Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
18 trang 12 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

55 28 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA MARKETING
-------***-------
BÀI T P L N
MÔN NG H CHÍ MINH TƯ TƯỞ
ĐỀ BÀI:
TÌM HIỂU VÀ PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CA H CHÍ MINH V
CU NN KINH T TRONG TH I K QUÁ ĐỘ LÊN CH NGHĨA XÃ
HI VÀ S V N D NG C NG C NG S N VI T NAM TRONG ỦA ĐẢ
XÂY D NG N N KINH T C TA HI N NAY. NƯỚ
H và tên sinh viên: Đoàn Ánh Ngọc
Lp tín ch : LLTT1101(122)_26
Mã SV: 11214293
Ging viên: TS. Nguy n Chí Thi n
.......................................................................................................................... .
- 2023 HÀ NỘI
1
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
MC L C
LI M ĐẦU ................................................................................................................ 2
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞ CƠ CẤNG H CHÍ MINH V U NN KINH T TRONG
THI K QUÁ ĐỘ LÊN CH NGHĨA XÃ HỘI ..................................................... 3
I. Quan điể nghĩa Mác cơ c quá độm ca ch - Lênin v u nn kinh tế trong thi k
lên ch nghĩa xã hội. .................................................................................................... 3
1. Đặ quá độ nghĩa xã hộc điểm nn kinh tế trong thi k lên ch i. ........................ 3
2. Thành ph n kinh t trong th i k lên ch ........................... 4 ế quá độ nghĩa xã hội.
II. Tư tưở cấ quá đ nghĩa ng H Chí Minh v u nn kinh tế trong thi k lên ch
xã h ........................................................................................................................... 6 i.
1. Quan điể quá đm ca H Chí Minh v nn kinh tế Vit Nam trong thi k lên
ch i nh -1954. ................................................................. 6 nghĩa xã hộ ững năm 1945
2. Quan điể quá đm ca H Chí Minh v nn kinh tế Vit Nam trong thi k lên
ch i nh .................................................................... 7 nghĩa xã hộ ững năm sau 1954.
CHƯƠNG 2: SỰ ỦA ĐẢ VN DNG C NG CNG SN VIT NAM TRONG
XÂY D NG N N NAY N KINH T C TA HI NƯỚ ............................................. 10
I. Quan điểm được Đảng Cng Sn Vit Nam vn dng thc tin vào vic xây dng
nn kinh tế nước ta hin nay. ..................................................................................... 10
1. Nh m và quá trình v n d ng c ng C ng S n Vi t Nam. ......... 10 ững quan điể ủa Đả
2. Đặ quá độc điểm nn kinh tế Vit Nam thi k lên xã h i ch nghĩa. ............ 14
II. Kết qu m c khi v n d ng nh ững quan điể a H Chí Minh. .................................. 15
TNG KT .................................................................................................................. 16
TÀI LIU THAM KH O ........................................................................................... 17
2
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
LI M ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ đại, nhà chính trị, quân sự thiên tài, nhà
người thầy của ách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa C
thế giới, Người đ cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta đến thắng lã mđường ợi. Trong
công cuộc đổi mới xây dựng đất nước hiện nay, tưởng vẫn ỉ namnày kim ch cho
cách mạng Việt Nam. T ư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đèn soi đường cho sự nghiệp đổi
mới. Chính vậy, tìm hiểu tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa to lớn. vô cùng
Tuy nhiên, ên th ó ý kitr ực tế c ến cho rằng Hồ Chí Minh không phải là nhà kinh
tế, chúng ta thấy rằng cần phải tập trung nhiều hơn nữa trí lực và sức lực để nghiên cứu
một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn tưởng kinh tế của Người để làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận đặt ra, lý giải những quan niệm chưa đúng, hiểu rõ hơn và vận dụng đúng
đắn tư tưởng của Người vào công cuộc đổi mới xây dựng đất nước.
Một trong những vấn đề ý nghĩa thiết thực đối với chúng ta hiện nay xây
dựng cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách kinh tế nhiều
thành phần đã được thực tế chứng minh là đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của
đất nước. Tuy nhiên chúng ta xác định những thành phần kinh tế nào? chế như
thế nào để các thành phần kinh tế hoạt động một cách cân đối nhịp nhàng đúng định
hướng hội chủ nghĩa lại vấn đề không phải đã lời giải đáp trọn vẹn. Để giải
quyết vấn đề đó yêu cầu chúng ta phải luôn sự tổng kết thực tiễn nghiên cứu
luận. Chính thế quan tâm tới vấn đề: "tưởng Hồ Chí em trình bày bài tiu luận
Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên ch a xã hủ nghĩ ội. Sự vận dụng tư tưởng
đó vào công cuộc ựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay"xây d .
3
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞ CƠ CẤNG H CHÍ MINH V U
NN KINH T TRONG TH I K QUÁ ĐỘ LÊN CH
NGHĨA XÃ HỘI
I. m c a ch - Lênin v u n n kinh t trong th i k quá Quan điể nghĩa Mác cấ ế
độ lên ch i. nghĩa xã hộ
1. n kinh t i k á lên ch ngh a xã h i. Đặc điểm n ế trong th qu độ ĩ
Để chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế hội khác - -
phải trải qua giai đoạn trung gian, C.Mác Ph.Ăngghen gọi đó thời kỳ quá độ. C.Mác
khẳng định giữa xã hội bản chủ nghĩa chủ nghĩa cộng sản là một thời kỳ chuyển
bi quến cách mạng từ xã hội này sang xã hội khác. Thích ứng với thời kỳ ấy sẽ là một á
trình chuy chuyên ển đổi chính trị, trong đó nhà nước không khác hơn một ch độ ế
chính cách mạng của giai cấp vô sản. Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời
trong quá trình phát triển qua các giai đoạn, từ thấp đến cao: giai đoạn thấp ơn của chủ h
nghĩa cộng sản; giai đoạn cao hơn của chủ nghĩa cộng sản. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa cộng sản, giai cấp vô sản phải thiết lập được sự thống trị của mình thực hiện
chuyên chính. , các vthời kỳ Mác Ăngghen trong bối cảnh của thế kỷ XIX ấn đ
kinh t ình chuy óa ế của quá tr ển ện hđổi chưa được thực hi ở phương Tây.
V.I.Lênin đã kế thừa phát huy tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời
cụ thể hoá việc phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba giai đoạn.
Giai đoạn thấp hơn của chủ nghĩa cộng sản được gọi là chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn cao
được gọi là chủ nghĩa cộng sản hay xã hội cộng sản. Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu và lâu dài, V.I.Lênin đ ằng: “ã viết r cần phải có một thời
kỳ lâu dài từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội cải tổ sản xuất một việc khó
khăn, vì vậy, phải có những thời gian mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong
mọi lĩnh vực của cuộc sống, vậy phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt lâu
dài mới có thể có được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu tư sản. Bởi vậy
Mác nói thời kỳ chuyên chính vô sản, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội”.
V.I.Lênin phân tích đặc điểm kinh tế của các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
từ đó cho rằng có nhiều kiểu quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là kiểu “quá độ” của các
nước đã qua chủ nghĩa tư bản và “quá độ” của những nước “bỏ qua giai đoạn phát triển
4
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
tư bản chủ nghĩa” đi lên chủ nghĩa xã hội. Những nước bỏ qua tư bản chủ nghĩa lên chủ
nghĩa hội chưa tiền đề vật chất của chủ nghĩa hội để xây dựng bảo vđất
nước theo mục tiêu đã đặt ra phải đường lối đúng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản chính quyền phải do nhân dân quản lý. Tránh thái độ chủ quan, nóng vội, “đốt
cháy giai đoạn”, tuân theo quy luật khách quan để đạt được thắng lợi toàn diện trên mọi
lĩnh vực.
Ông cho rằng các ốc gi trong thời kỳ quá độ phải chấp nhận nền kinh tế qu a
bản chủ nghĩa, coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là một thành phần trong toàn bộ nền kinh
tế đất nước, “phải lợi dụng chủ nghĩa bản nhà nước làm mắt xích trung gian giữa
nền tiểu sản xuất chủ nghĩa hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp,
phương thức để tăng lực lượng sản xuất”. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội giai
đoạn không thể bỏ qua trong việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản, dù quá độ kiểu này hay
kiểu khác đều là quy luật và xu hướng tất yếu của nhân loại trong thời đại ngày nay.
2. ành ph n kinh t t quá lên ch ngh a xã h Th ế rong thi k độ ĩ i.
Quy lu chung cật kinh tế ủa các quốc gia dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa hội phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Chính sách kinh tế mới do Leenin
đưa ra nhằm chuyển đổi nền kinh tế. Đồng thời, Lênin đưa ra các thành phần kinh tế chủ
yếu trong thời kỳ quá độ lên CNXH là: Kinh tế nông n kiểu gia trưởng; sản xuất hàng
hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới, Lênin luôn đánh giá cao vị trí,
vai trò của thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước dưới hình thức nhượng, hợp tác xã, nhân đại lý, cho nhân thuê sở sản
xuất... được xem “chiếc cầu nhỏ vững chắc xuyên qua” chủ nghĩa bản để đi vào
chủ nghĩa xã hội. Phát triển chủ nghĩa bản nhà nước không chỉ là biện pháp “quá độ
đặc biệt” còn khâu “trung gian” để chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa
xã hội.
Về kinh tế , điểm xuất phát trong quá trình xây dựng nền sản xuất hàng hóa nhỏ
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đáp ứng lợi ích kinh tế cho đại đa số nông
dân, trước hết từ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dựa o khôi phục và phát
triển kinh tế tiểu nông để khôi phục và phát triển đại công nghiệp. Ngay Đại hội X Đảng
C Sộng ản Bolshevik (bôn-sê-vích) Nga, Lênin đã yêu cầu chính quyền viết phải
5
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
nhanh chóng phát triển nền sản xuất tiểu nông bằng cách khuyết khích nền kinh tế nông
dân cá thể với những biện pháp “quá độ”, những hình thức “trung gian” có khả năng cải
tạo nông dân, đổi mới nông thôn và chuyển đổi nền kinh tế tiểu nông của những người
nông dân thể thành nền sản xuất tập thể có tính hội chủ nghĩa, diễn ra một cách
tuần tự, có tính kế thừa, thận trọng.
Về kinh tế , khi chính sách kinh tế mới được áp dụng trong thực bản nhân
tiễn nước Nga, Lênin hiểu thể chủ nghĩa bản sống lại, nhưng ông cho rằng không
sợ nó, kiêu gọi Chính quyền viết cần sử dụng nhân nông dân, thợ thcông,
thương nhân…để phát triển kinh tế đất nước, bởi vì tư bản tư nhân sẽ tạo ra nhiều hàng
hóa tiêu dùng cho xã hội - cơ sở ổn định chính trị. Kinh tế chủ nghĩa xã hội, Lênin đánh
giá rất cao vị trí, vai trò của thành phần kinh tế này, đây là xương sống của nền kinh tế
-những mạch máu kinh tế bản như công nghiệp, ngân hàng, tài chính tín dụng luôn
nằm trong tay chính quyền Xô viết, thuộc sở hữu nhà nước. Khi chính sách kinh tế mới
được thực hiện, Lênin chủ trương các nghiệp quốc doanh hoạt động theo chế độ tự
hoàn vốn, chế độ hoạch toán kinh tế, các nghiệp này được giao quyền tự chủ tự
chịu trách nhiệm vật chất với kết quả hoạt động của mình.
Về thứ tự các thành phần kinh tế, Lênin đã ctình sắp xếp c thành phần kinh
tế theo thứ tự, cấp độ tăng lên về tính chất xã hội chủ nghĩa của mỗi thành phần kinh tế;
tỷ trọng của các thành phần kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử; sự biến đổi tỷ trọng các
thành phần kinh tế phải theo ớng xã hội chủ nghĩa; tính đan xen, mâu thuẫn, đấu tranh
và thống nhất giữa các thành phần kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế bền vững, tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của đất nước và tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội.
6
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
II. Tư tưởng H Chí Minh v cơ cấu n n kinh t trong th i k ế quá độ lên ch nghĩa
xã h i.
1. Quan điể m c a H í Minh v n n kinh t Ch ế Vit Nam trong th i k quá lên ch độ
nghĩa xã hi nhng năm 1945-1954.
Chủ tịch Hồ Chí Minh một nhà chính trị bàn về kinh tế, tưởng kinh tế của
Người cơ bản là tư tưởng kinh tế chính trị. Trên cương vị lãnh đạo quốc gia, Hồ Chí -
Minh đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển kinh tế ở một nước
nông nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành phần kinh tế một bộ phận đặc sắc
trong tư tưởng kinh tế của Người và vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với đất nước ta
trong công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ
nghĩa hiện nay.
cấu các thành phần của một nền kinh tế phụ thuộc vào sự tồn tại của các hình
thức sở hữu, các kiểu quan hệ sản xuất, vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
của sản xuất hàng hoá thời kỳ quá độ. Như Lênin đã chỉ rõ: Nền kinh tế trong thời kỳ
quá độ, xét về toàn bộ, nó là nền kinh tế quá độ, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do
đó sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan. Mỗi thành
phần kinh tế còn phát huy tác dụng tích cực, có đóng góp vào quốc kế dân sinh thì không
thể dùng mệnh lệnh hành chính mà xoá bỏ ngay một lúc được.
Khi nghiên cứu Chính sách kinh tế mới của Lênin để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ,
ở vùng tự do của ta, còn tồn tại 6 thành phần kinh tế.
Trong tác phẩm " viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã nêu rõ "Thường th c chính tr
bản chất của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa và đã cụ thể hoá các thành phần kinh tế
bao gồm:
- . Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô
- h Kinh tế quốc doan
- p Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấ
- . Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ
- . Kinh tế tư bản của tư nhân
- . Kinh tế tư bản quốc
Đặc điểm mới của nền kinh tế Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là sự
7
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần. Đặc biệt, bên cạnh các thành phần kinh tế
hội chủ nghĩa thì có sự tồn tại của thành phần là kinh tế phong kiến. Đây là thành phần
kinh tế mang tính đặc thù, thành phần kinh tế này phản ánh trình độ phát triển kinh tế
thấp với chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất và trong hoàn cảnh đặc thù yêu cầu phải
tiếp tục kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, ch mạng dân chủ.
Trên sở nhận thức về tính quy luật chung, tính đặc thù trong nền kinh tế của từng
nước. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế
cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và
trong từng giai đoạn cụ thể. Về cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954,
bên cạnh đảm bảo tính quy luật chung về đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa hội sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần với các thành
phần kinh tế phổ biến, kinh tế quá độ thì vẫn tồn tại thành phần kinh tế mang tính đặc
thù. Như vậy, đây chính điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, đã nhận thức vị trí, vai
trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế và có sơ sở để hoạch định chính sách
đảm bảo ổn định nền kinh tế và góp phần quan trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi.
2. Quan điể m c a H í Minh v n n kinh t Ch ế Vit Nam trong th i k quá lên ch độ
nghĩa xã hi nhng năm sau 1954.
Sau năm 1954 miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, bỏ qua giai đoạn phát triển bản chủ
nghĩa từ xuất phát điểm rất thấp, với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn
phá nặng nề. sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn. Trình độ, ng suất lao động thấp,
đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật vừa ít về số lượng, vừa hạn chế về năng lực và kinh
nghiệm điều hành, quản lý. Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa hội trong điều
kiện đất nước bị chia cắt làm hai miền, vừa có hoà bình, vừa chiến tranh. Tình hình
thế giới phức tạp. Hệ thống xã hội chnghĩa bộc lộ một số khó khăn, bất đồng, mâu
thuẫn. Vấn đề luận về mô hình, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chưa sáng rõ. Từ
thực tiễn miền Bắc như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ ra các hình thức
sỡ hữu cơ bản trong nền kinh tế miền Bắc, bao gồm: “Sở h c t c là c a toàn ữu Nhà nướ
dân; s h u h p tác t c s h u t p th c ng; s h u c i lao ủa nhân dân lao độ ủa ngư
động riêng l, m u sột ít tư liệ n xut thuc s hu của nhà tư bản[2]. Với sự đa dạng
của quan hệ sở hữu về liệu sản xuất, Người đã xác định rõ những thành phần kinh tế
đang tồn tại và hoạt động ở miền Bắc: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế
khác nhau:
8
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
A- . Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân)
B- . Các hợp tác xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH)
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác
xã, tức là nữa CNXH).
D- . Tư bản của tư nhân
E- bản của Nhà ớc (như Nhà nước hùn vốn với bản nhân để kinh
doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên
kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa
bả n [3].
Như vậy, cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở Miền Bắc Việt Nam
sau năm 1954 so với cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945 1954 ở những điểm -
thống nhất và có những điểm thay đổi sau:
- Điểm thống nhất: Trong nền kinh quá độ lên chủ nghĩa hội thì đặc điểm kinh
tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội ở miền Bắc Việt Nam là sự tồn tại
khách quan của các thành phần kinh tế. Và tồn tại các thành phần kinh tế phổ biến: Kinh
tế quốc doanh; Kinh tế của nhân, nông dân thủ công nghệ; bản của nhân.
Thành phần kinh tế quá độ: Các hợp tác xã; Tư bản của Nhà nước.
- i: Điểm thay đổ
Mt , khác với thời kháng chiến, trong chế độ dân chủ mới không còn thành
phần kinh tế phong kiến. Cải cách ruộng đất đã triệt tiêu chế độ sở hữu phong kiến về
ruộng đất. Người nông dân đã trở thành người cày có rộng, chủ sở hữu ruộng đất. Điều
này một lần nữa khẳng định lại nhận định của Hồ Chí Minh: “làm sản dân quyền
cách mạng thổ địa cách mạng để đi tới hội cộng sản”[4]. Muốn đi tới chủ nghĩa
cộng sản thì dân tộc phải độc lập và dân cày phải có ruộng.
Hai là, các thành phần kinh tế thay đổi về vị trí và vai trò trong nền kinh tế. Kinh
tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, cần phải ưu
tiên phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho CNXH
thúc đẩy việc cải tạo hội chủ nghĩa. Như vậy, vị trí, vai trò của thành phần kinh tế
quốc doanh đã có bước phát triển mới, từ chỗ có tính chất chủ nghĩa xã hội đã trở thành
thành phần kinh tế thực sự đại diện cho chủ nghĩa xã hội có vai trò “lãnh đạo” trong nền
kinh tế và đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế. "Kinh tế quốc
doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng
ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó".
9
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
Đối với thành phần kinh tế quá độ kinh tế hợp tác xã; bản của Nhà nước trở
nên phố biến, vững chắc phạm vi mở rộng hơn. Kinh tế hợp tác xã, Người khẳng
định, kinh tế hợp tác là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; Nhà nước
cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn giúp đỡ cho phát triển. Hợp tác hóa nông
nghiệp khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo chủ nghĩa hội miền Bắc. Kinh
nghiệm qua chứng tỏ rằng hợp tác hóa nông nghiệp nước ta, cần phải trải qua hình
thức tổ đổi công và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đó là việc rất cần thiết. Chúng ta
phát triển từng bước vững chắc tổ đổi công hợp tác thì hợp tác hóa nông nghiệp
nhất định thành công. Tư bản của Nhà nước, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đối vi nhng
nhà sản công thương, Nhà nướ liệc không a b quyn s hu v u sn xut
ca c i khác c a h ; mà ra s ng d n h ho ng nh m làm l i cho qu c k dân ức hướ ạt độ ế
sinh, phù h p v i k ho ch kinh t c ng th c khuy n khích và ế ế ủa Nhà nước. Đồ ời Nhà nướ ế
giúp đỡ nghĩa xã hộ ức công hợ h ci to theo ch i bng hình th p doanh nhng
hình th c c i t o khác [5]. Kinh tế bản Nhà nước, được Nhà ớc khuyến khích,
giúp đỡ các nhà bản đi theo chủ nghĩa hội hướng dẫn hoạt động kinh tế theo
một kế hoạch thống nhất. Đây là thành phần kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội miền Bắc nhằm hướng thành phần kinh tế này quay trở lại phục vụ chủ
nghĩa xã hội. Kinh tế của nhân, nông dân và thủ công nghệ. Hồ Chí Minh cho rằng,
Đối v i làm thới ngườ công và lao độ khác, Nhà nướng riêng l c bo h quy n s h u
v liệu sn xu t c a h , ra s ức hướ ẫn và giúp đỡng d h c i ti ến cách làm ăn, khuyến
khích h t c h p tác s n xu t theo nguyên t c t nguy y m nh cu ch n[6]. “Đẩ c
ci t o xã h i ch i v i thành ph n kinh t nghĩa đố ế cá th c a nông dân, th th công,
những người lao động riêng l khác đi v i thành ph n kinh t ế bản tư doanh, đồng
thi nó m mang và tăng cườ ực lượng l ng ca thành ph n kinh t qu ế ốc doanh, thúc đẩy
vic phát trin kinh t theo ch . ế nghĩa xã hội[7]
Những nhận định của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ n
chủ mới Miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 đã cho thấy sự vận dụng sáng tạo của
Người khi kế thừa quan điểm của V.I.Lênin o thực tiễn đất nước quá độ lên chủ nghĩa
hội Việt Nam, phù hợp với đặc thù lịch sử, kinh tế, chính trị, hội đảm bảo
tính quy luật chung, phản ánh tính đặc thù của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ các
thành phần kinh tế phổ biến, thành phần kinh tế quá độ đan xen. Những nhận thức đó có
ý nghĩa cùng to lớn về luận, đây skhoa học để Hồ Chí Minh đưa ra các
quyết sách đúng đắn trên lĩnh vực kinh tế trong quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc
trước đây và trên phạm vi cả nước.
10
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
CHƯƠNG 2: SỰ ỦA ĐẢ VN DNG C NG CNG SN
VI T NAM TRONG XÂY D NG N N KINH T NƯỚC
TA HI N NAY
I. Quan điểm được Đảng Cng S n Vi t Nam v n d ng th c ti n vào vi c xây d ng
nn kinh t c ta hiế nướ n nay.
1. ng quan à quá trình v n d ng c a ng S n Vi . Nh điểm v Đảng C t Nam
Thực tiễn hơn 30 năm Việt Nam phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta đã có sự lựa chọn sáng suốt, đúng đắn khi quyết định
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, tháng 12 năm 1986. Đã tạo ra bước đột phá về tư duy đổi mới thể chế, cơ chế trong
quản kinh tế và đã vận dụng một cách sáng tạo nhất quan điểm của Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tùy
vào từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn
từng thành phần kinh tế cho phù hợp, nhưng quan điểm nhất quán trong suốt thời kỳ đổi
mới cho đến nay, Đảng ta khẳng định phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, dựa
trên nhiều hình thức sở hữu.
Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tháng 12 năm 1986 Đại hội đổi -
mới, Đảng xác định: “Xuất phát t s đánh giá nhữ ềm ng tuy phân tán nhưng ng ti
rt quan tr ng trong nhân dân, c v s ức lao động, k thu t, ti n v n, kh năng tạo vic
làm, chúng ta ch i vi trương: đi đôi vớ c phát tri n kinh t c doanh, kinh t t p th ế qu ế ,
tăng cườ ồn tích lũy tậng ngu p trung c c và tranh th v c, c n có ủa Nhà nướ ốn ngoài nướ
chính sách s d ng và c i t ạo đúng đn các thành ph n kinh t ế khác[8]. Đồng thời chỉ
ra: Ở nước ta các thành phần kinh tế đó là: “Kinh tế nghĩa; Các thành phầ xã hi ch n
kinh t khác g m: Kinh t u s n xu t hàng hóa (th ế ế ti th công, nông dân cá th , nh ng
ngườ i buôn bán kinh doanh d ch v th); kinh tế bản nhân; kinh tế tư bả n
nhà nước dưới nhi u hình th c, mà hình th ức cao công tư hợp doanh; kinh t t nhiên, ế
t c p, t túc trong m t b ph ng bào dân t c thi u s Tây Nguyên và các vùng ận đồ
núi cao khác[9].
11
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) nêu rõ: Trong nền kinh tế thị
trường, với quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo đảm, từ ba loại sở hữu bản,
sẽ hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng:
Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt;
kinh tế tập thể, với hình thức phổ biến là hợp tác xã, phát triển rộng rãi và đa dạng trong
các ngành, nghề với quy mô và mức độ tập thể hóa khác nhau, trên cơ sở tự nguyện góp
vốn, góp sức của những người lao động. Kinh tế thể được khuyến khích phát triển
trong các ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn. Kinh tế tư bản nhân được phát triển
không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp
không cấm. Kinh tế gia đình không phải là một thành phần kinh tế độc lập nhưng được
khuyến khích phát triển mạnh. Nhà nước nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần,
không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp, không ép tập thể h
liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh.
Đại hội VIII (năm 1996) Đảng ta tiếp tục khẳng định: Thực hiện nhất quán, lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực hiện chủ trương,
chính sách đối với từng thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác mà nòng
cốt là các hợp tác xã; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá chủ, tiểu chủ; kinh tế tư bản
nhân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX ăm 2 nêu ra 6 thành phần kinh tế (n 001)
bản. Đảng ta ghi rõ: Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật. Đại hội cũng chỉ các thành
phần kinh tế ở nước ta trong giai đoạn này gồm: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh
tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài.
Đại hội X ăm 200 của Đảng khẳng định, ở Việt Nam có ba chế độ sở hữu là (n 6)
toàn dân, tập thể nhân, trên sở đó hình thành nhiều thành phần kinh tế gồm:
Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế nhân; kinh tế bản nhà nước; kinh tế có
vốn đầu nước ngoài hư vậy Đại hội X chỉ khác Đại hội IX chỗ đã sát nhập hai . N
thành phần kinh tế kinh tế thể, tiểu chủ kinh tế bản bản tư nhân thành một
thành phần đó là kinh tế tư nhân, là vì hai thành phần này có điểm chung giống nhau là
đều dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về TLSX; mặt khác chúng ta xóa đi sự mặc cảm đối
với kinh tế tư bản tư nhân và nó sẽ thuận hơn khi nói đến đảng viên được làm kinh tế tư
nhân.
12
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
Tại Đại hội XI (năm 2011), gồm có 4 thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà
nước; Thành phần kinh tế tập thể; Thành phần kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ, tư bản tư nhân) và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tại Đại hội XII
(năm 2016), Đảng ta chủ yếu nhấn mạnh đến 4 thành phần kinh tế sau: Thành phần kinh
tế nhà nước; Thành phần kinh tế tập thể; Thành phần kinh tế nhân (gồm kinh tế cá
thể, tiểu chủ, bản nhân) Thành phần kinh tế vốn đầu tư nước ngoài. Nếu
chúng ta so sánh với các thành phần kinh tế mà Lênin và Hồ Chí Minh đề cập, thì không
thấy thành phần kinh tế tư bản nhà nước, đây là thành phần kinh tế mà Lênin cho rằng
vai trò rất quan trọng trong việc liên kết giữa tử bản nhân chủ nghĩa hội.
Trong quá trình phát triển đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế Đại hi XI của Đảng tiếp
tục khẳng định: Phát triể nhà nướn nhanh, hài hòa các thành phn kinh tế. Kinh tế c
gi vai trò ch đạo. Phát tri n kinh t t p th mà nòng c t là h p tác xã. Hoàn thi ế ện cơ
chế, chính sách để tư nhân trở ững độ phát trin mnh kinh tế thành mt trong nh ng lc
ca nn kinh tế. Khuyến khích kinh t v c ngoài phát triế ốn đầu nướ n theo quy
hoch[10].
Mỗi thành phần kinh tế vị trí, vai trò nhất định trong cơ cấu thành phần kinh
tế, trước hết là thành phần kinh tế Nhà nước. Đây là thành phần kinh tế mà Hồ Chí Minh
cho rằng thành phần kinh tế lãnh đạo, phát triển mau hơn cả. Tư tưởng này của Bác
được Đảng ta vận dụng đưa vào trong các Nghị quyết Đại hội của đảng. Trong Đại hội
XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng hoàn
thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử
dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền
kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công
bằng hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế . Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế - xã hội”[11]
Nhà nước thể hiện qua: Đi đầu về nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả,
nhờ đó mà thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế quốc dân; Bằng
nhiều hình thức hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng
XHCN; Tăng cường sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để Nhà nước thực hiện có hiệu lực
chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế định hướng XHCN.
Để phát triển nhanh và bền vững đất nước, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh:
Nn kinh tế th trường định hướng hi ch nghĩa Việt Nam nhiu hình thc s
hu, nhi u thành ph n kinh t c gi vai trò ch o, kinh t ế, trong đó kinh tế nhà nướ đạ ế
tp , kinh t h p tác không ng c c ng c , phát tri n, kinh tth ế ng đượ ế nhân mt
13
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
động lc quan trng ca nn kinh tế; kinh tế v c khuyốn đầu nước ngoài đượ ến
khích phát trin[12].
Chính vì vậy, trong suốt chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước
ta, Đảng và Nhà nước đã cho thành lập các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước, nắm
giữ những ngành, nh vực kinh tế then chốt của đất nước được xem xương sống, -
mạch máu của nền kinh tế nước nhà, và đây là công cụ kinh tế thực hiện chức năng quản
lý kinh tế của Nhà nước, nhằm điều tiết kinh tế, hỗ trợ, định hướng các thành phần kinh
tế khác đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, thành phần kinh tế tập thể, Đảng
ta xác định đây là thành phần kinh tế cùng với thành phần kinh tế nhà nước ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; thứ ba, thành phần kinh tế
nhân là một trong những động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; thứ tư, về thành phần kinh
tế vốn đầu nước ngoài, trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Đảng ta khẳng định “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu trực tiếp của nước ngoài, chú
trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động
lựa chọn và ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ
hiện đại, vtrí hiệu quả trong chuỗi giá trtoàn cầu, liên kết với doanh nghiệp
trong nước”[ ]13 .
Tuy nhiên, trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII, Đảng ta
hầu như không hoặc có đề cập nhưng không ràng về thành phần kinh tế bản nhà
nước, đây thành phần kinh tế mà theo Lênin là vai trò rất quan trọng, là thành
phần kinh tế trung gian trong việc liên kết thành phần kinh tế bản tư nhân với thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, là “chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên qua” chủ nghĩa tư
bản, để đi vào chủ nghĩa xã hội, là thành phần kinh tế có vai trò cầu nối giữa TBTN và
XHCN, để thành phần kinh tế XHCN định hướng thành phần kinh tế tư bản nhân đi
đúng định hướng hội chủ nghĩa. nước ta, đây thành phần kinh tế đóng vai trò
trung gian giữa Thành phần kinh tế nhân với Thành phần kinh tế nhà nước, đó là sự
kiên kết giữa nhân trong nước, nước ngoài với tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà
nước. Thông qua đó chúng ta thể học hỏi kinh nghiệm quản doanh nghiệp, công
ty, tổng công ty, tập đoàn kinh tế kinh tế nhân trong thời kỳ đẩy mạnh kinh tế thị
trường định ớng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.Trong văn kiện XII Đảng ta không đề cập
một cách ràng nhất về thành phần kinh tế này, chỉ đề cập đến một nội dung nhỏ về
thành phần kinh tế tư bản nhà nước “tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư
nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”, nếu chúng ta đi phân tích
nội dung này với khái niệm thành phần kinh tế tư bản nhà nước thì nội hàm của nó gần
như giống nhau, bởi vì, thành phần kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế liên kết
giữa tư nhân trong nước và nước ngoài với Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
14
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
Như vậy, trong các chặng đường phát triển kinh tế khác nhau thì nhận thức về
thành phần kinh tế cũng có sự thay đổi, đóquá trình khách quan phù hợp với quy luật
nhận thức. Cho nên, quá trình đổi mới duy về các thành phần kinh tế ở nước ta qua
các kỳ Đại hội của Đảng là hoàn toàn phù hợp với nguyên của chủ nghĩa Mác -
nin, ởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong quá trình hội nhập
quốc tế ngày càng sâu, rộng hơn.
2. n kinh t t Nam th i k á l xã h i ch ngh a. Đặc điểm n ế Vi qu độ ên ĩ
Kế thừa quan điểm của C.Mác; Ph.Ăngghen Lênin, Đảng ta trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam luôn khẳng định con đường đi lên của đất nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội nước ta đã gặp không ít khó khăn, thách thức, Đảng và dân tộc ta vẫn
kiên trì con đường đi lên CNXH. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thi k
quá độ Tiếp tục đưa lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định:
đất nước từng bước quá độ lên CNXH. Mặc dù hiện tại CNTB còn tiềm năng phát triển,
nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bất công... Theo quy lu t ti n hóa c a l ch ế
s iử, loài ngườ nghĩa xã hội nhất định s ế ti n ti ch ”.
Thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam với những đặc điểm cơ bản của nền kinh
tế là:
Nước ta quá độ ột nướ ực lượ t m c nông nghip lc hu, l ng sn xut thp, nn
kinh t y u s n xu t nh , ti n th ng lên CNXH b n phát triế ch ế ế qua giai đoạ n
TBCN.Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng chỉ rõ: Chúng ta bỏ
qua chế độ bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Thi k c ta là s t n t icó nhi u giai c p, t ng l p h quá độ nướ ội tương
ng v i nó là nhi u hình th c s h u, nhi u thành ph n kinh t ế và đa dạng hóa các hình
th i.c phân ph
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta xác định: “Nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động
15
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp
tác và cạnh tranh theo pháp luật”
Quá lên ch ngh a x h qua ch n ch ngh m t th nh t u l độ ĩ ã i, b ế độ tư bả ĩa là à ý
luận đặ ủa Đảng ta đã n 30 năm đổi mới khẳng định: Đất nước ra c sc c được thc ti
khỏi khủng hoảng kinh tế - hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát
triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định ng hội chủ nghĩa
từng bước hình thành, phát triển. Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng
để nước ta tiếp tục đổi mới phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa hội
của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
II. Kết qu khi v n dng những quan điểm ca H Chí Minh.
Kết quả của ơn 35 năm đổi mới về kinh tế nước ta tốc độ tăng trưởng bình quân h
khá cao, trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, môi trường quốc tế không thuận
lợi); Tiềm lực, quy mô của nền kinh tế được nâng lên, GDP năm 2020 đạt 343,6 tỉ USD
(đứng thứ 4 Đông Nam Á; Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2020 đạt 2016 -
khoảng 6%/năm, năm 2020 đạt 2,91% ; Thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD
năm 2020 xếp thứ 6 ASEAN); Dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD; Xếp thứ 42/131 (
quốc gia và nền kinh tế về chỉ số đổi mới và sáng tạo. Những kết quả nêu trên, một lần
nữa khẳng định rằng chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng; đi
lên chủ nghĩa hội là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam đảm bảo tính quy luật chung và tính
đặc thù phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội.
Mỗi thành phần kinh tế tồn tại trí, vai trò riêng để thực hiện các nhiệm vụ ý
nghĩa chiến lược lâui, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn chủ nghĩa
xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế tuân thủ theo pháp luật. Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục khẳng định: Kiên đ nghĩa nh và vn dng, phát trin sáng to ch
Mác - ng H nh m c l p dân t c Lênin, tưở Chí Minh; kiên đị ục tiêu độ ch nghĩa
hội; kiên định đường lối đổi m i c ủa Đảng; kiên định các nguyên t c xây d ựng Đảng
để xây dng và b o v vng ch c T quc Vit Nam xã h i ch nghĩa.
16
Đoàn Ánh Ngọc - 1101(122)_26 LLTT
TNG KT
tưởng Hồ Chí Minh về cấu kinh tế nhiều thành phần hiện nay vẫn ý
nghĩa thời sự và ý nghĩa phương pháp luận cần được quán triệt và vận dụng sáng tạo để
định hướng cho sự nghiệp tiếp tục đổi mới nền kinh tế đất nước. Dự thảo văn kiện trình
Đại hội X đã rút ra một trong những bài học lớn của quá trình 20 năm đổi mới là “Trong
quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa hội trên nền
tảng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời luôn nhạy bén với cái -
mới, với những phát triển mới của thực tiễn” Về phát triển các thành phần kinh tế, [14].
dự thảo nêu rõ: “nước ta có ba chế độ sở hữu là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu
tư nhân; thể hiện dưới bốn hình thức cơ bản: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, sở hữu hỗn hợp” “tương ứng với bốn hình thức sở hữu cơ bản trên, nền kinh tế
nước ta có bốn thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế hỗn hợp.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” [14]. Như vậy, phát triển kinh tế nhiều thành phần
vẫn 'vấn đề ý nghĩa chiến lược lâu dài, tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên
CNXH". Một lần nữa, chúng ta lại thấy sáng ngời tư duy sáng tạo của Hồ Chí Minh và
của Đảng ta trong tưởng về sự phát triển nền kinh tế hội theo phép biện chứng -
khách quan của lịch sử trong những hoàn cảnh cụ thể nhất định. Với đường lối lãnh đạo
của Đảng, dưới ánh ng tư tưởng của Người, chúng ta có quyền hy vọng trong t ương
lai không xa, nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển lên một tầm cao mới, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
| 1/18

Preview text:


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA MARKETING -------***-------
BÀI TP LN
MÔN TƯ TƯỞNG H CHÍ MINH
ĐỀ BÀI:
TÌM HIỂU VÀ PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CA H CHÍ MINH V
CU NN KINH T TRONG THI K QUÁ ĐỘ LÊN CH NGHĨA XÃ
HI VÀ S VN DNG CỦA ĐẢNG CNG SN VIT NAM TRONG
XÂY DNG NN KINH T NƯỚC TA HIN NAY.
Họ và tên sinh viên: Đoàn Ánh Ngọc
Lớp tín chỉ: LLTT1101(122)_26 Mã SV: 11214293
Giảng viên: TS. Nguyễn Chí Thiện
.......................................................................................................................... . HÀ NỘI - 2023 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
MC LC
LI M ĐẦU ................................................................................................................ 2
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG H CHÍ MINH V CƠ CẤU NN KINH T TRONG
TH
I K QUÁ ĐỘ LÊN CH NGHĨA XÃ HỘI ..................................................... 3
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. .................................................................................................... 3
1. Đặc điểm nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. ........................ 3
2. Thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. ........................... 4
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ............................................................................................................................ 6
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội những năm 1945-1954. ................................................................. 6
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội những năm sau 1954. .................................................................... 7
CHƯƠNG 2: SỰ VN DNG CỦA ĐẢNG CNG SN VIT NAM TRONG
XÂY D
NG NN KINH T NƯỚC TA HIN NAY ............................................. 10
I. Quan điểm được Đảng Cộng Sản Việt Nam vận dụng thực tiễn vào việc xây dựng
nền kinh tế nước ta hiện nay. ..................................................................................... 10
1. Những quan điểm và quá trình vận dụng của Đảng Cộng Sản Việt Nam. ......... 10
2. Đặc điểm nền kinh tế ở Việt Nam thời kỳ quá độ lên xã hội c ủ h nghĩa. ............ 14
II. Kết quả khi vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh. .................................. 15
TNG KT .................................................................................................................. 16
TÀI LIU THAM KHO ........................................................................................... 17 1 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
LI M ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, nhà chính trị, nhà quân sự thiên tài,
người thầy của Cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa
thế giới, Người đã mở đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta đến thắng lợi. Trong
công cuộc đổi mới xây dựng đất nước hiện nay, tư tưởng này vẫn là kim chỉ nam cho
cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đèn soi đường cho sự nghiệp đổi
mới. Chính vì vậy, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa vô cùng to lớn. Tuy nhiên, t ê
r n thực tế có ý kiến cho rằng Hồ Chí Minh không phải là nhà kinh
tế, chúng ta thấy rằng cần phải tập trung nhiều hơn nữa trí lực và sức lực để nghiên cứu
một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn tư tưởng kinh tế của Người để làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận đặt ra, lý giải những quan niệm chưa đúng, hiểu rõ hơn và vận dụng đúng
đắn tư tưởng của Người vào công cuộc đổi mới xây dựng đất nước.
Một trong những vấn đề có ý nghĩa thiết thực đối với chúng ta hiện nay là xây
dựng cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách kinh tế nhiều
thành phần đã được thực tế chứng minh là đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của
đất nước. Tuy nhiên chúng ta xác định những thành phần kinh tế nào? Có cơ chế như
thế nào để các thành phần kinh tế hoạt động một cách cân đối nhịp nhàng đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa lại là vấn đề không phải đã có lời giải đáp trọn vẹn. Để giải
quyết vấn đề đó yêu cầu chúng ta phải luôn có sự tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý
luận. Chính vì thế em trình bày bài tiểu luận quan tâm tới vấn đề: "Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự vận dụng tư tưởng
đó vào công cuộc xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay". 2 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG H CHÍ MINH V CƠ CẤU
NN KINH T TRONG THI K QUÁ ĐỘ LÊN CH NGHĨA XÃ HỘI
I. Quan điểm ca ch nghĩa Mác - Lênin v cơ cấu nn kinh tế trong thi k quá độ lên c
h nghĩa xã hội.
1. Đặc điểm nn kinh tế trong thi k quá độ lên ch nghĩa xã hi.
Để chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác
phải trải qua giai đoạn trung gian, C.Mác và Ph.Ăngghen gọi đó là thời kỳ quá độ. C.Mác
khẳng định giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản là một thời kỳ chuyển
biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội khác. Thích ứng với thời kỳ ấy sẽ là một quá
trình chuyển đổi chính trị, trong đó nhà nước không gì khác hơn là một chế độ chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản. Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời
trong quá trình phát triển qua các giai đoạn, từ thấp đến cao: giai đoạn thấp hơn của chủ
nghĩa cộng sản; giai đoạn cao hơn của chủ nghĩa cộng sản. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa cộng sản, giai cấp vô sản phải thiết lập được sự thống trị của mình và thực hiện
chuyên chính. Ở thời kỳ Mác và Ăngghen trong bối cảnh của thế kỷ XIX, các vấn đề
kinh tế của quá trình chuyển đổi chưa được thực hiện hóa ở phương Tây.
V.I.Lênin đã kế thừa và phát huy tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời
cụ thể hoá việc phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba giai đoạn.
Giai đoạn thấp hơn của chủ nghĩa cộng sản được gọi là chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn cao
được gọi là chủ nghĩa cộng sản hay xã hội cộng sản. Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu và lâu dài, V.I.Lênin đã viết rằng: “cần phải có một thời
kỳ lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vì cải tổ sản xuất là một việc khó
khăn, vì vậy, phải có những thời gian mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong
mọi lĩnh vực của cuộc sống, và vì vậy phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt lâu
dài mới có thể có được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu tư sản. Bởi vậy
Mác nói thời kỳ chuyên chính vô sản, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.
V.I.Lênin phân tích đặc điểm kinh tế của các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
từ đó cho rằng có nhiều kiểu quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là kiểu “quá độ” của các
nước đã qua chủ nghĩa tư bản và “quá độ” của những nước “bỏ qua giai đoạn phát triển 3 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
tư bản chủ nghĩa” đi lên chủ nghĩa xã hội. Những nước bỏ qua tư bản chủ nghĩa lên chủ
nghĩa xã hội chưa có tiền đề vật chất của chủ nghĩa xã hội để xây dựng và bảo vệ đất
nước theo mục tiêu đã đặt ra phải có đường lối đúng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản và chính quyền phải do nhân dân quản lý. Tránh thái độ chủ quan, nóng vội, “đốt
cháy giai đoạn”, tuân theo quy luật khách quan để đạt được thắng lợi toàn diện trên mọi lĩnh vực.
Ông cho rằng các quốc gia trong thời kỳ quá độ phải chấp nhận nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa, coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là một thành phần trong toàn bộ nền kinh
tế đất nước, vì “phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước làm mắt xích trung gian giữa
nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp,
phương thức để tăng lực lượng sản xuất”. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là giai
đoạn không thể bỏ qua trong việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản, dù quá độ kiểu này hay
kiểu khác đều là quy luật và xu hướng tất yếu của nhân loại trong thời đại ngày nay.
2. Thành phn kinh tế trong thi k quá độ lên ch nghĩa xã hi.
Quy luật kinh tế chung của các quốc gia dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Chính sách kinh tế mới do Leenin
đưa ra nhằm chuyển đổi nền kinh tế. Đồng thời, Lênin đưa ra các thành phần kinh tế chủ
yếu trong thời kỳ quá độ lên CNXH là: Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng; sản xuất hàng
hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới, Lênin luôn đánh giá cao vị trí,
vai trò của thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước dưới hình thức tô nhượng, hợp tác xã, tư nhân đại lý, cho tư nhân thuê cơ sở sản
xuất... được xem là “chiếc cầu nhỏ vững chắc xuyên qua” chủ nghĩa tư bản để đi vào
chủ nghĩa xã hội. Phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ là biện pháp “quá độ
đặc biệt” mà còn là khâu “trung gian” để chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội.
Về kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, điểm xuất phát trong quá trình xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là phải đáp ứng lợi ích kinh tế cho đại đa số nông
dân, mà trước hết là từ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dựa vào khôi phục và phát
triển kinh tế tiểu nông để khôi phục và phát triển đại công nghiệp. Ngay Đại hội X Đảng
Cộng Sản Bolshevik (bôn-sê-vích) Nga, Lênin đã yêu cầu chính quyền Xô viết phải 4 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
nhanh chóng phát triển nền sản xuất tiểu nông bằng cách khuyết khích nền kinh tế nông
dân cá thể với những biện pháp “quá độ”, những hình thức “trung gian” có khả năng cải
tạo nông dân, đổi mới nông thôn và chuyển đổi nền kinh tế tiểu nông của những người
nông dân cá thể thành nền sản xuất tập thể có tính xã hội chủ nghĩa, diễn ra một cách
tuần tự, có tính kế thừa, thận trọng.
Về kinh tế tư bản tư nhân, khi chính sách kinh tế mới được áp dụng trong thực
tiễn nước Nga, Lênin hiểu rõ có thể chủ nghĩa tư bản sống lại, nhưng ông cho rằng không
sợ nó, mà kiêu gọi Chính quyền Xô viết cần sử dụng tư nhân nông dân, thợ thủ công,
thương nhân…để phát triển kinh tế đất nước, bởi vì tư bản tư nhân sẽ tạo ra nhiều hàng
hóa tiêu dùng cho xã hội - cơ sở ổn định chính trị. Kinh tế chủ nghĩa xã hội, Lênin đánh
giá rất cao vị trí, vai trò của thành phần kinh tế này, đây là xương sống của nền kinh tế
-những mạch máu kinh tế cơ bản như công nghiệp, ngân hàng, tài chính tín dụng luôn
nằm trong tay chính quyền Xô viết, thuộc sở hữu nhà nước. Khi chính sách kinh tế mới
được thực hiện, Lênin chủ trương các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo chế độ tự
hoàn vốn, chế độ hoạch toán kinh tế, các xí nghiệp này được giao quyền tự chủ và tự
chịu trách nhiệm vật chất với kết quả hoạt động của mình.
Về thứ tự các thành phần kinh tế, Lênin đã cố tình sắp xếp các thành phần kinh
tế theo thứ tự, cấp độ tăng lên về tính chất xã hội chủ nghĩa của mỗi thành phần kinh tế;
tỷ trọng của các thành phần kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử; sự biến đổi tỷ trọng các
thành phần kinh tế phải theo hướng xã hội chủ nghĩa; tính đan xen, mâu thuẫn, đấu tranh
và thống nhất giữa các thành phần kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế bền vững, tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của đất nước và tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội. 5 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
II. Tư tưởng H Chí Minh v cơ cấu nn kinh tế trong thi k quá độ lên ch nghĩa xã hi.
1. Quan điểm ca H C í
h Minh v nn kinh tế Vit Nam trong thi k quá độ lên ch
nghĩa xã hi nhng năm 1945-1954.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà chính trị bàn về kinh tế, tư tưởng kinh tế của
Người cơ bản là tư tưởng kinh tế - chính trị. Trên cương vị lãnh đạo quốc gia, Hồ Chí
Minh đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển kinh tế ở một nước
nông nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành phần kinh tế là một bộ phận đặc sắc
trong tư tưởng kinh tế của Người và vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với đất nước ta
trong công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Cơ cấu các thành phần của một nền kinh tế phụ thuộc vào sự tồn tại của các hình
thức sở hữu, các kiểu quan hệ sản xuất, vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
của sản xuất hàng hoá thời kỳ quá độ. Như Lênin đã chỉ rõ: Nền kinh tế trong thời kỳ
quá độ, xét về toàn bộ, nó là nền kinh tế quá độ, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do
đó sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan. Mỗi thành
phần kinh tế còn phát huy tác dụng tích cực, có đóng góp vào quốc kế dân sinh thì không
thể dùng mệnh lệnh hành chính mà xoá bỏ ngay một lúc được.
Khi nghiên cứu Chính sách kinh tế mới của Lênin để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ,
ở vùng tự do của ta, còn tồn tại 6 thành phần kinh tế.
Trong tác phẩm "Thường thc chính trị" viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã nêu rõ
bản chất của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa và đã cụ thể hoá các thành phần kinh tế bao gồm:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. - Kinh tế quốc doanh
- Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp
- Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ.
- Kinh tế tư bản của tư nhân. - Kinh tế tư bản quốc.
Đặc điểm mới của nền kinh tế Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là sự 6 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần. Đặc biệt, bên cạnh các thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa thì có sự tồn tại của thành phần là kinh tế phong kiến. Đây là thành phần
kinh tế mang tính đặc thù, thành phần kinh tế này phản ánh trình độ phát triển kinh tế
thấp với chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất và trong hoàn cảnh đặc thù yêu cầu phải
tiếp tục kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, cách mạng dân chủ.
Trên cơ sở nhận thức về tính quy luật chung, tính đặc thù trong nền kinh tế của từng
nước. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế
cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và
trong từng giai đoạn cụ thể. Về cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954,
bên cạnh đảm bảo tính quy luật chung về đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần với các thành
phần kinh tế phổ biến, kinh tế quá độ thì vẫn tồn tại thành phần kinh tế mang tính đặc
thù. Như vậy, đây chính là điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, đã nhận thức rõ vị trí, vai
trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế và có sơ sở để hoạch định chính sách
đảm bảo ổn định nền kinh tế và góp phần quan trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi.
2. Quan điểm ca H C í
h Minh v nn kinh tế Vit Nam trong thi k quá độ lên ch
nghĩa xã hi nhng năm sau 1954.
Sau năm 1954 miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa từ xuất phát điểm rất thấp, với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn
phá nặng nề. Cơ sở vật chất – kỹ thuật nghèo nàn. Trình độ, năng suất lao động thấp,
đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật vừa ít về số lượng, vừa hạn chế về năng lực và kinh
nghiệm điều hành, quản lý. Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện đất nước bị chia cắt làm hai miền, vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh. Tình hình
thế giới phức tạp. Hệ thống xã hội chủ nghĩa bộc lộ một số khó khăn, bất đồng, mâu
thuẫn. Vấn đề lý luận về mô hình, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chưa sáng rõ. Từ
thực tiễn miền Bắc như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ ra các hình thức
sỡ hữu cơ bản trong nền kinh tế miền Bắc, bao gồm: “Sở hữu Nhà nước tc là ca toàn
dân; s
hu hp tác tc s hu tp th của nhân dân lao động; s hu của người lao
động riêng l, một ít tư liệu sn xut thuc s hu của nhà tư bản[2]. Với sự đa dạng
của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, Người đã xác định rõ những thành phần kinh tế
đang tồn tại và hoạt động ở miền Bắc: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau: 7 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân).
B-
Các hợp tác xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH).
C-
Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác
xã, tức là nữa CNXH).
D- Tư bản của tư nhân.
E-
Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên
kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư
bản[3].
Như vậy, cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở Miền Bắc Việt Nam
sau năm 1954 so với cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954 ở những điểm
thống nhất và có những điểm thay đổi sau:
- Điểm thống nhất: Trong nền kinh quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì đặc điểm kinh
tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam là sự tồn tại
khách quan của các thành phần kinh tế. Và tồn tại các thành phần kinh tế phổ biến: Kinh
tế quốc doanh; Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; Tư bản của tư nhân.
Thành phần kinh tế quá độ: Các hợp tác xã; Tư bản của Nhà nước. - Điểm thay đổi:
Mt là, khác với thời kháng chiến, trong chế độ dân chủ mới không còn thành
phần kinh tế phong kiến. Cải cách ruộng đất đã triệt tiêu chế độ sở hữu phong kiến về
ruộng đất. Người nông dân đã trở thành người cày có rộng, chủ sở hữu ruộng đất. Điều
này một lần nữa khẳng định lại nhận định của Hồ Chí Minh: “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[4]. Muốn đi tới chủ nghĩa
cộng sản thì dân tộc phải độc lập và dân cày phải có ruộng.
Hai là, các thành phần kinh tế thay đổi về vị trí và vai trò trong nền kinh tế. Kinh
tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, cần phải ưu
tiên phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho CNXH và
thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Như vậy, vị trí, vai trò của thành phần kinh tế
quốc doanh đã có bước phát triển mới, từ chỗ có tính chất chủ nghĩa xã hội đã trở thành
thành phần kinh tế thực sự đại diện cho chủ nghĩa xã hội có vai trò “lãnh đạo” trong nền
kinh tế và đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế. "Kinh tế quốc
doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng
ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó". 8 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
Đối với thành phần kinh tế quá độ kinh tế hợp tác xã; tư bản của Nhà nước trở
nên phố biến, vững chắc và phạm vi mở rộng hơn. Kinh tế hợp tác xã, Người khẳng
định, kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; Nhà nước
cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển. Hợp tác hóa nông
nghiệp là khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Kinh
nghiệm qua chứng tỏ rằng hợp tác hóa nông nghiệp ở nước ta, cần phải trải qua hình
thức tổ đổi công và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đó là việc rất cần thiết. Chúng ta
phát triển từng bước vững chắc tổ đổi công và hợp tác xã thì hợp tác hóa nông nghiệp
nhất định thành công. Tư bản của Nhà nước, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đối vi nhng
nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa b quyn s hu v tư liệu sn xut và
c
a ci khác ca h; mà ra sức hướng dn h hoạt động nhm làm li cho quc kế dân
sinh, phù h
p vi kế hoch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và
giúp đỡ h ci to theo ch nghĩa xã hội bng hình thức công tư hợp doanh và nhng
hình th
c ci to khác[5]. Kinh tế tư bản Nhà nước, được Nhà nước khuyến khích,
giúp đỡ các nhà tư bản đi theo chủ nghĩa xã hội và hướng dẫn hoạt động kinh tế theo
một kế hoạch thống nhất. Đây là thành phần kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc nhằm hướng thành phần kinh tế này quay trở lại phục vụ chủ
nghĩa xã hội. Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ. Hồ Chí Minh cho rằng,
“Đối với người làm th công và lao động riêng l khác, Nhà nước bo h quyn s hu
v
tư liệu sn xut ca h, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ h ci tiến cách làm ăn, khuyến
khích h
t chc hp tác xã sn xut theo nguyên tc t nguyn[6]. “Đẩy mnh cuc
c
i to xã hi ch nghĩa đối vi thành phn kinh tế cá th ca nông dân, th th công,
nh
ững người lao động riêng l khác và đối vi thành phn kinh tế tư bản tư doanh, đồng
th
i nó m mang và tăng cường lực lượng ca thành phn kinh tế quốc doanh, thúc đẩy
vi
c phát trin kinh tế theo ch nghĩa xã hội[7].
Những nhận định của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân
chủ mới ở Miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 đã cho thấy sự vận dụng sáng tạo của
Người khi kế thừa quan điểm của V.I.Lênin vào thực tiễn đất nước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, phù hợp với đặc thù lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội và đảm bảo
tính quy luật chung, phản ánh tính đặc thù của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ có các
thành phần kinh tế phổ biến, thành phần kinh tế quá độ đan xen. Những nhận thức đó có
ý nghĩa vô cùng to lớn về lý luận, đây là cơ sở khoa học để Hồ Chí Minh đưa ra các
quyết sách đúng đắn trên lĩnh vực kinh tế trong quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc
trước đây và trên phạm vi cả nước. 9 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
CHƯƠNG 2: SỰ VN DNG CỦA ĐẢNG CNG SN
VIT NAM TRONG XÂY DNG NN KINH T NƯỚC TA HIN NAY
I. Quan điểm được Đảng Cng Sn Vit Nam vn dng thc tin vào vic xây dng
nn kinh tế nước ta hin nay.
1. Nhng quan điểm và quá trình vn dng ca Đảng Cng Sn Vit Na . m
Thực tiễn hơn 30 năm Việt Nam phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta đã có sự lựa chọn sáng suốt, đúng đắn khi quyết định
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, tháng 12 năm 1986. Đã tạo ra bước đột phá về tư duy đổi mới thể chế, cơ chế trong
quản lý kinh tế và đã vận dụng một cách sáng tạo nhất quan điểm của Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tùy
vào từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn
từng thành phần kinh tế cho phù hợp, nhưng quan điểm nhất quán trong suốt thời kỳ đổi
mới cho đến nay, Đảng ta khẳng định phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, dựa
trên nhiều hình thức sở hữu.
Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tháng 12 năm 1986 - Đại hội đổi
mới, Đảng xác định: “Xuất phát t s đánh giá những tiềm năng tuy phân tán nhưng
rt quan trng trong nhân dân, c v sức lao động, k thut, tin vn, kh năng tạo vic
làm, chúng ta ch
trương: đi đôi với vic phát trin kinh tế quc doanh, kinh tế tp th,
tăng cường nguồn tích lũy tập trung của Nhà nước và tranh th vốn ngoài nước, cn có
chính sách s
dng và ci tạo đúng đắn các thành phn kinh tế khác[8]. Đồng thời chỉ
ra: Ở nước ta các thành phần kinh tế đó là: “Kinh tế xã hi ch nghĩa; Các thành phần
kinh t
ế khác gm: Kinh tế tiu sn xut hàng hóa (th th công, nông dân cá th, nhng
người buôn bán và kinh doanh dch v cá th); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản
nhà nước dưới nhiu hình thc, mà hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế t nhiên,
t
cp, t túc trong mt b phận đồng bào dân tc thiu s Tây Nguyên và các vùng
núi cao khác
[9]. 10 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) nêu rõ: Trong nền kinh tế thị
trường, với quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo đảm, từ ba loại sở hữu cơ bản,
sẽ hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng:
Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt;
kinh tế tập thể, với hình thức phổ biến là hợp tác xã, phát triển rộng rãi và đa dạng trong
các ngành, nghề với quy mô và mức độ tập thể hóa khác nhau, trên cơ sở tự nguyện góp
vốn, góp sức của những người lao động. Kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển
trong các ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn. Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển
không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp
không cấm. Kinh tế gia đình không phải là một thành phần kinh tế độc lập nhưng được
khuyến khích phát triển mạnh. Nhà nước nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần,
không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể hoá tư
liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh.
Đại hội VIII (năm 1996) Đảng ta tiếp tục khẳng định: Thực hiện nhất quán, lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực hiện chủ trương,
chính sách đối với từng thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác mà nòng
cốt là các hợp tác xã; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá chủ, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) nêu ra 6 thành phần kinh tế cơ
bản. Đảng ta ghi rõ: Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật. Đại hội cũng chỉ rõ các thành
phần kinh tế ở nước ta trong giai đoạn này gồm: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh
tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội X (năm 2006) của Đảng khẳng định, ở Việt Nam có ba chế độ sở hữu là
toàn dân, tập thể và tư nhân, trên cơ sở đó hình thành nhiều thành phần kinh tế gồm:
Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy Đại hội X chỉ khác Đại hội IX ở chỗ đã sát nhập hai
thành phần kinh tế kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư bản tư nhân thành một
thành phần đó là kinh tế tư nhân, là vì hai thành phần này có điểm chung giống nhau là
đều dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về TLSX; mặt khác chúng ta xóa đi sự mặc cảm đối
với kinh tế tư bản tư nhân và nó sẽ thuận hơn khi nói đến đảng viên được làm kinh tế tư nhân. 11 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
Tại Đại hội XI (năm 2011), gồm có 4 thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà
nước; Thành phần kinh tế tập thể; Thành phần kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ, tư bản tư nhân) và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tại Đại hội XII
(năm 2016), Đảng ta chủ yếu nhấn mạnh đến 4 thành phần kinh tế sau: Thành phần kinh
tế nhà nước; Thành phần kinh tế tập thể; Thành phần kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá
thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu
chúng ta so sánh với các thành phần kinh tế mà Lênin và Hồ Chí Minh đề cập, thì không
thấy thành phần kinh tế tư bản nhà nước, đây là thành phần kinh tế mà Lênin cho rằng
có vai trò rất quan trọng trong việc liên kết giữa tử bản tư nhân và chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình phát triển đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế Đại hội XI của Đảng tiếp
tục khẳng định: “Phát triển nhanh, hài hòa các thành phn kinh tế. Kinh tế nhà nước
gi
vai trò ch đạo. Phát trin kinh tế tp th mà nòng ct là hp tác xã. Hoàn thiện cơ
chế, chính sách để phát trin mnh kinh tế tư nhân trở thành mt trong những động lc
c
a nn kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát trin theo quy
ho
ch[10].
Mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò nhất định trong cơ cấu thành phần kinh
tế, trước hết là thành phần kinh tế Nhà nước. Đây là thành phần kinh tế mà Hồ Chí Minh
cho rằng là thành phần kinh tế lãnh đạo, phát triển mau hơn cả. Tư tưởng này của Bác
được Đảng ta vận dụng đưa vào trong các Nghị quyết Đại hội của đảng. Trong Đại hội
XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử
dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền
kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”[11]. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế
Nhà nước thể hiện qua: Đi đầu về nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả,
nhờ đó mà thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế quốc dân; Bằng
nhiều hình thức hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng
XHCN; Tăng cường sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để Nhà nước thực hiện có hiệu lực
chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế định hướng XHCN.
Để phát triển nhanh và bền vững đất nước, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh:
Nn kinh tế th trường định hướng xã hi ch nghĩa Việt Nam có nhiu hình thc s
h
u, nhiu thành phn kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước gi vai trò ch đạo, kinh tế
t
p th, kinh tế hp tác không ngừng được cng c, phát trin, kinh tế tư nhân là một 12 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
động lc quan trng ca nn kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến
khích phát tri
n[12].
Chính vì vậy, trong suốt chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước
ta, Đảng và Nhà nước đã cho thành lập các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước, nắm
giữ những ngành, lĩnh vực kinh tế then chốt của đất nước - được xem là xương sống,
mạch máu của nền kinh tế nước nhà, và đây là công cụ kinh tế thực hiện chức năng quản
lý kinh tế của Nhà nước, nhằm điều tiết kinh tế, hỗ trợ, định hướng các thành phần kinh
tế khác đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, thành phần kinh tế tập thể, Đảng
ta xác định đây là thành phần kinh tế cùng với thành phần kinh tế nhà nước ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; thứ ba, thành phần kinh tế tư
nhân là một trong những động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; thứ tư, về thành phần kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Đảng ta khẳng định “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú
trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động
lựa chọn và ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ
hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp
trong nước”[13].
Tuy nhiên, trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII, Đảng ta
hầu như không hoặc có đề cập nhưng không rõ ràng về thành phần kinh tế tư bản nhà
nước, đây là thành phần kinh tế mà theo Lênin là nó có vai trò rất quan trọng, là thành
phần kinh tế trung gian trong việc liên kết thành phần kinh tế tư bản tư nhân với thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, là “chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên qua” chủ nghĩa tư
bản, để đi vào chủ nghĩa xã hội, là thành phần kinh tế có vai trò cầu nối giữa TBTN và
XHCN, để thành phần kinh tế XHCN định hướng thành phần kinh tế tư bản tư nhân đi
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, đây là thành phần kinh tế đóng vai trò
trung gian giữa Thành phần kinh tế tư nhân với Thành phần kinh tế nhà nước, đó là sự
kiên kết giữa tư nhân trong nước, nước ngoài với tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà
nước. Thông qua đó chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp, công
ty, tổng công ty, tập đoàn kinh tế kinh tế tư nhân trong thời kỳ đẩy mạnh kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.Trong văn kiện XII Đảng ta không đề cập
một cách rõ ràng nhất về thành phần kinh tế này, chỉ đề cập đến một nội dung nhỏ về
thành phần kinh tế tư bản nhà nước “tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư
nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”, nếu chúng ta đi phân tích
nội dung này với khái niệm thành phần kinh tế tư bản nhà nước thì nội hàm của nó gần
như giống nhau, bởi vì, thành phần kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế liên kết
giữa tư nhân trong nước và nước ngoài với Nhà nước xã hội chủ nghĩa. 13 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
Như vậy, trong các chặng đường phát triển kinh tế khác nhau thì nhận thức về
thành phần kinh tế cũng có sự thay đổi, đó là quá trình khách quan phù hợp với quy luật
nhận thức. Cho nên, quá trình đổi mới tư duy về các thành phần kinh tế ở nước ta qua
các kỳ Đại hội của Đảng là hoàn toàn phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong quá trình hội nhập
quốc tế ngày càng sâu, rộng hơn.
2. Đặc điểm nn kinh tế Vit Nam thi k quá độ lên xã hi ch nghĩa.
Kế thừa quan điểm của C.Mác; Ph.Ăngghen và Lênin, Đảng ta trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam luôn khẳng định con đường đi lên của đất nước là
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã gặp không ít khó khăn, thách thức, Đảng và dân tộc ta vẫn
kiên trì con đường đi lên CNXH. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thi k
quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục đưa
đất nước từng bước quá độ lên CNXH. Mặc dù hiện tại CNTB còn tiềm năng phát triển,
nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bất công... Theo quy lut tiến hóa ca lch
s
ử, loài người nhất định s tiến ti ch nghĩa xã hội”.
Thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam với những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế là:
Nước ta quá độ t một nước nông nghip lc hu, lực lượng sn xut thp, nn
kinh tế ch yếu là sn xut nh, tiến thng lên CNXH b qua giai đoạn phát trin
TBCN.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng chỉ rõ: Chúng ta bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Thi k quá độ nước ta là s tn ticó nhiu giai cp, tng lp xã hội tương
ng vi nó là nhiu hình thc s hu, nhiu thành phn kinh tế và đa dạng hóa các hình
th
c phân phi.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta xác định: “Nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động 14 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp
tác và cạnh tranh theo pháp luật”
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một thành tựu lý
luận đặc sắc của Đảng ta đã được thực tiễn 30 năm đổi mới khẳng định: Đất nước ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát
triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước hình thành, phát triển. Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng
để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
II. Kết qu khi vn dng những quan điểm ca H Chí Minh.
Kết quả của hơn 35 năm đổi mới về kinh tế nước ta tốc độ tăng trưởng bình quân
khá cao, trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, môi trường quốc tế không thuận
lợi); Tiềm lực, quy mô của nền kinh tế được nâng lên, GDP năm 2020 đạt 343,6 tỉ USD
(đứng thứ 4 Đông Nam Á; Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt
khoảng 6%/năm, năm 2020 đạt 2,91% ; Thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD
năm 2020 (xếp thứ 6 ASEAN); Dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD; Xếp thứ 42/131
quốc gia và nền kinh tế về chỉ số đổi mới và sáng tạo. Những kết quả nêu trên, một lần
nữa khẳng định rằng chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng; đi
lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam đảm bảo tính quy luật chung và tính
đặc thù và phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Mỗi thành phần kinh tế tồn tại có ví trí, vai trò riêng để thực hiện các nhiệm vụ có ý
nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn chủ nghĩa
xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế tuân thủ theo pháp luật. Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vn dng, phát trin sáng to ch nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng H Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lp dân tc và ch nghĩa
xã hội; kiên định đường lối đổi mi của Đảng; kiên định các nguyên tc xây dựng Đảng
để xây dng và bo v vng chc T quc Vit Nam xã
h i ch nghĩa. 15 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
TNG KT
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hiện nay vẫn có ý
nghĩa thời sự và ý nghĩa phương pháp luận cần được quán triệt và vận dụng sáng tạo để
định hướng cho sự nghiệp tiếp tục đổi mới nền kinh tế đất nước. Dự thảo văn kiện trình
Đại hội X đã rút ra một trong những bài học lớn của quá trình 20 năm đổi mới là “Trong
quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời luôn nhạy bén với cái
mới, với những phát triển mới của thực tiễn”[14]. Về phát triển các thành phần kinh tế,
dự thảo nêu rõ: “nước ta có ba chế độ sở hữu là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu
tư nhân; thể hiện dưới bốn hình thức cơ bản: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, sở hữu hỗn hợp” và “tương ứng với bốn hình thức sở hữu cơ bản trên, nền kinh tế
nước ta có bốn thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế hỗn hợp.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” [14]. Như vậy, phát triển kinh tế nhiều thành phần
vẫn là 'vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên
CNXH". Một lần nữa, chúng ta lại thấy sáng ngời tư duy sáng tạo của Hồ Chí Minh và
của Đảng ta trong tư tưởng về sự phát triển nền kinh tế - xã hội theo phép biện chứng
khách quan của lịch sử trong những hoàn cảnh cụ thể nhất định. Với đường lối lãnh đạo
của Đảng, dưới ánh sáng tư tưởng của Người, chúng ta có quyền hy vọng trong t ương
lai không xa, nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển lên một tầm cao mới, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 16