Bài tập Lý thuyết và kĩ năng lập pháp - Xã hội học | Trường Đại Học Công Đoàn

Là một trong ba chức năng của nhà nước, cùng với quyền hành pháp và quyền tư pháp hợp thành quyền lực nhà nước. - Nghĩa rộng: Trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước, lập pháp bao gồm vừa làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, vừa làm luật và sửa đổi luật. - Nghĩa hẹp: Quyền lập pháp chỉ bao gồm "làm luật và sửa đổi luật". Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

Trường:

Đại học Công Đoàn 205 tài liệu

Thông tin:
85 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập Lý thuyết và kĩ năng lập pháp - Xã hội học | Trường Đại Học Công Đoàn

Là một trong ba chức năng của nhà nước, cùng với quyền hành pháp và quyền tư pháp hợp thành quyền lực nhà nước. - Nghĩa rộng: Trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước, lập pháp bao gồm vừa làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, vừa làm luật và sửa đổi luật. - Nghĩa hẹp: Quyền lập pháp chỉ bao gồm "làm luật và sửa đổi luật". Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

79 40 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD|46342985
lOMoARcPSD|46342985
TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌCCÔNG ĐOÀN
KHOA LUẬT - LỚP LW15C
---o0o---
BÀI TẬP
MÔN LÝ THUYẾT VÀ KỸ NĂNG LẬP PHÁP
Sinh viên thực hiện:Trịnh Ngọc Ly
Mã sinh viên: 224D4081974
…., tháng… năm….
Downloaded by Châu Bùi (Vj7@gmail.com)
OMoARcPSD|46342985
OMoARcPSD|46342985
lOMoARcPSD|46342985
lOMoARcPSD|46342985
BÀI TẬP
1. QUAN ĐIỂM VỀ LÝ THUYẾT VÀ KỸ NĂNG LẬP PHÁP:
1) Lập pháp là gì?
Là một trong ba chức năng của nhà nước, cùng với quyền hành phápquyền
tư pháp hợp thành quyền lực nhà nước.
- Nghĩa rộng: Trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước, lập pháp bao gồm vừa
làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, vừa làm luật và sửa đổi luật.
- Nghĩa hẹp: Quyền lập pháp chỉ bao gồm "làm luật và sửa đổi luật".
=> Lập pháp trong quan điểm về lý thuyết và kỹ năng lập pháp đưọc hiểu theo nghĩa
rộng.
2) Lý thuyết lập pháp là gì?
Lý thuyết lập pháp là hệ thống các quan điểm lý luận về hoạt động lập pháp. Nó bao gồm
phương pháp luận để xử lý các vấn đề xã hội và cách thức lý giải các hành vi của con người
dưới tác động của quy phạm pháp luật. Đây là một lĩnh vực khoa học còn tương đối mới mẻ và
chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam ta.
Một là, lý thuyết lập pháp cho rằng làm luật thì phải nhắm vào các vấn đề xã hội đang
phát sinh. Vấn đề nào quan trọng thì cần được xử lý trước, vấn đề nào ít quan trọng hơn thì xử lý
sau.
Hai là, chỉ những vấn đề do hành vi “có vấn đề” của con người gây ra mới giải quyết
được bằng cách ban hành pháp luật.
Ba là, để điều chỉnh những hành vi “có vấn đề” phải lý giải được tại sao con người
lại hành động như vậy. Có 7 yếu tố tác động lên hành vi của con người đó là: pháp luật; cơ
hội; năng lực; thông tin; lợi ích; quy trình; ý thức hệ.
Cuối cùng, lý thuyết lập pháp không phải là lời giải cho tất cả mọi vấn đề mà chúng ta
đang phải đối mặt trong hoạt động lập pháp. Nó chỉ là một công cụ. Tuy nhiên, làm chủ công cụ
này là cần thiết để nâng cao chất lượng soạn thảo và thẩm định các văn bản pháp luật.
3) Kỹ năng lập pháp là gì?
Kỹ năng lập pháp các kỹ năng các nhà lập pháp những người tham gia quá
trình xây dựng luật pháp cần để đảm bảo việc soạn thảo và ban hành luật một cách hiệu quả,
công bằng và hợp lý. Kỹ năng này bao gồm:
lOMoARcPSD|46342985
Kỹ năng phân tích: Khả năng hiểu rõ các vấn đề xã hội và pháp lý để từ đó xác định các
quy định pháp phù hợp. Nhà lập pháp cần khả năng phân tích chính sách dự đoán các
tác động của luật.
Kỹ năng soạn thảo luật: Soạn thảo các điều khoản luật cần rõ ràng, dễ hiểu và có thể
áp dụng được trong thực tế, tránh tình trạng mơ hồ hoặc khó hiểu.
Kỹ năng thuyết trình và đàm phán: Trong quá trình lập pháp, nhà lập pháp thường phải
trình bày, bảo vệ các dự thảo luật trước cơ quan lập pháp và đàm phán với các bên liên quan để
đạt được sự đồng thuận.
Kỹ năng nghiên cứu: Khả năng nghiên cứu các văn bản pháp luật, tiền lệ pháp lý, các
ví dụ quốc tế và các mô hình khác nhau để có thể xây dựng luật dựa trên thực tiễn tốt nhất.
Kết luận: Lý thuyết và kỹ năng lập pháp có mối liên hệ chặt chẽ, khi lý thuyết cung cấp
nền tảng tư duy và các nguyên tắc tổng quát, còn kỹ năng đảm bảo việc thực thi lý thuyết này
một cách hiệu quả trong thực tế.
2. TRÌNH BÀY ĐỊNH NGHĨA, ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT,
CHO VÍ DỤ MINH HOẠ.
1) Định nghĩa văn bản quy phạm pháp luật:
Thực tế hiện nay thì chúng ta có thể tìm hiểu và thấy có rất nhiều quan điểm về khái
niệm của văn bản pháp luật. Tuy nhiên thì ta có thể định nghĩa văn bản pháp luật theo cách thức
như sau đó là:
Văn bản pháp luật được hiểu là do những chủ thể có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật ban hành ra theo đúng như trình tự cũng như thủ tụchình thức được pháp luật
quy định. Nội dung của văn bản pháp luật mang thể hiện rõ về ý chí của cơ quan nhà nước,
mang tính bắt buộc chung và những ý chí này sẽ được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực
của nhà nước.
Trong các văn bản pháp luật thì sẽ có thể bao hàm cả ba nhóm văn bản đó là văn bản
quy phạm pháp luật, văn bản hành chínhvăn bản áp dụng pháp luật. Mỗi một nhóm
được quy định trong hệ thống của văn bản pháp luật còn thể hiện về một số nét đặc thù riêng về
nội dung, cũng như về tính chất và nội dung vai trò trong quản lí nhà nước.
2) Đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật:
Văn bản pháp luật do những chủ thể có thẩm quyền ban hành
lOMoARcPSD|46342985
Viêt Nam những chủ thể có thẩm quyền của cơ quan nhà nước bao gồm: Các cơ quan
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Các cơ quan nhà nước chỉ được ban hành văn bản pháp luật trong
phạm vi, lĩnh vực do mình quản pháp luật quy định. Ngoài ra, pháp luật còn quy định
cho một số chủ thể khác cũng có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật như: Người đứng đầu
các cơ quan nhà nước, thủ trưởng một số đơn vị trực thuộc các cơ quan nhà nước,…
Những VBPL mà được ban hành bởi chủ thể không có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật về thẩm quyền ban hành thì không có hiệu lực pháp luật.
Ví dụ: Luật, Nghị quyết do Quốc hội ban hành; Pháp lệnh, nghị quyết do UBTVQH ban
hàn,… Mỗi văn bản pháp luật đều phải do chủ thể có thẩm quyền ban hành. (UBTVQH không
thể ban hành Luật)
Văn bản pháp luật có hình thức do pháp luật quy định
Hình thức văn bản pháp luật bao gồm hai yếu tố cấu thành là tên gọi và thể thức của văn
bản.
– Về tên gọi: Hiện nay pháp luật quy định rất nhiều loại văn bản pháp luật có tên gọi
khác nhau như: Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết, thông tư,…
– Về thể thức: VBPL là quy định cách trình bày văn bản theo một khuôn mẫu, kết cấu
nhất định, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa hình thức với nội dung và đảm bảo sự thống nhất
trong hoạt động của hệ thống cơ quan nhà nước.
Văn bản pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục nhất định
– VBPL được ban hành theo thủ tục, trình tự theo quy định của pháp luật như Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật khiếu nại, tố cáo,…Với mỗi VBPL cụ thể thì có các quy
định về thủ tục riêng nhưng nhìn chung đều bao gồm những hoạt động mang tính chuyên môn,
nghiệp vụ có vai trò trợ giúp cho người soạn thảo, tạo cơ chế trong việc phối hợp, kiểm tra giám
sát của những cơ quan có thẩm quyền đối với việc ban hành VBPL.
Văn bản pháp luật chứa đựng ý chí của chủ thể
Nội dung của VBPL chứa đựng ý chí của chủ thể ban hành. Ý chí được biểu hiện qua
hai hình thức đó là qua các quy phạm pháp luật thì bao gồm cấm, cho phép, bắt buộc hoặc qua
những mệnh lệnh của chủ thể là người có thẩm quyền.
Văn bản pháp luật mang tính bắt buộc và được nhà nước đảm bảo thực hiện
Nhà nướcthể áp dụng nhiều biện pháp khác nhau như: tuyên truyền, giáo dục hoặc
cưỡng chế. Nếu các tổ chức, nhân liên quan không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng các nội dung của văn bản pháp luật thì phải chịu trách nhiệm pháp lý trước nhà nước.
lOMoARcPSD|46342985
3. SO SÁNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ VĂN BẢN ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT:
Tiêu chí
Văn bản quy phạm pháp luật Văn bản áp dụng pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là văn Văn bản áp dụng pháp luật là văn
bản có chứa quy phạm pháp luật, bản chứa đựng các quy tắc xử sự
được ban hành theo đúng thẩm cá biệt, do cơ quan, cá nhân có
quyền, hình thức, trình tự, thủ tục thẩm quyền ban hành, được áp
quy định trong Luật này. dụng một lần trong đời sống và
Văn bản có chứa quy phạm pháp luật
bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng
Khái niệm chế Nhà nước
nhưng được ban hành không đúng
thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ
tục quy định trong Luật này thì
không phải là văn bản quy phạm
pháp luật.
(Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015)
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền Do các cơ quan Nhà nước có thẩm
ban hành (Chương II Luật ban hành quyền hoặc các tổ chức, cá nhân
văn bản quy phạm pháp luật 2015) được Nhà nước trao quyền ban
Ví dụ: Luật, nghị quyết của Quốc hội;
hành, dựa trên các quy phạm pháp
luật cụ thể để giải quyết một vấn
Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
Thẩm quyền ban đề pháp lý cụ thể.
hành
thường vụ Quốc hội; Lệnh, quyết định
của Chủ tịch nước; Nghị quyết liên tịch
Ví dụ: Chánh án Tòa án căn cứ
giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc
các quy định của Bộ luật dân sự
Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban
và Bộ luật tố tụng dân sự để tuyên
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
án đối với cá nhân tổ chức liên
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ;…
quan thông qua bản án
Nội dung ban Chứa đựng các quy tắc xử sự chung Chứa quy tắc xử sự riêng. Áp
hành được Nhà nước bảo đảm thực hiện và dụng một lần đối với một tổ chức
được áp dụng nhiều lần trong thực tế cá nhân là đối tượng tác động của
cuộc sống, được áp dụng trong tất cả văn bản, nội dung của văn bản áp
các trường hợp khi có các sự kiện dụng pháp luật chỉ rõ cụ thể cá
pháp lý tương ứng xảy ra cho đến khi nhân nào, tổ chức nào phải thực
lOMoARcPSD|46342985
nó hết hiệu lực. hiện hành vi gì. Đảm bảo tính hợp
Ví dụ: Nếu có tranh chấp hợp đồng
pháp (tuân thủ đúng các văn bản
quy phạm pháp luật), phù hợp với
mua bán đất thì dựa trên tình huống
thực tế (đảm bảo việc thi hành).
thực tế áp dụng Luật đất đai 2014 và
Mang tính cưỡng chế nhà nước
Bộ luật dân sự 2015.
cao.
Ví dụ: Bản án chỉ rõ cá nhân nào
phải thực hiện nghĩa vụ gì:
Nguyễn Văn A phải bồi thường
cho Lê Văn B 20 triệu đồng. Đối
tượng ở đây là cụ thể A và B
không áp dụng cho bất kỳ cá nhân
tổ chức nào khác.
Các hình thức quy định tại điều 4 Chưa được pháp luật hóa tập
Luật ban hành VBQPPL 2015 (Hiến trung về tên gọi và hình thức thể
Hình thức tên pháp, Bộ luật, Luật,…) hiện.
gọi
(Thường được thể hiện dưới hình
thức: Quyết định, bản án,…)
Rộng rãi. Áp dụng là đối với tất cả Đối tượng nhất định được nêu
Phạm vi áp dụng
các đối tượng thuộc phạm vi điều trong văn bản
chỉnh trong phạm vi cả nước hoặc
đơn vị hành chính nhất định.
Dựa trên Hiến pháp, Luật, các văn Thường dựa vào một văn bản quy
bản quy phạm pháp luật cao hơn với phạm pháp luật hoặc dựa vào văn
Cơ sở ban hành
văn bản quy phạm pháp luật là nguồn bản áp dụng pháp luật của chủ thể
của luật. có thẩm quyền. Văn bản áp dụng
pháp luật hiện tại không là nguồn
của luật
Trình tự ban Theo quy định Luật Ban hành văn Luật không có quy định trình tự
hành bản quy phạm pháp luật 2015
Lâu dài. Thời gian có hiệu luật ngắn theo
Thời gian có
Ví dụ: Luật sở hữu trí tuệ 2005 vẫn
vụ việc.
hiệu lực
có hiệu lực cho đến nay
lOMoARcPSD|46342985
4. TIÊU CHUẨN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG CỦA VĂN BẢN PHÁP
LUẬT: Tiêu chí về chính trị.
Thứ nhất, VBPL phải có nội dung phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng. VBPL được ban hành bởi các đảng phái chính trị nhằm khẳng định vai trò, ảnh hưởng và
ý chí của họ lên các giai tầng khác. Ở nước ta, VBPL chứa đựng pháp luật là công cụ mang tính
chính trị và thể hiện ý chí của Đảng và Nhà nước. Việc xem xét chất lượng của VBPL dựa trên
những yêu cầu về nội dung phải phù hợp chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng là đòi hỏi
mang tính khách quan. Bởi, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng những chủ trương, đường lối, chính
sách; Nhà nước trên cơ sở đó đã thể chế hoá thành những quy định pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Có thể thấy, pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu truyền tải chính sách, chủ trương,
đường lối của Đảng đi vào đời sống thông qua việc Nhà nước ban hành các VBPL thể chế hoá
chúng. Vì vậy, để đánh giá chất lượng của VBPL, trước hết phải xem xét nội dung của VBPL ấy
đã phù hợp với các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng ta hay chưa.
Thứ hai, nội dung của VBPL phải phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích chính đáng
của đối tượng chịu tác động trực tiếp của VBPL. VBPL sau khi được ban hành cần phải được
thực hiện bởi đối tượng mà nó hướng đến. Nếu nội dung của VBPL chứa các điều khoản quá cao
xa không phù hợp với thực tiễn thì khó có thể đi vào đời sống điều chỉnh các quan hệ xã hội. Vì
vậy, để đảm bảo được tính khả thi của VBPL, nội dung của VBPL phải phù hợp với ý chí,
nguyện vọng và lợi ích chính đáng của đối tượng thực hiện.
Tiêu chí về tính hợp hiến, hợp pháp.
Thứ nhất, nội dung của VBPL phải phù hợp với Hiến pháp. Tiêu chí này đòi hỏi mọi
VBPL đều phải phù hợp với Hiến pháp, đảm bảo tính thống nhất theo thứ tự thứ bậc và hiệu lực
pháp lý nhằm tạo ra một hệ thống thống nhất. Tính hợp hiến của VBPL phải được thể hiện qua
hai khía cạnh: “VBPL phải phù hợp với các quy định của Hiến pháp”; “VBPL phải phù hợp
nguyên tắc cơ bản và tinh thần của Hiến pháp”.
Thứ hai, VBPL phải hợp pháp. Cụ thể hơn, VBPL được ban hành phải đúng với pháp
luật, không làm trái pháp luật. VBPL hợp pháp phải hội tụ đủ các yếu tố:
- VBPL phải được ban hành đúng thẩm quyền:
Thẩm quyền ban hành VBPL là giới hạn quyền lực mà pháp luật quy định cho chủ thể
ban hành văn bản nhằm giải quyết những vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Thẩm
quyền này bao gồm thẩm quyền hình thức và thẩm quyền nội dung: Thẩm quyền hình thức là
thẩm quyền của chủ thể (bao gồm cá nhân, cơ quan) chỉ được ban hành một hoặc một số hình
thức VBPL do luật định nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống VBPL và duy trì tinh hợp
lOMoARcPSD|46342985
pháp của VBPL. về mặt hình thức. Số lượng chủ thể được pháp luật xác định tên loại văn bản
được ban hành theo thẩm quyền tương đối rộng vì được quy định trong Hiến pháp, luật, nghị
quyết, pháp lệnh, quyết định,… của một số cơ quan, vì vậy mà các chủ thể bắt buộc phải tuân thủ
và đảm bảo cho văn bản được ban hành phải hợp pháp về mặt hình thức. Nếu VBPL không đảm
bảo được yêu cầu này tức là chúng không hợp pháp về hình thức theo quy định của pháp luật dẫn
đến các vấn đề mâu thuẫn về sự tồn tại và hiệu lực pháp lý của chúng. Thẩm quyền nội dung là
việc chủ thể ban hành VBPL giải quyết công việc phát sinh thuộc phạm vị chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn theo luật định. Thẩm quyền này thường được quy định trong các văn bản chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước và trong một số luật cụ thể như Hiến
pháp 2013, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, các luật về tổ chức,..
- VBPL phải được ban hành đúng căn cứ pháp lý:
Căn cứ pháp lý là những chuẩn mực pháp luật được quy định trong các văn bản liên
quan mà dựa vào đó có thể thấy VBPL sắp được ban hành là hợp pháp. Những văn bản được coi
là cơ sở pháp lý đảm bảo tính hợp pháp của văn bản đang được soạn thảo thường là những văn
bản đang có hiệu lực pháp lý quy định trực tiếp về thẩm quyền của chủ thể ban hành, những văn
bản chứa đựng quy định trực tiếp liên quan đến nội dung của VBPL đang được soạn thảo. Do
những quy định về thẩm quyền của chủ thể ban hành được quy định tại nhiều văn bản nên để
xác định đúng cơ sở pháp lý của VBPL đòi hỏi chủ thể ban hành phải hiểu được các quy định
của pháp luật hiện hành về thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước.
Tiêu chí về tính hợp lý.
Thứ nhất, VBPL phải có nội dung phù hợp với thực tiễn. Với mong muốn đi vào đời sống,
đem lại hiệu quả tác động và khả thi cao nhất của CQBH, VBPL cần có nội dung phù hợp với điều
kiện kinh tế và xã hội nước ta. Về khía cạnh kinh tế, pháp luật và kinh tế có mối quan hệ biện chứng
mật thiết, chúng vừa độc lập vừa thúc đẩy và hỗ trợ lẫn nhau. Mọi sự thay đổi của kinh tế đều dẫn
đến sự thay đổi tương ứng của pháp luật sao cho phù hợp. Mặt khác, pháp luật là công cụ giúp nhà
nước điều chỉnh các quan hệ kinh tế đi theo mục tiêu, mục đích phát triển mà nhà nước đặt ra. Cả hai
yếu tố này đều cần sự tương thích hợp lý, nếu nền kinh tế phát triển mà pháp luật không theo kịp
hoặc pháp luật quá xa rời với điều kiện kinh tế tại thời điểm đó sẽ dẫn đến sự kìm hãm lẫn nhau. Do
vậy, khi đánh giá tính hợp lý của VBPL, cơ quan có thẩm quyền cần xem xét liệu văn bản đó đã phù
hợp các quy luật, yêu cầu phát triển của nền kinh tế đất nước và các quan hệ kinh tế hay chưa. Về
khía cạnh xã hội, nội dung VBPL cần phải phù hợp với đạo đức, phong tục, tập quán tiến bộ của dân
tộc. Bởi, bên cạnh pháp luật là công cụ điều chỉnh chính và hiệu quả nhất của nhà nước, các quy
phạm xã hội như đạo đức, phong tục, tập quán cũng góp phần không nhỏ trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Pháp luật và các quy phạm xã hội ấy có mối quan hệ mật thiết với nhau và tác động
qua lại lẫn nhau: pháp luật góp phần giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo đức, phong tục, tập
quán tốt đẹp; những chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán tiến bộ phù hợp với thời đại là tiền đề
để xây dựng pháp luật, tránh sự xuống
lOMoARcPSD|46342985
cấp đạo đức. Nếu pháp luật phù hợp với phong tục, tập quán, đạo đức sẽ dễ dàng đi vào cuộc
sống của người dân và thực hiện chức năng của mình, ngược lại, nếu không phù hợp, pháp luật
sẽ khó được thi hành. Từ những phân tích trên, có thể thấy, việc xem xét tính hợp lý của văn
bản với tình hình kinh tế - xã hội tại thời điểm xây dựng và ban hành là vô cùng cần thiết.
Thứ hai, VBPL phải đảm bảo về kỹ thuật trình bày. Để đảm bảo được yêu cầu này,
VBPL cần hội tụ đủ hai yếu tố: sử dụng đúng quy tắc ngôn ngữ tiếng Việt và phân chia, sắp xếp
nội dung văn bản chặt chẽ, logic. Về ngôn ngữ, chúng là phương tiện quan trọng truyền tải
những tải toàn bộ ý tưởng thành những quy định pháp luật, trải dài xuyên suốt trong tất cả các
công đoạn, là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nội dung VBPL. Ngôn ngữ trong VBPL
cần bảo đảm các yêu cầu: là ngôn ngữ viết, là ngôn ngữ tiếng Việt được Nhà nước sử dụng có
chuẩn mực cao hơn thông dụng về tính nghiêm túc, chính xác, phổ thông, dễ hiểu và thống nhất.
Về sự phân chia và sắp xếp nội dung, chúng thể hiện sự liền mạch, nhất quán, logic của VBPL
nên cần đảm bảo được các yếu tố sau: nội dung khái quát được trình bày trước nội dung cụ thể;
nội dung phổ biến được trình bày trước nội dung ngoại lệ, đặc thù; nội dung quan trọng được
trình bày trước nội dung ít quan trọng; nội dung về quy định quyền, nghĩa vụ được trình bày
trước quy định về trình tự, thủ tục; nội dung về thủ tục diễn ra trước phải được trình bày trước
nội dung về thủ tục diễn ra sau,…
5. PHÂN LOẠI VĂN BẢN PHÁP LUẬT:
Văn bản pháp luật gồm 03 nhóm như sau: Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng
pháp luật và văn bản hành chính.
Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành
theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật 2015.
Văn bản quy phạm pháp luật có chứa đựng các quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần
trong thực tiễn, là cơ sở để ban hành ra các văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính.
Theo điều 4 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2020, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện tại bao gồm 26 loại văn bản.
Cách phân loại văn bản này dựa trên cơ quan ban hành:
Do Quốc hội ban hành: Bao gồm Hiến pháp, Bộ luật, luật, Nghị quyết.
Do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành: Gồm Pháp lệnh, Nghị quyết; và Nghị quyết
liên tịch với Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Do Chủ tịch nước ban hành: Bao gồm Lệnh, Quyết định.
lOMoARcPSD|46342985
Do Chính phủ ban hành: Bao gồm Nghị định, Nghị quyết liên tịch với Đoàn Chủ tịch Ủy
ban trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Do Thủ tướng Chính phủ ban hành: Gồm Quyết định.
Do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành: Bao gồm Nghị quyết.
Do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành: Thông tư.
Do Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành: Thông tư.
Do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành: Thông tư.
Do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối
cao: Thông tư liên tịch.
Do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ cùng Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao: Thông tư liên tịch.
Do Tổng kiểm toán nhà nước ban hành: Quyết định.
Do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã ban hành: Nghị quyết.
Do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã ban hành: Quyết định.
Văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế
đặc biệt ban hành.
Việc phân loại này giúp tạo nên sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, đồng thời giúp
các cơ quan tránh nhầm lẫn, sử dụng sai loại văn bản quy phạm pháp luật, tránh việc phải hủy
bỏ và ban hành lại văn bản.
Văn bản áp dụng pháp luật
Văn bản áp dụng pháp luật văn bản do những chủ thể thẩm quyền ban hành
theo trình tự, thủ tục quy định, chứa đựng những mệnh lệnh biệt, áp dụng một lần
trong một trường hợp cụ thể.
Khác với văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật chứa đựng quy tắc xử
sự cụ thể, áp dụng cho một chủ thể xác định và được abn hành trên cơ sở văn bản quy phạm pháp
luật.
Ví dụ: Quyết định bổ nhiệm, quyết định khen thưởng,…
Văn bản hành chính
lOMoARcPSD|46342985
Văn bản hành chính là những văn bản được ban hành nhằm triểm khai thực hiện văn bản
pháp luật của cấp trên đối với cấp dưới trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Văn bản
hành chính không quy định cụ thể về tên gọi, thẩm quyền, nội dung.
Ví dụ: Quyết định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm Luật
giao thông đường bộ.
6. VAI TRÒ CỦA VĂN BẢN PHÁP LUẬT:
- Văn bản pháp luật tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc về quyền và nghĩa vụ: Văn bản pháp
luật là nguồn căn cứ để xác định các quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức. Ví dụ, Bộ luật Dân
sự quy định quyền sở hữu tài sản, quyền thừa kế, v.v. Từ đó đảm bảo tính hợp pháp cho các hành
vi trong xã hội.
- Văn bản pháp luật quy định các quy tắc ứng xử, giúp điều chỉnh hành vi và ngăn
ngừa vi phạm, bảo vệ an toàn cho cộng đồng. Nó còn có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của công dân, đảm bảo công bằng và hỗ trợ những nhóm yếu thế.
- Khi xảy ra tranh chấp, văn bản pháp luật cung cấp cơ chế giải quyết, giúp các bên tìm
ra giải pháp công bằng. Đồng thời, nó hướng dẫn thực thi pháp luật bằng các quy định và thông
tư cụ thể, tăng cường hiệu lực áp dụng.
7. KHI XÂY DỰNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT PHẢI NHẤT QUÁN
TRIỆT ĐỂ NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN NÀO? VÌ SAO?
Để công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật này đi vào chiều sâu, có chất lượng,
cơ quan soạn thảo văn bản cần đảm bảo các nguyên tắc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã
được quy định tại Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó chú trọng một số
nguyên tắc sau:
Thứ nhất là bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn
bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.
Theo đó, tính hợp hiến được hiểu là mọi văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan có
thẩm quyền ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, các nội dung quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật không được trái với các quy định cụ thể của Hiến pháp. Đối với địa phương, mặc
dù các Nghị quyết của HĐND, Quyết định của UBND các cấp chủ yếu là thể chế hóa quy định
của Luật, Nghị định, Thông tư để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên địa bàn, trong khi
đó Hiến pháp là đạo luật quy định những vấn đề chung, cơ bản, quan trọng của đất nước, do đó
phần lớn các văn bản quy phạm pháp luật do các cấp ban hành thường không có nội dung liên
quan trực tiếp đến Hiến pháp. Tuy nhiên, một số nội dung Chương II của Hiến pháp có liên quan
đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân, vì vậy quá trình xây dựng văn bản QPPL cần
chú ý vấn đề này, tránh trường hợp nội dung của Nghị quyết, Quyết định có những quy định như
lOMoARcPSD|46342985
về các hành vi bị cấm, không được phép thực hiện là hạn chế các quyền con người, quyền cơ
bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp.
Về nguyên tắc đảm bảo tính hợp pháp, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật có nghĩa
là tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật cần phải bảo đảm tuân thủ thứ bậc hiệu lực
pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật. Ở địa phương văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan
và người có thẩm quyền ở trung ương như luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, các nghị quyết liên tịch,
thông tư liên tịch,...và các văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp trên, nếu là văn
bản của Ủy ban nhân dân còn phải phù hợp với văn bản của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Ngoài
ra, còn phải đối chiếu với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia khi ban
hành các văn bản QPPL để đảm bảo cho các văn bản QPPL không trái với các cam kết quốc tế
đó, đồng thời nội dung của văn bản phải thống nhất, không mâu thuẫn, chồng chéo nhau.
Thứ hai là tuân thủ đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Về thẩm quyền ban hành văn bản, theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Điều 27 thì HĐND tỉnh ban hành văn băn bản QPPL để quy định về các nội dung: 1) Chi tiết
điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
2) Chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan nhà nước cấp trên; 3) Biện pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách, quốc
phòng, an ninh ở địa phương; 4) Biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. Điều 28 thì UBND tỉnh được ban hành văn bản để quy định về
các nội dung: 1) Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên; 2) Biện pháp thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp về phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách,
quốc phòng, an ninh ở địa phương; 3) Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa
phương. Do đó, cơ quan soạn thảo cần căn cứ quy định này nhằm tránh trường hợp tham mưu
ban hành văn bản trái thẩm quyền.
Về hình thức, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì HĐND
tỉnh ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hình thức Nghị quyết, UBND tỉnh ban hành
văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức Quyết định (đây điểm mới của Luật 2015 so với
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND, theo đó đã bỏ hình thức Chỉ
thị quy phạm pháp luật của UBND tỉnh).
Đồng thời, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về trình tự thủ tục
ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ trung ương đến địa phương. Theo đó, đối với việc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND tỉnh thì Luật cũng quy định quy trình này
lOMoARcPSD|46342985
tại Chương VIII và Chương IX. Do đó cần nghiên cứu kỹ quy định này để đảm bảo thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc này khi xây dựng văn bản QPPL.
Thứ ba là bảo đảm tính minh bạch trong quy định của văn bản quy phạm pháp
luật.
Điều này cũng có nghĩa là các quy định trong văn bản QPPL phải có sự rõ ràng ý đồ điều
chỉnh pháp luật và những tác động mà văn bản pháp luật có thể mang lại cho xã hội. Vì vậy,
đảm bảo tính minh bạch trong các quy định của văn bản QPPL không chỉ là vấn đề câu chữ mà
còn phải được thể hiện ở nội dung quy định của văn bản để đảm bảo cho văn bản khi được ban
hành thì cơ quan ban hành văn bản, tổ chức, cá nhân chịu sự tác động của văn bản hiểu được
những hàm ý, ý nghĩa của quy định để tổ chức thực hiện. Do đó, để đảm bảo nguyên tắc này,
trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là khâu tổ chức lấy ý kiến của
đối tượng chịu tác động trực tiếp của văn bản phải được thực hiện một cách thực chất. Thông
qua hoạt động này, đối tượng áp dụng đưa ra các ý kiến góp ý, phản biện về các nội dung của
văn bản. Ngoài ra, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có quy định mới về lập
đề nghị xây dựng nghị quyết, trong đó có nội dung về đánh giá tác động chính sách. Do đó, thực
hiện nghiêm túc việc đánh giá tác động chính sách trên các lĩnh vực: về kinh tế, về xã hội, về
giới của chính sách (nếu có), thủ tục hành chính (nếu có) và đối với hệ thống pháp luật sẽ đảm
bảo được nguyên tắc minh bạch trong việc ban hành văn bản QPPL.
Thứ tư là bảo đảm tính khả thi trong văn bản quy phạm pháp luật
Tính khả thi thường được đánh giá ở sự phù hợp giữa nội dung văn bản với các điều kiện
kinh tế - xã hội hiện tại. Khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, người soạn thảo cần nắm bắt
tình hình kinh tế xã hội để dự liệu các nội dung cần đưa vào dự thảo, tránh trường hợp ban hành
văn bản không thể áp dụng vào trong cuộc sống. Thực tế trong thời gian qua, nhiều chính sách
của tỉnh ban hành nhưng thời gian áp dụng chỉ được 1 đến 2 năm, có những văn bản mới ban
hành đã phải sửa đổi, hay một số nội dung mang tính chủ trương, “khẩu hiệu”, thậm chí không
có đối tượng áp dụng trong thực tiễn gây khó khăn trong việc áp dụng một cách thống nhất. Điều
này cũng xuất phát từ việc không đánh giá được hết tình hình thực tiễn. Do vậy, yêu cầu đặt ra là
văn bản pháp luật phải vừa phản ánh được những quy định chung về sự phát triển của xã hội, vừa
phản ánh được những quy luật mang tính đặc thù trong từng giai đoạn, lĩnh vực.
Ngoài ra còn phải bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời, dễ tiếp cận, dễ thực hiện của văn
bản quy phạm pháp luật; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong văn bản quy phạm pháp
luật; bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.
Thứ năm là bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, không
làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên.
lOMoARcPSD|46342985
Thứ sáu là bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến
nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật.
8. HÃY PHÂN TÍCH VÀ LẤY VÍ DỤ VỀ TIÊU CHÍ PHÁP LÝ ĐỂ ĐẢM BẢO
CHẤT LƯỢNG CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT:
Từ thực tiễn kinh nghiệm lập pháp của Việt Nam cũng như có tham khảo kinh nghiệm
quốc tế
1
, có thể xác định rằng một VBQPPL được xem là có chất lượng tốt nếu thỏa mãn 8
tiêu chí sau:
Thứ nhất, VBQPPL phải giải quyết mục tiêu vấn đề đặt ra trên cơ sở đảm bảo tính kinh
tế, hiệu quả. Điều này đòi hỏi nội dung VBQPPL phải xuất phát từ nhu cầu thực tế, thực tiễn của
xã hội; đáp ứng kịp thời nhu cầu quản lý nhà nước. Để tạo ra một VBQPPL có chất lượng tốt,
quá trình xây dựng phải được thực hiện một cách bài bản, chắc chắn, kịp thời nhưng không nóng
vội.
Ví dụ: Luật Bảo vệ trẻ em (2016) được ban hành nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ em, cụ
thể là quyền được giáo dục và bảo vệ khỏi bạo lực, giúp giải quyết những vấn đề xã hội đang
tồn tại.
Thứ hai, các chính sách, quy định thể hiện trong văn bản bảo đảm tính rõ ràng, nhất quán
với chính sách chung của Nhà nước trong lĩnh vực mà dự thảo điều chỉnh;
Ví dụ: Luật Phòng chống tham nhũng (2018) quy định rõ ràng trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức trong việc thực hiện công tác phòng chống tham nhũng, nhất quán với chính
sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, nội dung văn bản phải hợp hiến, hợp pháp, bảo đảm tính thống nhất, tính đồng
bộ của hệ thống pháp luật, bảo đảm tính tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết
hoặc gia nhập;
Ví dụ: Luật Hôn nhân và gia đình (2014) quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng, phù hợp với các nguyên tắc và quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp.
Thứ tư, nội dung văn bản phải đảm bảo tính khả thi (các điều kiện bảo đảm thi hành
văn bản như nguồn tài chính, nguồn nhân lực; các biện pháp đảm bảo thực hiện nội dung các
chính sách của văn bản… phải được quy định cụ thể, đầy đủ và hợp lý).
1
OECD Guiding Principles for Regulatory Quality and Performance (2005), OECD Guiding Principles for
Regulatory Quality and Performance | OECD iLibrary (oecd-ilibrary.org), ngày truy cập 08/11/2022.
lOMoARcPSD|46342985
dụ: Luật Nghĩa vụ quân sự quy định cụ thể về nguồn nhân lực chế tổ chức thực
hiện nghĩa vụ quân sự, đảm bảo tính khả thi trong việc thực hiện nghĩa vụ của công dân. Luật
lao động 2019 quy định
Thứ năm, nội dung các quy định phải minh bạch, cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện
(đối tượng chịu sự tác động của văn bản phải biết được họ phải làm gì, được phép làm gì,
không được phép làm gì; cơ quan nhà nước chỉ được phép làm gì, đến mức độ nào…);
Ví dụ: Luật lao động (2019) quy định cụ thể rõ ràng, dễ hiểu về những trường hợp người
lao động hay người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Người lao động
hay người sử dụng lao động biết họ phải làm gì trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động, họ được phép làm gì, không được phép làm gì,…
Thứ sáu, VBQPPL phảitính dự báotính ổn định tương đối. Với tính dự báo, các
quan hệ hội luôn biến động phát triển nên VBQPPL phải khả năng giải quyết được
các vấn đề trong tương lai. Với tính ổn định,
2
VBQPPL không “đứng yên” phải “ổn định
trong phát triển”. Các mục tiêu, định hướng, hệ giá trị nền tảng các nguyên tắc chi phối về
cơ bản cần được ổn định.
Ví dụ: Luật Đầu tư (2020) có quy định về các hình thức đầu tư và ưu đãi, giúp dự báo
sự phát triển của môi trường đầu tư trong tương lai và tạo điều kiện ổn định cho nhà đầu tư.
Thứ bảy, nội dung quy định trong dự thảo phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội; vừa
phải đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước đồng thời phải đảm bảo thúc đẩy phát triển xã hội;
Ví dụ: Luật Lao động (2019) quy định về thời gian làm việc, tiền lương tối thiểu, phù
hợp với điều kiện kinh tế và thực tiễn lao động của Việt Nam.
Thứ tám, chế tài đặt ra phải hợp lý, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi vi
phạm. Mục tiêu giải quyết vấn đề ở mức độ nào thì đặt ra các quy định, chế tài ở mức độ đó,
chế tài phải tương xứng với tính chất, mức độ hành vi vi phạm thì mới bảo đảm tính khả thi.
Ví dụ: Luật Giao thông đường bộ quy định mức phạt cụ thể cho các hành vi vi phạm,
như lái xe khi say rượu, với mức phạt đủ lớn để răn đe nhưng cũng cân nhắc khả năng của người
vi phạm.
9. PHÂN LOẠI HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Căn cứ Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định về hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật như sau:
2 thể xem thêm vấn đề này tại: Viện Khoa học pháp lý - Bộ pháp, Nguyễn Văn Cương (chủ biên), Tính ổn
định của pháp luật - Nhận thức, thực tiễn giải pháp đổi mới (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021.
lOMoARcPSD|46342985
(1) Hiến pháp.
(2) Bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội.
(3) Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
(4) Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
(5) Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
(6) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; của Ủy ban nhân dân
cấp huyện; của Ủy ban nhân dân cấp xã.
(7) Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; của Hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh); của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (cấp huyện); của Hội đồng
nhân dân xã, phường, thị trấn (cấp xã).
(8) Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; quyết định của
Tổng Kiểm toán nhà nước.
(9) Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế
đặc biệt.
10. PHÂN LOẠI HỆ THỐNG VĂN BẢN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT:
1) Văn bản áp dụng pháp luật bao gồm một số loại sau:
- Nghị quyết
- Quyết định
- Chỉ thị
2) Phân loại hệ thống văn bản áp dụng pháp
luật: Nghị quyết:
| 1/85

Preview text:

lOMoARcPSD|46342985 lOMoARcPSD|46342985
TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌCCÔNG ĐOÀN
KHOA LUẬT - LỚP LW15C ---o0o--- BÀI TẬP
MÔN LÝ THUYẾT VÀ KỸ NĂNG LẬP PHÁP
Sinh viên thực hiện:Trịnh Ngọc Ly
Mã sinh viên: 224D4081974
…., tháng… năm….
Downloaded by Châu Bùi (Vj7@gmail.com) OMoARcPSD|46342985 OMoARcPSD|46342985 lOMoARcPSD|46342985 lOMoARcPSD|46342985 BÀI TẬP
1. QUAN ĐIỂM VỀ LÝ THUYẾT VÀ KỸ NĂNG LẬP PHÁP: 1) Lập pháp là gì?
Là một trong ba chức năng của nhà nước, cùng với quyền hành phápquyền
tư pháp hợp thành quyền lực nhà nước.
- Nghĩa rộng: Trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước, lập pháp bao gồm vừa
làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, vừa làm luật và sửa đổi luật.
- Nghĩa hẹp: Quyền lập pháp chỉ bao gồm "làm luật và sửa đổi luật".
=> Lập pháp trong quan điểm về lý thuyết và kỹ năng lập pháp đưọc hiểu theo nghĩa rộng.
2) Lý thuyết lập pháp là gì?
Lý thuyết lập pháp là hệ thống các quan điểm lý luận về hoạt động lập pháp. Nó bao gồm
phương pháp luận để xử lý các vấn đề xã hội và cách thức lý giải các hành vi của con người
dưới tác động của quy phạm pháp luật. Đây là một lĩnh vực khoa học còn tương đối mới mẻ và
chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam ta.
Một là, lý thuyết lập pháp cho rằng làm luật thì phải nhắm vào các vấn đề xã hội đang
phát sinh. Vấn đề nào quan trọng thì cần được xử lý trước, vấn đề nào ít quan trọng hơn thì xử lý sau.
Hai là, chỉ những vấn đề do hành vi “có vấn đề” của con người gây ra mới giải quyết
được bằng cách ban hành pháp luật.
Ba là, để điều chỉnh những hành vi “có vấn đề” phải lý giải được tại sao con người
lại hành động như vậy. Có 7 yếu tố tác động lên hành vi của con người đó là: pháp luật; cơ
hội; năng lực; thông tin; lợi ích; quy trình; ý thức hệ.
Cuối cùng, lý thuyết lập pháp không phải là lời giải cho tất cả mọi vấn đề mà chúng ta
đang phải đối mặt trong hoạt động lập pháp. Nó chỉ là một công cụ. Tuy nhiên, làm chủ công cụ
này là cần thiết để nâng cao chất lượng soạn thảo và thẩm định các văn bản pháp luật.
3) Kỹ năng lập pháp là gì?
Kỹ năng lập pháp là các kỹ năng mà các nhà lập pháp và những người tham gia quá
trình xây dựng luật pháp cần có để đảm bảo việc soạn thảo và ban hành luật một cách hiệu quả,
công bằng và hợp lý. Kỹ năng này bao gồm: lOMoARcPSD|46342985
Kỹ năng phân tích: Khả năng hiểu rõ các vấn đề xã hội và pháp lý để từ đó xác định các
quy định pháp lý phù hợp. Nhà lập pháp cần có khả năng phân tích chính sách và dự đoán các tác động của luật.
Kỹ năng soạn thảo luật: Soạn thảo các điều khoản luật cần rõ ràng, dễ hiểu và có thể
áp dụng được trong thực tế, tránh tình trạng mơ hồ hoặc khó hiểu.
Kỹ năng thuyết trình và đàm phán: Trong quá trình lập pháp, nhà lập pháp thường phải
trình bày, bảo vệ các dự thảo luật trước cơ quan lập pháp và đàm phán với các bên liên quan để
đạt được sự đồng thuận.
Kỹ năng nghiên cứu: Khả năng nghiên cứu các văn bản pháp luật, tiền lệ pháp lý, các
ví dụ quốc tế và các mô hình khác nhau để có thể xây dựng luật dựa trên thực tiễn tốt nhất.
Kết luận: Lý thuyết và kỹ năng lập pháp có mối liên hệ chặt chẽ, khi lý thuyết cung cấp
nền tảng tư duy và các nguyên tắc tổng quát, còn kỹ năng đảm bảo việc thực thi lý thuyết này
một cách hiệu quả trong thực tế.
2. TRÌNH BÀY ĐỊNH NGHĨA, ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT, CHO VÍ DỤ MINH HOẠ.
1) Định nghĩa văn bản quy phạm pháp luật:
Thực tế hiện nay thì chúng ta có thể tìm hiểu và thấy có rất nhiều quan điểm về khái
niệm của văn bản pháp luật. Tuy nhiên thì ta có thể định nghĩa văn bản pháp luật theo cách thức như sau đó là:
Văn bản pháp luật được hiểu là do những chủ thể có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật ban hành ra theo đúng như trình tự cũng như thủ tụchình thức được pháp luật
quy định. Nội dung của văn bản pháp luật mang thể hiện rõ về ý chí của cơ quan nhà nước,
mang tính bắt buộc chung và những ý chí này sẽ được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực của nhà nước.
Trong các văn bản pháp luật thì sẽ có thể bao hàm cả ba nhóm văn bản đó là văn bản
quy phạm pháp luật, văn bản hành chínhvăn bản áp dụng pháp luật. Mỗi một nhóm
được quy định trong hệ thống của văn bản pháp luật còn thể hiện về một số nét đặc thù riêng về
nội dung, cũng như về tính chất và nội dung vai trò trong quản lí nhà nước.
2) Đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật:
Văn bản pháp luật do những chủ thể có thẩm quyền ban hành lOMoARcPSD|46342985
Ở Viêt Nam những chủ thể có thẩm quyền của cơ quan nhà nước bao gồm: Các cơ quan
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Các cơ quan nhà nước chỉ được ban hành văn bản pháp luật trong
phạm vi, lĩnh vực do mình quản lý mà pháp luật quy định. Ngoài ra, pháp luật còn quy định
cho một số chủ thể khác cũng có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật như: Người đứng đầu
các cơ quan nhà nước, thủ trưởng một số đơn vị trực thuộc các cơ quan nhà nước,…
Những VBPL mà được ban hành bởi chủ thể không có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật về thẩm quyền ban hành thì không có hiệu lực pháp luật.
Ví dụ: Luật, Nghị quyết do Quốc hội ban hành; Pháp lệnh, nghị quyết do UBTVQH ban
hàn,… Mỗi văn bản pháp luật đều phải do chủ thể có thẩm quyền ban hành. (UBTVQH không thể ban hành Luật)
Văn bản pháp luật có hình thức do pháp luật quy định
Hình thức văn bản pháp luật bao gồm hai yếu tố cấu thành là tên gọi và thể thức của văn bản.
– Về tên gọi: Hiện nay pháp luật quy định rất nhiều loại văn bản pháp luật có tên gọi
khác nhau như: Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết, thông tư,…
– Về thể thức: VBPL là quy định cách trình bày văn bản theo một khuôn mẫu, kết cấu
nhất định, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa hình thức với nội dung và đảm bảo sự thống nhất
trong hoạt động của hệ thống cơ quan nhà nước.
Văn bản pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục nhất định
– VBPL được ban hành theo thủ tục, trình tự theo quy định của pháp luật như Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật khiếu nại, tố cáo,…Với mỗi VBPL cụ thể thì có các quy
định về thủ tục riêng nhưng nhìn chung đều bao gồm những hoạt động mang tính chuyên môn,
nghiệp vụ có vai trò trợ giúp cho người soạn thảo, tạo cơ chế trong việc phối hợp, kiểm tra giám
sát của những cơ quan có thẩm quyền đối với việc ban hành VBPL.
Văn bản pháp luật chứa đựng ý chí của chủ thể
Nội dung của VBPL chứa đựng ý chí của chủ thể ban hành. Ý chí được biểu hiện qua
hai hình thức đó là qua các quy phạm pháp luật thì bao gồm cấm, cho phép, bắt buộc hoặc qua
những mệnh lệnh của chủ thể là người có thẩm quyền.
Văn bản pháp luật mang tính bắt buộc và được nhà nước đảm bảo thực hiện
Nhà nước có thể áp dụng nhiều biện pháp khác nhau như: tuyên truyền, giáo dục hoặc
cưỡng chế. Nếu các tổ chức, cá nhân có liên quan không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng các nội dung của văn bản pháp luật thì phải chịu trách nhiệm pháp lý trước nhà nước. lOMoARcPSD|46342985
3. SO SÁNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ VĂN BẢN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT:
Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản áp dụng pháp luật Tiêu chí
Văn bản quy phạm pháp luật là văn
Văn bản áp dụng pháp luật là văn
bản có chứa quy phạm pháp luật,
bản chứa đựng các quy tắc xử sự
được ban hành theo đúng thẩm
cá biệt, do cơ quan, cá nhân có
quyền, hình thức, trình tự, thủ tục
thẩm quyền ban hành, được áp quy định trong Luật này.
dụng một lần trong đời sống và
bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng Khái niệm
Văn bản có chứa quy phạm pháp luật chế Nhà nước
nhưng được ban hành không đúng
thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ
tục quy định trong Luật này thì
không phải là văn bản quy phạm pháp luật.
(Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015)
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Do các cơ quan Nhà nước có thẩm
ban hành (Chương II Luật ban hành
quyền hoặc các tổ chức, cá nhân
văn bản quy phạm pháp luật 2015)
được Nhà nước trao quyền ban
hành, dựa trên các quy phạm pháp
Ví dụ: Luật, nghị quyết của Quốc hội;
luật cụ thể để giải quyết một vấn
Thẩm quyền ban Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban đề pháp lý cụ thể. hành
thường vụ Quốc hội; Lệnh, quyết định
của Chủ tịch nước; Nghị quyết liên tịch
Ví dụ: Chánh án Tòa án căn cứ
giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc
các quy định của Bộ luật dân sự
Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban
và Bộ luật tố tụng dân sự để tuyên
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ;… án đối với cá nhân tổ chức liên quan thông qua bản án Nội dung ban
Chứa đựng các quy tắc xử sự chung
Chứa quy tắc xử sự riêng. Áp hành
được Nhà nước bảo đảm thực hiện và dụng một lần đối với một tổ chức
được áp dụng nhiều lần trong thực tế
cá nhân là đối tượng tác động của
cuộc sống, được áp dụng trong tất cả
văn bản, nội dung của văn bản áp
các trường hợp khi có các sự kiện
dụng pháp luật chỉ rõ cụ thể cá
pháp lý tương ứng xảy ra cho đến khi nhân nào, tổ chức nào phải thực lOMoARcPSD|46342985 nó hết hiệu lực.
hiện hành vi gì. Đảm bảo tính hợp
pháp (tuân thủ đúng các văn bản
Ví dụ: Nếu có tranh chấp hợp đồng
quy phạm pháp luật), phù hợp với
mua bán đất thì dựa trên tình huống
thực tế (đảm bảo việc thi hành).
thực tế áp dụng Luật đất đai 2014 và
Mang tính cưỡng chế nhà nước Bộ luật dân sự 2015. cao.
Ví dụ: Bản án chỉ rõ cá nhân nào
phải thực hiện nghĩa vụ gì:
Nguyễn Văn A phải bồi thường
cho Lê Văn B 20 triệu đồng. Đối
tượng ở đây là cụ thể A và B
không áp dụng cho bất kỳ cá nhân tổ chức nào khác.
Các hình thức quy định tại điều 4
Chưa được pháp luật hóa tập
Luật ban hành VBQPPL 2015 (Hiến
trung về tên gọi và hình thức thể Hình thức tên
pháp, Bộ luật, Luật,…) hiện. gọi
(Thường được thể hiện dưới hình
thức: Quyết định, bản án,…)
Rộng rãi. Áp dụng là đối với tất cả
Đối tượng nhất định được nêu
các đối tượng thuộc phạm vi điều trong văn bản
Phạm vi áp dụng chỉnh trong phạm vi cả nước hoặc
đơn vị hành chính nhất định.
Dựa trên Hiến pháp, Luật, các văn
Thường dựa vào một văn bản quy
bản quy phạm pháp luật cao hơn với
phạm pháp luật hoặc dựa vào văn
văn bản quy phạm pháp luật là nguồn bản áp dụng pháp luật của chủ thể Cơ sở ban hành của luật.
có thẩm quyền. Văn bản áp dụng
pháp luật hiện tại không là nguồn của luật Trình tự ban
Theo quy định Luật Ban hành văn
Luật không có quy định trình tự hành
bản quy phạm pháp luật 2015 Lâu dài.
Thời gian có hiệu luật ngắn theo Thời gian có vụ việc. hiệu lực
Ví dụ: Luật sở hữu trí tuệ 2005 vẫn
có hiệu lực cho đến nay lOMoARcPSD|46342985
4. TIÊU CHUẨN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG CỦA VĂN BẢN PHÁP
LUẬT: Tiêu chí về chính trị.
Thứ nhất, VBPL phải có nội dung phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng. VBPL được ban hành bởi các đảng phái chính trị nhằm khẳng định vai trò, ảnh hưởng và
ý chí của họ lên các giai tầng khác. Ở nước ta, VBPL chứa đựng pháp luật là công cụ mang tính
chính trị và thể hiện ý chí của Đảng và Nhà nước. Việc xem xét chất lượng của VBPL dựa trên
những yêu cầu về nội dung phải phù hợp chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng là đòi hỏi
mang tính khách quan. Bởi, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng những chủ trương, đường lối, chính
sách; Nhà nước trên cơ sở đó đã thể chế hoá thành những quy định pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Có thể thấy, pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu truyền tải chính sách, chủ trương,
đường lối của Đảng đi vào đời sống thông qua việc Nhà nước ban hành các VBPL thể chế hoá
chúng. Vì vậy, để đánh giá chất lượng của VBPL, trước hết phải xem xét nội dung của VBPL ấy
đã phù hợp với các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng ta hay chưa.
Thứ hai, nội dung của VBPL phải phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích chính đáng
của đối tượng chịu tác động trực tiếp của VBPL. VBPL sau khi được ban hành cần phải được
thực hiện bởi đối tượng mà nó hướng đến. Nếu nội dung của VBPL chứa các điều khoản quá cao
xa không phù hợp với thực tiễn thì khó có thể đi vào đời sống điều chỉnh các quan hệ xã hội. Vì
vậy, để đảm bảo được tính khả thi của VBPL, nội dung của VBPL phải phù hợp với ý chí,
nguyện vọng và lợi ích chính đáng của đối tượng thực hiện.
Tiêu chí về tính hợp hiến, hợp pháp.
Thứ nhất, nội dung của VBPL phải phù hợp với Hiến pháp. Tiêu chí này đòi hỏi mọi
VBPL đều phải phù hợp với Hiến pháp, đảm bảo tính thống nhất theo thứ tự thứ bậc và hiệu lực
pháp lý nhằm tạo ra một hệ thống thống nhất. Tính hợp hiến của VBPL phải được thể hiện qua
hai khía cạnh: “VBPL phải phù hợp với các quy định của Hiến pháp”; “VBPL phải phù hợp
nguyên tắc cơ bản và tinh thần của Hiến pháp”.
Thứ hai, VBPL phải hợp pháp. Cụ thể hơn, VBPL được ban hành phải đúng với pháp
luật, không làm trái pháp luật. VBPL hợp pháp phải hội tụ đủ các yếu tố:
- VBPL phải được ban hành đúng thẩm quyền:
Thẩm quyền ban hành VBPL là giới hạn quyền lực mà pháp luật quy định cho chủ thể
ban hành văn bản nhằm giải quyết những vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Thẩm
quyền này bao gồm thẩm quyền hình thức và thẩm quyền nội dung: Thẩm quyền hình thức là
thẩm quyền của chủ thể (bao gồm cá nhân, cơ quan) chỉ được ban hành một hoặc một số hình
thức VBPL do luật định nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống VBPL và duy trì tinh hợp lOMoARcPSD|46342985
pháp của VBPL. về mặt hình thức. Số lượng chủ thể được pháp luật xác định tên loại văn bản
được ban hành theo thẩm quyền tương đối rộng vì được quy định trong Hiến pháp, luật, nghị
quyết, pháp lệnh, quyết định,… của một số cơ quan, vì vậy mà các chủ thể bắt buộc phải tuân thủ
và đảm bảo cho văn bản được ban hành phải hợp pháp về mặt hình thức. Nếu VBPL không đảm
bảo được yêu cầu này tức là chúng không hợp pháp về hình thức theo quy định của pháp luật dẫn
đến các vấn đề mâu thuẫn về sự tồn tại và hiệu lực pháp lý của chúng. Thẩm quyền nội dung là
việc chủ thể ban hành VBPL giải quyết công việc phát sinh thuộc phạm vị chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn theo luật định. Thẩm quyền này thường được quy định trong các văn bản chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước và trong một số luật cụ thể như Hiến
pháp 2013, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, các luật về tổ chức,..
- VBPL phải được ban hành đúng căn cứ pháp lý:
Căn cứ pháp lý là những chuẩn mực pháp luật được quy định trong các văn bản liên
quan mà dựa vào đó có thể thấy VBPL sắp được ban hành là hợp pháp. Những văn bản được coi
là cơ sở pháp lý đảm bảo tính hợp pháp của văn bản đang được soạn thảo thường là những văn
bản đang có hiệu lực pháp lý quy định trực tiếp về thẩm quyền của chủ thể ban hành, những văn
bản chứa đựng quy định trực tiếp liên quan đến nội dung của VBPL đang được soạn thảo. Do
những quy định về thẩm quyền của chủ thể ban hành được quy định tại nhiều văn bản nên để
xác định đúng cơ sở pháp lý của VBPL đòi hỏi chủ thể ban hành phải hiểu được các quy định
của pháp luật hiện hành về thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước.
Tiêu chí về tính hợp lý.
Thứ nhất, VBPL phải có nội dung phù hợp với thực tiễn. Với mong muốn đi vào đời sống,
đem lại hiệu quả tác động và khả thi cao nhất của CQBH, VBPL cần có nội dung phù hợp với điều
kiện kinh tế và xã hội nước ta. Về khía cạnh kinh tế, pháp luật và kinh tế có mối quan hệ biện chứng
mật thiết, chúng vừa độc lập vừa thúc đẩy và hỗ trợ lẫn nhau. Mọi sự thay đổi của kinh tế đều dẫn
đến sự thay đổi tương ứng của pháp luật sao cho phù hợp. Mặt khác, pháp luật là công cụ giúp nhà
nước điều chỉnh các quan hệ kinh tế đi theo mục tiêu, mục đích phát triển mà nhà nước đặt ra. Cả hai
yếu tố này đều cần sự tương thích hợp lý, nếu nền kinh tế phát triển mà pháp luật không theo kịp
hoặc pháp luật quá xa rời với điều kiện kinh tế tại thời điểm đó sẽ dẫn đến sự kìm hãm lẫn nhau. Do
vậy, khi đánh giá tính hợp lý của VBPL, cơ quan có thẩm quyền cần xem xét liệu văn bản đó đã phù
hợp các quy luật, yêu cầu phát triển của nền kinh tế đất nước và các quan hệ kinh tế hay chưa. Về
khía cạnh xã hội, nội dung VBPL cần phải phù hợp với đạo đức, phong tục, tập quán tiến bộ của dân
tộc. Bởi, bên cạnh pháp luật là công cụ điều chỉnh chính và hiệu quả nhất của nhà nước, các quy
phạm xã hội như đạo đức, phong tục, tập quán cũng góp phần không nhỏ trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Pháp luật và các quy phạm xã hội ấy có mối quan hệ mật thiết với nhau và tác động
qua lại lẫn nhau: pháp luật góp phần giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo đức, phong tục, tập
quán tốt đẹp; những chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán tiến bộ phù hợp với thời đại là tiền đề
để xây dựng pháp luật, tránh sự xuống lOMoARcPSD|46342985
cấp đạo đức. Nếu pháp luật phù hợp với phong tục, tập quán, đạo đức sẽ dễ dàng đi vào cuộc
sống của người dân và thực hiện chức năng của mình, ngược lại, nếu không phù hợp, pháp luật
sẽ khó được thi hành. Từ những phân tích trên, có thể thấy, việc xem xét tính hợp lý của văn
bản với tình hình kinh tế - xã hội tại thời điểm xây dựng và ban hành là vô cùng cần thiết.
Thứ hai, VBPL phải đảm bảo về kỹ thuật trình bày. Để đảm bảo được yêu cầu này,
VBPL cần hội tụ đủ hai yếu tố: sử dụng đúng quy tắc ngôn ngữ tiếng Việt và phân chia, sắp xếp
nội dung văn bản chặt chẽ, logic. Về ngôn ngữ, chúng là phương tiện quan trọng truyền tải
những tải toàn bộ ý tưởng thành những quy định pháp luật, trải dài xuyên suốt trong tất cả các
công đoạn, là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nội dung VBPL. Ngôn ngữ trong VBPL
cần bảo đảm các yêu cầu: là ngôn ngữ viết, là ngôn ngữ tiếng Việt được Nhà nước sử dụng có
chuẩn mực cao hơn thông dụng về tính nghiêm túc, chính xác, phổ thông, dễ hiểu và thống nhất.
Về sự phân chia và sắp xếp nội dung, chúng thể hiện sự liền mạch, nhất quán, logic của VBPL
nên cần đảm bảo được các yếu tố sau: nội dung khái quát được trình bày trước nội dung cụ thể;
nội dung phổ biến được trình bày trước nội dung ngoại lệ, đặc thù; nội dung quan trọng được
trình bày trước nội dung ít quan trọng; nội dung về quy định quyền, nghĩa vụ được trình bày
trước quy định về trình tự, thủ tục; nội dung về thủ tục diễn ra trước phải được trình bày trước
nội dung về thủ tục diễn ra sau,…
5. PHÂN LOẠI VĂN BẢN PHÁP LUẬT:
Văn bản pháp luật gồm 03 nhóm như sau: Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng
pháp luật và văn bản hành chính.
Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành
theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015.
Văn bản quy phạm pháp luật có chứa đựng các quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần
trong thực tiễn, là cơ sở để ban hành ra các văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính.
Theo điều 4 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và sửa đổi, bổ
sung năm 2020, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện tại bao gồm 26 loại văn bản.
Cách phân loại văn bản này dựa trên cơ quan ban hành:
Do Quốc hội ban hành: Bao gồm Hiến pháp, Bộ luật, luật, Nghị quyết.
Do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành: Gồm Pháp lệnh, Nghị quyết; và Nghị quyết
liên tịch với Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Do Chủ tịch nước ban hành: Bao gồm Lệnh, Quyết định. lOMoARcPSD|46342985
Do Chính phủ ban hành: Bao gồm Nghị định, Nghị quyết liên tịch với Đoàn Chủ tịch Ủy
ban trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Do Thủ tướng Chính phủ ban hành: Gồm Quyết định.
Do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành: Bao gồm Nghị quyết.
Do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành: Thông tư.
Do Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành: Thông tư.
Do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành: Thông tư.
Do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao: Thông tư liên tịch.
Do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ cùng Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao: Thông tư liên tịch.
Do Tổng kiểm toán nhà nước ban hành: Quyết định.
Do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã ban hành: Nghị quyết.
Do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã ban hành: Quyết định.
Văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt ban hành.
Việc phân loại này giúp tạo nên sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, đồng thời giúp
các cơ quan tránh nhầm lẫn, sử dụng sai loại văn bản quy phạm pháp luật, tránh việc phải hủy
bỏ và ban hành lại văn bản.
Văn bản áp dụng pháp luật
Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản do những chủ thể có thẩm quyền ban hành
theo trình tự, thủ tục quy định, có chứa đựng những mệnh lệnh cá biệt, áp dụng một lần
trong một trường hợp cụ thể.
Khác với văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật chứa đựng quy tắc xử
sự cụ thể, áp dụng cho một chủ thể xác định và được abn hành trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật.
Ví dụ: Quyết định bổ nhiệm, quyết định khen thưởng,… Văn bản hành chính lOMoARcPSD|46342985
Văn bản hành chính là những văn bản được ban hành nhằm triểm khai thực hiện văn bản
pháp luật của cấp trên đối với cấp dưới trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Văn bản
hành chính không quy định cụ thể về tên gọi, thẩm quyền, nội dung.
Ví dụ: Quyết định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm Luật giao thông đường bộ.
6. VAI TRÒ CỦA VĂN BẢN PHÁP LUẬT:
- Văn bản pháp luật tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc về quyền và nghĩa vụ: Văn bản pháp
luật là nguồn căn cứ để xác định các quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức. Ví dụ, Bộ luật Dân
sự quy định quyền sở hữu tài sản, quyền thừa kế, v.v. Từ đó đảm bảo tính hợp pháp cho các hành vi trong xã hội.
- Văn bản pháp luật quy định các quy tắc ứng xử, giúp điều chỉnh hành vi và ngăn
ngừa vi phạm, bảo vệ an toàn cho cộng đồng. Nó còn có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của công dân, đảm bảo công bằng và hỗ trợ những nhóm yếu thế.
- Khi xảy ra tranh chấp, văn bản pháp luật cung cấp cơ chế giải quyết, giúp các bên tìm
ra giải pháp công bằng. Đồng thời, nó hướng dẫn thực thi pháp luật bằng các quy định và thông
tư cụ thể, tăng cường hiệu lực áp dụng.
7. KHI XÂY DỰNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT PHẢI NHẤT QUÁN
TRIỆT ĐỂ NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN NÀO? VÌ SAO?

Để công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật này đi vào chiều sâu, có chất lượng,
cơ quan soạn thảo văn bản cần đảm bảo các nguyên tắc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã
được quy định tại Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó chú trọng một số nguyên tắc sau:
Thứ nhất là bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn
bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.
Theo đó, tính hợp hiến được hiểu là mọi văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan có
thẩm quyền ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, các nội dung quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật không được trái với các quy định cụ thể của Hiến pháp. Đối với địa phương, mặc
dù các Nghị quyết của HĐND, Quyết định của UBND các cấp chủ yếu là thể chế hóa quy định
của Luật, Nghị định, Thông tư để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên địa bàn, trong khi
đó Hiến pháp là đạo luật quy định những vấn đề chung, cơ bản, quan trọng của đất nước, do đó
phần lớn các văn bản quy phạm pháp luật do các cấp ban hành thường không có nội dung liên
quan trực tiếp đến Hiến pháp. Tuy nhiên, một số nội dung Chương II của Hiến pháp có liên quan
đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân, vì vậy quá trình xây dựng văn bản QPPL cần
chú ý vấn đề này, tránh trường hợp nội dung của Nghị quyết, Quyết định có những quy định như lOMoARcPSD|46342985
về các hành vi bị cấm, không được phép thực hiện là hạn chế các quyền con người, quyền cơ
bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp.
Về nguyên tắc đảm bảo tính hợp pháp, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật có nghĩa
là tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật cần phải bảo đảm tuân thủ thứ bậc hiệu lực
pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật. Ở địa phương văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan
và người có thẩm quyền ở trung ương như luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, các nghị quyết liên tịch,
thông tư liên tịch,...và các văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp trên, nếu là văn
bản của Ủy ban nhân dân còn phải phù hợp với văn bản của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Ngoài
ra, còn phải đối chiếu với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia khi ban
hành các văn bản QPPL để đảm bảo cho các văn bản QPPL không trái với các cam kết quốc tế
đó, đồng thời nội dung của văn bản phải thống nhất, không mâu thuẫn, chồng chéo nhau.
Thứ hai là tuân thủ đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Về thẩm quyền ban hành văn bản, theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Điều 27 thì HĐND tỉnh ban hành văn băn bản QPPL để quy định về các nội dung: 1) Chi tiết
điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
2) Chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan nhà nước cấp trên; 3) Biện pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách, quốc
phòng, an ninh ở địa phương; 4) Biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. Điều 28 thì UBND tỉnh được ban hành văn bản để quy định về
các nội dung: 1) Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên; 2) Biện pháp thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp về phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách,
quốc phòng, an ninh ở địa phương; 3) Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa
phương. Do đó, cơ quan soạn thảo cần căn cứ quy định này nhằm tránh trường hợp tham mưu
ban hành văn bản trái thẩm quyền.
Về hình thức, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì HĐND
tỉnh ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hình thức Nghị quyết, UBND tỉnh ban hành
văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức Quyết định (đây là điểm mới của Luật 2015 so với
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND, theo đó đã bỏ hình thức Chỉ
thị quy phạm pháp luật của UBND tỉnh).
Đồng thời, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về trình tự thủ tục
ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ trung ương đến địa phương. Theo đó, đối với việc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND tỉnh thì Luật cũng quy định quy trình này lOMoARcPSD|46342985
tại Chương VIII và Chương IX. Do đó cần nghiên cứu kỹ quy định này để đảm bảo thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc này khi xây dựng văn bản QPPL.
Thứ ba là bảo đảm tính minh bạch trong quy định của văn bản quy phạm pháp luật.
Điều này cũng có nghĩa là các quy định trong văn bản QPPL phải có sự rõ ràng ý đồ điều
chỉnh pháp luật và những tác động mà văn bản pháp luật có thể mang lại cho xã hội. Vì vậy,
đảm bảo tính minh bạch trong các quy định của văn bản QPPL không chỉ là vấn đề câu chữ mà
còn phải được thể hiện ở nội dung quy định của văn bản để đảm bảo cho văn bản khi được ban
hành thì cơ quan ban hành văn bản, tổ chức, cá nhân chịu sự tác động của văn bản hiểu được
những hàm ý, ý nghĩa của quy định để tổ chức thực hiện. Do đó, để đảm bảo nguyên tắc này,
trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là khâu tổ chức lấy ý kiến của
đối tượng chịu tác động trực tiếp của văn bản phải được thực hiện một cách thực chất. Thông
qua hoạt động này, đối tượng áp dụng đưa ra các ý kiến góp ý, phản biện về các nội dung của
văn bản. Ngoài ra, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có quy định mới về lập
đề nghị xây dựng nghị quyết, trong đó có nội dung về đánh giá tác động chính sách. Do đó, thực
hiện nghiêm túc việc đánh giá tác động chính sách trên các lĩnh vực: về kinh tế, về xã hội, về
giới của chính sách (nếu có), thủ tục hành chính (nếu có) và đối với hệ thống pháp luật sẽ đảm
bảo được nguyên tắc minh bạch trong việc ban hành văn bản QPPL.
Thứ tư là bảo đảm tính khả thi trong văn bản quy phạm pháp luật
Tính khả thi thường được đánh giá ở sự phù hợp giữa nội dung văn bản với các điều kiện
kinh tế - xã hội hiện tại. Khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, người soạn thảo cần nắm bắt
tình hình kinh tế xã hội để dự liệu các nội dung cần đưa vào dự thảo, tránh trường hợp ban hành
văn bản không thể áp dụng vào trong cuộc sống. Thực tế trong thời gian qua, nhiều chính sách
của tỉnh ban hành nhưng thời gian áp dụng chỉ được 1 đến 2 năm, có những văn bản mới ban
hành đã phải sửa đổi, hay một số nội dung mang tính chủ trương, “khẩu hiệu”, thậm chí không
có đối tượng áp dụng trong thực tiễn gây khó khăn trong việc áp dụng một cách thống nhất. Điều
này cũng xuất phát từ việc không đánh giá được hết tình hình thực tiễn. Do vậy, yêu cầu đặt ra là
văn bản pháp luật phải vừa phản ánh được những quy định chung về sự phát triển của xã hội, vừa
phản ánh được những quy luật mang tính đặc thù trong từng giai đoạn, lĩnh vực.
Ngoài ra còn phải bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời, dễ tiếp cận, dễ thực hiện của văn
bản quy phạm pháp luật; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong văn bản quy phạm pháp
luật; bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.
Thứ năm là bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, không
làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. lOMoARcPSD|46342985
Thứ sáu là bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến
nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
8. HÃY PHÂN TÍCH VÀ LẤY VÍ DỤ VỀ TIÊU CHÍ PHÁP LÝ ĐỂ ĐẢM BẢO
CHẤT LƯỢNG CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT:

Từ thực tiễn kinh nghiệm lập pháp của Việt Nam cũng như có tham khảo kinh nghiệm
quốc tế1, có thể xác định rằng một VBQPPL được xem là có chất lượng tốt nếu thỏa mãn 8 tiêu chí sau:
Thứ nhất, VBQPPL phải giải quyết mục tiêu vấn đề đặt ra trên cơ sở đảm bảo tính kinh
tế, hiệu quả. Điều này đòi hỏi nội dung VBQPPL phải xuất phát từ nhu cầu thực tế, thực tiễn của
xã hội; đáp ứng kịp thời nhu cầu quản lý nhà nước. Để tạo ra một VBQPPL có chất lượng tốt,
quá trình xây dựng phải được thực hiện một cách bài bản, chắc chắn, kịp thời nhưng không nóng vội.
Ví dụ: Luật Bảo vệ trẻ em (2016) được ban hành nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ em, cụ
thể là quyền được giáo dục và bảo vệ khỏi bạo lực, giúp giải quyết những vấn đề xã hội đang tồn tại.
Thứ hai, các chính sách, quy định thể hiện trong văn bản bảo đảm tính rõ ràng, nhất quán
với chính sách chung của Nhà nước trong lĩnh vực mà dự thảo điều chỉnh;
Ví dụ: Luật Phòng chống tham nhũng (2018) quy định rõ ràng trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức trong việc thực hiện công tác phòng chống tham nhũng, nhất quán với chính
sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, nội dung văn bản phải hợp hiến, hợp pháp, bảo đảm tính thống nhất, tính đồng
bộ của hệ thống pháp luật, bảo đảm tính tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập;
Ví dụ: Luật Hôn nhân và gia đình (2014) quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng, phù hợp với các nguyên tắc và quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp.
Thứ tư, nội dung văn bản phải đảm bảo tính khả thi (các điều kiện bảo đảm thi hành
văn bản như nguồn tài chính, nguồn nhân lực; các biện pháp đảm bảo thực hiện nội dung các
chính sách của văn bản… phải được quy định cụ thể, đầy đủ và hợp lý).
1 OECD Guiding Principles for Regulatory Quality and Performance (2005), O ECD Guiding Principles for
Regulatory Quality and Performance | OECD iLibrary (oecd-ilibrary.org), ngày truy cập 08/11/2022. lOMoARcPSD|46342985
Ví dụ: Luật Nghĩa vụ quân sự quy định cụ thể về nguồn nhân lực và cơ chế tổ chức thực
hiện nghĩa vụ quân sự, đảm bảo tính khả thi trong việc thực hiện nghĩa vụ của công dân. Luật lao động 2019 quy định
Thứ năm, nội dung các quy định phải minh bạch, cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện
(đối tượng chịu sự tác động của văn bản phải biết được họ phải làm gì, được phép làm gì,
không được phép làm gì; cơ quan nhà nước chỉ được phép làm gì, đến mức độ nào…);
Ví dụ: Luật lao động (2019) quy định cụ thể rõ ràng, dễ hiểu về những trường hợp người
lao động hay người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Người lao động
hay người sử dụng lao động biết họ phải làm gì trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động, họ được phép làm gì, không được phép làm gì,…
Thứ sáu, VBQPPL phải có tính dự báo và tính ổn định tương đối. Với tính dự báo, các
quan hệ xã hội luôn biến động và phát triển nên VBQPPL phải có khả năng giải quyết được
các vấn đề trong tương lai. Với tính ổn định,2 VBQPPL không “đứng yên” mà phải “ổn định
trong phát triển”. Các mục tiêu, định hướng, hệ giá trị nền tảng và các nguyên tắc chi phối về
cơ bản cần được ổn định.
Ví dụ: Luật Đầu tư (2020) có quy định về các hình thức đầu tư và ưu đãi, giúp dự báo
sự phát triển của môi trường đầu tư trong tương lai và tạo điều kiện ổn định cho nhà đầu tư.
Thứ bảy, nội dung quy định trong dự thảo phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội; vừa
phải đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước đồng thời phải đảm bảo thúc đẩy phát triển xã hội;
Ví dụ: Luật Lao động (2019) quy định về thời gian làm việc, tiền lương tối thiểu, phù
hợp với điều kiện kinh tế và thực tiễn lao động của Việt Nam.
Thứ tám, chế tài đặt ra phải hợp lý, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi vi
phạm. Mục tiêu giải quyết vấn đề ở mức độ nào thì đặt ra các quy định, chế tài ở mức độ đó,
chế tài phải tương xứng với tính chất, mức độ hành vi vi phạm thì mới bảo đảm tính khả thi.
Ví dụ: Luật Giao thông đường bộ quy định mức phạt cụ thể cho các hành vi vi phạm,
như lái xe khi say rượu, với mức phạt đủ lớn để răn đe nhưng cũng cân nhắc khả năng của người vi phạm.
9. PHÂN LOẠI HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Căn cứ Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định về hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật như sau:
2Có thể xem thêm vấn đề này tại: Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Nguyễn Văn Cương (chủ biên), Tính ổn
định của pháp luật - Nhận thức, thực tiễn và giải pháp đổi mới (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021. lOMoARcPSD|46342985 (1) Hiến pháp.
(2) Bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội.
(3) Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
(4) Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
(5) Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
(6) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; của Ủy ban nhân dân
cấp huyện; của Ủy ban nhân dân cấp xã.
(7) Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; của Hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh); của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (cấp huyện); của Hội đồng
nhân dân xã, phường, thị trấn (cấp xã).
(8) Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; quyết định của
Tổng Kiểm toán nhà nước.
(9) Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
10. PHÂN LOẠI HỆ THỐNG VĂN BẢN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT:
1) Văn bản áp dụng pháp luật bao gồm một số loại sau: - Nghị quyết - Quyết định - Chỉ thị
2) Phân loại hệ thống văn bản áp dụng pháp luật: Nghị quyết: