-
Thông tin
-
Quiz
Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101) 326 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101) 326 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:


















Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA MARKETING -------***-------
BÀI TẬP LỚN
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI:
TÌM HIỂU VÀ PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ
CẤU NỀN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY.
Họ và tên sinh viên: Đoàn Ánh Ngọc
Lớp tín chỉ: LLTT1101(122)_26 Mã SV: 11214293
Giảng viên: TS. Nguyễn Chí Thiện
.......................................................................................................................... . HÀ NỘI - 2023 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 2
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU NỀN KINH TẾ TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ..................................................... 3
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. .................................................................................................... 3
1. Đặc điểm nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. ........................ 3
2. Thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. ........................... 4
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ............................................................................................................................ 6
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội những năm 1945-1954. ................................................................. 6
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội những năm sau 1954. .................................................................... 7
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY ............................................. 10
I. Quan điểm được Đảng Cộng Sản Việt Nam vận dụng thực tiễn vào việc xây dựng
nền kinh tế nước ta hiện nay. ..................................................................................... 10
1. Những quan điểm và quá trình vận dụng của Đảng Cộng Sản Việt Nam. ......... 10
2. Đặc điểm nền kinh tế ở Việt Nam thời kỳ quá độ lên xã hội c ủ h nghĩa. ............ 14
II. Kết quả khi vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh. .................................. 15
TỔNG KẾT .................................................................................................................. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 17 1 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, nhà chính trị, nhà quân sự thiên tài,
người thầy của Cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa
thế giới, Người đã mở đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta đến thắng lợi. Trong
công cuộc đổi mới xây dựng đất nước hiện nay, tư tưởng này vẫn là kim chỉ nam cho
cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đèn soi đường cho sự nghiệp đổi
mới. Chính vì vậy, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa vô cùng to lớn. Tuy nhiên, t ê
r n thực tế có ý kiến cho rằng Hồ Chí Minh không phải là nhà kinh
tế, chúng ta thấy rằng cần phải tập trung nhiều hơn nữa trí lực và sức lực để nghiên cứu
một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn tư tưởng kinh tế của Người để làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận đặt ra, lý giải những quan niệm chưa đúng, hiểu rõ hơn và vận dụng đúng
đắn tư tưởng của Người vào công cuộc đổi mới xây dựng đất nước.
Một trong những vấn đề có ý nghĩa thiết thực đối với chúng ta hiện nay là xây
dựng cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách kinh tế nhiều
thành phần đã được thực tế chứng minh là đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của
đất nước. Tuy nhiên chúng ta xác định những thành phần kinh tế nào? Có cơ chế như
thế nào để các thành phần kinh tế hoạt động một cách cân đối nhịp nhàng đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa lại là vấn đề không phải đã có lời giải đáp trọn vẹn. Để giải
quyết vấn đề đó yêu cầu chúng ta phải luôn có sự tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý
luận. Chính vì thế em trình bày bài tiểu luận quan tâm tới vấn đề: "Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự vận dụng tư tưởng
đó vào công cuộc xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay". 2 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU
NỀN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên c ủ
h nghĩa xã hội.
1. Đặc điểm nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Để chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác
phải trải qua giai đoạn trung gian, C.Mác và Ph.Ăngghen gọi đó là thời kỳ quá độ. C.Mác
khẳng định giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản là một thời kỳ chuyển
biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội khác. Thích ứng với thời kỳ ấy sẽ là một quá
trình chuyển đổi chính trị, trong đó nhà nước không gì khác hơn là một chế độ chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản. Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời
trong quá trình phát triển qua các giai đoạn, từ thấp đến cao: giai đoạn thấp hơn của chủ
nghĩa cộng sản; giai đoạn cao hơn của chủ nghĩa cộng sản. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa cộng sản, giai cấp vô sản phải thiết lập được sự thống trị của mình và thực hiện
chuyên chính. Ở thời kỳ Mác và Ăngghen trong bối cảnh của thế kỷ XIX, các vấn đề
kinh tế của quá trình chuyển đổi chưa được thực hiện hóa ở phương Tây.
V.I.Lênin đã kế thừa và phát huy tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời
cụ thể hoá việc phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba giai đoạn.
Giai đoạn thấp hơn của chủ nghĩa cộng sản được gọi là chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn cao
được gọi là chủ nghĩa cộng sản hay xã hội cộng sản. Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu và lâu dài, V.I.Lênin đã viết rằng: “cần phải có một thời
kỳ lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vì cải tổ sản xuất là một việc khó
khăn, vì vậy, phải có những thời gian mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong
mọi lĩnh vực của cuộc sống, và vì vậy phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt lâu
dài mới có thể có được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu tư sản. Bởi vậy
Mác nói thời kỳ chuyên chính vô sản, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.
V.I.Lênin phân tích đặc điểm kinh tế của các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
từ đó cho rằng có nhiều kiểu quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là kiểu “quá độ” của các
nước đã qua chủ nghĩa tư bản và “quá độ” của những nước “bỏ qua giai đoạn phát triển 3 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
tư bản chủ nghĩa” đi lên chủ nghĩa xã hội. Những nước bỏ qua tư bản chủ nghĩa lên chủ
nghĩa xã hội chưa có tiền đề vật chất của chủ nghĩa xã hội để xây dựng và bảo vệ đất
nước theo mục tiêu đã đặt ra phải có đường lối đúng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản và chính quyền phải do nhân dân quản lý. Tránh thái độ chủ quan, nóng vội, “đốt
cháy giai đoạn”, tuân theo quy luật khách quan để đạt được thắng lợi toàn diện trên mọi lĩnh vực.
Ông cho rằng các quốc gia trong thời kỳ quá độ phải chấp nhận nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa, coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là một thành phần trong toàn bộ nền kinh
tế đất nước, vì “phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước làm mắt xích trung gian giữa
nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp,
phương thức để tăng lực lượng sản xuất”. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là giai
đoạn không thể bỏ qua trong việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản, dù quá độ kiểu này hay
kiểu khác đều là quy luật và xu hướng tất yếu của nhân loại trong thời đại ngày nay.
2. Thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Quy luật kinh tế chung của các quốc gia dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Chính sách kinh tế mới do Leenin
đưa ra nhằm chuyển đổi nền kinh tế. Đồng thời, Lênin đưa ra các thành phần kinh tế chủ
yếu trong thời kỳ quá độ lên CNXH là: Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng; sản xuất hàng
hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới, Lênin luôn đánh giá cao vị trí,
vai trò của thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước dưới hình thức tô nhượng, hợp tác xã, tư nhân đại lý, cho tư nhân thuê cơ sở sản
xuất... được xem là “chiếc cầu nhỏ vững chắc xuyên qua” chủ nghĩa tư bản để đi vào
chủ nghĩa xã hội. Phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ là biện pháp “quá độ
đặc biệt” mà còn là khâu “trung gian” để chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội.
Về kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, điểm xuất phát trong quá trình xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là phải đáp ứng lợi ích kinh tế cho đại đa số nông
dân, mà trước hết là từ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dựa vào khôi phục và phát
triển kinh tế tiểu nông để khôi phục và phát triển đại công nghiệp. Ngay Đại hội X Đảng
Cộng Sản Bolshevik (bôn-sê-vích) Nga, Lênin đã yêu cầu chính quyền Xô viết phải 4 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
nhanh chóng phát triển nền sản xuất tiểu nông bằng cách khuyết khích nền kinh tế nông
dân cá thể với những biện pháp “quá độ”, những hình thức “trung gian” có khả năng cải
tạo nông dân, đổi mới nông thôn và chuyển đổi nền kinh tế tiểu nông của những người
nông dân cá thể thành nền sản xuất tập thể có tính xã hội chủ nghĩa, diễn ra một cách
tuần tự, có tính kế thừa, thận trọng.
Về kinh tế tư bản tư nhân, khi chính sách kinh tế mới được áp dụng trong thực
tiễn nước Nga, Lênin hiểu rõ có thể chủ nghĩa tư bản sống lại, nhưng ông cho rằng không
sợ nó, mà kiêu gọi Chính quyền Xô viết cần sử dụng tư nhân nông dân, thợ thủ công,
thương nhân…để phát triển kinh tế đất nước, bởi vì tư bản tư nhân sẽ tạo ra nhiều hàng
hóa tiêu dùng cho xã hội - cơ sở ổn định chính trị. Kinh tế chủ nghĩa xã hội, Lênin đánh
giá rất cao vị trí, vai trò của thành phần kinh tế này, đây là xương sống của nền kinh tế
-những mạch máu kinh tế cơ bản như công nghiệp, ngân hàng, tài chính tín dụng luôn
nằm trong tay chính quyền Xô viết, thuộc sở hữu nhà nước. Khi chính sách kinh tế mới
được thực hiện, Lênin chủ trương các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo chế độ tự
hoàn vốn, chế độ hoạch toán kinh tế, các xí nghiệp này được giao quyền tự chủ và tự
chịu trách nhiệm vật chất với kết quả hoạt động của mình.
Về thứ tự các thành phần kinh tế, Lênin đã cố tình sắp xếp các thành phần kinh
tế theo thứ tự, cấp độ tăng lên về tính chất xã hội chủ nghĩa của mỗi thành phần kinh tế;
tỷ trọng của các thành phần kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử; sự biến đổi tỷ trọng các
thành phần kinh tế phải theo hướng xã hội chủ nghĩa; tính đan xen, mâu thuẫn, đấu tranh
và thống nhất giữa các thành phần kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế bền vững, tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của đất nước và tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội. 5 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1. Quan điểm của Hồ C í
h Minh về nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội những năm 1945-1954.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà chính trị bàn về kinh tế, tư tưởng kinh tế của
Người cơ bản là tư tưởng kinh tế - chính trị. Trên cương vị lãnh đạo quốc gia, Hồ Chí
Minh đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển kinh tế ở một nước
nông nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành phần kinh tế là một bộ phận đặc sắc
trong tư tưởng kinh tế của Người và vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với đất nước ta
trong công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Cơ cấu các thành phần của một nền kinh tế phụ thuộc vào sự tồn tại của các hình
thức sở hữu, các kiểu quan hệ sản xuất, vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
của sản xuất hàng hoá thời kỳ quá độ. Như Lênin đã chỉ rõ: Nền kinh tế trong thời kỳ
quá độ, xét về toàn bộ, nó là nền kinh tế quá độ, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do
đó sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan. Mỗi thành
phần kinh tế còn phát huy tác dụng tích cực, có đóng góp vào quốc kế dân sinh thì không
thể dùng mệnh lệnh hành chính mà xoá bỏ ngay một lúc được.
Khi nghiên cứu Chính sách kinh tế mới của Lênin để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ,
ở vùng tự do của ta, còn tồn tại 6 thành phần kinh tế.
Trong tác phẩm "Thường thức chính trị" viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã nêu rõ
bản chất của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa và đã cụ thể hoá các thành phần kinh tế bao gồm:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. - Kinh tế quốc doanh
- Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp
- Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ.
- Kinh tế tư bản của tư nhân. - Kinh tế tư bản quốc.
Đặc điểm mới của nền kinh tế Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là sự 6 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần. Đặc biệt, bên cạnh các thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa thì có sự tồn tại của thành phần là kinh tế phong kiến. Đây là thành phần
kinh tế mang tính đặc thù, thành phần kinh tế này phản ánh trình độ phát triển kinh tế
thấp với chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất và trong hoàn cảnh đặc thù yêu cầu phải
tiếp tục kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, cách mạng dân chủ.
Trên cơ sở nhận thức về tính quy luật chung, tính đặc thù trong nền kinh tế của từng
nước. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế
cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và
trong từng giai đoạn cụ thể. Về cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954,
bên cạnh đảm bảo tính quy luật chung về đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần với các thành
phần kinh tế phổ biến, kinh tế quá độ thì vẫn tồn tại thành phần kinh tế mang tính đặc
thù. Như vậy, đây chính là điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, đã nhận thức rõ vị trí, vai
trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế và có sơ sở để hoạch định chính sách
đảm bảo ổn định nền kinh tế và góp phần quan trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi.
2. Quan điểm của Hồ C í
h Minh về nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội những năm sau 1954.
Sau năm 1954 miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa từ xuất phát điểm rất thấp, với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn
phá nặng nề. Cơ sở vật chất – kỹ thuật nghèo nàn. Trình độ, năng suất lao động thấp,
đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật vừa ít về số lượng, vừa hạn chế về năng lực và kinh
nghiệm điều hành, quản lý. Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện đất nước bị chia cắt làm hai miền, vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh. Tình hình
thế giới phức tạp. Hệ thống xã hội chủ nghĩa bộc lộ một số khó khăn, bất đồng, mâu
thuẫn. Vấn đề lý luận về mô hình, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chưa sáng rõ. Từ
thực tiễn miền Bắc như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ ra các hình thức
sỡ hữu cơ bản trong nền kinh tế miền Bắc, bao gồm: “Sở hữu Nhà nước tức là của toàn
dân; sở hữu hợp tác tức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu của người lao
động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”[2]. Với sự đa dạng
của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, Người đã xác định rõ những thành phần kinh tế
đang tồn tại và hoạt động ở miền Bắc: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau: 7 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH).
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác
xã, tức là nữa CNXH).
D- Tư bản của tư nhân.
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên
kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư
bản”[3].
Như vậy, cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở Miền Bắc Việt Nam
sau năm 1954 so với cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954 ở những điểm
thống nhất và có những điểm thay đổi sau:
- Điểm thống nhất: Trong nền kinh quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì đặc điểm kinh
tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam là sự tồn tại
khách quan của các thành phần kinh tế. Và tồn tại các thành phần kinh tế phổ biến: Kinh
tế quốc doanh; Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; Tư bản của tư nhân.
Thành phần kinh tế quá độ: Các hợp tác xã; Tư bản của Nhà nước. - Điểm thay đổi:
Một là, khác với thời kháng chiến, trong chế độ dân chủ mới không còn thành
phần kinh tế phong kiến. Cải cách ruộng đất đã triệt tiêu chế độ sở hữu phong kiến về
ruộng đất. Người nông dân đã trở thành người cày có rộng, chủ sở hữu ruộng đất. Điều
này một lần nữa khẳng định lại nhận định của Hồ Chí Minh: “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[4]. Muốn đi tới chủ nghĩa
cộng sản thì dân tộc phải độc lập và dân cày phải có ruộng.
Hai là, các thành phần kinh tế thay đổi về vị trí và vai trò trong nền kinh tế. Kinh
tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, cần phải ưu
tiên phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho CNXH và
thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Như vậy, vị trí, vai trò của thành phần kinh tế
quốc doanh đã có bước phát triển mới, từ chỗ có tính chất chủ nghĩa xã hội đã trở thành
thành phần kinh tế thực sự đại diện cho chủ nghĩa xã hội có vai trò “lãnh đạo” trong nền
kinh tế và đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế. "Kinh tế quốc
doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng
ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó". 8 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
Đối với thành phần kinh tế quá độ kinh tế hợp tác xã; tư bản của Nhà nước trở
nên phố biến, vững chắc và phạm vi mở rộng hơn. Kinh tế hợp tác xã, Người khẳng
định, kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; Nhà nước
cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển. Hợp tác hóa nông
nghiệp là khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Kinh
nghiệm qua chứng tỏ rằng hợp tác hóa nông nghiệp ở nước ta, cần phải trải qua hình
thức tổ đổi công và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đó là việc rất cần thiết. Chúng ta
phát triển từng bước vững chắc tổ đổi công và hợp tác xã thì hợp tác hóa nông nghiệp
nhất định thành công. Tư bản của Nhà nước, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đối với những
nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và
của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân
sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và
giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những
hình thức cải tạo khác”[5]. Kinh tế tư bản Nhà nước, được Nhà nước khuyến khích,
giúp đỡ các nhà tư bản đi theo chủ nghĩa xã hội và hướng dẫn hoạt động kinh tế theo
một kế hoạch thống nhất. Đây là thành phần kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc nhằm hướng thành phần kinh tế này quay trở lại phục vụ chủ
nghĩa xã hội. Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ. Hồ Chí Minh cho rằng,
“Đối với người làm thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu
về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến
khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện”[6]. “Đẩy mạnh cuộc
cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công,
những người lao động riêng lẻ khác và đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh, đồng
thời nó mở mang và tăng cường lực lượng của thành phần kinh tế quốc doanh, thúc đẩy
việc phát triển kinh tế theo chủ nghĩa xã hội”[7].
Những nhận định của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân
chủ mới ở Miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 đã cho thấy sự vận dụng sáng tạo của
Người khi kế thừa quan điểm của V.I.Lênin vào thực tiễn đất nước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, phù hợp với đặc thù lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội và đảm bảo
tính quy luật chung, phản ánh tính đặc thù của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ có các
thành phần kinh tế phổ biến, thành phần kinh tế quá độ đan xen. Những nhận thức đó có
ý nghĩa vô cùng to lớn về lý luận, đây là cơ sở khoa học để Hồ Chí Minh đưa ra các
quyết sách đúng đắn trên lĩnh vực kinh tế trong quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc
trước đây và trên phạm vi cả nước. 9 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY
I. Quan điểm được Đảng Cộng Sản Việt Nam vận dụng thực tiễn vào việc xây dựng
nền kinh tế nước ta hiện nay.
1. Những quan điểm và quá trình vận dụng của Đảng Cộng Sản Việt Na . m
Thực tiễn hơn 30 năm Việt Nam phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta đã có sự lựa chọn sáng suốt, đúng đắn khi quyết định
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, tháng 12 năm 1986. Đã tạo ra bước đột phá về tư duy đổi mới thể chế, cơ chế trong
quản lý kinh tế và đã vận dụng một cách sáng tạo nhất quan điểm của Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tùy
vào từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn
từng thành phần kinh tế cho phù hợp, nhưng quan điểm nhất quán trong suốt thời kỳ đổi
mới cho đến nay, Đảng ta khẳng định phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, dựa
trên nhiều hình thức sở hữu.
Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tháng 12 năm 1986 - Đại hội đổi
mới, Đảng xác định: “Xuất phát từ sự đánh giá những tiềm năng tuy phân tán nhưng
rất quan trọng trong nhân dân, cả về sức lao động, kỹ thuật, tiền vốn, khả năng tạo việc
làm, chúng ta chủ trương: đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể,
tăng cường nguồn tích lũy tập trung của Nhà nước và tranh thủ vốn ngoài nước, cần có
chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác”[8]. Đồng thời chỉ
ra: Ở nước ta các thành phần kinh tế đó là: “Kinh tế xã hội chủ nghĩa; Các thành phần
kinh tế khác gồm: Kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, những
người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản
nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên,
tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng
núi cao khác”[9]. 10 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) nêu rõ: Trong nền kinh tế thị
trường, với quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo đảm, từ ba loại sở hữu cơ bản,
sẽ hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng:
Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt;
kinh tế tập thể, với hình thức phổ biến là hợp tác xã, phát triển rộng rãi và đa dạng trong
các ngành, nghề với quy mô và mức độ tập thể hóa khác nhau, trên cơ sở tự nguyện góp
vốn, góp sức của những người lao động. Kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển
trong các ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn. Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển
không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp
không cấm. Kinh tế gia đình không phải là một thành phần kinh tế độc lập nhưng được
khuyến khích phát triển mạnh. Nhà nước nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần,
không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể hoá tư
liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh.
Đại hội VIII (năm 1996) Đảng ta tiếp tục khẳng định: Thực hiện nhất quán, lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực hiện chủ trương,
chính sách đối với từng thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác mà nòng
cốt là các hợp tác xã; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá chủ, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) nêu ra 6 thành phần kinh tế cơ
bản. Đảng ta ghi rõ: Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật. Đại hội cũng chỉ rõ các thành
phần kinh tế ở nước ta trong giai đoạn này gồm: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh
tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội X (năm 2006) của Đảng khẳng định, ở Việt Nam có ba chế độ sở hữu là
toàn dân, tập thể và tư nhân, trên cơ sở đó hình thành nhiều thành phần kinh tế gồm:
Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy Đại hội X chỉ khác Đại hội IX ở chỗ đã sát nhập hai
thành phần kinh tế kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư bản tư nhân thành một
thành phần đó là kinh tế tư nhân, là vì hai thành phần này có điểm chung giống nhau là
đều dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về TLSX; mặt khác chúng ta xóa đi sự mặc cảm đối
với kinh tế tư bản tư nhân và nó sẽ thuận hơn khi nói đến đảng viên được làm kinh tế tư nhân. 11 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
Tại Đại hội XI (năm 2011), gồm có 4 thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà
nước; Thành phần kinh tế tập thể; Thành phần kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ, tư bản tư nhân) và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tại Đại hội XII
(năm 2016), Đảng ta chủ yếu nhấn mạnh đến 4 thành phần kinh tế sau: Thành phần kinh
tế nhà nước; Thành phần kinh tế tập thể; Thành phần kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá
thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu
chúng ta so sánh với các thành phần kinh tế mà Lênin và Hồ Chí Minh đề cập, thì không
thấy thành phần kinh tế tư bản nhà nước, đây là thành phần kinh tế mà Lênin cho rằng
có vai trò rất quan trọng trong việc liên kết giữa tử bản tư nhân và chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình phát triển đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế Đại hội XI của Đảng tiếp
tục khẳng định: “Phát triển nhanh, hài hòa các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã. Hoàn thiện cơ
chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực
của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy
hoạch”[10].
Mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò nhất định trong cơ cấu thành phần kinh
tế, trước hết là thành phần kinh tế Nhà nước. Đây là thành phần kinh tế mà Hồ Chí Minh
cho rằng là thành phần kinh tế lãnh đạo, phát triển mau hơn cả. Tư tưởng này của Bác
được Đảng ta vận dụng đưa vào trong các Nghị quyết Đại hội của đảng. Trong Đại hội
XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử
dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền
kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”[11]. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế
Nhà nước thể hiện qua: Đi đầu về nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả,
nhờ đó mà thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế quốc dân; Bằng
nhiều hình thức hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng
XHCN; Tăng cường sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để Nhà nước thực hiện có hiệu lực
chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế định hướng XHCN.
Để phát triển nhanh và bền vững đất nước, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh:
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển, kinh tế tư nhân là một 12 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến
khích phát triển”[12].
Chính vì vậy, trong suốt chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước
ta, Đảng và Nhà nước đã cho thành lập các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước, nắm
giữ những ngành, lĩnh vực kinh tế then chốt của đất nước - được xem là xương sống,
mạch máu của nền kinh tế nước nhà, và đây là công cụ kinh tế thực hiện chức năng quản
lý kinh tế của Nhà nước, nhằm điều tiết kinh tế, hỗ trợ, định hướng các thành phần kinh
tế khác đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, thành phần kinh tế tập thể, Đảng
ta xác định đây là thành phần kinh tế cùng với thành phần kinh tế nhà nước ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; thứ ba, thành phần kinh tế tư
nhân là một trong những động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; thứ tư, về thành phần kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Đảng ta khẳng định “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú
trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động
lựa chọn và ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ
hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp
trong nước”[13].
Tuy nhiên, trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII, Đảng ta
hầu như không hoặc có đề cập nhưng không rõ ràng về thành phần kinh tế tư bản nhà
nước, đây là thành phần kinh tế mà theo Lênin là nó có vai trò rất quan trọng, là thành
phần kinh tế trung gian trong việc liên kết thành phần kinh tế tư bản tư nhân với thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, là “chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên qua” chủ nghĩa tư
bản, để đi vào chủ nghĩa xã hội, là thành phần kinh tế có vai trò cầu nối giữa TBTN và
XHCN, để thành phần kinh tế XHCN định hướng thành phần kinh tế tư bản tư nhân đi
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, đây là thành phần kinh tế đóng vai trò
trung gian giữa Thành phần kinh tế tư nhân với Thành phần kinh tế nhà nước, đó là sự
kiên kết giữa tư nhân trong nước, nước ngoài với tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà
nước. Thông qua đó chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp, công
ty, tổng công ty, tập đoàn kinh tế kinh tế tư nhân trong thời kỳ đẩy mạnh kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.Trong văn kiện XII Đảng ta không đề cập
một cách rõ ràng nhất về thành phần kinh tế này, chỉ đề cập đến một nội dung nhỏ về
thành phần kinh tế tư bản nhà nước “tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư
nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”, nếu chúng ta đi phân tích
nội dung này với khái niệm thành phần kinh tế tư bản nhà nước thì nội hàm của nó gần
như giống nhau, bởi vì, thành phần kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế liên kết
giữa tư nhân trong nước và nước ngoài với Nhà nước xã hội chủ nghĩa. 13 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
Như vậy, trong các chặng đường phát triển kinh tế khác nhau thì nhận thức về
thành phần kinh tế cũng có sự thay đổi, đó là quá trình khách quan phù hợp với quy luật
nhận thức. Cho nên, quá trình đổi mới tư duy về các thành phần kinh tế ở nước ta qua
các kỳ Đại hội của Đảng là hoàn toàn phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong quá trình hội nhập
quốc tế ngày càng sâu, rộng hơn.
2. Đặc điểm nền kinh tế ở Việt Nam thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa quan điểm của C.Mác; Ph.Ăngghen và Lênin, Đảng ta trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam luôn khẳng định con đường đi lên của đất nước là
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã gặp không ít khó khăn, thách thức, Đảng và dân tộc ta vẫn
kiên trì con đường đi lên CNXH. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục đưa
đất nước từng bước quá độ lên CNXH. Mặc dù hiện tại CNTB còn tiềm năng phát triển,
nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bất công... Theo quy luật tiến hóa của lịch
sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
Thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam với những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế là:
Nước ta quá độ từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp, nền
kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN.Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng chỉ rõ: Chúng ta bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Thời kỳ quá độ ở nước ta là sự tồn tạicó nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội tương
ứng với nó là nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế và đa dạng hóa các hình
thức phân phối.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta xác định: “Nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động 14 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp
tác và cạnh tranh theo pháp luật”
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một thành tựu lý
luận đặc sắc của Đảng ta đã được thực tiễn 30 năm đổi mới khẳng định: Đất nước ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát
triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước hình thành, phát triển. Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng
để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
II. Kết quả khi vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh.
Kết quả của hơn 35 năm đổi mới về kinh tế nước ta tốc độ tăng trưởng bình quân
khá cao, trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, môi trường quốc tế không thuận
lợi); Tiềm lực, quy mô của nền kinh tế được nâng lên, GDP năm 2020 đạt 343,6 tỉ USD
(đứng thứ 4 Đông Nam Á; Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt
khoảng 6%/năm, năm 2020 đạt 2,91% ; Thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD
năm 2020 (xếp thứ 6 ASEAN); Dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD; Xếp thứ 42/131
quốc gia và nền kinh tế về chỉ số đổi mới và sáng tạo. Những kết quả nêu trên, một lần
nữa khẳng định rằng chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng; đi
lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam đảm bảo tính quy luật chung và tính
đặc thù và phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Mỗi thành phần kinh tế tồn tại có ví trí, vai trò riêng để thực hiện các nhiệm vụ có ý
nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn chủ nghĩa
xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế tuân thủ theo pháp luật. Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng
để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã ộ
h i chủ nghĩa. 15 Đoàn Ánh Ngọc - LLT 1101( T 122)_26
TỔNG KẾT
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hiện nay vẫn có ý
nghĩa thời sự và ý nghĩa phương pháp luận cần được quán triệt và vận dụng sáng tạo để
định hướng cho sự nghiệp tiếp tục đổi mới nền kinh tế đất nước. Dự thảo văn kiện trình
Đại hội X đã rút ra một trong những bài học lớn của quá trình 20 năm đổi mới là “Trong
quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời luôn nhạy bén với cái
mới, với những phát triển mới của thực tiễn”[14]. Về phát triển các thành phần kinh tế,
dự thảo nêu rõ: “nước ta có ba chế độ sở hữu là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu
tư nhân; thể hiện dưới bốn hình thức cơ bản: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, sở hữu hỗn hợp” và “tương ứng với bốn hình thức sở hữu cơ bản trên, nền kinh tế
nước ta có bốn thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế hỗn hợp.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” [14]. Như vậy, phát triển kinh tế nhiều thành phần
vẫn là 'vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên
CNXH". Một lần nữa, chúng ta lại thấy sáng ngời tư duy sáng tạo của Hồ Chí Minh và
của Đảng ta trong tư tưởng về sự phát triển nền kinh tế - xã hội theo phép biện chứng
khách quan của lịch sử trong những hoàn cảnh cụ thể nhất định. Với đường lối lãnh đạo
của Đảng, dưới ánh sáng tư tưởng của Người, chúng ta có quyền hy vọng trong t ương
lai không xa, nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển lên một tầm cao mới, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 16