



















Preview text:
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN: ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM
TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
Giảng viên hướng dẫn : Th.S PHAN THỊ PHƯƠNG
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN THỊ VÂN ANH
Mã sinh viên : 2021602644
Lớp - Khóa : 2021DHTKTT – K16 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 2
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ....................................................................................... 3
2. ĐẠO MẪU LÀ GÌ? ............................................................................................. 3
3. NGUỒN GỐC CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU TRONG VĂN HÓA VIỆT
NAM ........................................................................................................................... 4
4. CÁC DẠNG THỨC THỜ MẪU ......................................................................... 7
4.1. Thờ Mẫu ở miền Bắc .................................................................................... 7
4.2. Thờ Mẫu ở miền Trung .............................................................................. 10
4.3. Thờ Mẫu ở miền Nam ................................................................................. 12
5. NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA ĐẠO MẪU VIỆT NAM ............................ 13
5.1. Giá trị nhận thức thế giới ........................................................................... 13
5.2. Giá trị nhân sinh: Đạo Mẫu hướng niềm tin của con người vào đời sống
trần thế .................................................................................................................. 14
5.3. Đạo mẫu gắn bó với dân tộc, là thứ chủ nghĩa yêu nước đã được tâm linh hóa 15
5.4. Hầu đồng – một di sản văn hóa nghệ thuật độc đáo .................................. 16 5.4.1.
Hầu đồng là gì? ..................................................................................... 16 5.4.2.
Trang phục Hầu đồng .......................................................................... 18
6. TỔNG KẾT ....................................................................................................... 20
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................... 21
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 22
LỜI MỞ ĐẦU
Đại cương văn hóa Việt Nam là học phần cung cấp những kiến thức cơ bản về
văn hóa và văn hóa Việt Nam; văn hóa đặc trưng một số vùng, miền; sự ảnh hưởng 2
của văn hóa các khu vực: Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây với Việt Nam. Bên cạnh
đó, học phần cũng phân tích được những ảnh hưởng của văn hóa mặc vào trang phục
qua một số thời kỳ lịch sử. Từ đó có ý thức tôn trọng, phát huy bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.
Dưới đây là bài tập lớn của em sau khi học xong học phần “Đại cương văn hóa
Việt Nam”. Bài tập lớn với chủ đề nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu (Đạo Mẫu) của Việt Nam.
Trong quá trình học tập và làm bài tập lớn, em rất may mắn khi được cô Thạc sĩ
Phan Thị Phương giảng dạy, hướng dẫn tận tâm. Em mong bài tập lớn sẽ đạt yêu cầu
mà cô đề ra. Em cũng mong nhận được ý kiến đóng góp, đánh giá của cô để em rút ra
kinh nghiệm và hoàn thành bài tập được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 22 tháng 5 năm 2023.
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tín ngưỡng thờ Mẫu (Đạo Mẫu) xuất phát từ khát vọng của con người về cuộc
sống ấm no, hạnh phúc, là nét đẹp trong văn hóa tâm linh thấm sâu trong tâm thức 3
mỗi người dân Việt Nam. Vì vậy, tôi chọn đề tài này để tìm hiểu, nghiên cứu rõ
hơn về nguồn gốc, đặc trưng cũng như ý nghĩa của tín ngưỡng thờ Mẫu - một tập
tục phổ biến mang đậm chất bản địa tồn tại cùng chiều dài lịch sự dân tộc.
2. ĐẠO MẪU LÀ GÌ?
Đạo Mẫu là tín ngưỡng bản địa lâu đời, thỏa mãn tâm lý nông dân cầu mong sự
sinh sôi nảy nở từ xa xưa. “Tín ngưỡng thờ Mẫu” thể hiện sự tin tưởng, ngưỡng
mộ, tôn vinh và thờ phụng những vị nữ thần gắn liền với các hiện tượng tự nhiên
trong vũ trụ, được người đời cho rằng có chức năng sáng tạo, sản sinh, bảo trợ và
che chở cho cuộc sống của con người như: Trời, đất, sông, nước, rừng núi...
Hình 2.1. Tín ngưỡng thờ Mẫu_Nguồn: Internet
Đây là một tín ngưỡng có nguồn gốc thực sự nguyên thủy, mặc dù trong quá
trình phát triển, nó đã hấp thụ những ảnh hưởng của Đạo giáo, Phật giáo và thậm
chí cả Nho giáo. Thánh Mẫu được tôn thờ là Mẫu (Mẹ) là đấng sáng tạo, duy trì vũ
trụ và con người, là nơi con người gửi gắm những ước vọng, nguyện vọng về cuộc
sống trần thế và đạt được sức khỏe, hạnh phúc (Phúc Lộc Thọ).
Hệ thống đền thờ tuy đa thần (khoảng 60 ngôi trở xuống) nhưng đứng đầu và
bao trùm là Thánh Mẫu, tuy Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện trong đền vào thời
gian muộn (từ thế kỷ XV – XVI), nhưng lại chiếm vị trí chủ đề trong điện thờ Mẫu.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã trần thế hóa đạo Mẫu. Trong điều kiện của xã hội Nho
giáo cuối thời phong kiến, Thánh Mẫu đã đi vào đời sống nhân dân, ăn sâu vào xã
hội và đời sống tâm linh của mỗi con người Việt Nam. 4
Hình 2.3. Thánh Mẫu Liễu Hạnh_Nguồn:Internet
3. NGUỒN GỐC CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM
Từ nguồn gốc lịch sử và xã hội xa xưa thì tín ngưỡng thờ Mẫu (hiện nay thường
gọi là Đạo Mẫu, thờ Thánh Mẫu, thờ Mẫu tam phủ - tứ phủ) đã xuất hiện khá phổ biến.
Mặc dù đều cùng một hệ thống thần điện, cùng một nguyên tắc là tôn sùng thần linh
nữ tính song cách thức thờ Mẫu, thờ Thánh Mẫu, thờ Thánh Cô, Mẫu tam phủ - tứ phủ
được thực hiện không hoàn toàn giống nhau.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là việc tôn thờ Mẫu - Mẹ làm đấng tối cao quyền năng để
đảm bảo cho sự sinh sôi, chở che cho con người và vạn vật. Tín ngưỡng là sự thần
thánh hóa của một vị thần mang hình hài của một người Mẹ - một hình mẫu cho sự
bao dung, ấm áp, bảo trợ. Được hình thành ở thời kỳ phong kiến hà khắc nên ở đó,
người phụ nữ Việt Nam được giải tỏa hết những thành kiến, sự ràng buộc, những
xiềng xích của chế độ phong kiến. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, tại hệ thống thần điện
còn có Thánh Bản mệnh, đây là vị thần đứng đầu dẫn dắt người tu đạo đến với Mẫu. 5
Hình 3.1. Tượng thờ Thánh Bản Mệnh_Nguồn: Internet
Trong kho tàng thần thoại về sự hình thành và lập quốc thì vai trò của các vị nữ
thần luôn được nêu cao. Có thể kể đến như thần thoại từ lúc Việt Nam chỉ toàn là bùn
và nước thì nữ thần Mặt Trời và nữ thần Mặt Trăng đã soi sáng cho muôn loài, xóa tan
đi sự tối tăm, lạnh giá. Hay truyền thuyết về "Đội đá vá trời" của bà Nữ Oa và ông Tứ
Tượng. Chính bà Nữ Oa đã tạo ra những vị nữ thần khác đại diện cho các thế lực tự
nhiên Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Những vị thần nữ còn được coi là tổ sư của
nhiều ngành nghề thủ công có vai trò quan trọng trong đời sống nông nghiệp tại vùng
châu thổ sông Hồng như mẹ Âu Cơ. Cây lúa chính là thực phẩm chính, đã nuôi sống
hàng nghìn đời dân Việt Nam. Vì thế, cây lúa - đất - nước đã trở thành một dạng thần linh, gắn với tính Âm.
Hình 3.2. Tượng thờ Mẫu Âu Cơ_Nguồn: Internet
Như vậy, nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam được xuất phát từ
niềm tin và sự kính trọng của nhân dân Việt dành cho tính nữ, với khả năng sinh sản,
nuôi dưỡng và phát triển. Điều này có lẽ do ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực. Dù
cho trong chế độ phong kiến vốn trọng nam khinh nữ thì tư tưởng của người nông dân
về quan hệ mẫu hệ - nữ quyền vẫn bao phủ lên tư tưởng cổ hủ ấy. Dưới sự phát triển
của Nho giáo, sự ảnh hưởng của tư tưởng nam quyền thì có thể phái nữ đã bị xem nhẹ.
Dẫu vậy, "phép vua còn thua lệ làng", dù không ra trận mạc chinh chiến, dù chỉ được
gắn với trách nhiệm làm mẹ, làm vợ, ... thì tư tưởng mẫu hệ vẫn tồn tại bền bỉ trong
tâm thức của người Việt. Và bởi không có phụ nữ thì sẽ chẳng có người chèo chống
bếp núc, quán xuyến gia đình, quản lý tiền bạc, ... Hay nói cách khác, tín ngưỡng thờ
Mẫu ở Việt Nam chính là sự tôn sùng, là sức mạnh để bảo vệ đời sống tâm hồn của 6
người phụ nữ trong gia đình. Người phụ nữ Việt Nam luôn là người nuôi nấng, giáo
dục con cái, quản lý các công việc gia đình. Mọi công việc trong gia đình hầu như do
một tay người phụ nữ xây dựng nên.
Hình 3.3. Người phụ nữ Việt Nam_Nguồn: Internet
Khi dân tộc Việt Nam còn theo chế độ mẫu hệ thì tín ngưỡng thờ Mẫu đã được
hình thành, nhưng để tín ngưỡng thờ Mẫu chính thức trở thành Quốc đạo thì phải kể
đến khi sự ra đời của Thánh Mẫu Liễu. Để hình thành nên điện thờ Thánh Mẫu phải kể
đến công lao rất lớn của các vua Lê khi đã có công kết hợp tục thờ Mẫu của người
miền xuôi và tục Sơn Trang của người miền núi. Trong đó, Thánh Mẫu Liễu Hạnh là
thần chủ của đạo mẫu của người đồng bằng và Mẫu Thượng Ngàn là chủ sơn trang của người miền núi.
Hình 3.4. Thờ Sơn Trang_Nguồn: Internet 7
Từ thế kỷ XV, Đạo Mẫu Việt Nam được ra đời. Và ngày giáng thế đầu tiên của
Thánh mẫu Liễu Hạnh là năm 1434, tính đến nay đã hơn 600 năm trôi qua. Như vậy,
có thể thấy Đạo Mẫu ra đời sau đạo Phật giáo, song tín ngưỡng thờ Mẫu lại được ra
đời từ hàng nghìn năm trước đó, có thể trước khi Đức Phật nhập niết bàn.
4. CÁC DẠNG THỨC THỜ MẪU 4.1.
Thờ Mẫu ở miền Bắc
Nhóm thờ mẫu gắn liền với quan niệm về vũ trụ, những vị thần mang lại cuộc
sống của nhân loại như : Mẫu Tam phủ/ Tứ Phủ (Tam Tòa Thánh Mẫu), bao
gồm Đệ Nhất Thượng Thiên, Đệ Nhị Thượng Ngàn, Đệ Tam Thoải Phủ, Mẫu
Liễu Hạnh. Nhóm nữ thần này thực chất được nhân dân coi còn lớn hơn nữ
thần, vì họ có quyền năng lớn tạo ra sự sống cho muôn loài. Họ là những vị
Thánh đại diện cho những nhân tố/ yếu tố của hệ thống vũ trụ, và được chia
thành 4 miền chính như miền trời đại diện hóa thân Mẫu Thiên, miền đất đại
diện hóa thân thành Mẫu Địa, miền sông, biển/ nước đại diện hóa thân Mẫu
Thoải, miền núi rừng đại diện hóa thân thành Mẫu Thượng Ngàn.
Hình 4.1.1. Tam Toà Thánh Mẫu_Nguồn: Internet
Nhóm tôn xưng như Quốc Mẫu, Vương Mẫu và Thánh Mẫu. Những vị tôn
xưng này gắn với những hình tượng phụ nữ có thân phận cao quý như ở trong
cung đình, hay người có công lớn điển hình là Quốc Mẫu, Vương Mẫu Nguyên
Phi Ỷ Lan, 8 vợ Vua Hùng Định Vương cũng được Phong là Tây Thiên Quốc
Mẫu có đền thờ ở đỉnh núi Tam Đảo, hay mẹ Thánh Gióng được tôn là Quốc Mẫu … 8
Hình 4.1.2. Tây Thiên Quốc Mẫu_Nguồn: Internet
Hình 4.1.3. Đền Mẫu thờ mẹ Thánh Gióng làng Phù Đổng_Nguồn: Internet
Đạo Mẫu và tục thờ cúng tổ tiên có nhiều điểm chung, hoặc có sự ảnh hưởng
lẫn nhau. Như trong hệ thống thờ Đạo Mẫu cũng đều có sự phân cấp thứ tự theo hình
thức vai vế như gia tộc, thể hiện trong các ngày “ tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ
Mẹ”. Đặc biệt trong cách sắp đặt trong nghi thức thờ, sự phân cấp này ngày càng thể
hiện về từng vị trí của người đứng đầu Tam tòa Thánh Mẫu (Tam phủ, Tứ phủ) – được
đặt ở vị trí cao nhất, tiếp đến là các vị trí của các Quốc Mẫu, và đến Nữ thần. 9
Hình 4.1.4. Tranh thờ Tam Phủ_Nguồn: ĐCBG ĐCVHVN
Trong hệ thống thờ Đạo Mẫu không thể không nhắc đến các vị Nam thần, họ là
những vị Thánh là những người có công mang lại cuộc sống bình yên cho con người.
Đặc biệt những vị Thánh nam cũng được gắn đại diện các miền như Ngọc Hoàng
Thượng Đế - Thiên Phủ, Bát Hải Long Vương – Thoải Phủ, Tản viên Sơn Thánh –
Nhạc Phủ, Thập điện Minh Vương – Địa Phủ. Do đó trong hệ thống cách bày trí thờ
đều có sự đan xen theo thứ bậc, điển hình như trong cách sắp xếp thờ các vị Thánh của
hệ thống Tứ Phủ. Hệ thống thờ thánh của Đạo Mẫu còn có khái niệm Tứ Phủ Cộng
đồng, tức là bao gồm các vị Thánh từ cao nhất là Phật Mẫu cho đến các hàng Cô và
Cậu, sắp xếp các vị Thánh trong đó có các vị: Thứ nhất là Phật Mẫu/ Phật Bà Quán
Âm Bồ Tát, thứ hai là Vua Cha, thứ ba là Thánh Mẫu, thứ tư là Quan Lớn, thứ năm là
Chầu Bà, thứ sáu là ông Hoàng, thứ bảy là Thánh Cô, thứ tám là Thánh Cậu. 10
Hình 4.1.5. Tranh thờ Cộng Đồng Tứ Phủ_Nguồn: ĐCBG ĐCVHVN
Hình 4.1.6. Ban thờ Tứ Phủ_Nguồn: ĐCBG ĐCVHVN 4.2.
Thờ Mẫu ở miền Trung
Ở Miền Trung Bộ, tục thờ nữ thần có nhiều điểm giống với Bắc Bộ, tuy nhiên
hệ thống thờ Đạo Mẫu. Giáo sư Ngô Đức Thịnh viết: “Tục thờ Mẫu ở Trung Bộ tuy
thiếu bóng Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ, nhưng lại hết sức phức tạp, nhưng với các tiêu
chuẩn nêu trên, chúng ta có thể phân thờ Mẫu ở đây thành hai lớp chính, đó là thờ Nữ
thần mà tiêu biểu là Tứ vị Nương nương, Bà Ngũ Hành… và các lớp thờ Mẫu thần mà
tiêu biểu hơn cả là thờ Thiên Ya Na, Pô Inư Nưgar.”
Có thể thấy, hệ thống thờ nữ thần ở miền Trung Bộ được phát triển từ các nguồn gốc như: 11
Thứ nhất là các vị Nữ thần có gốc từ sùng bái tự nhiên, và được dân gian nhân
cách hóa Bà Ngũ Hành (Ngũ Hành Thượng giới) được gọi thành Bà Kim, Bà
Mộc, Bà Thủy, Bà Thổ, Bà Hỏa. Những tên gọi được nhân cách hóa từ 5 yếu tố
của vũ trụ như: Kim khí/ kim loại, gỗ, nước, đất và lửa. Những yếu tố này được
nuôi dưỡng từ đất trời, có vai trò to lớn đối với cuộc sống của nhân loại. Mỗi bà
sẽ được hiện diện theo hình ảnh tượng trưng như Bà Kim mặc áo màu trắng, Bà
Mộc mặc áo màu xanh, Bà Thủy mặc áo màu đen, Bà Thổ mặc áo màu vàng.
Hình 4.2.1. Thờ Bà Ngũ hành_Nguồn:Internet
Điểm đặc biệt trong thờ Bà Ngũ hành không chỉ dừng lại ở tín ngưỡng cầu xin
những điều tốt đẹp trong công việc làm nông nghiệp, mà còn mở rộng ra đó là
các nghề khác nhau trong xã hội như ngư nghiệp, thủ công nghiệp, buôn bán.
Các đền thờ/ miếu thờ Bà Ngũ hành có ở khắp nơi, nhưng nhiều nhất vẫn là ở
các vùng ven biển, cửa sông…
Thứ hai là những Nữ thần có nguồn gốc ngoại lai nhưng lại được Việt hóa,
nguyên nhân có thể là do chiến tranh, hay trong quá trình di cư của người dân,
nên họ mang theo tín ngưỡng. Điển hình có Nữ thần Pô I nư Nư gar hay nữ thần
Thiên Ya Na – là nữ thần tiêu biểu của người Chăm, được thờ phụng như Mẫu thần. 12
Hình 4.2.2. Thờ Nữ thần Thiên Ya Na_Nguồn:Internet 4.3.
Thờ Mẫu ở miền Nam
Tín ngưỡng thờ nữ thần ở Miền Nam có nhiều điểm khác so với miền
Bắc, cũng bởi miền Nam là vùng đất mới của người Việt, nên có nhiều ảnh
hưởng của việc giao lưu văn hóa. Do đó các vị thần được nhân cách hóa có tính
chất ảnh hưởng của các nền văn hóa Khơ me, Việt, Chăm, Hoa. Điển hình có
các vị Thánh Mẫu như: Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Xứ, Bà Đen - Linh Sơn Thánh
Mẫu, Bà Thiên Hậu, Cửu Thiên Huyền Nữ… Và các vị thần như Bà Ngũ Hành,
Bà Thủy Long, Bà Hồng, Tứ Vị Nương Nương, Trinh Nữ Nương Nương …
Ngoài ra ở Nam Bộ cũng rất phát triển thờ Mẫu gắn với thờ Phật Mẫu.
Hình 4.3.1. Thờ Bà chúa Xứ_Nguồn:Internet 13
Hình 4.3.2. Dinh Bà Thủy Long_Nguồn:Internet
5. NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA ĐẠO MẪU VIỆT NAM 5.1.
Giá trị nhận thức thế giới
Việc tôn thờ Mẫu không chỉ với tư cách là hiện thân của bản thể tự nhiên
mà còn là lực lượng lượng cai quản tự nhiên. Chính vì vậy, Mẫu, người mẹ tự
nhiên ấy có thể che chở, mang lại những điều tốt lành cho con người.
Cách nhận thức thế giới theo kiểu “nhất thể hóa” này có mặt tích cực,
giúp cho con người hòa đồng với tự nhiên, cảm nhận tự nhiên, lắng nghe tự
nhiên, mà cuối cùng bảo vệ tự nhiên một cách hữu hiệu hơn. Điều này càng trở
nên quan trọng khi mà hành tinh chúng ta đang đứng trước thực tế bị tàn phá,
dẫn đến sự biến đổi khí hậu, đe dọa chính bản thân con người và nền văn minh nhân loại.
Qua Đạo Mẫu, chúng ta hiểu cách con người xưa thiêng hóa tự nhiên,
sùng bái tự nhiên chính là để bảo vệ tự nhiên. Và đến một lúc nào đó sự sùng
bái ấy đã được chuyển sang sùng bái nữ thần, mà suy cho cùng thì đó cũng là
cái cách nhân thần hóa tự nhiên mà thôi. Bởi vì, giữa tự nhiên và tính nữ đều có
chung những đặc tính, đó là sự sản sinh, bảo trữ và che chở. 14
Hình 5.1.1. Mẫu Thượng Ngàn_Nguồn:Internet 5.2.
Giá trị nhân sinh: Đạo Mẫu hướng niềm tin của con người
vào đời sống trần thế
Khác với nhiều tôn giáo tín ngưỡng, dù đó là Phật giáo, Kitô giáo… Đạo
Mẫu không hướng con người và niềm tin của con người về thế giới sau khi
chết, mà là thế giới hiện tại, thế giới mà con người cần phải có sức khỏe, có tiền
tài và quan lộc. Đó là một nhân sinh quan mang tính tích cực, phù hợp với quan
niệm “hiện sinh” của con người trong thế giới hiện đại.
Trong nghiên cứu hiện nay, các nhà khoa học đã bắt đầu lý giải được
việc những người có căn sè, tức là những người có những đặc tính tâm sinh lý
đặc biệt, lại phải chịu những dồn nén xã hội nên dễ dẫn đến tình trạng rối loạn
về tâm lý và hành vi, thì thường sau khi ra trình đồng đều khỏi bệnh, trở về
trạng thái tâm sinh lý bình thường . Thậm chí, ngay cả với những người dù
không có “căn đồng” mà chỉ để giải tỏa, giải trí trước những sức ép của nhịp
sống xã hội đô thị hiện đại (dân gian gọi là đồng đua, đồng đú), thì khi lên đồng
cũng giúp họ giải tỏa được những tress. 15
Hình 5.2.1. Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên_Nguồn:Internet
Ngoài chữa bệnh, những tín đồ của đạo Mẫu, nhất là những người làm
nghề kinh doanh buôn bán có một niềm tin mãnh liệt vào Thánh Mẫu, người có
thể phù hộ cho họ buôn bán phát đạt. Ở đây, chúng ta khó có thể khẳng định
được thực sự có hay không một lực lượng siêu nhiên nào đã hỗ trợ cho họ trong
việc kinh doanh buôn bán, có lẽ lúc này, niềm tin của con người giữ vai trò
quyết định, nó có thể tạo nên sức mạnh vật chất thực sự. 5.3.
Đạo mẫu gắn bó với dân tộc, là thứ chủ nghĩa yêu nước đã
được tâm linh hóa
Đạo Mẫu, thông qua các ký ức, các truyền thuyết và huyền thoại, qua các
nghi lễ và lễ hội đã thể hiện rõ ý thức lịch sử và ý thức xã hội của mình.
Trong điện thần của đạo Mẫu, hầu hết các vị Thánh đã được lịch sử hóa,
tức là đều hóa thân thành những con người có danh tiếng, có công trạng trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Trên thực tế có không ít những vị Thánh thần vốn thoát thai từ các nhân
vật có thật trong lịch sử, sau này được người đời tô vẽ, thần tượng lên thành các
vị thần thánh, tức là các vị thần thánh có “nguyên mẫu” trong lịch sử (Trần
Hưng Đạo – Đức Thánh Trần, Mẹ Âu Cơ – Mẫu Thượng Ngàn, Lê Khôi hay
Nguyễn Xí – Ông Hoàng Mười, Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan- Ông Hoàng
Bơ, Bà Lê Chân – Thánh Mẫu Bát Nàn…).. Tuy nhiên, cũng không hiếm các vị 16
thần linh, vốn là các thiên thần hay nhiên thần, nhưng lại được người đời “nhân
thần hóa” hay “lịch sử hóa”, gán cho họ có sự nghiệp, có công trạng với đất
nước hay từng địa phương. Đây không phải là việc làm tùy tiện, ngẫu nhiên, mà
đều xuất phát từ ý thức lịch sử và ý thức xã hội. Đó chính là ý thức “hướng về
cội nguồn”, “uống nước nhớ nguồn”, tôn vinh những người có công với dân với nước.
Hình 5.3.1. Thánh Mẫu Bát Nàn_Nguồn: Internet
Bằng cách đó, đạo Mẫu gắn bó với cội nguồn và lịch sử dân tộc, đã trở
thành một biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, một thứ chủ nghĩa yêu
nước đã được tín ngưỡng hóa, tâm linh hóa, mà trong đó người Mẹ – Mẫu là nhân vật trung tâm.
Trong đời sống thường nhật của con người, Đạo Mẫu, thông qua các bài
giáng bút (được coi là các bài kinh – Kinh Đạo Nam), Thánh Mẫu khuyên bảo
mọi người đứng lên chống Pháp, hưởng ứng phong trào Cần Vương, chấn hưng
sỹ nông công thương, dạy người phụ nữ những điều công, dung, ngôn, hạnh rất
cụ thể về ứng xử trong gia đình và ngoài xã hội. 5.4.
Hầu đồng – một di sản văn hóa nghệ thuật độc đáo
5.4.1. Hầu đồng là gì?
Hầu đồng hay còn gọi là hầu bóng, đồng bóng là một nghi lễ tín ngưỡng
dân gian và tôn giáo thờ nữ thần mẹ đạo Mẫu dòng Shaman giáo trong tín
ngưỡng dân gian của nhiều dân tộc, trong đó có Việt Nam. 17
Hình 5.4.1.1. Hầu đồng_Nguồn: Internet
Đạo Mẫu và các hình thức Hầu đồng đều ẩn chứa những giá trị văn hoá
nghệ thuật rất phong phú. Đó là kho tàng truyền thuyết, thần tích, huyền thoại
về các thần linh, đó còn là các hình thức văn học truyền miệng, diễn xướng với
âm nhạc, ca hát, nhảy múa, các hình thức trang trí, kiến trúc,…
Nghi lễ Hầu đồng của Đạo Mẫu đã kết tinh, chắt lọc tạo nên một không
gian tâm linh hàm chứa sự uy nghi, sang trọng, tràn ngập niềm vui và nét
đẹp của hình thức sân khấu tâm linh, một bảo tàng sống của văn hóa truyền
thống Việt Nam. Bản chất của hầu đồng, trong quan niệm và thực hành, là việc
các vị thần đến hầu đồng để phán truyền, chữa bệnh, ban phúc lành… Lúc này,
các ông/bà đồng là hiện thân của vị thần đã nhập vào họ.
Hình 5.4.1.2. Hầu đồng_Nguồn:Internet 18
Có thể thấy, hiện tại không có định nghĩa cụ thể về hầu đồng, mà nó chỉ
là một thuật ngữ chỉ một trạng thái tâm linh chung khi thần Thánh “nhập” vào
người ông/bà đồng và thông qua thân xác ông/bà đồng nhằm thể hiện hành
động, lời nói, ý muốn truyền đạt. Hiện vẫn chưa có sự khẳng định về ai được
hầu đồng, ai không được hầu đồng. Thế nhưng, trên thực tế, những người hầu
đồng đều được đánh giá là có căn hầu đồng và hệ thần kinh yếu hoặc di truyền
trong một gia đình, thường được tổ chức vào ngày giỗ tháng tám, giỗ mẹ tháng ba.
Hình 5.4.1.3. Cô đồng Mai Thu Thủy_Nguồn:Internet
5.4.2. Trang phục Hầu đồng
Trong một lễ hầu đồng phải theo tứ tự từ cao đến thấp, từ Thánh Mẫu
đến hàng Quan, Chầu, Ông Hoàng…Có tổng cộng 36 giá đồng vì theo quan
niệm của người xưa có 36 vị Thánh thường che chở, bảo vệ cho người dân. Và
36 giá đồng tương ứng 36 vị Thánh đó có 36 bộ trang phục khác nhau được sử
dụng theo quy định nghiêm ngặt cho từng giá.
Cũng vì xuất xứ và tích truyện về mỗi vị khác nhau nên các bộ y phục
cũng theo đó mà được người sau thể hiện theo:
Có vị xuất tích từ miền Nhạc phủ (rừng xanh) như Cô Bé Thượng Ngàn
mặc trang phục của người dân tộc.