Bài tập luật dân sự | Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật Dân Sự (LDS2)
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 46342576
* Xác định vợ/chồng của người để lại di sản
Nghiên cứu - Điều 651 BLDS 2015 (Điều 676 BLDS 2005) và các điều luật liên quan khác (nếu có);
- Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Hà Nội; Án lệ số 41/2021/AL.
Đọc: - Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế
của Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương VII;
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 126-129;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.261 đến 266; Và các tài liệu liên quan khác (nếu có). Và cho biết:
- Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật?
Theo Điều 650 BLDS 2015 có quy định về những trường hợp thừa kế theo pháp luật:
“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây: a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người
lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại
vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có
quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc,
nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”
TÓM TẮT BẢN ÁN SỐ 20/2009/DSPT CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
TOÀ ÁN PHÚC THẨM TẠI HÀ NỘI VỀ VỤ VIỆC TRANH CHẤP CHIA THỪA KẾ lOMoAR cPSD| 46342576
Cụ Thát có vợ là bà Tần, con là Thăng, Bằng, Khiết, Triển, ngoài ra cụ Thát có vợ thứ
hai là cụ Thứ có con chung là Tiến. Trước khi chết cụ Thát và cụ Thứ không để lại di
chúc. Cụ Tần có để lại mấy lời dặn dò về việc cho bà Tiến một phần nhà đất của bố
mẹ các bà để lại nhưng ông Thăng không công nhận. Các nguyên đơn và bị đơn yêu
cầu chia di sản thừa kế theo pháp luật. -
Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong Bản án số 20.
Theo em hướng giải quyết của Tòa án về việc áp dụng thừa kế theo pháp luật là hợp
lý. Vì căn cứ vào lời khai của nguyên đơn, cụ Thát, cụ Thứ khi chết không để lại di
chúc và cụ Tần khi chết chỉ để lại lời dặn dò và được bà Bằng chắp bút ghi lại nhưng
ông Bằng không công nhận và xé đi. Do đó, khi ông Thăng khai rằng cụ Tần có để lại
lời trăng trối và do ba Bằng ghi lại nhưng không xuất trình được di chúc. Vì vậy,
không có căn cứ nào chứng minh về di chúc. Áp dụng mục a khoản 1 Điều 651, phần
di sản được chia theo pháp luật. -
Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Theo pháp luật, vợ chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Điều đó
đã thể hiện ở điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;” - Cụ Thát
và cụ Thứ có đăng ký kết hôn không trong Bản án số 20? Vì sao? Cụ Thát và cụ
Thứ không kết hôn mà chỉ sống chung với nhau như vợ chồng. Tại bản án sơ thẩm các
nguyên đơn trình bày rằng “năm 1956 cải cách ruộng đất vì nhiều đất nên bị quy
thành phần địa chủ. Bố mẹ các bà nói với cụ Thứ tố khổ để được chia ½ căn nhà. Sau
đó nhà nước sửa sai gia đình các bà được trả lại nhà đất, bố mẹ các bà vẫn chung sống
cùng nhau. Sau khi bố các bà mất, hai mẹ vẫn cùng nhau nuôi dạy các con.” Vậy nên
từ năm 1956, ta thấy cụ Thát và cụ Thứ chỉ chung sống với nhau như vợ chồng chứ
không tiến hành việc đăng ký kết hôn. -
Trong trường hợp nào những người chung sống với nhau như vợ chồng
nhưng không đăng ký kết hôn được hưởng thừa kế của nhau? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong trường hợp những người chung sống với nhau là hôn nhân thực tế. Căn cứ theo
nghị quyết số 01/2003/NQ - HĐTP về hôn nhân thực tế thì:
“a. Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987, nếu có một
bên chết trước, thì bên vợ hoặc chồng còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại
theo quy định của pháp luật về thừa kế.
b. Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến
ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày
01/01/2001 đến ngày 01/01/2003; do đó cho đến trước ngày 01/01/2003 mà có một
bên vợ hoặc chồng chết trước thì bên chồng hoặc vợ còn sống được hưởng di sản của lOMoAR cPSD| 46342576
bên chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế. Trong trường hợp sau ngày
01/01/2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước và
có tranh chấp về thừa kế thì trong khi chưa có quy định mới của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, tùy từng trường hợp mà Toà án xử lý như sau:
- Nếu chưa thụ lý vụ án thì không thụ lý;
- Nếu đã thụ lý vụ án và đang giải quyết thì ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.”
- Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào trong Bản
án số 20? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với cụ Tần. Trong bản án số 20 có đề
cập tại lời khai của các nguyên đơn: “Bố mẹ các bà là cụ Nguyễn Tất Thát (chết năm
1961) có 2 vợ, vợ cả là cụ Nguyễn Thị Tần (chết năm 1995), vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ (chết năm 1994).”
- Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm
1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm 1960 thì
cụ Thứ sẽ không phải là người thừa kế của cụ Thát.
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 5 Bộ luật hôn nhân và gia đình quy định cấm người đang
có vợ có chồng kết hôn với người khác hoặc chung sống như vợ chồng với người
đang có chồng, có vợ. Ngoài ra tại điểm a khoản 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
14/10/1990 có quy định: “Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 1301-
1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước
ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất
trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi
tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu
lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người
chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.”
Như vậy, trong trường hợp cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống chung với nhau như vợ
chồng vào cuối năm 1960 thì sẽ được áp dụng theo Bộ luật hôn nhân và gia đình, lúc
cụ Thát không được sống chung với cụ Thứ và cũng không được là người thừa kế của cụ Thát.
- Câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền
Nam? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Tại điểm a khoản 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 14/10/1990 lấy ngày 25/03/1977 áp
dụng đối với miền Nam. Vì vậy, cụ Thát và cụ Thứ sinh sống tại miền Nam và bắt đầu
chung sống như vợ chồng với nhau vào cuối năm 1960 thì hôn nhân của cụ Thát và cụ
Thứ vẫn được pháp luật chấp nhận. Nếu trong trường hợp đó thì cụ Thứ được xem là
vợ, là người thừa kế hàng thứ nhất của cụ Thát. lOMoAR cPSD| 46342576
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ
Thát trong Bản án số 20
Theo quan điểm của em, việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát là
hoàn toàn hợp lý. Trong phần Xét thấy dựa theo bản sơ yếu lý lịch của bà Nguyễn Thị
Khiết, có nhận xét của bí thư ban chấp hành Đảng bộ xã Xuân La ký ngày 05 - 07 -
1996 (bản chính) phần hoàn cảnh gia đình có nhắc đến em là bà Nguyễn Thị Tiến 17
tuổi. Từ đó, có thể xác định được bà Nguyễn Thị Tiến sinh năm 1349 là con chung của
cụ Thát và cụ Thứ. Do đó, cụ Thát và cụ Thứ sống chung như vợ chồng từ trước ngày
13-01-1960, căn cứ điểm a khoản 4 Nghị quyết 02/HĐTP-TANDTC ngày 19-10-1990,
việc cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát là hoàn toàn hợp lý.
KHÁI QUÁT ÁN LỆ SỐ 41/2021/AL:
- Tình huống án lệ:
Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, không đăng ký kết hôn nhưng sau đó
họ không còn chung sống với nhau và trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986
có hiệu lực, có người chung sống với nhau như vợ chồng với người khác. Quan hệ
hôn nhân đầu tiên và quan hệ hôn nhân thứ hai đều là hôn nhân thực tế.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, phải xác định hôn nhân thực tế đầu tiên đã chấm dứt.
- Nội dung Bản án 48/2010/DSPT ngày 29/7/2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế và chia tài sản chung” :
“Xét bà Tô Thị T2 chung sống với ông T1 không đăng ký kết hôn, đến năm 1982 bà
T2 đã bỏ vào Vũng Tàu lấy ông D có con chung từ đó đến nay quan hệ hôn nhân thực
tế giữa ông T1 với bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên không còn nghĩa vụ gì với nhau nên
bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại như án sơ thẩm xử là đúng.
Xét sau khi bà T2 không còn sống chung với ông T1 thì năm 1985 ông T1 sống chung
với bà S cho đến khi ông T1 chết có 1 con chung, có tài sản chung hợp pháp, án sơ
thẩm công nhận là hôn nhân thực tế nên được chia tài sản chung và được hưởng di sản
thừa kế của ông T1 là có căn cứ”.
- Trong Án lệ số 41/2021/AL, bà T2 và bà S có được hưởng di sản do ông T1 để
lại không? Đoạn nào của Án lệ có câu trả lời.
Trong Án lệ số 41/2021/AL, Toà án đã nhận định rằng bà T2 không được hưởng di sản
của ông T1 để lại, cụ thể “Xét bà Tô Thị T2 chung sống với ông T1 không đăng ký kết
hôn, đến năm 1982 bà T2 đã bỏ vào Vũng Tàu lấy ông D có con chung từ đó đến nay
quan hệ hôn nhân thực tế giữa ông T1 với bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên không còn
nghĩa vụ gì với nhau nên bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại như án sơ
thẩm xử là đúng.”. Ngược lại, bà S theo nhận định của Toà có đủ căn cứ và cơ sở để lOMoAR cPSD| 46342576
hưởng di sản của ông T1 để lại, cụ thể tại đoạn “Xét sau khi bà T2 không còn sống
chung với ông T1 thì năm 1985 ông T1 sống chung với bà S cho đến khi ông T1 chết
có 1 con chung, có tài sản chung hợp pháp, án sơ thẩm công nhận là hôn nhân thực tế
nên được chia tài sản chung và được hưởng di sản thừa kế của ông T1 là có căn cứ.” -
Suy nghĩ của anh/chị về việc Án lệ xác định tư cách hưởng di sản của ông T1 đối với bà T2 và bà S.
Theo quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của
Quốc hội thì:“Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng
1 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký
kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì
được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000”.
Như vậy, đối với những trường hợp nam nữ chung sống với nhau trước ngày
03/01/1987, hiện họ chưa đăng ký kết hôn thì vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng
(hôn nhân thực tế). Khi đó, họ hoàn toàn ràng buộc bởi các quy định về quyền, nghĩa
vụ trong hôn nhân theo luật. Từ các công nhận giá trị pháp lý đó, giúp giải quyết các
quyền và nghĩa vụ phát sinh liên quan đến hôn nhân.
Từ đó, có thể nhận thấy rằng, việc chia tài sản cho bà T2 là hoàn toàn hợp lý.