta.
Sản xuất hàng hóa là một khái niệm được sử dụng trong kinh tế chính trị Marx-
Lenin dùng để chỉ về “kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất không
phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà
là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán
trên thị trường1”. Đây cũng là hình thứ tổ chức sản xuất phổ biến trên thế giới và là
cơ sở cho tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Sản xuất hàng hóa đã từng tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội, là kiểu
tổ chức kinh tế phân biệt với sản xuất tự cung tự cấp ở thời kì đầu của lịch sử loài
người. Trong các hình thái xã hội trước Chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hoá chưa
phát triển. Đầu tiên nền kinh tế tự cung tự cấp xuất hiện, gắn liền với nền kinh tế tự
nhiên. Ở thời kì đó, sản phẩm của sự lao động được tạo ra chỉ để phục vụ trực tiếp
cho nhu cầu của chính người sản xuất ra chúng. Nhưng do sản xuất ngày càng phát
triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng cao cùng với việc việc xuất hiện sự
chuyên môn hóa làm cho sản xuất tự cung tự cấp dần dần bị chuyển hóa thành sản
xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa đã tồn tại từ trong chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ
phong kiến, sau đó là chế độ tư bản chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đến thời
kỳ Tư bản chủ nghĩa, nó đã phát triển tới đỉnh cao nhất, trở thành quan hệ thống trị,
phổ biển trong xã hội. Dưới Chủ nghĩa tư bản, quan hệ hàng hóa thâm nhập vào mọi
lĩnh vực, mọi chức năng của nền sản xuất xã hội, hàng hóa trở thành tế bào của nền
1 Trần Đình Thảo (2010), Giáo trình Kinh tế Chính trị, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
sản xuất xã hội. Nó mang đặc điểm dựa trên sự tách rời tư liệu sản xuất với sức lao
động trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê dưới hình thức chiếm đoạt giá trị thặng
dư. Cho đến xã hội xã hội chủ nghĩa, sản xuất hàng hoá vẫn còn quy luật giá trị -
quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá vẫn còn hoạt động, tiếp tục tồn tại và phát
triển mặc dù đặc điểm của sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa không dựa trên cơ sở
chế độ người bóc lột người mà nó nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh
thần của mọi thành viên xã hội trên cơ sở sản xuất kinh doanh.
Sản xuất hàng hóa tồn tại trên cơ sở của sự trao đổi hàng hóa và là nền tảng cho
mọi nền kinh tế. Đồng thời, sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch sử, chỉ xuất hiện
và tồn tại trong xã hội khi có những điều kiện nhất định. Theo quan điểm của chủ
nghĩa Marx thì sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa phụ thuộc vào hai điều kiện cơ bản sau:
Thứ nhất là sự phân công lao động.
Phân công lao động là “sự phân chia lao động trong xã hội thành các ngành, các
lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất
thành những ngành, nghề khác nhau”2. Hay nói cách khác, phân công lao động xã
hội là sự phân chia lao động trong xã hội vào các ngành nghề khác nhau trong đó
mỗi người chỉ sản xuất ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định. Tuy nhiên, bản
thân con người lại có nhiều nhu cầu khác nhau yêu cầu những sản phẩm khác nhau,
bởi vậy đòi hỏi họ phải đi trao đổi sản phẩm của mình với người khác để thỏa mãn
các nhu cầu đó. Đây chính là nhu cầu trao đổi sản phẩm giữa những người sản xuất.
Trao đổi hàng hóa xuất hiện dẫn đến sự ra đời của sản xuất hàng hóa. Vì thế, sự xuất
hiện và phát triển của phân công lao động xã hội là một khách quan, tất yếu.
2 PGS.TS Ngô Tuấn Nghĩa (2019), Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác-Lênin, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
Sự phân công lao động xã hội đồng thời chính là cơ sở, là tiền đề, là điều kiện
cần của quá trình sản xuất, trao đổi hàng hóa vì nó kéo theo sự phát triển của chuyên
môn hóa sản xuất. Phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất đồng thời
làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng
thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm. Theo C.Mác:“Sự phân công lao động xã hội là điều
kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hóa, mặc dầu ngược lại, sản xuất hàng hóa không
phải là điều kiện tồn tại của sự phân công lao động xã hội3”. Phân công lao động xã
hội ngày càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
Thứ hai là sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất hiểu đơn giản là
những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập và tách biệt nhất định
với nhau về lợi ích. Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất quy định. “Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở
hữu của mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ”4.
Do đó, khi những chủ thể sản xuất tạo ra sản phẩm thì sản phẩm đó thuộc quyền sở
hữu của riêng họ, họ có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh và phân phối sản
phẩm đó. Người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác buộc phải
thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, khi sự tách biệt về kinh tế giữa
những chủ thể sản xuất tồn tại trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội thì
việc trao đổi sản phẩm giữa những chủ thể khác nhau phải đảm bảo được lợi ích của
họ, nghĩa là chỉ có thể có được khi trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá và trao
đổi dưới hình thức hàng hóa. C.Mác viết: “chỉ có sản phẩm của những lao động tư
nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng
3 C.Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.72
4 . Wikipedia (2021), “Sản xuất hang hóa”, https://bitly.com.vn/4y2flk , trích dẫn ngày 23.01.2021
hóa”5. Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền
sản xuất hàng hóa ra đời, phát triển và ngày càng trở nên phong phú.
Như vậy, trong khi phân công lao động xã hội làm nảy sinh các quan hệ kinh tế
giữa những chủ thể sản xuất trong xã hội, làm cho họ có liên quan đến nhau, phải
dựa vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau; thì sự tách biệt về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể
sản xuất trong xã hội lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập với nhau. Đây là một mâu
thuẫn và mâu thuẫn này chỉ giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của
nhau. Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa. Cả hai điều kiện có vai
trò quan trọng như nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thiếu một trong hai điều kiện đó
sẽ không có sản xuất hàng hóa. Chính vì vậy, hai điều kiện này quy định sự ra đời,
tồn tại và phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hóa.
Sản xuất hàng hóa làm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao
năng suất lao động xã hội. Nó thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất nhanh chóng,
làm cho sự phân công chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác hóa chặt
chẽ hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau của những người
sản xuất hình thành thị trường trong nước và thế giới. Nó thúc đẩy nhanh quá trình
tích tụ và tập trung sản xuất, đó là cơ sở để thúc đẩy quá trình dân chủ háo, bình
đẳng và tiến bộ xã hội. Sản xuất hàng hóa gắn liền với nền kinh tế hàng hóa. Trái
với nền kinh tế tự cung tự cấp là tự sản xuất sản phẩm, tự tiêu dùng thì nền kinh tế
hàng hóa có sự phân công lao động và trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa những người
này với người khác thông qua hoạt động mua-bán trên thị trường. Nền kinh tế hàng
hóa phát triển càng mạnh mẽ và đến đỉnh cao của nó là nền kinh tế thị trường. Sản
xuất hàng hóa là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế,
khoa học, kỹ thuật, công nghệ được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và
5 C.Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.72
phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc
tế. Trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, sản xuất hàng hóa được
ví như một mắt xích quan trọng trong guồng mắt của nền kinh tế, nhất là trong xu
thế hội nhập và phát triển hiện nay, không những góp phần đắc lực vào quá trình
thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển mà còn mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác
quốc tế cả về các lĩnh vực khác. Vì thế, mỗi quốc gia phải nghiên cứu tìm ra hướng
đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp
với khu vực thế giới và thời đại.
Trong chiều dài lịch sử của nền sản xuất nước ta, sự xuất hiện của nền kinh tế
hàng hóa là một điều tất yếu, khách quan. Theo quan điểm của C.Mác: Kinh tế hàng
hóa không phải là một phương thức sản xuất độc lập mà là một hình thức tổ chức
kinh tế tồn tại trong các phương thức xã hội. Với phạm vi và mức độ khác nhau, tuy
cùng là nền kinh tế hàng hóa nhưng bản chất của xã hội quy định đặc điểm kinh tế
hàng hóa của xã hội đó. Thời kì phong kiến, trình độ lao động, năng suất lao động
nước ta chưa cao, chính sách bế quan ở một số triều đại kiềm hãm sự lưu thông hàng
hóa. Sở hữu về tư liệu lao động nằm trong tay một số ít người ở tầng lớp trên. Tóm
lại, ở thời kì này, nền sản xuất hàng hóa ở nước ta mới chỉ xuất hiện, chưa phát triển.
Trong thời kì bao cấp trước đổi mới, cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao
cấp kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa, biến hình thức tiền lương thành
lương hiện vật, thủ tiêu động lực sản xuất, thủ tiêu cạnh tranh và lưu thông thị trường.
Sự nhận thức sai lầm của nước ta thời kì này đã khiến nền kinh tế suy sụp, sức sản
xuất hàng hóa tuột dốc không phanh. Từ năm 1976 đến 1985, thu nhập quốc dân
tăng rất thấp, có năm còn bị giảm: Năm 1977 tăng 2,8%, năm 1978 tăng 2,3%, năm
1979 giảm 2%, năm 1980 giảm 1,4%, bình quân 1977-1980 chỉ tăng 0,4%/năm, thấp
xa so với tốc độ tăng trưởng dân số6. Đứng trước tình hình trên, tháng 12/1986, tại
đại hội VI, Đảng và Nhà nước ta đã có quyết định quan trọng trong việc đổi mới nền
kinh tế, thay thế nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bằng nền kinh tế sản xuất
hàng hóa. Và từ đó, nền kinh tế sản xuất hàng hóa đã trở thành nền tảng, động lực
thúc đẩy công nghiệp hóa – hiện đại hóa và phát triển bền vứng đất nước; giúp nền
kinh tế của nước ta từng bước hội nhập với sự đi lên không ngừng của khu vực và
thế giới, đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Sự chuyển mình của nền kinh tế Việt Nam không phải là ngẫu nhiên, mà đó là tất
yếu khách quan của lịch sử bởi vì trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở
nước ta những điều kiện chung của nền kinh tế hàng hóa vẫn còn:
- Nền kinh tế hàng hóa, hay nói cách khác, nền kinh tế thị trường là sản phẩm, là
thành quả chung trong sự phát triển của xã hội loài người. Sự phát triển của xã hội
loài người được đánh dấu bằng nhiều tiêu chí, trong đó có tiêu chí về sự phát triển
kinh tế ở những thời kỳ, những giai đoạn khác nhau. Từ chỗ ban đầu thực hành một
“nền kinh tế cướp đoạt” (theo cách nói của Ph. Ăng-ghen), con người đã phải trải
qua hàng vạn năm để biết dùng lửa nấu chín thức ăn và sưởi ấm, biết thuần hóa súc
vật, biết chăn nuôi, biết làm nghề nông, biết chế tạo ra những vật phẩm đơn giản đáp
ứng nhu cầu đơn giản và rất hạn chế trong một phạm vi cộng đồng nhỏ hẹp. Dần
dần, khi một cộng đồng có thừa một loại sản phẩm nào đó đã được làm ra nhưng lại
cần đến những loại sản phẩm khác mà cộng đồng khác dư thừa thì sự trao đổi bắt
đầu diễn ra. Sản xuất phát triển thì sự trao đổi ấy diễn ra ngày càng thường xuyên
hơn trên phạm vi ngày càng mở rộng hơn. Như vậy, từ hình thái kinh tế tự nhiên,
nhân loại chuyển dần lên một hình thái kinh tế cao hơn là sản xuất hàng hóa - đó là
kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế hàng hóa ra đời là một bước tiến lớn trong lịch sử nhân
6 Thời báo kịnh tế (2006), Kinh tế Việt Nam 61 năm sau Cách mạng, https://bitly.com.vn/rlmo65 , trích dẫn ngày 23.01.2021
loại, đánh dấu sự phát triển của nền kinh tế, cho tới nay nó đã phát triển và đạt tới
trình độ rất cao đó là nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì thế, trong chiều dài lịch sử
phát triển của nền kinh tế Việt Nam, việc tồn tại nền kinh tế hàng hóa là một tất yếu khách quan.
- Phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở của trao đổi chẳng những không
mất đi, trái lại ngày một phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, sự chuyên môn
hóa và hợp tác hóa lao động đã vượt khỏi biên giới quốc gia và ngày càng mang tính
quốc tế. Phân công lao động xã hội đã phá vỡ các mối quan hệ truyền thống của nền
kinh tế tự nhiên khép kín, tạo cơ sở thống nhất, phụ thuộc lẫn nhau giữa những người
sản xuất vào hệ thống của hợp tác lao động. Sự phân công lao động của ta đã ngày
càng chi tiết hơn đến từng ngành, từng cơ sở và ở phạm vi rộng hơn nữa là toàn bộ
nền kinh tế quốc dân, hiện nay ta đã có hàng loạt các thị trường được hình thành từ
sự phân công lao động đó là : thị trường công nghệ, thị trường chứng khoán, thị
trường may mặc,…… Tạo đà cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển
giúp ta nhanh chóng hoà nhập được với kinh tế trong khu vực và thế giới.
- Trong nền kinh tế đã và đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất và sản phẩm lao động như sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể của những
người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, ,…Chế độ xã hội hoá
sản xuất giữa các ngành, các xí nghiệp trong cùng một hình thức sở hữu vẫn chưa
đều nhau. Sở dĩ như vậy là do cơ cấu kinh tế của ta giờ là cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần, sự tồn tại của các thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan.
Từ góc độ lịch sử chúng ta thấy, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, suốt
một thời gian dài, cả về mặt lý luận và thực tiễn, người ta đã đem đối lập một cách
tuyệt đối và siêu hình chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản; coi những gì có trong
chủ nghĩa tư bản thì chủ nghĩa xã hội phải xóa đi hết và ngược lại, trong đó có kinh
tế thị trường vốn là thành quả phát triển của lịch sử loài người. Cần nhận thức rõ
rằng, xã hội cộng sản với tính cách một hình thái kinh tế - xã hội không thể có sẵn
mọi thứ trong lòng xã hội tư bản nhưng cũng đã có những tiền đề về nhiều mặt quan
trọng cho sự ra đời của một hình thái kinh tế - xã hội mới. Một trong những tiền đề
ấy là nền kinh tế thị trường đã rất phát triển nhờ sự phát triển hết sức cao và mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất. Chính V.I. Lê-nin cũng đã sớm nhận ra sai lầm nóng vội
khi đề ra và thực hiện “Chính sách cộng sản” thời chiến nên đã kịp thời sửa chữa
sai lầm ấy bằng cách đề ra “Chính sách kinh tế mới” (NEP) để nước Nga chấp nhận
phát triển nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần và bước đầu đi vào nền kinh tế
thị trường. Về điều này, V.I. Lê-nin đã khẳng định mạnh mẽ rằng, “chúng ta không
hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ
sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được”7.
Việc dứt khoát từ bỏ chế độ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp để chính thức đi
vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn khách quan,
sáng tạo, độc lập và phù hợp với xu thế vận động chung của nền kinh tế thế giới hiện
đại. Chúng ta thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm
xây dựng một đất nước tất cả đều con người và do con người. Một nền kinh tế như
vậy, một mặt, tôn trọng và tuân theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường;
nghĩa là sản xuất và kinh doanh phải thu được lợi nhuận, phải chấp nhận cạnh tranh
theo pháp luật để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển; mặt khác, quan trọng hơn
là nền kinh tế ấy phải tạo được một lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trong
đó con người vừa phải là động lực, vừa phải là mục tiêu của sự phát triển. Đồng
thời, nền kinh tế thị trường mà chúng ta chủ trương xây dựng phải được hướng dẫn
bởi các nguyên tắc thuộc bản chất của chủ nghĩa xã hội về quyền sở hữu, về cách
thức tổ chức sản xuất và về phương thức phân phối thành quả lao động.
7 V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t. 36, tr. 334
Đảng và Nhà nước ta chủ trương và nhất quán vận hành nền kinh tế thị trường
chủ yếu bằng cơ chế thị trường và thông qua cơ chế thị trường nhưng coi trọng sự
quản lý và sự điều tiết của Nhà nước, thực hiện phân phối công bằng, nhưng không
cào bằng thành quả thu được cho mọi thành viên để không ai, kể cả những người
yếu thế, bị bỏ lại phía sau. Đó chính là định hướng cực kỳ quan trọng cho toàn bộ
quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự kết hợp các mặt
này hoàn toàn không phải là sự lắp ghép một cách tùy tiện, chủ quan, duy ý chí như
một số người ngộ nhận hoặc cố tình quy kết. Đây là sự lựa chọn dựa trên cơ sở đúc
kết những kinh nghiệm quý báu đã được thực tiễn lịch sử xác nhận; nắm bắt xu thế
khách quan của thời đại, nhằm tiếp thu những gì đã được coi là tốt nhất của kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa; tiếp thu một cách chọn lọc thành tựu của văn minh nhân
loại; phát huy vai trò tích cực và các động lực của kinh tế thị trường trong việc thúc
đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, áp dụng nhanh nhất các tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, đồng thời cũng để từng bước hạn chế và dần
dần khắc phục những khiếm khuyết, những bất công mà nền kinh tế ấy đã không thể
làm được từ khi nó ra đời cho đến nay.
Nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa của nước ta nói riêng, có khả năng kích thích tính độc lập, sự năng động, tính
hiệu quả, sự tự do sáng tạo, năng lực phát minh, sáng chế và sự áp dụng nhanh chóng
các công nghệ mới nhất của con người vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sở dĩ kinh tế thị trường có thể làm được như vậy là vì trong nền kinh tế này sự cạnh
tranh để tồn tại và phát triển phụ thuộc rất nhiều vào những khả năng ấy. Tất cả
những khả năng ấy sẽ không phát huy tác dụng nếu thiếu sự tự do được luật pháp
bảo vệ và xã hội khuyến khích. Trong điều kiện thế giới toàn cầu hóa hiện nay, để
phát triển nhanh và lành mạnh thì kinh tế của một nước không chỉ cần có thị trường
nội địa mà còn cần cả thị trường quốc tế rộng lớn. Do vậy, bên cạnh việc tạo dựng
niềm tin của người tiêu dùng trong nước, phải tranh thủ được niềm tin của người tiêu
dùng ở ngoài biên giới quốc gia. Điều này đòi hỏi người sản xuất, kinh doanh phải
người có văn hóa và đạo đức kinh doanh bên cạnh những năng lực và nhiều
phẩm chất quan trọng khác. Mỗi người đều phải có trách nhiệm với bản thân, với
cộng đồng xã hội và với đất nước; bởi vì con người có văn hóa trong nền kinh tế
chính là chìa khóa mở ra cơ hội giành thắng lợi trong cạnh tranh công bằng, lành
mạnh, qua đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đều sử dụng cỗ xe kinh tế hàng hóa để phát
triển lực lượng sản xuất. Nhưng dưới tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi quy luật cá
lớn nuốt cá bé, bất bình đẳng, bất công. Chúng ta phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhằm tăng trưởng kinh tế, khuyến khích làm giàu, xóa đói giảm nghèo, gia tăng về
mức sống nhưng vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Chúng ta phải chủ động nắm
thời cơ, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục những nguy cơ nhằm vượt lên để phát triển
nhanh, vững chắc và đúng hướng. Có như vậy đất nước ta mới ngày càng phồn vinh, giàu đẹp hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Trần Đình Thảo (2010), Giáo trình Kinh tế Chính trị, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
(2) PGS.TS Ngô Tuấn Nghĩa (2019), Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác-Lênin, NXB
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
(3) C.Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.72
(4) Wikipedia (2021), “Sản xuất hang hóa”, https://bitly.com.vn/4y2flk , trích dẫn ngày 23.01.2021
(5) C.Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.72
(6) Thời báo kịnh tế (2006), Kinh tế Việt Nam 61 năm sau Cách mạng,
https://bitly.com.vn/rlmo65 , trích dẫn ngày 23.01.2021
(7) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t. 36, tr. 334