BÀI TẬP NHÓM TÂM LÝ TRUNG HỌC
Chương 1: Nhập môn tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư
phạm.
Câu 1. Tóm tắt quan điểm của thuyết tiền định, thuyết duy cảm,
thuyết hội tụ hai yếu tố về nguồn gốc sự phát triển tâm lí trẻ em.
Những thuyết đó cần có những đặc điểm gì cần phê phán?
-Thuyết tiền định: sự phát triển tâm lý do các tiềm năng sinh vật gây ra
và con người có tiềm năng đó ngay từ khi ra đời .Mọi đặc điểm tâm lý
chung và có tính chất cá thể đều là tiền định , được quyết định trước
bằng con đường di truyền. Phê phán: coi thường vai trò của giáo dục và
môi trường, quá chú trọng vào yếu tố di truyền.
- Thuyết duy cảm: giải thích sự phát triển của trẻ bằng những tác
động của môi trường xung quanh .Môi trường là nhân tố quyết định. Phê
phán: không có sự tôn trọng tâm lý di truyền riêng của từng trẻ, coi trẻ
như "tờ giấy trắng", xem nhẹ vai trò của giáo dục.
- Thuyết hội tụ hai yếu tố: môi trường và tính di truyền, sự tác động
qua lại giữa chúng quyết định trực tiếp tới quá trình phát triển, trong đó
theo truyền giữ vai trò quyết định và môi trường và điều kiện để biến
những đặc điểm tâm lý đã được định sẵn thành hiện thực. Phê phán: coi
thường vai trò của giáo dục
Câu 2. Nêu quan điểm của tâm lí học duy vật biện chứng về sự
phát triển tâm lý trẻ em. Từ đó rút ra những kết luận gì cho công
tác sư phạm?
Sự phát triển tâm lý của trẻ em đầy biến động và diễn ra cực kỳ
nhanh chóng. Đó là một quá trình không phẳng lặng mà có khủng hoảng
và có đột biến. Chính hoạt động của đứa trẻ dưới sự hướng dẫn của
người lớn làm cho tâm lý của nó được hình thành và phát triển. Tâm lý
học biện chứng cho rằng sự phát triển tâm lý ở trẻ em diễn ra thông qua
các giai đoạn khác nhau, từ giai đoạn trẻ sơ sinh, trẻ mẫu giáo đến trẻ
tiểu học và trẻ vị thành niên. Trong suốt quá trình này, trẻ em trải qua sự
phát triển về nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, xã hội và nhận thức về bản
thân.
Công tác sư phạm cần phải hiểu rõ về quá trình phát triển tâm lý
của trẻ em để có thể áp dụng phương pháp giáo dục phù hợp. Cần tạo
điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện, kích thích sự tò mò, sáng tạo và
khám phá của trẻ. Cần thúc đẩy sự phát triển về nn ngữ, tư duy, kỹ
năng xã hội và tình cảm của trẻ thông qua các hoạt động giáo dục phù
hợp với từng giai đoạn phát triển tâm lý của trẻ. Ngoài ra, cần tạo môi
trường an toàn, ủng hộ và động viên trẻ để họ phát triển tốt nhất có thể
trong môi trường học tập và xã hội.
Câu 3. Tâm lý học duy vật biện chứng quan niệm như thế nào về
quan hệ giữa giáo dục, dạy học và sự phát triển tâm lý?
Tâm lý học duy vật biện chứng nhìn nhận về quan hệ giữa giáo dục,
dạy học và sự phát triển tâm lý dựa trên nền tảng của triết lý duy vật biện
chứng, mà một số triết gia nổi tiếng như Hegel và Marx đã đóng góp vào
việc phát triển.
1. Đối với Giáo dục và Dạy học:
- Giáo dục được coi là một phần quan trọng của sự phát triển
tâm lý vàxã hội. Duy vật biện chứng nhấn mạnh sự tương tác giữa
học sinh và môi trường học tập.
- Dạy học không chỉ là việc truyền đạt kiến thức mà còn là quá
trình tương tác giữa giáo viên và học sinh. Sự tương tác này có thể
tạo nên sự phát triển tư duy và tâm lý.
2.Về Sự Phát Triển Tâm Lý:
- Tâm lý học duy vật biện chứng đề cập đến quá trình phát
triển như một quá trình đối lập và tiến triển. Sự tiến triển này
không chỉ ở mức kiến thức mà còn ở mức nhận thức và ý thức.
- Mối quan hệ giữa giáo dục và sự phát triển tâm lý được xem
xét thông qua quá trình giáo dục tạo ra sự hiểu biết sâu sắc và nhận
thức mới về thế giới xung quanh.
3.Tương Tác và Mối Quan Hệ Xã Hội:
- Duy vật biện chứng coi trọng vai trò của tương tác xã hội
trong quá trình hình thành bản ngã cá nhân. Giáo dục và dạy học là
nơi mà mối quan hệ xã hội được xây dựng và tương tác này ảnh
hưởng đến sự phát triển tâm lý.
4.Quan Niệm Về Xã Hội và Cộng Đồng:
- Tâm lý học duy vật biện chứng thường nhấn mạnh vai trò của
cộng đồng và xã hội trong việc hình thành bản ngã và ý thức cá
nhân. Giáo dục được xem là một công cụ để tạo ra những cá nhân
có ý thức về môi trường xã hội của họ.
→Tóm lại, tâm lý học duy vật biện chứng nhấn mạnh sự tương tác
phức tạp giữa giáo dục, dạy học và sự phát triển tâm lý, đồng thời coi
trọng vai trò của môi trường xã hội và cộng đồng trong quá trình này.
Câu 4. Tại sao nói giaia đoạn phát triển tâm lý chỉ có ý nghĩa
tương đối?
Quan điểm của tâm lý học Mác xit, đại diện là L.X.Vưgốcki coi lứa
tuổi là một thời kì phát triển nhất định đóng kín một cách tương đối.
Trong mỗi thời kì có quy luật phát triển chung và được thể hiện một
cách độc đáo về chất. Khi chuyển từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác bao
giờ cũng xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới chưa từng có trong các thời
kỳ trước. Những cấu tạo mới này cải tổ lại và làm biến đổi chính tiến
trình phát triển tâm lý của trẻ.
- Lứa tuổi không phải là phạm trù tuyệt đối, bất biến mà giai
đoạn lứa tuổi chỉ có ý nghĩa tương đối. Giới hạn tuổi chỉ có ý
nghĩa như là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của trẻ chứ
nó không quyết định trực tiếp sự phát triển nhân cách.
- Tuổi có thể phù hợp với trình độ phát triển tâm lý của trẻ,
hoặc có thể đi nhanh hơn hay chậm hơn... là do ta biết tận dụng
thời gian và điều kiện giáo dục để tổ chức cuộc sống của trẻ. Các
nhà tâm lý học Mác xit đã căn cứ vào sự thay đổi căn bản trong
điều kiện sống và hoạt động của trẻ, vào sự phát triển về thể chất
trẻ và sự thay đổi trong cấu trúc chức năng tâm lý của trẻ.
Chương 2: Tâm lý lứa tuổi học sinh trung học cơ sở
(thiếu niên).
Câu 1. Tại sao một số nhà tâm lý học cho rằng lứa tuổi học sinh
trung học cơ sở là lứa tuổi khó giáo dục. Quan niệm của anh(chị) về
vấn đề này.
Một số nhà tâm lí học cho rằng lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là lứa
tuổi khó giáo dục vì những lý do sau:
Sự phát triển tâm sinh lí phức tạp và mâu thuẫn. Ở lứa tuổi này, các
em đang bước vào giai đoạn phát triển chuyển tiếp từ trẻ em sang thanh
niên. Sự phát triển này diễn ra một cách nhanh chóng và mạnh mẽ, dẫn
đến những thay đổi về thể chất, tinh thần và tâm lí. Những thay đổi này
thường mang tính chất mâu thuẫn, khiến các em cảm thấy hoang mang,
lo lắng, bất an. Ví dụ, các em đang có nhu cầu độc lập, tự chủ nhưng vẫn
cần sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ. Các em đang có nhu cầu thể hiện
bản thân nhưng lại dễ bị tổn thương, dễ bị tác động bởi những yếu tố bên
ngoài.
Sự phát triển của nhu cầu, hứng thú, quan tâm. Ở lứa tuổi này, các em
bắt đầu phát triển những nhu cầu, hứng thú, quan tâm mới, mang tính
chất của lứa tuổi thiếu niên. Những nhu cầu này thường mang tính độc
lập, cá nhân, dẫn đến sự thay đổi trong quan hệ giữa các em với cha mẹ,
thầy cô, bạn bè. Ví dụ, các em bắt đầu quan tâm đến những vấn đề về
giới tính, tình yêu, bạn bè,... Các em bắt đầu có nhu cầu tự khẳng định
bản thân, muốn thể hiện mình trước đám đông.
Sự tác động của môi trường xã hội. Ở lứa tuổi này, các em bắt đầu có
nhiều mối quan hệ xã hội mới, như quan hệ với bạn bè, thầy cô, người
lớn trong gia đình,... Những mối quan hệ này có thể tác động tích cực
hoặc tiêu cực đến sự phát triển của các em. Ví dụ, nếu các em có những
mối quan hệ bạn bè tốt, các em sẽ được hỗ trợ, giúp đỡ trong học tập,
sinh hoạt. Ngược lại, nếu các em có những mối quan hệ bạn bè xấu, các
em có thể bị lôi kéo vào những hoạt động tiêu cực.
→Từ những lý do trên, có thể thấy lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là
lứa tuổi có nhiều khó khăn trong giáo dục. Tuy nhiên, đây cũng là lứa
tuổi có nhiều tiềm năng phát triển. Nếu được giáo dục đúng đắn, các em
sẽ có thể phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và đạo đức.
Về quan niệm của tôi, lứa tuổi học sinh trung học cơ sở không phải là
lứa tuổi khó giáo dục. Chỉ cần có sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục đúng
đắn của cha mẹ, thầy cô và toàn xã hội, các em sẽ có thể vượt qua những
khó khăn và phát triển thành những người có ích cho xã hội.
Để giáo dục tốt lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Cụ thể:
1. Gia đình cần quan tâm, chia sẻ, lắng nghe và động viên các em.
Cha mẹ cần tạo cho các em một môi trường sống an toàn, lành
mạnh, giúp các em phát triển toàn diện.
2. Nhà trường cần đổi mới phương pháp giáo dục, phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lí của lứa tuổi. Nhà trường cần tạo cho các em cơ
hội được tham gia các hoạt động học tập, vui chơi, giải trí lành
mạnh.
3. Xã hội cần tạo ra môi trường sống lành mạnh, giúp các em phát
triển toàn diện. Xã hội cần lên án, phê phán những hành vi tiêu
cực, tác động xấu đến sự phát triển của các em.
→Với sự quan tâm, giáo dục đúng đắn của gia đình, nhà trường và xã
hội, lứa tuổi học sinh trung học cơ sở sẽ có thể phát triển toàn diện, trở
thành những người có ích cho xã hội.
Câu 2. Dựa vào những đặc điểm thể chất và tâm lý của lứa tuổi
học sinh trung học cơ sở, anh chị hãy chứng minh lứa tuổi học sinh
trung học cơ sở là thời lý chuyển từ trẻ con sang người lớn.
Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở bao gồm những em có độ tuổi từ
11,12 đến 14,15 tuổi. Lứa tuổi này còn được gọi là lứa tuổi thiếu niên,
nó có vị trí đặc biệt trong thời kì phát triển của trẻ em. Đây được coi là
thời kì chuyển từ trẻ con sáng người lớn của trẻ do:
- Sự phát triển về những đặc điểm thể chất của trẻ em thời kì này: +
Sự hoạt động tổng hợp của các tuyến nội tiết quan trọng nhất (tuyến yên,
tuyến tuỵ, tuyến giáp…) tạo ra nhiều thay đổi trong cơ thể trẻ, trong đó
có sự nhảy vọt về chiều cao và sự phát dục
+ Chiều cao của các em tăng lên một cách đột ngột, hằng năm có thể
tăng từ 5-6 cm, trọng lượng cơ thể tăng từ 2,4-6 kg, tăng vòng ngực là
những yếu tố đặc biệt trong sự phát triển thể chất ở trẻ
+ Sự tăng khối lượng các bắp thịt và lực của cơ bắp diễn ra mạnh nhất
vào cuối thời kì dậy thì khiến các em khỏe ra rõ rệt. Tuy nhiên, sự phát
triển cơ của các em trai khác biệt nhất định báo hiệu sự hình thành ở các
em những nét khác biệt về cơ thể: con trai cao lên, vai rộng ra, con gái
tròn trặn dần, xương chậu rộng ra…
+ Sự phát triển cơ thể diễn ra không cân đối, làm cho các em
lúng túng, vụng về, “lóng ngóng
+ Xương tay và chân chóng dài nhưng cơ thể phát triển chậm
hơn và lồng ngực phát triển chậm, nên đầu tuổi thiếu niên thường
thân hình dài, hơi gầy và ít nhiều không cân đối.
+ Sự phát triển của hệ tim - mạch cũng không cân đối: thể tích
tim tăng nhanh, hoạt động mạnh hơn nhưng đường kính phát triển chậm
hơn. Điều này gây nên rối loạn tạm thời của hệ tuần hoàn máu - Sự
phát triển về những đặc điểm tâm lý của trẻ em thời kì này:
+ Ở tuổi thiếu niên, quá trình tâm lý chiếm ưu thế rõ rệt, dẫn đến
thiếu niên không làm chủ được cảm xúc của mình, không kiềm chế được
xúc động mạnh. Các em dễ bị kích động, dễ bực tức, cáu gắt, mất bình
tĩnh…
+ Ở tuổi thiếu niên, phản xạ có điều kiện đối với những tính
hiệu trực tiếp được hình thành nhanh hơn những phản xạ có điều kiện
đối với những tính hiệu từ ngữ. Do vậy, ngôn ngữ của trẻ cũng thay đổi.
Các em nói chậm hơn, hay “nhát gừng”, “cộc lốc”. Nhưng hiện tượng
này chỉ tạm thời, khoảng 15 tuổi trở lên hiện tượng này cân đối hơn.
→Dựa vào những đặc điểm về thể chất và tâm lý trên có thể nói đây là
thời kì chuyển từ trẻ con sang người lớn của học sinh.

Preview text:

BÀI TẬP NHÓM TÂM LÝ TRUNG HỌC
Chương 1: Nhập môn tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm.
Câu 1. Tóm tắt quan điểm của thuyết tiền định, thuyết duy cảm,
thuyết hội tụ hai yếu tố về nguồn gốc sự phát triển tâm lí trẻ em.
Những thuyết đó cần có những đặc điểm gì cần phê phán?
-Thuyết tiền định: sự phát triển tâm lý do các tiềm năng sinh vật gây ra
và con người có tiềm năng đó ngay từ khi ra đời .Mọi đặc điểm tâm lý
chung và có tính chất cá thể đều là tiền định , được quyết định trước
bằng con đường di truyền. Phê phán: coi thường vai trò của giáo dục và
môi trường, quá chú trọng vào yếu tố di truyền. -
Thuyết duy cảm: giải thích sự phát triển của trẻ bằng những tác
động của môi trường xung quanh .Môi trường là nhân tố quyết định. Phê
phán: không có sự tôn trọng tâm lý di truyền riêng của từng trẻ, coi trẻ
như "tờ giấy trắng", xem nhẹ vai trò của giáo dục. -
Thuyết hội tụ hai yếu tố: môi trường và tính di truyền, sự tác động
qua lại giữa chúng quyết định trực tiếp tới quá trình phát triển, trong đó
theo truyền giữ vai trò quyết định và môi trường và điều kiện để biến
những đặc điểm tâm lý đã được định sẵn thành hiện thực. Phê phán: coi
thường vai trò của giáo dục
Câu 2. Nêu quan điểm của tâm lí học duy vật biện chứng về sự
phát triển tâm lý trẻ em. Từ đó rút ra những kết luận gì cho công tác sư phạm?
Sự phát triển tâm lý của trẻ em đầy biến động và diễn ra cực kỳ
nhanh chóng. Đó là một quá trình không phẳng lặng mà có khủng hoảng
và có đột biến. Chính hoạt động của đứa trẻ dưới sự hướng dẫn của
người lớn làm cho tâm lý của nó được hình thành và phát triển. Tâm lý
học biện chứng cho rằng sự phát triển tâm lý ở trẻ em diễn ra thông qua
các giai đoạn khác nhau, từ giai đoạn trẻ sơ sinh, trẻ mẫu giáo đến trẻ
tiểu học và trẻ vị thành niên. Trong suốt quá trình này, trẻ em trải qua sự
phát triển về nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, xã hội và nhận thức về bản thân. •
Công tác sư phạm cần phải hiểu rõ về quá trình phát triển tâm lý
của trẻ em để có thể áp dụng phương pháp giáo dục phù hợp. Cần tạo
điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện, kích thích sự tò mò, sáng tạo và
khám phá của trẻ. Cần thúc đẩy sự phát triển về ngôn ngữ, tư duy, kỹ
năng xã hội và tình cảm của trẻ thông qua các hoạt động giáo dục phù
hợp với từng giai đoạn phát triển tâm lý của trẻ. Ngoài ra, cần tạo môi
trường an toàn, ủng hộ và động viên trẻ để họ phát triển tốt nhất có thể
trong môi trường học tập và xã hội.
Câu 3. Tâm lý học duy vật biện chứng quan niệm như thế nào về
quan hệ giữa giáo dục, dạy học và sự phát triển tâm lý?
Tâm lý học duy vật biện chứng nhìn nhận về quan hệ giữa giáo dục,
dạy học và sự phát triển tâm lý dựa trên nền tảng của triết lý duy vật biện
chứng, mà một số triết gia nổi tiếng như Hegel và Marx đã đóng góp vào việc phát triển.
1. Đối với Giáo dục và Dạy học: -
Giáo dục được coi là một phần quan trọng của sự phát triển
tâm lý vàxã hội. Duy vật biện chứng nhấn mạnh sự tương tác giữa
học sinh và môi trường học tập. -
Dạy học không chỉ là việc truyền đạt kiến thức mà còn là quá
trình tương tác giữa giáo viên và học sinh. Sự tương tác này có thể
tạo nên sự phát triển tư duy và tâm lý.
2.Về Sự Phát Triển Tâm Lý: -
Tâm lý học duy vật biện chứng đề cập đến quá trình phát
triển như một quá trình đối lập và tiến triển. Sự tiến triển này
không chỉ ở mức kiến thức mà còn ở mức nhận thức và ý thức. -
Mối quan hệ giữa giáo dục và sự phát triển tâm lý được xem
xét thông qua quá trình giáo dục tạo ra sự hiểu biết sâu sắc và nhận
thức mới về thế giới xung quanh.
3.Tương Tác và Mối Quan Hệ Xã Hội: -
Duy vật biện chứng coi trọng vai trò của tương tác xã hội
trong quá trình hình thành bản ngã cá nhân. Giáo dục và dạy học là
nơi mà mối quan hệ xã hội được xây dựng và tương tác này ảnh
hưởng đến sự phát triển tâm lý.
4.Quan Niệm Về Xã Hội và Cộng Đồng: -
Tâm lý học duy vật biện chứng thường nhấn mạnh vai trò của
cộng đồng và xã hội trong việc hình thành bản ngã và ý thức cá
nhân. Giáo dục được xem là một công cụ để tạo ra những cá nhân
có ý thức về môi trường xã hội của họ.
→Tóm lại, tâm lý học duy vật biện chứng nhấn mạnh sự tương tác
phức tạp giữa giáo dục, dạy học và sự phát triển tâm lý, đồng thời coi
trọng vai trò của môi trường xã hội và cộng đồng trong quá trình này.
Câu 4. Tại sao nói giaia đoạn phát triển tâm lý chỉ có ý nghĩa tương đối?
Quan điểm của tâm lý học Mác xit, đại diện là L.X.Vưgốcki coi lứa
tuổi là một thời kì phát triển nhất định đóng kín một cách tương đối.
Trong mỗi thời kì có quy luật phát triển chung và được thể hiện một
cách độc đáo về chất. Khi chuyển từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác bao
giờ cũng xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới chưa từng có trong các thời
kỳ trước. Những cấu tạo mới này cải tổ lại và làm biến đổi chính tiến
trình phát triển tâm lý của trẻ. -
Lứa tuổi không phải là phạm trù tuyệt đối, bất biến mà giai
đoạn lứa tuổi chỉ có ý nghĩa tương đối. Giới hạn tuổi chỉ có ý
nghĩa như là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của trẻ chứ
nó không quyết định trực tiếp sự phát triển nhân cách. -
Tuổi có thể phù hợp với trình độ phát triển tâm lý của trẻ,
hoặc có thể đi nhanh hơn hay chậm hơn... là do ta biết tận dụng
thời gian và điều kiện giáo dục để tổ chức cuộc sống của trẻ. Các
nhà tâm lý học Mác xit đã căn cứ vào sự thay đổi căn bản trong
điều kiện sống và hoạt động của trẻ, vào sự phát triển về thể chất ở
trẻ và sự thay đổi trong cấu trúc chức năng tâm lý của trẻ.
Chương 2: Tâm lý lứa tuổi học sinh trung học cơ sở
(thiếu niên).
Câu 1. Tại sao một số nhà tâm lý học cho rằng lứa tuổi học sinh
trung học cơ sở là lứa tuổi khó giáo dục. Quan niệm của anh(chị) về vấn đề này.
Một số nhà tâm lí học cho rằng lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là lứa
tuổi khó giáo dục vì những lý do sau:
Sự phát triển tâm sinh lí phức tạp và mâu thuẫn. Ở lứa tuổi này, các
em đang bước vào giai đoạn phát triển chuyển tiếp từ trẻ em sang thanh
niên. Sự phát triển này diễn ra một cách nhanh chóng và mạnh mẽ, dẫn
đến những thay đổi về thể chất, tinh thần và tâm lí. Những thay đổi này
thường mang tính chất mâu thuẫn, khiến các em cảm thấy hoang mang,
lo lắng, bất an. Ví dụ, các em đang có nhu cầu độc lập, tự chủ nhưng vẫn
cần sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ. Các em đang có nhu cầu thể hiện
bản thân nhưng lại dễ bị tổn thương, dễ bị tác động bởi những yếu tố bên ngoài.
Sự phát triển của nhu cầu, hứng thú, quan tâm. Ở lứa tuổi này, các em
bắt đầu phát triển những nhu cầu, hứng thú, quan tâm mới, mang tính
chất của lứa tuổi thiếu niên. Những nhu cầu này thường mang tính độc
lập, cá nhân, dẫn đến sự thay đổi trong quan hệ giữa các em với cha mẹ,
thầy cô, bạn bè. Ví dụ, các em bắt đầu quan tâm đến những vấn đề về
giới tính, tình yêu, bạn bè,... Các em bắt đầu có nhu cầu tự khẳng định
bản thân, muốn thể hiện mình trước đám đông.
Sự tác động của môi trường xã hội. Ở lứa tuổi này, các em bắt đầu có
nhiều mối quan hệ xã hội mới, như quan hệ với bạn bè, thầy cô, người
lớn trong gia đình,... Những mối quan hệ này có thể tác động tích cực
hoặc tiêu cực đến sự phát triển của các em. Ví dụ, nếu các em có những
mối quan hệ bạn bè tốt, các em sẽ được hỗ trợ, giúp đỡ trong học tập,
sinh hoạt. Ngược lại, nếu các em có những mối quan hệ bạn bè xấu, các
em có thể bị lôi kéo vào những hoạt động tiêu cực.
→Từ những lý do trên, có thể thấy lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là
lứa tuổi có nhiều khó khăn trong giáo dục. Tuy nhiên, đây cũng là lứa
tuổi có nhiều tiềm năng phát triển. Nếu được giáo dục đúng đắn, các em
sẽ có thể phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và đạo đức.
Về quan niệm của tôi, lứa tuổi học sinh trung học cơ sở không phải là
lứa tuổi khó giáo dục. Chỉ cần có sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục đúng
đắn của cha mẹ, thầy cô và toàn xã hội, các em sẽ có thể vượt qua những
khó khăn và phát triển thành những người có ích cho xã hội.
Để giáo dục tốt lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Cụ thể:
1. Gia đình cần quan tâm, chia sẻ, lắng nghe và động viên các em.
Cha mẹ cần tạo cho các em một môi trường sống an toàn, lành
mạnh, giúp các em phát triển toàn diện.
2. Nhà trường cần đổi mới phương pháp giáo dục, phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lí của lứa tuổi. Nhà trường cần tạo cho các em cơ
hội được tham gia các hoạt động học tập, vui chơi, giải trí lành mạnh.
3. Xã hội cần tạo ra môi trường sống lành mạnh, giúp các em phát
triển toàn diện. Xã hội cần lên án, phê phán những hành vi tiêu
cực, tác động xấu đến sự phát triển của các em.
→Với sự quan tâm, giáo dục đúng đắn của gia đình, nhà trường và xã
hội, lứa tuổi học sinh trung học cơ sở sẽ có thể phát triển toàn diện, trở
thành những người có ích cho xã hội.
Câu 2. Dựa vào những đặc điểm thể chất và tâm lý của lứa tuổi
học sinh trung học cơ sở, anh chị hãy chứng minh lứa tuổi học sinh
trung học cơ sở là thời lý chuyển từ trẻ con sang người lớn.

Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở bao gồm những em có độ tuổi từ
11,12 đến 14,15 tuổi. Lứa tuổi này còn được gọi là lứa tuổi thiếu niên,
nó có vị trí đặc biệt trong thời kì phát triển của trẻ em. Đây được coi là
thời kì chuyển từ trẻ con sáng người lớn của trẻ do:
- Sự phát triển về những đặc điểm thể chất của trẻ em thời kì này: +
Sự hoạt động tổng hợp của các tuyến nội tiết quan trọng nhất (tuyến yên,
tuyến tuỵ, tuyến giáp…) tạo ra nhiều thay đổi trong cơ thể trẻ, trong đó
có sự nhảy vọt về chiều cao và sự phát dục
+ Chiều cao của các em tăng lên một cách đột ngột, hằng năm có thể
tăng từ 5-6 cm, trọng lượng cơ thể tăng từ 2,4-6 kg, tăng vòng ngực là
những yếu tố đặc biệt trong sự phát triển thể chất ở trẻ
+ Sự tăng khối lượng các bắp thịt và lực của cơ bắp diễn ra mạnh nhất
vào cuối thời kì dậy thì khiến các em khỏe ra rõ rệt. Tuy nhiên, sự phát
triển cơ của các em trai khác biệt nhất định báo hiệu sự hình thành ở các
em những nét khác biệt về cơ thể: con trai cao lên, vai rộng ra, con gái
tròn trặn dần, xương chậu rộng ra…
+ Sự phát triển cơ thể diễn ra không cân đối, làm cho các em
lúng túng, vụng về, “lóng ngóng”
+ Xương tay và chân chóng dài nhưng cơ thể phát triển chậm
hơn và lồng ngực phát triển chậm, nên đầu tuổi thiếu niên thường có
thân hình dài, hơi gầy và ít nhiều không cân đối.
+ Sự phát triển của hệ tim - mạch cũng không cân đối: thể tích
tim tăng nhanh, hoạt động mạnh hơn nhưng đường kính phát triển chậm
hơn. Điều này gây nên rối loạn tạm thời của hệ tuần hoàn máu - Sự
phát triển về những đặc điểm tâm lý của trẻ em thời kì này:
+ Ở tuổi thiếu niên, quá trình tâm lý chiếm ưu thế rõ rệt, dẫn đến
thiếu niên không làm chủ được cảm xúc của mình, không kiềm chế được
xúc động mạnh. Các em dễ bị kích động, dễ bực tức, cáu gắt, mất bình tĩnh…
+ Ở tuổi thiếu niên, phản xạ có điều kiện đối với những tính
hiệu trực tiếp được hình thành nhanh hơn những phản xạ có điều kiện
đối với những tính hiệu từ ngữ. Do vậy, ngôn ngữ của trẻ cũng thay đổi.
Các em nói chậm hơn, hay “nhát gừng”, “cộc lốc”. Nhưng hiện tượng
này chỉ tạm thời, khoảng 15 tuổi trở lên hiện tượng này cân đối hơn.
→Dựa vào những đặc điểm về thể chất và tâm lý trên có thể nói đây là
thời kì chuyển từ trẻ con sang người lớn của học sinh.