










Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58702377 nđ31-36 + bt26-30 
31. Mọi trường hợp bán con đẻ dưới 16 tuổi đều cấu thành tội mua bán người dưới 
16 tuổi (Điều 151 BLHS) Nhận định sai. 
Vì phải mọi hành vi mua bán người đều cấu thành Tội mua bán người (Điều 151 BLHS). 
Theo quy định tại Khoản 3, Chương 4, NQ 04/NQ-HĐTP ngày 29/11/1986, Pháp luật hình 
sự đã loại trừ đi một số trường hợp mà cha mẹ vì đông con hoặc vì khó khăn đặc biệt mà 
phải bán con mình (dưới hình thức cho làm con nuôi và nhận một số tiền giúp đỡ) cũng 
như trường hợp vì hiếm muộn mà mua chính người có con đem bán để về làm con nuôi thì 
không phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi. 
Cơ sở pháp lý: áp dụng tinh thần Khoản 3, Chương 4 NQ 04/NQ-HĐTP ngày 29/11/1986: 
“3. Tội bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em (Điều 149) 
Tội phạm này xâm phạm quan hệ tình cảm giữa cha mẹ và con cái và sự phát triển lành 
mạnh của trẻ em về các mặt tư tưởng tình cảm thể chất. 
Tội phạm thể hiện như:  - 
Bắt trộm trẻ em là hành vi vì tư lợi mà lén lút chiếm đoạt hoặc lừa gạt, dụ dỗ đứa 
trẻtrong lúc vắng mặt người nuôi dưỡng, chăm sóc để chiếm đoạt, đem bán hoặc nuôi làm 
con nuôi, hoặc vì tư thù mà bắt trộm nhằm phá hoại hạnh phúc gia đình người khác.  - 
Mua bán trẻ em là mua hoặc bán trẻ em vì tư lợi, dù là mua của kẻ đã bắt trộm 
hoặcmua của chính người có con đem bán. Hành vi mua trẻ em khi biết rõ là đứa trẻ bị bắt 
trộm để về làm con nuôi, cũng bị xử lý về tội mua bán trẻ em. Tuy nhiên cần phân biệt với 
trường hợp bố mẹ vì đông con hoặc vì khó khăn đặc biệt mà phải bán con mình (dưới hình 
thức cho làm con nuôi và nhận một số tiền giúp đỡ) cũng như trường hợp vì hiếm con mà 
mua của chính người có con đem bán để về nuôi thì không coi là phạm tội.  - 
Đánh tráo trẻ em là hành vi lén lút đổi trẻ em này lấy trẻ em khác, thường xảy ra đối 
vớitrẻ sơ sinh (như: đánh tráo em gái lấy em trai, em dị dạng lấy em lành lặn…) thường 
xảy ra ở nhiều nơi có nhiều sản phụ (nhà hộ sinh, bệnh viện). Người thực hành tội phạm 
thông thường là người có trách nhiệm (nhân viên y tế), có đủ điều kiện thực việc đánh tráo. 
Người có hành vi mua chộc người đó (thường là sản phụ) là đồng phạm. Họ còn có thể bị 
xử lý thêm về tội đưa hối lộ, hoặc tội nhận hối lộ (nếu có).”  32. 
Hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể người khác chỉ cấu thành Tội chiếm đoạt 
bộphận cơ thể người (Điều 154 BLHS)  Nhận định sai      lOMoAR cPSD| 58702377
Vì theo điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS 2015 thì hành vi giết người thuộc trường hợp 
nhằm lấy bộ phận của cơ thể của nạn nhân vẫn cấu thành tội giết người. Hoặc theo điểm b 
khoản 1 Điều 150 BLHS 2015 thì hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể của nạn nhân còn cấu 
thành tội mua bán người. 
Cơ sở pháp lý: điểm h khoản 1 Điều 123 và điểm b khoản 1 Điều 150 BLHS 2015.  33. 
Mọi hành vi mua bán mô hoặc bộ phận cơ thể người đều cấu thành Tội mua 
bánmô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154 BLHS) Nhận định đúng. 
Vì căn cứ theo khoản 3 Điều 11 Luật Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và 
hiến lấy xác 2006 quy định hành vi mua, bán mô, bộ phận cơ thể người; mua, bán xác là 
hành vi bị nghiêm cấm. Do đó, Mọi hành vi mua bán mô hoặc bộ phận cơ thể người đều 
cấu thành Tội mua bán mô hoặc bộ phận cơ thể người theo Điều 154 BLHS 2015. 
Cơ sở pháp lý: khoản 3 Điều 11 Luật Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và 
hiến lấy xác 2006 và Điều 154 BLHS 2015  34. 
Mọi hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật đều cấu 
thànhTội vu khống (Điều 156 BLHS) Nhận định này là sai. 
Không phải mọi hành vi bịa đặt, lan truyền những điều biết rõ là bịa đặt đều cấu thành Tội 
vu khống (Điều 156 BLHS). Theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 156, BLHS thì hành 
vi bịa đặt, lan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, 
danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác là dấu hiệu khách 
quan của Tội vu khống (Điều 156 BLHS). Do vậy, nếu trong trường hợp bịa đặt, lan truyền 
những điều biết rõ là bịa đặt nhưng không nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh 
dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì sẽ không là dấu hiệu 
khách quan của Tội Tội vu khống (Điều 156 BLHS).  35. 
Chỉ có nam giới mới là chủ thể của Tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS) Nhận định  này là sai. 
Căn cứ vào Khoản 1, Điều 141, BLHS về Tội hiếp dâm: 
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ 
được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục 
khác trái với ýmuốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”. 
Theo quy định của BLHS 2015, chủ thể của tội hiếp dâm có thể là nam giới và nữ giới bởi 
xử lý cả các hành vi quan hệ tình dục khác, đây là các hành vi không bị trói buộc bởi quan 
điểm về hành vi giao cấu thông thường giữa nam giới và nữ giới. Như vậy người đủ năng 
lực trách nhiệm hình sự, dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không 
thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan      lOMoAR cPSD| 58702377
hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân thì đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm 
đối với tội hiếp dâm.  36. 
Hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể của người khác chỉ được quy định là 
dấuhiệu định khung của Tội giết người (điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS) Nhận định  này là sai. 
Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 154, BLHS 2015 về Tội mua bán, chiếm đoạt mô 
hoặc bộ phận cơ thể người 
“1. Người nào mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác, thì bị phạt tù từ  03 năm đến 07 năm”. 
Như vậy, hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể người khác không chỉ được quy định là tình 
tiết định khung của Tội giết người tại điểm h khoản 1 Điều 123,BLHS. Hành vi chiếm đoạt 
bộ phận cơ thể người khác còn cấu thành một tội phạm riêng biệt đó là Tội mua bán, chiếm 
đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154, BLHS). 
Bài tập 26: A là người thường dậy sớm mang cây gậy dài có gắn vợt đi vợt ốc nhồi ở các 
ao bèo. Một hôm A đang đi vợt ốc như thế thì phát hiện B là người hàng xóm đang sắp chết 
đuối dưới ao. Tuy A biết rõ B là người không biết bơi (lội) nhưng vì trong cuộc sống B 
thường xuyên mâu thuẫn, cãi nhau với gia đình A, thậm chí có lần B đã ném cả phân vào 
bể nước ăn nhà A nên khi thấy B sắp chết đuối A không thò gậy xuống cứu B. 
Hãy xác định tội danh cho hành vi của A trong các tình huống sau: 
a. A đứng yên trên bờ ao chờ tới khi B chìm xuống hẳn rồi bỏ đi. Theo kết quả giám 
định pháp y B chết do bị ngạt nước.  Trả lời: 
A phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo 
Điều 132 BLHS. Dấu hiệu tội phạm:    Dấu hiệu      lOMoAR cPSD| 58702377 Khách thể  - 
Quan hệ xã hội bị xâm phạm: tính  mạngcủa B  - 
Đối tượng tác động: B  Khách quan 
- Hành vi: A đứng yên trên bờ ao chờ tới 
khi B chìm xuống hẳn rồi bỏ đi - Hậu quả: 
B chết do bị ngạt nước  Chủ thể 
A là chủ thể thường, A là người đủ tuổi, có 
năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ  Chủ quan 
Lỗi: Cố ý gián tiếp. A nhận thức hành vi 
của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy 
trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội 
có thể xảy ra và A không mong muốn hậu 
quả xảy ra nhưng có ý thức để mặc hậu quả 
xảy ra. Cụ thể là khi A thấy B đang sắp chết 
đuối, A biết rõ B không biết bơi tuy có điều 
kiện nhưng A vẫn đứng yên trên bờ ao chờ 
tới khi B chìm xuống hẳn rồi mới bỏ đi 
b. Ngay lúc B gần chìm (A vẫn đứng trên bờ ao) thì có anh C (chủ ao) nhảy xuống vớt 
B lên và B đã được cứu sống.  Trả lời: 
- Trường hợp này B không phạm tội vì Tội không cứu giúp người đang trong tình trạng 
nguy hiểm đến tính mạng quy định ở Điều 132 BLHS là tội phạm có cấu thành vật chất do 
đó dấu hiệu bắt buộc là hậu quả B chết xảy ra, theo như tình huống trên thì B đã được anh 
C (chủ ao) cứu sống nên hậu quả B chết không xảy ra do đó không thể cấu thành tội không 
cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. 
Bài tập 27: Sáng ngày 20/7, N (40 tuổi) đi ra đồng làm ruộng, khi qua chiếc cầu ở giữa 
đồng thì nghe thấy tiếng kêu cứu của mấy đứa trẻ chăn trâu báo có người sắp chết đuối, 
nhìn xuống dưới kênh thì Nphát hiện có một đứa trẻ khoảng 12 tuổi chới với 
dưới nước như đang sắp chìm. Nliền nhảy xuống kênh để cứu đứa trẻ. Khi N nhảy 
xuống thì đứa trẻ lập tức bơi nhanh vào bờ rồi chạy raphía mấy đứa trẻ chăn trâu đang cười 
khoái chí vì có người bị mắc lừa chúng. N bực bội quay về nhàthay đồ và tiếp tục đi làm. 
Chiều tối hôm đó, khi N đi làm về qua chiếc cầu thì cũng có mấy đứa trẻ kêucó người chết 
đuối dưới kênh và nhìn xuống thì N cũng thấy có người đang ngụp lặn như sắp chếtđuối      lOMoAR cPSD| 58702377
giống lúc sáng. Vì cho rằng lũ trẻ lại lừa mình nên N bỏ về. Khoảng 8 giờ tối, N nghe tin 
có mộtđứa trẻ chết đuối ở dưới kênh. Lúc này, N mới biết việc có người sắp chết đuối ở 
dưới kênh là cóthật. Hôm sau, đám trẻ chăn trâu khai với công an là đã nhờ ông N cứu 
nhưng ông N không cứu. Hãy xác định hành vi của N có phạm tội không? Nếu có thì phạm  tội gì? Tại sao? 
Tội danh mà N đã phạm là Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm 
đến tính mạng (Điều 132, BLHS). 
Hành vi của N đã đủ các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội này:    Dấu hiệu  Khách thể  - 
Khách thể: xâm phạm đến nghĩa vụ 
bảovệ tính mạng của người khác mà quy tắc 
đạo đức trong cuộc sống và pháp luật đòi 
hỏi mọi người phải tuân theo.  - 
Đối tượng tác động: đứa trẻ – con  ngườiđang sống.  Mặt khách quan  - 
Hành vi: khi N đi làm về qua chiếc 
cầuthì cũng có mấy đứa trẻ kêu có người 
chết đuối dưới kênh và nhìn xuống thì N 
cũng thấy có người đang ngụp lặn như sắp 
chếtđuối giống lúc sáng. Vì cho rằng lũ trẻ 
lại lừa mình nên N bỏ về. Hôm sau, đám trẻ 
chăn trâu khai với công an là đã nhờ ông N 
cứu nhưng ông N không cứu. Như vậy, N 
đã có hành vi (không hành động) không cứu 
giúp người bị nạn trong trường hợp nhìn 
thấy người đó đang ở trong tình trạng nguy 
hiếm đến tính mạng. Nghĩa là mặc dù người 
phạm tội đã nhìn thấy có người bị tai nạn 
hoặc trong trường hợp khác đang bị nguy 
hiểm có thể dẫn đến bị chết nhưng đã không 
thực hiện (không có hành động gì) việc cứu  giúp nạn nhân.  -  Hậu quả: B tử vong.  - 
Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả 
vàhành vi: Hành vi của N là nguyên nhân   
trực tiếp khiến đứa trẻ tử vong      lOMoAR cPSD| 58702377 Chủ thể 
- N thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội 
danh này – chủ thể thường (có năng lực 
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật  định).  Mặt chủ quan 
N thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực  tiếp. 
Bài tập 28: Hoàng Văn L là Công an thường trực thuộc Công an xã H, huyện C, tỉnh D. 
Chiều ngày 16/7/2022, ông Đ (trong tình trạng đã uống rượu) đến Ủy ban nhân dân xã H 
để hỏi về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do biết Ủy ban nhân dân xã đang 
có cuộc họp, ông Đ đi thẳng vào phòng họp làm cuộc họp phải tạm dừng. Thấy ông Đ có 
biểu hiện say rượu nên ông Nguyễn Tiến A là Trưởng công an xã mời ông Đ xuống phòng 
Công an xã làm việc. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, ông Đ tiếp tục vào phòng làm việc 
của Cán bộ địa chính xã chửi bới, gây mất trật tự. Ông A đã chỉ đạo ông Nguyễn Văn Tr là 
Phó trưởng Công an xã và Hoàng Văn L đưa ông Đ ra khỏi trụ sở Ủy ban nhân dân xã. Ông 
Tr và L khuyên bảo ông Đ về nhưng ông Đ không ra về mà còn nhặt 01 viên gạch trên hòn 
non bộ tại khu vực giữa sân Ủy ban nhân dân xã định ném về phía L và Tr thì bị L hất viên 
gạch ra. Ông Đ dùng tay phải đấm vào miệng L thì L dùng hai tay đấm, tát nhiều nhát vào 
vùng mặt ông Đ, dùng cùi chỏ thúc vào lưng ông Đ rồi đưa ông Đ ra khỏi trụ sở Ủy ban. 
Ông Đ ngồi ngoài Ủy ban nhân dân xã chờ L về để đánh lại nhưng được mọi người can 
ngăn nên ông Đ đi xe mô tô đến quán bia ngồi uống bia. Khoản 18 giờ 30 phúy cùng này, 
khi ông Đ đang ngồi uống bia thì bất tỉnh, được mọi người đưa về nhà nghỉ ngơi. Gia đình 
ông Đ nghĩ ông Đ mệt ngủ nên không đánh thức. Sáng ngày 17/7/2022, ông Đ được đưa 
đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh rồi chuyển lên Bệnh viện VD điều trị từ ngày 
17/7/2022 đến ngày 07/8/2022 thì ra viện. Sau đó ông Đ tiếp tục điều trị tại Bệnh viện đa 
khoa tỉnh và Bệnh viện VĐ nhiều lần. Sau khi bị ông Đ đấm vào vùng miệng, L không điều 
trị tại cơ sở y tế nào. 
Tại Kết luận giám định ngày 03/12/2022, Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh 
D, kết luận: ông Đ bị chấn thương sọ não gây máu tụ dưới màng cứng bán cầu trái, đã mổ 
xử lý. Hiện di chứng liệt cứng nửa người phải mức độ vừa, để lại sẹo mổ kích thước lớn; 
còn tụ máu dưới màng cứng mỏng thái dương trái, còn mảnh ghép xương hộp sọ bên trái, 
khuyết một phần xương thái dương, trán, đỉnh trái kích thước 41 mm, 11 mm và 14 mm 
(theo chiều trước sau). Tổn thương trên có đặc điểm do vật dày gây ra, L tác động đủ mạnh 
làm vỡ tĩnh mạch vỏ não vùng thái dương trái. Việc Hoàng Văn L dùng tay đấm vào vùng 
đầu, mặt ông Bùi Hữu Đ nếu tác độgn đủ mạnh thì có thể gây ra tổn thương trên (ông Đ có 
tiền sử nghiện rượu 10 năm thì thành mạch máu yếu, khi bị tác động vừa phải vẫn có thể 
gây ra vỡ mạch mà người bình thường sẽ không bị). Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích  gây ra hiện tại là 73% 
Anh (chị) hãy xác định hành vi của L có phạm tội không? Tạo sao?      lOMoAR cPSD| 58702377
Hành vi của bị cáo L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Gây thương tích của người khác 
trong khi thi hành công vụ” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 137 của Bộ luật Hình  sự 2015 
Hành vi của L đã đủ các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội này:    Dấu hiệu  Khách thể  - 
Khách thể: xâm phạm đến quyền 
đượcbảo hộ về sức khoẻ của con người, 
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức  khỏe của con người.  - 
Đối tượng tác động: Ông Đ – con  ngườiđang sống.  Mặt khách quan  - 
Hành vi: L dùng hai tay đấm, tát 
nhiềunhát vào vùng mặt ông Đ, dùng cùi 
chỏ thúc vào lưng ông Đ  - 
Hậu quả: Tỷ lệ tổn thương cơ thể 
củaông Đ do thương tích mà L gây ra là 
73% - Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả 
và hành vi: Hành vi của L là nguyên nhân 
trực tiếp khiến ông Đ bị tổn thương cơ thể  lên tới 73%  Chủ thể 
- L thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội 
danh này – chủ thể thường (có năng lực 
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật  định).  Mặt chủ quan 
N thực hiện hành vi với lỗi cố ý      lOMoAR cPSD| 58702377  
gián tiếp. (L phạm tội sử dụng vũ lực trong 
khi thi hành công vụ hoàn toàn nhận thức 
được mức độ nguy hiểm của hành vi, nhìn 
thấy trước hậu quả gây thương tích hoặc 
gây tổn hại cho sức khỏe của ông Đ có thể 
xảy ra, L không hề mong muốn hậu quả ấy 
đến nhưng vẫn có ý thức bỏ mặc để hậu quả  tự xảy ra). 
Bài tập 29: T là kẻ sống lang thang. Ngày 01/7, T đã cho kẹo để rủ một cháu bé 3 tuổi đi 
theo và đưa cháu vào TP HCM. Để có thể xin tiền được nhiều, T đã dùng tay đánh vào đầu 
cháu bé cho đến khi chảy máu rồi đưa vào bệnh viện cấp cứu. Bệnh viện Chợ Rẫy xác định 
cháu bị chấn thương sọ não. Sau khi bệnh viện băng bó và cấp thuốc cho cháu, T đã bế 
cháu ra khỏi bệnh viện rồi đưa đi ăn xin trên các phố. Ngày 19/7, T lại bẻ gẫy chân trái của 
cháu và đưa vào bệnh viện Nhi đồng I bó bột rồi tiếp tục dẫn cháu đi ăn xin. Ngày 13/8, T 
lại bẻ gãy tay cháu, đồng thời rạch mặt nhiều nơi, cắt môi trên của cháu và đưa vào bệnh 
viện Nhi đồng II bó bột, sau đó lại tiếp tục đưa cháu đi ăn xin. Đến ngày 15/8, thấy cháu 
bé bị T đánh đập rất dã man trên đường phố, nhiều người dân đã báo công an bắt giữ. Qua 
giám định kết luận: “Cháu bé bị gãy kín các xương đoạn 1/3 dưới xương cánh tay phải và 
trái, bị di chứng lệch trục chi phải, vỡ đầu trên xương chày trái, di chứng cứng gối trái, mặt 
bị dị dạng. Tỷ lệ tổn thương cơ thể mà cháu bé phải gánh chịu là 55%”. 
Anh (chị) hãy xác định hành vi của T có phạm tội không? Tại sao?  Trả lời:  * 
Hành vi của T phạm tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi theo Điều 153 BLHS 
2015.Dấu hiệu tội phạm:    Dấu hiệu  Khách thể  - 
QHXH bị xâm phạm: xâm phạm 
đến sựphát triển bình thường của cháu bé 3  tuổi.  - 
Đối tượng tác động: cháu bé 3 tuổi  người dưới 16 tuổi  Mặt khách quan 
- Hành vi: hành động. T đã có hành vi 
chuyển dịch trái phép người dưới 16 tuổi      lOMoAR cPSD| 58702377  
ra khỏi nơi quản lý của gia đình hay người 
quản lý hợp pháp của cháu bé. Cụ thể là 
T đã đưa cháu bé 3 tuổi vào TPHCM mà 
không có sự đồng ý của gia đình cháu bé. 
- Thủ đoạn phạm tội: T đã cho kẹo một 
cháu bé 3 tuổi để dụ cháu bé đi theo mình.  Chủ thể 
Chủ thể: thường. T là người có năng lực 
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách  nhiệm hình sự.  Mặt chủ quan 
Lỗi: cố ý trực tiếp. T biết hành vi của mình 
là nguy hiểm cho xã hội, nguy hiểm cho 
cháu bé và mong muốn thực hiện hành vi  * 
T còn phạm Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người  kháctheo 
Điều 134 BLHS 2015. Dấu hiệu tội phạm:    Dấu hiệu  Khách thể  - 
Quan hệ xã hội bị xâm phạm trong 
tìnhhuống này là sức khỏe con người.  - 
Đối tượng tác động: cháu bé 3 tuổi.  Khách quan 
- Hành vi: hành động. T đã có hành vi tác 
động trái phép đến thân thể người khác gây 
thiệt hại cho người khác. Cụ thể: T đã dùng 
tay đánh vào đầu cháu bé cho đến khi chảy 
máu rồi đưa vào bệnh viện cấp cứu. Bệnh 
viện Chợ Rẫy xác định cháu bị chấn thương 
sọ não. Sau khi bệnh viện băng bó và cấp 
thuốc cho cháu, T đã bế cháu ra khỏi bệnh 
viện. Ngày 19/7, T lại bẻ gẫy chân trái của 
cháu và đưa vào bệnh viện Nhi đồng I bó 
bột. Ngày 13/8, T lại bẻ gãy tay cháu, đồng 
thời rạch mặt nhiều nơi, cắt môi trên của  cháu      lOMoAR cPSD| 58702377  
và đưa vào bệnh viện Nhi đồng II bó bột. 
Đến ngày 15/8, cháu bé bị T đánh đập rất 
dã man trên đường phố.  - 
Hậu quả: Cháu bé bị gãy kín các 
xươngđoạn 1/3 dưới xương cánh tay phải 
và trái, bị di chứng lệch trục chi phải, vỡ 
đầu trên xương chày trái, di chứng cứng gối 
trái, mặt bị dị dạng. Tỷ lệ tổn thương cơ thể 
mà cháu bé phải gánh chịu là 55%.  - 
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi 
vàhậu quả: Hành vi hành hạ, đánh đập của 
T là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả 
cháu bé bị chấn thương nhiều khu vực và 
tỷ lệ tổn thương được giám định là 55%.  Mặt chủ thể 
- Chủ thể: thường, T là người đủ tuổi chịu 
TNHS và đủ năng lực chịu TNHS.  Mặt chủ quan 
- Lỗi: cố ý trực tiếp. Bởi khi thực hiện hành 
vi nguy hiểm cho xã hội T nhận thức rõ 
hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho 
xã hội, đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội 
của hành vi cũng như thấy trước hậu quả sẽ 
xảy ra nếu thực hiện hành vi đó. T mong 
muốn hậu quả phát sinh. Tức là hậu quả của 
hành vi phạm tội mà người phạm tội đã 
thấy trước hoàn toàn phù hợp với mục đích 
và phù hợp với mong muốn của người đó. 
Bài tập 30: Do có mâu thuẫn từ trước, A đang điều khiển xe máy chở B thì bị một số thanh 
niên chặn xe,dùng mũ bảo hiểm đánh vào đầu. A và B bỏ chạy về nhà lấy một cái ná cao 
su rồi đến chỗ bị đánh lúcnãy tìm đám thanh niên để trả thù. Lúc này, thấy X đang điều 
khiển chạy ngược chiều, A hô to: “Dừng xe lại” rồi A và B cùng chạy ra chặn xe với mục 
đích là nếu đúng người trong đám thanh niên kia thìđánh. X không dừng xe mà kéo ga bỏ 
chạy. Thấy vậy, A dùng ná cao su bắn trúng vào đầu X. Còn B,trước đó đã nhặt một viên 
gạch (loại gạch xây 4 lỗ), khi xe của X chạy đến thì B dùng viên gạch némtrúng vào ngực 
X làm X loạng choạng gục xuống. Sau đó, X được mọi người đưa đi cấp cứu tại bệnhviện 
nhưng do vết thương nặng nên X đã chết. Tại bản kết luận pháp y, kết luận nguyên nhân tử 
vongcủa X là trụy tim mạch cấp do vỡ tim. Ngoài ra còn có vết thương đỉnh trán phải với      lOMoAR cPSD| 58702377
tỷ lệ tổn thương cơthể là 12%. Anh (chị) hãy xác định hành vi của A và B có phạm tội hay 
không? Nếu có thì phạm tội gì?Tại sao? 
Tội danh mà A và B đã phạm là Tô ri cố ý gây thương tích tình tiết tăng nă rng dẫn đến 
chết người (hỗn hợp lỗi) (Điều 134, BLHS). Hành vi của A và B đã đủ các dấu hiệu pháp 
lí đặc trưng của Tội này:    Dấu hiệu  Khách thể  - 
Khách thể: quyền được bảo vệ sức  khoẻcủa của X.  - 
Đối tượng tác động: X.  Mặt khách quan  - 
Hành vi: A dùng ná cao su bắn trúng 
vàođầu X. Còn B, trước đó đã nhặt một 
viên gạch (loại gạch xây 4 lỗ), khi xe của X 
chạy đến thì B dùng viên gạch ném trúng 
vào ngực X làm X loạng choạng gục 
xuống. Sau đó, X được mọi người đưađi 
cấp cứu tại bệnh viện nhưng do vết thương  nặng nên X đã chết.  - 
Hậu quả: X tử vong vì trụy tim mạch 
cấpdo vỡ tim và ra còn có vết thương đỉnh 
trán phải với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 12%.  - 
Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả 
vàhành vi: Hành vi của A và B là nguyên 
nhân trực tiếp khiến B bị tổn hại sức khoẻ. 
Tuy nhiên, đối với hậu quả chết người thì 
hành vi của A và B chỉ là nguyên nhân gián  tiếp.  Chủ thể 
- A và B thỏa mãn điều kiện về chủ thể của 
tội danh này – chủ thể thường (có năng lực 
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật  định).  Mặt chủ quan 
A và B thuộc trường hợp hỗn hợp lỗi. A và 
B chỉ cố ý làm X bị thương chứ khôngcố ý 
giết X mà chỉ vô ý với hậu quả chết người.