













Preview text:
ĐỀ CƯƠNG TÂM LÝ HỌC TRUNG HỌC
1/ Các điều kiện hình thành và phát triển tâm lý học sinh THCS (dậy thì, khủng hoảng
tâm lý - biểu hiện và biện pháp khắc phục)
Những điều kiện hình thành và phát triển tâm lý HS THCS
- Sự biến đổi về mặt giải phẩu sinh lý ở lứa tuổi học sinh THCS
+ Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều về mặt cơ thể.
+ Thể trạng thay đổi chiều cao cân nặng hình thể tăng nhanh
+ Sự phát triển của hệ xương, mà chủ yếu là sự phát triển của các xương tay, xương chân
rất nhanh, nhưng xương ngón tay, ngón chân lại phát triển chậm. => ở lứa tuổi này các em
không mập béo, mà cao gầy thiếu cân đối, các em có vẻ lóng ngóng vụng về, không khéo
léo khi làm việc, thiếu thận trọng hay làm đổ vở
+ Sự phát của hệ thống tim mạch không cân đối=> do đó có một số rối loạn tạm thời của
hệ tuần hoàn, tăng huyết áp, tim đập nhanh, hay gây nhức đầu, chóng mặt, mỏi khi làm việc.
+ Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến giáp trạng), thường dẫn đến sự
rối loạn của hoạt động thần kinh. => Do đó, các em dễ xúc động, bực tức, nổi khùng.
+ Hệ thần kinh của thiếu niên còn chưa có khả năng chịu đựng những kích thích mạnh, đơn
điệu, kéo dài. => Vì vậy những chấn động thần kinh mạch hoặc sự chờ đợi lâu dài về những
biến cố gây xúc động. Đều tác động mạnh mẽ đến lứa tuổi hs THCS có thể làm một số em
bị ức chế, uể oải, thờ ơ, lơ đản, tản mạn, số khác làm những hành vi xấu không đúng với bản thân của các em. + Dậy thì - Phát dục -
Sự thay đổi của điều kiện sống
+ Đời sống gia đình của học sinh THCS: địa vị của các em trong gia đình thay đổi được
tham gia vào một số công việc quan trọng của gia đình, các em ý thức được nhiệm vụ và
thực hiện tích cực. => Được gia đình tôn trọng.
+ Đời sống trong nhà trường của học sinh THCS: •
Bắt đầu thay đổi về nội dung dạy học được tiếp xúc với nhiều môn học khác nhau •
Sự phong phú về tri thức từng môn học làm cho khối tri thức các em được tăng lên.
Tầm hiểu biết được mở rộng. •
Sự thay đổi về phương pháp và hình thức học tập: các em được học nhiều môn và
nhiều giáo viên giảng dạy khác nhau các em sẽ hình thành nét lập luận độc đáo cùng với
những tính cách quý báu.
+ Đời sống xã hội của học sinh THCS: Mối quan hệ xã hội phong phú, phức tạp - Khủng hoảng tâm lý
- Ví dụ thực tiễn:
Tại Trường THCS Nguyễn Du (TP.HCM), học sinh lớp 8 xuất hiện tình trạng cáu
gắt, thu mình, giảm hứng thú học tập. Nguyên nhân được xác định là do thay đổi
nội tiết tố trong giai đoạn dậy thì kèm áp lực học tập. Nhà trường phối hợp cùng
phụ huynh và chuyên gia tâm lý tổ chức chuyên đề “Hiểu mình – hiểu con” nhằm
hỗ trợ học sinh vượt qua khủng hoảng. -
Kết luận sư phạm:
Giáo viên cần nhận diện được đặc điểm tâm lý lứa tuổi vị thành niên, chủ động
phát hiện sớm biểu hiện bất thường và phối hợp cùng nhà trường – gia đình để hỗ
trợ học sinh phát triển ổn định. -
Liên hệ bản thân:
Là sinh viên ngành sư phạm, em nhận thức được vai trò quan trọng của việc am
hiểu tâm lý lứa tuổi THCS để có thể giáo dục học sinh bằng sự cảm thông, thấu
hiểu và kịp thời hỗ trợ các em trong giai đoạn chuyển tiếp đầy nhạy cảm này.
2/ Đặc điểm phát triển tâm lý của học sinh THPT (trí tuệ, tình cảm, thế giới quan) Trí tuệ -
Tri giác: có mục đích và đã đạt tới mức độ rất cao. Quan sát trở nên có mục đích,
Quá trình quan sát đã chịu sự điều khiển của hệ thống tín hiệu thứ 2 nhiều hơn và không
tách khỏi tư duy ngôn ngữ. -
Trí nhớ: có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, đồng thời vai trò
của ghi nhớ lôgic trừu tượng, ý nghĩa ngày một tăng lên rõ rệt. Các em biết sử dụng tốt
phương pháp ghi nhớ: tóm tắt ý chính, so sánh đối chiêu… ghi nhớ - giữ gìn có mối quan hệ với thao tác tư duy. -
Tư duy lôgic - ngôn ngữ: Do sự phong phú phức tạp của điều kiện sống, học tập mà
các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo. Tư duy
các em chặt chẽ hơn có căn cứ và nhất quán hơn. Đồng thời tính phê phán của tư duy cũng
được phát triển nắm được mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên và trong xã hội. Đó là cơ
sở để hình thành thế giới quan. -
Tưởng tượng: hình ảnh mới phong phú, giàu tính hiện thực, gắn với nghề nghiệp
một số ít còn mơ mộng -
Ngôn ngữ: Phát triển - tương tác với tư duy và tưởng tượng.
Ý thức - tự ý thức - Phát triển mạnh mẽ. -
Chú ý đến ngoại hình bên ngoài -
Thanh niên có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lí của mình theo
quan điểm về hoài bão và mục đích sống của mình. -
Sự tự ý thức của thanh niên xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt động - địa
vị mới mẻ trong tập thể, những quan hệ mới với thế giới xung quanh buộc phải ý thức được
đặc điểm nhân cách của mình. -
Lo lắng cho tương lai - nghề nghiệp -
Thanh niên không chỉ đánh giá những cử chỉ, hành vi riêng lẻ, từng thuộc tính riêng
biệt, mà đánh giá nhân cách mình nói chung trong toàn bộ những thuộc tính nhân cách. -
Thanh niên không chỉ có nhu cầu đánh giá, mà còn có khả năng đánh giá sâu sắc và
tốt hơn thiếu niên về những phẩm chất, mặt mạnh mặt yếu của những người cùng sống và của chính mình. - Còn sai lầm, chủ quan. Thế giới quan -
Khi nhân cách đã được phát triển tương đối cao, thì các em mới xuất hiện những
yêu cầu đưa ra những tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi đó vào một hệ thống hoàn chỉnh. Một
khi đã có được hệ thống quan điểm riêng thì thanh niên không chỉ hiểu về thế giới khách
quan, mà còn đánh giá được nó, xác định được thái độ của mình đối với thế giới nữa. -
Các em cố gắng xây dựng quan điểm riêng trong lĩnh vực khoa học, đối với các vấn
đề xã hội, tư tưởng, chính trị, đạo đức. -
Việc hình thành thế giới quan không chỉ giới hạn ở tính tích cực nhận thức, mà còn
thể hiện ở phạm vi nội dung nữa. Học sinh mới lớn quan tâm nhiều nhất đến các vấn đề
liên quan đến con người, vai trò của con người trong lịch sử, quan hệ giữa con người và xã
hội, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, nghĩa vụ và tình cảm. Vấn đề ý nghĩa cuộc sống chiếm vị
trí trung tâm trong suy nghĩ của thanh niên mới lớn. -
Tuy vậy, một bộ phận thanh niên chưa được giáo dục đẩy đủ về thế giới quan. Thế
giới quan của họ còn chịu ảnh hưởng của tàn dư tiêu cực của quá khứ (say mê những sản
phẩm “nghệ thuật” không lành mạnh, đánh giá quá cao cuộc sống hưởng thụ...). Hoặc một
bộ phận khác lại chưa chú ý đến vấn đề xây dựng thế giới quan, sống thụ động... Đời sống tình cảm -
Đời sống tình cảm của thanh niên mới lớn rất phong phú và đa dạng. -
Tình bạn cấp cao được hình thành và phát triển. -
Nhu cầu về tình bạn tâm tình cá nhân tăng lên rõ rệt. Nhưng ở tuổi này các em có
yêu cầu cao hơn đối với tình bạn (yêu cầu sự chân thật, lòng vị tha, tin tưởng, tôn trọng
nhau và sẳn sàng giúp đỡ lẫn nhau, hiểu biết lẫn nhau). Trong quan hệ với bạn các em cũng
nhạy cảm hơn: không chỉ có khả năng xúc cảm chân tình, mà còn phải có khả năng đáp
ứng xúc cảm của người khác (đồng cảm). -
Tình bạn thiếu niên mới lớn rất bền vững. Tình bạn ở tuổi này có thể vượt qua mọi
thử thách và có thể kéo dài suốt cuộc đời. -
Ở một số em đã xuất hiện sự lôi cuống đầu tiên khá mạnh mẽ, xuất hiện nhu cầu
chân chính về tình yêu và tình cảm sâu sắc. Đó là một trạng thái mới mẻ, nhưng rất tự nhiên
trong đời sống tình cảm của thanh niên mới lớn => Tình yêu. -
Đặc điểm phát triển tâm lý học sinh THPT (Trí tuệ, tình cảm, thế giới quan, hướng nghiệp)
Ví dụ thực tiễn:
Ở Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn (Đà Nẵng), học sinh lớp 11, 12 có tư duy phản biện
tốt, thường đặt câu hỏi ngược lại với giáo viên trong các tiết GDCD và Ngữ văn. Đồng
thời, nhiều em có nhu cầu tìm hiểu ngành nghề thông qua việc tự học, đăng ký các khoá
học online về công nghệ, truyền thông… Nhà trường tạo điều kiện thông qua câu lạc bộ
hướng nghiệp và chương trình “1 tuần trải nghiệm 1 ngành”.
Kết luận sư phạm:
Giáo viên cần đóng vai trò người định hướng và khơi gợi năng lực tự học, tư duy độc lập,
đồng thời hỗ trợ học sinh hình thành thế giới quan đúng đắn, từ đó lựa chọn nghề nghiệp phù hợp.
Liên hệ bản thân:
Bản thân là một sinh viên sư phạm Tiếng Anh em sẽ không chỉ dừng lại ở việc dạy kiến
thức mà còn quan tâm đến đời sống tinh thần, ước mơ, và khả năng của học sinh để hỗ
trợ các em phát triển toàn diện, định vị bản thân trong tương lai. -
3/ Cấu trúc hành vi đạo đức -
Tri thức đạo đức: là sự hiểu biết của con người về những chuẩn mực đạo đức quy
định hành vi của họ trong mối quan hệ với người khác và với xã hội. Tri thức đạo đức có
được dựa trên cơ sở của quá trình tư duy sâu sắc và độc lập của cá nhân khi họ tiếp xúc với
các chuẩn mực đạo đức. Tri thức đạo đức là yếu tố quan trọng chỉ đạo hành vi đạo đức. -
Niềm tin đạo đức: là một trong những yếu tố quyết định hành vi đạo đức của con
người, là cơ sở làm bộc lộ những phẩm chất ý chí của đạo đức như lòng dũng cảm cứu
người bị nạn, tính kiên trì giáo dục học sinh chưa ngoan… -
Động cơ đạo đức: là động cơ bên trong, đã được con người ý thức, nó trở thành
động lực chính làm cơ sở cho những hành động của con người trong mối quan hệ giữa
người này với người khác và với xã hội, biến hành động của con người thành hành vi đạo
đức. Động cơ đạo đức vừa bao hàm ý nghĩa về mặt đạo đức, vừa bao hàm ý nghĩa nguyên
nhân của hành động sẽ trở thành động lực tâm lý có tác dụng phát động mọi sức mạnh tinh
thần vật chất của con người. Vì vậy muốn có hành vi đạo đức, điều kiện tất yếu phải có
động cơ đạo đức. Động cơ đạo đức quy định chiều hướng tâm lý của hành động, quy định thái độ của cá nhân -
Tình cảm đạo đức: là những thái độ rung cảm của cá nhân đối với hành vi của người
khác và với hành vi của chính mình trong quá trình quan hệ với người khác và với xã hội.
Tình cảm đạo đức tạo ra “lực hút” của nhân cách khơi dậy những nhu cầu đạo đức thúc
đẩy con người hoạt động một cách có đạo đức trong mối quan hệ giữa nó với người khác,
tập thể. Tình cảm đạo đức có 2 loại là tình cảm đạo đức tích cực và tình cảm đạo đức tiêu cực. -
Thiện chí, nghị lực: Một hành vi đạo đức chỉ có thể xảy ra thực sự khi có một sức
mạnh tinh thần, đó là sức mạnh của thiện chí mà người ta thường gọi là nghị lực. Nghị lực
là năng lực phục tùng ý thức đạo đức của con người. Không có nghị lực con người không
vượt qua giới hạn của động vật, hành động của con người sẽ bị những nhu cầu bản năng
chế ức một cách tuyệt đối. Nghị lực cho phép con người buộc những nhu cầu, nguyện vọng,
ham muốn của mình phục tùng ý thức đạo đức. - Nhu cầu tự khẳng định. -
Thói quen đạo đức: là những hành vi đạo đức ổn định của con người, nó trở thành
nhu cầu đạo đức của người đó, và nếu như nhu cầu này được thỏa mãn thì con người sẽ
cảm thấy được dễ chịu, nếu nhu cầu không được thõa mãn thì trái lại. -
Ví dụ thực tiễn:
Trong tiết dạy môn Toán tại Trường THCS Nguyễn Trãi (Bình Dương), giáo viên khi dạy
khái niệm "phép nhân phân số" đã tổ chức hoạt động nhóm sử dụng thẻ hình minh hoạ
các tình huống thực tiễn (chia bánh, chia phần đất…). Qua đó, học sinh tiếp cận khái
niệm thông qua hoạt động trải nghiệm và suy luận cá nhân. -
Kết luận sư phạm:
Việc hình thành khái niệm trong dạy học cần tuân theo quy luật nhận thức: từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng, từ đó giúp học sinh hình thành tri thức bền vững và chủ động. -
Liên hệ bản thân:
Em hiểu rằng người giáo viên cần không ngừng đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức
hoạt động học tập phù hợp với lứa tuổi và đặc điểm tâm lý để hỗ trợ học sinh tiếp nhận
khái niệm một cách tự nhiên, hiệu quả.
4/ Các con đường giáo dục đạo đức -
Giáo dục gia đình (tiền đề): gia đình là nơi diễn ra những mối quan hệ xã hội đầu
tiên của con người. Các thành viên trong gia đình gắn bó mật thiết với nhau, trước hết là
do sự gàng buộc về tình cảm gắn bó - yêu thương chia sẻ. Con cái luôn luôn
có quan hệ phụ thuộc với cha mẹ. Chúng tôn trọng kính nể cha mẹ, luôn làm cho cha mẹ
yên lòng. Cha mẹ là người biết rõ con mình có gì hay, có gì dở, thiên hướng của chúng hư
thế nào, bằng cách nào để bồi dưỡng hay khắc phục chúng. Do biết rõ con cái mình có gì
hay, có gì dở, thiên hướng của chúng đó, mọi sinh hoạt trong gia đình đều có ảnh hưởng
đến sự hình thành đạo đức cho học sinh, trong nền nếp sinh hoạt và sự tổ chức giáo dục
của gia đình có ý nghĩa quan trọng. -
Nhà trường (Cần): cung cấp cho học sinh những tri thức đạo đức (hiểu biết về đạo
đức về thái độ phải có, về nhiệm vụ, bổn phận phải làm…) là cần thiết (nhưng không nói
chủ yếu), là khâu quan trọng trong việc giáo dục đạo đức trong nhà trường. Thông qua các
giờ học đạo đức, học sinh sẽ được trang bị những tri thức về đạo đức một cách khái quát
và hệ thống. Vốn tri thức này có tác dụng quan trọng ở chỗ giúp học sinh có cơ sở đúng
đắn để nhận ra và phân biệt giữa hiện tượng đạo đức và hiện tượng phi đạo đức biểu hiện
muôn hình vạn trạng xung quanh mình hàng ngày và từ đó giúp các em tăng thêm tính tự
giác trong hành vi đạo đức của mình (Kế thừa - Phát triển - Khoa học - Hợp lý - Hiệu quả
- Tập thể Trải nghiệm). -
Xã hội (Đủ): Dư luận tập thê đúng đắn, lành mạnh là điều quan trọng. Để có dư luận
như thế người làm công tác giáo dục phải biết cách tạo ra dư luận chung đúng đắn lành
mạnh. Có tập thể học sinh tốt mới có dư luận lành mạnh. Có tác dụng hướng dẫn, kiểm tra
những tri thức đạo đức, niềm tin đạo đức của mỗi học sinh, kiểm tra, đánh giá, củng cố
những thói quen đạo đức của các em. -
Sự tự dưỡng là yếu tố quyết định trực tiếp trình độ đạo đức của mỗi học sinh: sự tự
dưỡng về có hệ thống mà mỗi cá nhân thực hiện với bản thân mình nhằm khắc phục những
hành vi trái đạo đức và bồi dưỡng, củng cố những hành vi đạo đức của mình, thúc đẩy sự
phát triển nhân cách. Sự tu dưỡng là một yêu cầu tự nhiên của mỗi cá nhân ở trình độ nhận
thức đã phát triển. Mọi cá nhân đều cần làm cho mình tốt hơn, bồi bổ tình cảm và ý chí của
mình, khắc phục những thói hư tật xấu, làm cho mình biết phân biệt điều thiện với điều ác.
Do đó, sự tu dưỡng là con đường nhằm hình thành những phẩm chất đạo đức ở mỗi cá nhân
học sinh. Tạo cho học sinh khả năng tự tu dưỡng là một yêu cầu giáo dục đạo đức trong nhà trường. -
Ví dụ thực tiễn:
Tại Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa (TP.HCM), chương trình “Một việc tốt mỗi
ngày” khuyến khích học sinh thực hành đạo đức qua việc giúp bạn, nhặt của rơi trả lại, và
phản ánh các hành vi sai phạm trong lớp học. Hành vi đạo đức được nuôi dưỡng qua
nhận thức, thái độ và hành động lặp đi lặp lại. -
Kết luận sư phạm:
Giáo dục đạo đức học sinh không chỉ dừng ở lý thuyết mà cần được hiện thực hoá qua
trải nghiệm, qua tấm gương người thầy, hoạt động tập thể, và cả môi trường học đường tích cực. -
Liên hệ bản thân:
Em sẽ chú trọng xây dựng văn hoá lớp học thân thiện, công bằng, tạo cơ hội cho học sinh
thực hành hành vi đạo đức hàng ngày thông qua lời nói, hành động, thái độ ứng xử với bạn bè và thầy cô. -
5/ Các phẩm chất nhân cách của giáo viên
Các phẩm chất nhân cách của giáo viên (Đức) -
Thế giới khoa học: thế giới quan của người giáo viên là thế giới quan Mác Lênin,
bao hàm những quan điểm duy vật biện chứng về các quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy.
Thế giới quan Mác lênin là kim chỉ nam giúp cho người giáo viên đi tiên phong trong đội
ngũ những người xã hội XHCN. Xây dựng niềm tin cho thế hệ đang lớn, và chống mọi
biểu hiện của tư tưởng xa lạ. Thế giới quan của người giáo viên chi phối nhiều mặt hoạt
động cũng như thái độ của GV ta đối với các mặt hoạt động đó, như việc lựa chọn nội dung
và phương pháp giảng dạy và giáo dục, việc kết hợp giữa giáo dục với nhiệm vụ chính trị
của xã hội, gắn nội dung giảng dạy với thực tiễn cuộc sống, cũng như phương pháp xử lý
và đánh giá mọi biểu hiện tâm lý học sinh. -
Lý tưởng đạo tạo thế hệ trẻ: là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách của người giáo
viên. Lý tưởng là “ngôi sao dẫn đường” giúp cho giáo viên luôn đi lại phía trước, thấy hết
được giá trị lao động của mình đối với thế hệ trẻ. Mặt khác lý tưởng của người thầy giáo
có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách học sinh. Lý tưởng đào tạo ra thế hệ trẻ
của người giáo viên biểu hiện ra ngoài bằng niềm say mê nghề nghiệp, lòng yêu trẻ, lương
tâm nghề nghiệp, tận tụy hi sinh với công việc, tác phong làm việc cần cù, trách nhiệm, lối
sống giản dị và thâm tình,.. -
Lòng yêu trẻ: Lòng yêu người, trước hết là yêu trò là một trong những phẩm chất
đạo đức cao quý của con người, là một phẩm chất đặc trưng trong nhân cách người GV, vì
lòng thương người đó và đạo lý của cuộc sống. Lòng thương người, yêu trẻ càng sâu sắc
bao nhiêu thì càng làm được nhiều việc vĩ đại bấy nhiêu. Lòng yêu trẻ của GV được thể hiện:
+ Cảm thấy sung sướng khi được tiếp xúc với trẻ em, khi đi sâu vào thế giới độc đáo của trẻ.
+ Lòng yêu trẻ còn thể hiện trong thái độ quan tâm đầy thiện chí và ân cần đối với trẻ, kể
cả các em học kém và vô kỷ luật.
+ Người thầy giáo có lòng yêu thương trẻ lúc nào cũng thể hiện tinh thần giúp đỡ họ bằng
ý kiến hoặc hành động thực tế của mình một cách chân thành và giản dị. Đối với họ không
bao giờ có thái độ phân biệt đối xử, dù có những em chưa ngoan hoặc chậm hiểu.
=> Bí quyết thành công của người GV xuất sắc là bộ nguồn từ 1 thứ tình cảm vô cùng sâu
sắc - đó là tình yêu trẻ -
Lòng yêu nghề (yêu lao động sư phạm): Lòng yêu trẻ và yêu nghề gắn bó chặt chẽ
với nhau, lồng vào nhau. Càng yêu người bao nhiêu, càng yêu nghề bấy nhiêu, có yêu
người mới có cơ sở để yêu nghề. Không có lòng thương người, yêu trẻ thì khó mà tạo ra
cho mình những động lực mạnh mẽ để suốt đời phấn đấu vì lý tưởng cách mạng, vì lý
tưởng nghề nghiệp. Người GV là người luôn nghĩ đến việc cống hiến cho sự nghiệp đào
tạo thế hệ trẻ của mình. Trong công tác giảng dạy và giáo dục, họ luôn luôn làm việc với
tinh thần trách nhiệm cao, luôn luôn cải tiến nội dung và phương pháp, không tự thỏa mãn
với trình độ hiểu biết và tay nghề của mình. Họ thường có niềm vui khi được giao tiếp với
học sinh. Sự giao tiếp này sẽ làm phong phú cuộc đời người thầy giáo, càng làm cho thầy
giáo có nhiều cảm xúc tích cực và say mê. -
Các phẩm chất đạo đức và ý chí: Người GV giáo dục học sinh không những bằng
những hành động trực tiếp của mình mà còn bằng tấm gương của cá nhân mình, bằng thái
độ và hành vi của mình đối với hiện thực. Những phẩm chất đạo đức và ý chí không thể
thiếu. Đó là: tinh thần nghĩa vụ, tinh thần mình vì mọi người, mọi người vì mình, thái độ
nhân đạo, lòng tôn trọng. Thái độ công bằng, thái độ chính trực, tính tình ngay thẳng, giản
dị và khiêm tốn, tính mục đích, tính nguyên tắc, tính kiên nhẫn, tính tự kiềm chế, biết tự
chiến thắng với những thói hư tật xấu, kỹ năng điều khiển tình cảm, tâm trạng cho thích
hợp với các tình huống sư phạm...
=>Những phẩm chất đạo đức là nhân tố để tạo ra sự cân bằng theo quan điểm sư phạm
trong các mối quan hệ cụ thể giữa thầy và trò.
=>Những phẩm chất ý chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng lực của người
GV thành hiện thực và tác động sâu sắc tới học sinh. Ví dụ thực tiễn:
Cô giáo Lê Thị Hoa – Trường THCS Tân Phú Đông – nổi tiếng vì luôn công bằng, tận tâm
và yêu thương học sinh. Dù có nhiều học sinh yếu kém, cô không hề la mắng mà luôn tạo
động lực tích cực. Chính nhờ đó, nhiều học sinh từng bỏ học giữa chừng đã quay lại học
và thi đậu vào các trường nghề.
Kết luận sư phạm: Phẩm chất người giáo viên là yếu tố quyết định đến hiệu quả giáo dục,
trong đó nổi bật là lòng yêu nghề, sự công bằng, nhân ái, tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp. Liên hệ bản thân:
Em luôn ý thức rèn luyện bản thân từ thái độ học tập, đạo đức cá nhân đến kỹ năng giao
tiếp, để sau này trở thành một nhà giáo mẫu mực, truyền cảm hứng và yêu thương học sinh bằng cả trái tim.
6/ các năng lực dạy học của giáo viên
- Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục: là năng lực “thâm nhập” vào
thế giới bên trong của trẻ, sự hiểu biết tường tận về nhân cách của chúng, cũng như năng
lực quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lý của học sinh trong quá trình dạy học và giáo
dục. Biểu hiện trước hết của năng lực hiểu học sinh là ở chỗ, thầy biết xác định khối lượng
kiến thức đã có và mức độ, phạm vi lĩnh hội của học sinh và từ đó xác định mức độ và khối
lượng kiến thức mới cần trình bày trong công tác dạy học hay giáo dục. Người GV có năng
lực hiểu học sinh còn thể hiện ở chỗ dự đoán được thuận lợi và khó khăn, xác định đúng
đắn mức độ căng thẳng cần thiết khi thực hiện các nhiệm vụ nhận thức.
Năng lực hiểu học sinh là kết quả của một quá trình lao động đầy trách nhiệm, thương
yêu và sâu sát học sinh, nắm vững môn mình dạy, am hiểu đầy đủ về tâm lý học trẻ em,
tâm lý học sư phạm cùng với một số phẩm chất tâm lý cần thiết như sự “tinh ý”, sư phạm
(quan sát), óc tưởng tượng, khả năng phân tích và tổng hợp... -
Tri thức và tầm hiểu biết của người thầy: đây là năng lực cơ bản của năng lực sư
phạm, 1 trong những năng lực trụ cột của nghề dạy học. GV phải nắm vững nội dung, bản
chất cũng như con đường mà loài người đã đi qua. Chỉ có trong điều kiện ấy, thầy giáo mới
có thể tổ chức cho học sinh tái tạo và lấy lại những cái cần cho sự phát triển tâm lý, nhân
cách của học sinh, tạo ra những cơ sở trọng yếu để hình thành phẩm chất và năng lực của
con người mới. GV vừa dạy học vừa bồi dưỡng cho thế hệ trẻ một nhãn quan rộng rãi vì
vậy GV cần phải có một tầm hiểu biết rộng. Người thầy giáo có tri thức và tầm hiểu biết
rộng thể hiện ở chỗ:
+ Nắm vững và hiểu biết rộng môn mình phụ trách.
+ Thường xuyên theo dõi những xu hướng, những phát minh khoa học thuộc môn mình
phụ trách, biết tiến hành nghiên cứu khoa học và có những hứng thú lớn lao đối với nó.
+ Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình, đầy đủ ý
thức tự nguyện làm “một thứ bọt biển” để thấm hút vào mình mọi tinh hoa của khoa học,
của nền văn hóa nhân loại. -
Năng lực chế biến tài liệu học tập: Đó là năng lực gia công về mặt sư phạm của GV
đối với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp tối đa với đặc điểm lứa tuổi đặc điểm cá
nhân học sinh, trình độ, kinh nghiệm của các em và đảm bảo lôgic sư phạm. Muốn chế
biến được tài liệu học tập người GV trước hết phải biết đánh giá đúng đắn tài liệu. Trên cơ
sở đánh giá đúng đắn tài liệu, người thầy giáo phải biết chế biến, gia công tài liệu nhằm
làm cho nó vừa đảm bảo lôgic của sự phát triển khoa học, vừa phù hợp lại thích hợp với
trình độ nhận thức của trẻ. Muốn làm được điều đó, trước hết, người GV phải có khả năng
phân tích tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức. Hai là người GV phải có óc sáng tạo. Truyền
đạt kiến thức cho người khác hiểu được không phải vấn đề đơn giản. Óc sáng tạo của người
thầy giáo khi chế biến tài liệu thể hiện ở chỗ:
+ Trình bày tài liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình, cung cấp cho học sinh những kiến
thức tinh và chính xác, liên hệ được nhiều mặt giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, kiến
thức bộ môn này với kiến thức bộ môn khác, liên hệ vận dụng và thực tiễn cuộc sống.
+ Tìm ra những phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng đầy sức lôi cuống và giàu cảm xúc tích cực.
+ Nhạy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo cũng là yếu tố góp phần thúc đẩy năng
lực chế biến tài liệu ở người thầy giáo. -
Nắm vững kỹ thuật dạy học: nghề nào cũng có kỹ thuật riêng của mình. Nghề dạy
học cũng có kỹ thuật riêng của nó. Kỹ thuật dạy học hoàn toàn khác với kỹ thuật "rót tri
thức" (thầy: giảng, trò: ghi). Đặc điểm nổi bật của kỹ thuật dạy học mới là thầy tổ chức và
điều khiển hoạt động của trò nhằm lĩnh hội tri thức. Việc tổ chức này dựa trên cơ sở nắm
vững con đường mà loài người đã đi trong khi phát hiện tri thức đó. Vì chỉ có cách đó, học
sinh mới thực sự nắm được lôgic nội tại của khái niệm, nắm được chân lý khoa học. Nắm
vững kỹ thuật dạy học là nắm vững kỹ thuật tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức
của trò qua bài giảng, và đạt đến mức như là năng lực. Nắm vững kỹ thuật dạy học được biểu hiện ở chỗ:
+ Nắm vững kỹ thuật dạy mới, tạo cho học sinh ở vị trí “Người phát minh” trong quá trình dạy học.
+ Truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với học sinh.
+ Gây hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập (xin nhắc lại là không
phải bằng cách hô hào, mà bằng chính “lực hút” từ bản thân đối tượng học) -
Năng lực ngôn ngữ: là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩa và tình cảm
của mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu bộ. Nó là một trong những năng lực quan
trọng của người giáo viên, là công cụ sống còn đảm bảo cho người GV thực hiện chức năng
dạy học và giáo dục của mình. Năng lực ngôn ngữ của người thầy giáo thường được biểu
hiện cả ở nội dung và hình thức của nó, vì thế yêu cầu về ngôn ngữ của thầy giáo là phải
sâu sắc về nội dung, giản dị về hình thức. a. Về nội dung -
Từ mỗi đơn vị biểu đạt đến toàn bài giảng, ngôn ngữ phải chứa đựng mật độ thông
tin lớn, diễn tả trình bày phải chính xác, cô đọng và “đắt”. Những điều nói trên là kết quả
của sự uyên thâm về hiểu biết, của sự suy nghĩ sâu sắc. -
Lời nói phải phản ánh được tính kế tục và tính luận chứng để đảm bảo thông tin liên tục, lôgic. -
Nội dung và hình thức ngôn ngữ phải thích hợp với các nhiệm vụ nhận thức khác
nhau (thông báo tài liệu mới, bình luận câu trả lời của học sinh, biểu lộ một sự tán đồng hay bất bình). -
Nhân cách của người thầy giáo là hậu thuẫn vững chắc và duy nhất cho lời nói của
mình. Dù là thông báo, bình luận, tán thưởng hay trách móc..., ngôn ngữ của người thầy
giáo bao giờ cũng được cân nặng bởi sức mạnh bên trong của họ. b. Về hình thức -
Hình thức ngôn ngữ của GV thường giản dị, sinh động giàu điệu, sáng sủa, biểu
cảm với cách phát âm mạch lạc trong đó không có những sai phạm ác mặt tu từ học, về ngữ pháp, về ngữ âm. -
Năng lực ngôn ngữ của GV còn biểu hiện ở chỗ thúc đẩy một cách tối đa sự chú ý
và sự suy nghĩ của hs vào bài giảng. -
Nhịp độ ngôn ngữ của GV cũng có một ý nghĩa nhất định. Nêu ngôn ngữ của GV
đều đều, đơn điệu sẽ mệt mỏi rất nhanh chóng, làm cho người nghe chán chường, uể oải,
thờ ơ. Nhịp độ quá gấp cũng gây khó khăn trong việc lĩnh hội, nhanh chóng gây mệt mỏi,
ức chế bảo vệ phát sinh nhanh. Ngược lại, nhịp độ quá chậm cũng gây uể oải và tẻ nhạt.
Nhịp độ tối ưu với sự lĩnh hội của hs là nhịp độ trung bình, hoạt bát. -
Giải quyết tình huống dạy học. -
Ví dụ thực tiễn:
Tại Trường THPT Lê Quý Đôn, giáo viên môn Sinh học ứng dụng công nghệ thông tin
(PowerPoint, video minh hoạ, phần mềm quiz) để hỗ trợ việc dạy bài “Tiêu hoá ở người”,
giúp học sinh dễ hình dung, tăng cường hứng thú học tập. Kết quả kiểm tra sau tiết học
cho thấy điểm trung bình tăng rõ rệt. -
Kết luận sư phạm:
Giáo viên cần có năng lực thiết kế bài giảng, vận dụng phương pháp – công nghệ dạy học
hiện đại, tổ chức hoạt động học và đánh giá hiệu quả nhằm phát triển năng lực học sinh. -
Liên hệ bản thân:
Em đang tích cực học hỏi kỹ năng thiết kế giáo án, thực hành dạy thử, làm quen với các
phần mềm công nghệ giáo dục để sau này có thể chủ động và sáng tạo trong dạy học.
7/ Các năng lực giáo dục của giáo viên -
Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh: Đó là năng lực biết dựa vào mục
đích giáo dục, yêu cầu đào tạo hình dung trước cần phải giáo dục cho từng
học sinh những phẩm chất nhân cách nào và hướng hoạt động của mình để đạt tới hình
mẫu trọn vẹn của con người mới. Năng lực này thường được biểu hiện ở chỗ:
+ Vừa có kỹ năng tiên đoán sự phát triển của những thuộc tính này hay khác của từng học
sinh, vừa nắm được nguyên nhân sinh ra cũng như mức độ phát triển của những thuộc tính đó.
+ Có sự sáng tỏ về những biểu hiện nhân cách của những học sinh khác sẽ thu được trong
tương lai dưới ảnh hưởng của những dự án phát triển nhân cách do mình xây dựng.
+ Hình dung được hiệu quả của các tác động giáo dục nhằm hình thành nhân cách theo dự án. -
Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh được tạo nên bởi yếu tố tâm lý
như: óc tưởng tượng sư phạm, tính lạc quan sư phạm, niềm tin vào sức mạnh giáo dục,
niềm tin vào con người và óc quan sát sư phạm. Nhờ có năng lực này, công việc của thầy
giáo trở nên có kế hoạch, chủ động và sáng tạo. -
Năng lực giao tiếp sư phạm: giao tiếp là một thành phần cơ bản của hoạt động sư
phạm. Đó là năng lực nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và những diễn
biến tâm lý bên trong của học sinh và bản thân, đồng thời biết sử dụng hợp lý các phương
tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách tổ chức, điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt
mục đích giáo dục. Năng lực giao tiếp sư phạm thường được biểu hiện ở các kỹ năng chính như:
+ Kỹ năng định hướng giao tiếp. + Kỹ năng định vị.
+ Kỹ năng làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân + Kỹ
năng sử dụng phương tiện giao tiếp. -
Năng lực “cảm hóa học sinh”: là năng lực gây được ảnh hưởng trưc tiếp của mình
đến với học sinh về mặt tình cảm và ý chí. Nói một cách khác, đó là khả năng làm cho học
sinh nghe, tin và làm theo mình bằng tình cảm, niềm tin. Để có năng lực này đòi hỏi người
thầy giáo phấn đấu và tu dưỡng để có một nếp sống văn hóa cao, một phong cách mẫu mực
nhằm tạo ra một uy tín chân chính và thực sự, biểu hiện từ cử chỉ, lời nói đến tinh thần lao
động hăng say, sáng tạo, ý tưởng nghề nghiệp cao đẹp. Xây dựng mối quan hệ thầy trò tốt
đẹp: Vừa nghiêm túc, vừa thân mật, có thái độ yêu thương và tin tưởng học sinh; biết phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh... Có tư thế tác phong gương mẫu trước
học sinh: ăn nói lịch sự nhã nhặn, tôn trọng, cử chỉ đẹp, giọng điệu đàng hoàng. Tóm lại, sức
hút của sự cảm hóa hoàn toàn bắt nguồn và hiện thân từ chính bộ mặt chính trị đạo đức và
tài nghệ sư phạm của thầy. -
Năng lực khéo léo đối xử sư phạm: sự khéo léo đối xử sư phạm là kỹ năng trong bất
cứ trường hợp nào cũng tìm ra được những tác động sư phạm đúng đắn nhất như là một
nghệ thuật. Vì thế, sự khéo léo đối xử sư phạm được xem như một thành phần quan trọng
của “tài nghệ sư phạm”. Các yếu tố tâm lý của sự khéo léo đối xử sư phạm.
+ Sự thống nhất giữa tình thương yêu có lý lẽ của giáo viên đối với học sinh và những
hình thức đối xử hoàn thiện về mặt sư phạm.
+ Sự thống nhất giữa sự tôn trọng nhân cách học sinh và tinh yêu cầu cao có cơ sở bề mặt sư phạm.
+ Sự thống nhất giữa niềm tin và sự kiểm tra sư phạm.
+ Sự cân bằng giữa ý chí khi giao tiếp kết hợp với tính giản dị, tự nhiên, chân thật và có
thiện chí của những hình thức đối xử. -
Trong thực tiễn hoạt động sư phạm của người GV, sự khéo léo đối xử sư phạm được
biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau:
+ Sự nhạy bén về mức độ sử dụng bất kì mọi tác động sư phạm nào (khuyến khích, trách
phạt hay ra lệnh... những tác động này quá lời hay quá mức có thể dẫn đến “phản sư phạm”).
+ Nhanh chóng xác định được vấn đề xảy ra là kịp thời áp dụng những biện pháp thích hợp.
+ Biết phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo những vấn đề xảy ra bất ngờ, không nóng vội, không thô bạo.
+ Biến cái bị động thành cái chủ động, giải quyết một cách mau lẹ các vấn đề phức tạp đặt
ra trong công tác dạy học và giáo dục. -
Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm -
Người thầy giáo vừa là người tổ chức lao động cho cá nhân và tập thể học sinh trong
những điều kiện sư phạm khác nhau, vừa là hạt nhân để gắn học sinh thành một tập thể,
vừa là người tuyên truyền và liên kết, phối hợp các lực lượng giáo dục. Năng lực tổ chức
hoạt động sư phạm là tất yếu cần có trong năng lực của người GV 1.
Tổ chức và cổ vũ học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau của công tác dạyhọc
và giáo dục ở trên lớp cũng như ngoài trường, trong nội khóa cũng như ngoại khóa, cho
từng học sinh cũng như cho tập thể của chúng đoàn kết học sinh thành một tập thể thống
nhất, lành mạnh có kỉ luật, 2.
Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm còn thể hiện ở chỗ biết có nề nếp đảm bảocho
mọi hoạt động của lớp diễn ra một cách thuận lợi, biến tập thể học sinh thành “một thầy
giáo thường trực” (thầy giáo thứ hai). 3.
Người thầy giáo có năng lực tổ chức hoạt động sư phạm không những biết tổchức
và đoàn kết học sinh, mà còn biết tổ chức và vận động nhân dân, cha mẹ học sinh và các
tổ chức xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục theo một mục tiêu xác định.
Để có được các năng lực trên, đòi hỏi người thầy giáo: a.
Biết vạch kế hoạch. Người giáo viên biết vạch kế hoạch thường suy nghĩ mộtcách
chín chắn, sâu sắc các tình huống giáo dục và đặc điểm đối tượng nên kế hoạch vạch ra
biết kết hợp yêu cầu trước mắt và lâu dài, đảm bảo tính nguyên tắc và tính linh hoạt của kế
hoạch, biết vạch ra kế hoạch đi đôi với kiểm tra để đánh giá kết quả và sẵn sàng bổ sung kế hoạch. b.
Biết sử dụng đúng đắn các hình thức và phương pháp dạy học và giáo dục khácnhau
nhằm tổ chức tốt việc học tập và có tác động sâu sắc đến tư tưởng và tình cảm của học sinh. c.
Biết định mức độ và giới hạn của từng biện pháp dạy học và giáo dục khácnhau. d.
Có nghị lực và dũng cảm tin vào sự đúng đắn của kế hoạch và các biện phápgiáo dục.
Ví dụ thực tiễn: Ở Trường THCS Bình An (Đồng Nai), một học sinh cá biệt được cô
giáo chủ nhiệm hỗ trợ bằng cách: lắng nghe vấn đề cá nhân, kết nối với phụ huynh và tổ
chức sinh hoạt lớp đề cao tinh thần đoàn kết. Sau một học kỳ, học sinh này cải thiện rõ
hành vi và thái độ học tập.
Kết luận sư phạm: Năng lực giáo dục của giáo viên không chỉ nằm ở giảng dạy mà còn
ở khả năng tư vấn tâm lý, quản lý lớp học, xây dựng mối quan hệ tích cực và giáo dục toàn diện học sinh.
Liên hệ bản thân: Em luôn cố gắng nâng cao kỹ năng giao tiếp sư phạm, nắm vững
nguyên tắc giáo dục tích cực để có thể đồng hành cùng học sinh, nhất là những em có hoàn
cảnh khó khăn hoặc lệch chuẩn hành vi.