Bài tập quá trình - Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Tôn Đức Thắng

Chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độcquyền (chủ nghĩa đế quốc). Chủ nghĩa đế quốc là sự xâm lược áp đặt sự thống trị của mộtquốc gia này lên một quốc gia khác. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

1. Cho biết hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX tác động đến Việt
Nam?
Chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc
quyền (chủ nghĩa đế quốc). Chủ nghĩa đế quốc là sự xâm lược áp đặt sự thống trị của một
quốc gia này lên một quốc gia khác. Chủ nghĩa đế quốc xuất hiện đã dẫn tới mẫu thuẫn
của đế quốc với các nước thuộc địa, tác động trực tiếp tới Việt Nam.
Chủ nghĩa MácLenin - học thuyết về giai cấp đấu tranh giai cấp đã ảnh
hưởng đến hệ tự tưởng của Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ. Chủ nghĩa Mác Lê Nin đã cung
cấp cho người sở, thế giới quan, phương pháp luận. Từ đó, người đã tìm thấy “muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc khôngcon đường nào khác con đường cách mạng
sản”. Người đã dần định hình ra con đường Việt Nam phù hợp với quy luật phát triển của
lịch sử - con đường đọc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng 10 Nga thành công vào ngày 7 tháng 11 năm 1917 đã cổ
mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động các nước, các
dân tộc bị áp bức các nước thuộc địa phụ thuộc trong đó Việt Nam. Năm 1919,
Quốc tế Cộng sản ra đời – mổ tổ chức cách mạng của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới. Cách mạng tháng 10 Nga và các hoạt động cách mạng của Quốc tế
Cộng sản đã ảnh hưởng mạnh mẽ thức tỉnh phong trào giải phóng dân tộccác nước
thuộc địa, trong đó có Việt Nam và Đông Dương.
2. Chính sách cai trị của Thực dân Pháp ở Việt Nam và hậu quả của nó?
Từ năm 1897, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa lớn: Cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897–1914) do toàn quyền Đông Dương Paul Dou mer
thực hiện và khai thác thuộc địa lần thức 2 (1919-1929).
Về tổ chức bộ máy nhà nước, thực dân Pháp thành lập Lên bang Đông Dương, gồm
có Việt Nam, Campuchia, Lào, đứng đầu và viên toàn quyền người pháp. Việt Nam bị
chia làm ba xứ với ba chế độ cai trị khác nhau (Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì).
Đối với chính sách cai trị về kinh tế, thực dân Pháp đẩy mạnh việc cướp đoạt ruộng
đất, Bọn chủ đất mới vẫn áp dụng phương pháp bóc lột nông dân theo kiểu phát canh thu
tô như địa chủ Việt Nam. Đối với công nghiệp, thực dân Pháp tập trung vào hoạt động
khai thác than và kim loại. Thực dân Pháp xây dựng hệ thống giao thông vận tải nhằm
tăng cường việc bóc lột kinh tế và dễ dàng đàn áp cuộc đấu tranh nhân dân.
Hàng hoá của Pháp khi nhập khẩu vào Việt Nam đánh thuế rất nhẹ hoặc thuộc đối
tượng miễn thuế. Còn hàng hoá trong nước hoặc nhập khẩu từ các nước khác thì phải
chịu với mức thuế rất cao, có mặt hàng lên đến 120%. Ngoài ra, thực dân Pháp còn đánh
thuế muối, rượu, thuốc phiện,…
Đối với chính sách về văn hoá, giáo dục, thực dân Pháp đã thi hành một chính sách
đầu độc, ngu dân đồng thời truyền bá văn hoá và giáo dục của Pháp để phục vụ cho chính
sách thuộc địa của mình. Chúng nô dịch tinh thần quần chúng, biến quần chúng thành
những đáp đông tự ti, khiếp nhược trước sức mạnh của văn minh đại Pháp,… Trong nội
dung chươn trình giảng dạy của hệ thống giáo dục này, thực dân Pháp đã loại trừ những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, thay vào đó là chương trình truyền bá “văn
minh đại Pháp” nhằm đào tạo một thế hệ người Việt Nam “mất gốc”, không có tinh thần
yêu nước và ý thức về số phận của người dân mất nước.
3. Sự phân hoá giai cấp ở Việt Nam.
Địa chủ phong kiến
- Giai cấp địa chủ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm trong lịch sử từ địa vị là giai cấp
thống trị nay trở thành tay sai cho thực dân Pháp câu kết với thực dân Pháp bóc lột
nhân dân ta. Giai cấp địa chủ được chia thành: Đại địa chủ, trung địa chủ, tiểu địa chủ
- Những địa chủ phong kiến phản cách mạng được thực dân Pháp dung dưỡng và nuôi
béo vì vậy đây chính là đối tượng của cách mạng
- Những địa chủ phong kiến bị đế quốc chèn ép tinh thần dân tộc tinh thần cách
mạng. Tuy nhiên cũng không trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp nông dân
- Chiếm 90% trong hội phong kiến thực dân Việt Nam bao gồm: Phú nông, trung
nông, bần nông, cố nông
- Giai cấp nông dân bị địa chủ phong kiến và đế quốc bóc lột nặng nề, đế quốc bóc lột
nhân dân bằng sưu cao thuế nặng, địa chủ bóc lột nhân dân bằng cướp đoạt ruộng đất,
địa tô, cướp đoạt ruộng đất dẫn đến giai cấp nông dân bị đẩy vào đường cùng.
- Giai cấp nông dân lực lượng đông đảo nhấtng hái nhất vai trò quyết định
đến cuộc giải phóng dân tộc, bị đế quốc và địa chủ chèn ép mâu thuẫn đặc biệt với đế
quốc thực dân phong kiến tay sai phản động vừa mâu thuẫn về dân tộc vừa
mâu thuẫn về giai cấp trong đó mâu thuẫn dân tộc lớn nhất. Tuy nhiên giai cấp
nông dân cũng không thể trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng do trình độ văn hoá
thấp.
Giai cấp công nhân
- Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ngay từ cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ nhất.
- Giai cấp công nhân Việt Nam còn rất trẻ chiếm 1% dân số, trình độ văn hoá kỹ thuật
rất thấp.
- Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: Ngoài những đặc điểm chung với giai
cấp công nhân thế giới giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng biệt
khác so với giai cấp công nhân thế giới.
Giai cấp tư sản
- Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp sau chiến tranh thế giới thứ
nhấtdần dần họ đã trở thành một giai cấp rệt. Trước đó họ chỉ được gọi là một
tầng lớp.
- Tư sản mại bản những tư bản hoạt động trong lĩnh vực thầu khoán, công nghiệp
xây dựng, có quyền lợi gắn liền với thực dân Pháp đây là đối tượng CM.
- Tư sản dân tộc là những nhà tư sản vừa và nhỏxu hướng kinh doanh độc lập bị
sản Pháp chèn ép nên họ có tinh thần dân tộc chống thực dân Pháp, chống phong kiến.
Giai cấp này có tư tưởng dao động do đó cũng không thể trở thành lực lượng lãnh đạo
cách mạng.
Giai cấp tiểu tư sản
- Hình thành trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp sau chiến tranh thế giới
thứ nhất bao gồm: Trí thức, học sinh-sinh viên, công chức, tiểu thương, tiểu chủ, dân
nghèo thành thị. Họ sống chủ yếu thành thị khu công nghiệp bị thực dân Pháp
chèn ép dễ bị rơi vào tình trạng thất nghiệp.
- Giai cấp tiểu tư sản cũng rất hăng hái tham gia cách mạng và là một trong những động
lực đáng kể của cách mạng, họ là đồng minh của giai cấp công nhân có thể đi với giai
cấp công nhân đến hội chủ nghĩa.Tuy nhiên tưởng của họ rất dao động do đó
cũng không thể trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng.
4. Công lao của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc vận động thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam?
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân
tộc. Qua trải nghiệm của nhiều nước và thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917 đã tác động mạnh mẽ với nhận thức của Nguyễn Tất Thành – đây là cuộc “cách
mạng đến nơi”. Nguyến Ái quốc đã chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra
đời của Đảng. Đối với tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia thành lập Hội liên hiệp
thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ) – đây là tờ báo đầu tiên có
mục đích thực hiện nhiệm vụ đoàn kết nhân dân các nước thuộc địa với nhau, đoàn kết
nhân dân các nước thuộc địa với nhân dân chính quốc đấu tranh kẻ thù chung.
Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa
nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản sản.
Nguyễn Ái Quốc tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của của chủ
nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp
bức đấu tranh giải phóng
Về chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Cách mạng trước hết phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị
áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Về tổ chức, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại
Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn vào tháng 6-1925. Hội đã xuất
bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo), tuyên truyền
tôn chỉ, mục đích của Hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lênin và phương hướng phát
triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam.
5. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng?
Trước nhu cầu cấp bách của phong tráo cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc - với
tư cách là pháp viên của Quốc tế Cộng sản, ngày 23-12-1929 triệu tập đại biểu của Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến họp tai Cửu Long (Hồng Koong)
tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất của Việt
Nam.
Thành phần dự Hội nghị: gồm 2 đại biểu của Đông Dương Công sản Đảng (Trịnh
Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng, dưới sự chủ trì
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – đại biểu của Quốc tế Cộng sản.
Chương trình nghị sự của Hội nghị:
1. Đại biểu của Quốc tế Cộng Sản nói lý do cuộc hội nghị;
2. Thảo luận ý kiến của đại biểu Quốc tế Cộng sản;
Nguyễn Ái Quốc nêu ra năm điểm lớn cần thảo luận và thống nhất:
1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng
sản Đông Dương;
2. Định tên Đảng là Đảng cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời…”.
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:
Có hai văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của
Đảng đã phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và
sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiện này là Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định:
- Nhiệm vụ chủ yếu trước mặt của các mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
- Về phương diện xã hội, “a) Dân chúng được tự do tổ chức. b) Nam nữ bình
quyền,v.v…c) phổ thông giao dục theo công nông hoá”.
- Về phương diện kinh tế, thủ tiêu hêt các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn của
tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nong binh quản lý,…
- Lực lực cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân – đây là lực lượng cơ bản,
trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời đoàn kết tất cả cách mạng,…
- Vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu
phục cho được đại bộ phân giai cấp mình, phải làm sao cho giai cấp mình lãnh đạ
được dân chúng”….
6. So sánh sự giống và khác nhau giữa Cương lĩnh Chính trị đầu tiên và Luận
cương tháng 10/1930?
Giống nhau: – Đều xác định tính chất của cách mạng trong giai đoạn trước mắt là tư sản
dân quyền, sau đó bỏ qua giai đoạn TBCN, tiến thẳng lên XHCN và chủ nghĩa cộng sản
– Đều xác định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là chống đế quốc, chống
phong kiến, 2 nhiệm vụ này có mối quan hệ khăng khít với nhau
– Đều xác định lãnh đạo là giai cấp công nhân thông qua Chính đảng tiên phong, cách
mạng Việt Nam là 1 bộ phận, có quan hệ mật thiết, gắn bó với cách mạng thế giới.
Khác nhau:
Cương lĩnh chính trị Luận cương chính trị
Nhiệm vụ Đánh đổ đế quốc Pháp,
phong kiến và tư sản phản
cách mạng.
Đánh phong kiến và đánh
đế quốc là hai nhiệm vụ có
quan hệ khăng khít
Mục tiêu Làm cho Việt Nam độc lập,
thành lập chính phủ công-
nông. Tịch thu sản nghiệp
cả đế quốc và tư sản phản
cách mạng chia cho dân
nghèo.
Làm cho Đông Dương độc
lập chính phủ công-nông,
tiến hành cách mạng ruộng
đất triệt để.
Lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam,
đội tiên phong của giai cấp
với giữ vai trò lãnh đạo.
Giai cấp vô sản với đội tiên
phong là Đảng Cộng sản.
Lực lượng Công, nông, tiểu tư sản, trí
thức, còn phú nông, trung,
tiểu địa chủ và tư sản thì
lợi dụng hoặc trung lập.
Giai cấp công dân và nong
dân.
Chiến lược sách lược cách
mạng
Tiến hành “tư sản dân
quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản”.
Cách mạng Đông Dương
lúc đầu là cách mạng tư sản
dân quyền, sau đó tiến
thẳng lên xã hội chủ nghĩa,
bỏ qua thời kỳ tư bản chủ
nghĩa.4
7. Chủ trương đấu tranh 1930-1931 và khôi phục phong trào cách mạng?
Chủ trương đấu tranh 1930-1931
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã xác định: Đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Đảng chủ trương xây dựng khối đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân
dân yêu nước và các tổ chức cách mạng, chỉ đánh đổ những lực lượng và đảng phái
phản cách mạng: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,
Thanh niên, Tân Việt,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú
nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản Cách mạng thì phải
lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản Cách
mạng thì phải đánh đổ”.
- Cương lĩnh chính trị của Đảng chỉ rõ giai cấp lãnh đạo và lực lượng chính, động
lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là: “Trong cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền
lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”
10/1930 Luận cương chính trị ra đời thay thế cho Cương lĩnh chính trị xác định mâu
thuẫn giai cấp diễn ra ngày càng gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên.
- Cách mạng Đông Dương ban đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, “có
tính chất thổ địa và phản đế”.Sau đó tiếp tục “Phát triển, bỏ qua thời kì tư bổn mà
tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”
- Luận cương nhấn mạnh: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của Cách mạng Tư sản dân
quyền”
- 1931, chịu sự khủng bố của thực dân Pháp, quần chúng nhân dân xuất hiện tư tưởng
hoang mang,dao động kể cả Đảng viên.Xứ uỷ Trung Kì đã không nhận ra được nên đề
ra một chủ trương sai lầm “thanh trừ trì, phú, địa, hào, đào tận gốc tận rễ”.
- 5/1931,Thường vụ Trung Ương Đảng ra chủ thị phê phán nghiêm khắc chủ trương
sai lầm về thanh Đảng của Xứ uỷ Trung Kì.
Khôi phục phong trào cách mạng
- Vừa mới ra đời, Đảng trở thành đội tiên phong lãnh đạo cách mạng, phát động được
một phong trào cách mạng rộng lớn, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Đế quốc Pháp
và tay sai thẳng tay đàn áp, khủng bố. Lực lượng của ta đã bị tổn thất lớn: nhiều cơ sở
Đảng tan vỡ, nhiều cán bộ cách mạng, đảng viên ưu tú bị địch bắt, giết, tù đày. Phong
trào đấu tranh lắng xuống.
- Thành quả lớn nhất của phong trào cách mạng 1930-1931 mà quân thù không thể
xoá bỏ được là: Khẳng định trong thực tế vai trò và khả năng lãnh đạo cách mạng của
giai cấp vô sản, của Đảng; Hình thành một cách tự nhiên khối liên minh công-nông
trong đấu tranh cách mạng; Đem lại cho nhân dân niềm tin vững chắc vào Đảng, vào
cách mạng. Bị địch khủng bố nhưng một số nơi tổ chức cơ sở Đảng vẫn được duy trì:
Hà Nội, Sơn Tây, Hải Phòng, Nghệ Tĩnh…. Các đảng viên chưa bị bắt nỗ lực lần tìm
lại cơ sở để lập lại tổ chức.
- Công việc khôi phục Đảng phải kể đến vai trò to lớn của Quốc tế Cộng sản: Lựa
chọn những thanh niên tốt nghiệp tại Đại học Phương Đông, cử về Hồng Kông (Trung
Quốc) thành lập Ban chỉ huy hải ngoại-hoạt động với tư cách là Ban Chấp hành Lâm
thời (thay cho Ban Chấp hành cũ đã tan vỡ): Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí
Kiên….Ban lãnh đạo hải ngoại do Lê Hồng Phong đứng đầu đã công bố Chương trình
hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 6-1932). Cuộc đấu tranh đòi ân xá
chính trị phạm đã dẫn tới năm 1934 toàn quyền Đông Dương đã ký lệnh ân xá tù
chính trị ở Đông Dương. Đây là lần đầu tiên Pháp ký lệnh ân xá tù chính trị.
8. Chủ trương đấu tranh 1936-1939, 1939 – 1945?
Chủ trương đấu tranh 1936 – 1939
Hoản cảnh, điều kiện lịch sử: để giaỉ quyết những hậu quả của cuộc khủng hoảng
kinh tế 1929 – 1933, giai cấp tư sản ở một số nước như Đức, Italia, Tân Ban Nha…
chủ trương dùng bạo lực đàn áp phong trào đấu tranh trong nước và chuẩn bị phát
động chiến tranh thế giới để chia lại thị trường. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và tạm
thời thắng thế ở một số nơi.
Các đảng cộng sản ra sức phấn đấu lập mặt trận nhân dân chống chủ nghĩa phát
xít. Ở Việt Nam, mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn có những cải cách dân chủ
nhằm thoát khỏi tình trạng ngột ngạt do khủng khoảng kinh tế và chính sách khủng bố
trắng do thực dân Pháp gây ra.
- Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương Tháng 7/1936, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) đã xác định:
+ Nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống
phát xít, chống chiến tranh
+ Mục tiêu: đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
+ Kẻ thù trước mắt là thực dân phản động Pháp và tay sai.
+ Phương pháp đấu tranh kết hợp các hình thức công khai mật, hợp pháp bất
hợp pháp.
+ Thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương, đến tháng 3/1938 đổi
thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Chủ trương đấu tranh 1939 -1945
Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng
- Tháng 9 – 1939, Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. Chính phủ Daladier thi hành một
loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trái cách mạng ở
thuộc địa.
- Tháng 6 – 1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ của Thủ tưởng Pêtanh ký văn bản
đầu hàng Đức. Tứng Đờ Gôn ra nước ngoài để xây dựng lực lượng kháng chiến chống
Đức. Sau khi chiếm một loạt nước châu Âu, tháng 6 – 1941 Đức tiến công Liên Xô.
- Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến, phát xít hoá bộ máy
thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào ách mạng; thực hiện chính sách “kinh tế chr
huy” nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ cuộc chiến đế quốc.
- Tháng 12 – 1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ. Quận phiệt Nhật lần lượt
đánh chiếm nhiều thuộc địa của Mỹ và Anh ở trên biển và trong đất liền.
Chủ trương đấu tranh:
- Ngày 29/91939, Trung ương Đảng gửi toàn Đảng một thông báo quan trọng chỉ rõ:
“Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”.
- Hội nghị nhấn mạnh “chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay
đổi ít nhiều cho hợp với tình thế mới”. “Đứng trên lập trừng giải phóng dân tộc, lấy
quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền
địa cũng phải nhằm vào cái mục đíc ấy mà giải quyết”
- “Vấn đề chính là nhận định cuộc cách mạng trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, lập Mặt trân Việt Minh, khẩu hiệu chính là Đoàn kết toàn
dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập; hoãn cách mạng ruộng đất”.
9. Sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng thông qua HNTW 6,7,8?
- Hội nghị BCHTW 6 được tiến hành từ ngày 06 đến 08/11/1939 tại Bà Điểm, Gia
Định do đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư BCHTW Đảng chủ trì (Tham dự có các
đồng chí: Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ văn Tần) hội nghị đánh dấu sự chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược;
Hội nghị quyết định: Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông
Dương; Hội nghị quyết định thay đổi một số khẩu hiệu, chuyển hướng hình thức đấu
tranh:
Tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ mà chủ trương tịch thu ruộng đất
của đế quốc và tay sai; Không nêu khẩu hiệu thành lập chính phủ Xô viết công nông binh
mà đề ra khẩu hiệu lập Chính phủ Liên bang cộng hoà dân chủ Đông Dương;
Hội nghị quyết định: Thành lập Mặt trận thống nhất phản đế Đông Dương, thay thế
cho Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương.
- Hội nghị BCHTW 7: Tháng 11/1940 tại Đình Bảng, Bắc Ninh, có Đ/c Hoàng Văn
Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phan Đăng Lưu, Trần Đăng Ninh tham dự
Hội nghi nhận định cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy, Đảng phải chuẩn bị
giành lấy sứ mệnh thiêng liêng cao cả là lãnh đạo cách mạng võ trang giành chính quyền;
Hội nghị xác định kẻ thù chính của cách mạng Đông Dương lúc này là phát xít Nhật -
Pháp; Hội nghị quyết định duy trì cuộc khởi nghĩa Bắc sơn, xúc tiến xây dựng căn cứ
cách mạng; Hội nghị cử ra BCHTW lâm thời do đồng chí Trường Chinh làm quyền Tổng
Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Hội nghị BCHTW 8: Tháng 5/1941, tại Pắc Pó, Cao Bằng do đồng chí Nguyễn Ái
Quốc trực tiếp chủ trì, tham dự có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ,
Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên và một số đồng chí đại biểu của xứ uỷ Bắc kỳ,
Trung kỳ, đại biểu của tổ chức Đảng ta ở nước ngoài;
Hội nghị phát triển, hoàn chỉnh đường lối cách mạng của nghị quyết BCHTW6, 7
và khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, cấp bách của cách
mạng Việt Nam;
Hội nghị chủ trương không giữ khẩu hiệu thành lập Chính phủ Liên bang cộng hoà
dân chủ Đông Dương như trước đây mà giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ
từng nước. Hội nghị chỉ rõ: Chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền là nhiệm
vụ trọng tâm của Đảng và nhân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị quyết định thành
lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh)
10.Tính chất, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm
1945?
Tính chất
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phòng dân tộc mang
tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phân khăng khít của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân Việt Nam”.
- Là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Mục đíc là làm cho dân tộc Việt Nam
thoát khỏi ách đế quốc, làm cho nước Việt Nam thành một nước độc lập tự do.
- Là một cuộc cách mạng giải phống dân tộc điển hình, thể hiện: tập trung hoàng thành
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc, lực lượng cách mạng bao
gồm toàn dân tộc, thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc”; thành
lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc;
Ý nghĩa
- Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân phân nô lệ
vương lên địa vị người chủ mất nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình.
- Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập có chủ quyền,
vương lên cùng cách dân tộc trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu cao cả của
thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật trở thành một đảng cầm
quyền.
Kinh nghiệm
- Về chỉ đạo chiến lược, phải giương cao ngon cờ giải phóng dân tộc, giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng rượng đất.
- Về xây dưng lực lượng, trên cơ sở khối liên minh công nông, cần khơi dậy tính thần
dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong mặt trân
dân tộc thống nhất rộng rãi.
- Về phương pháp cách mạng, nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của quần
chúng, ra sức xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa
từng thành phần,…
- Về xây dưng Đảng, phải xây dưng một Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và toàn bộ dân tộc Việt Nam, tuyệt đối trung thành với lợi
ích giai cấp và dân tộc,…
-
| 1/13

Preview text:

1. Cho biết hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX tác động đến Việt Nam?
Chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc
quyền (chủ nghĩa đế quốc). Chủ nghĩa đế quốc là sự xâm lược áp đặt sự thống trị của một
quốc gia này lên một quốc gia khác. Chủ nghĩa đế quốc xuất hiện đã dẫn tới mẫu thuẫn
của đế quốc với các nước thuộc địa, tác động trực tiếp tới Việt Nam.
Chủ nghĩa MácLenin - là học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp đã ảnh
hưởng đến hệ tự tưởng của Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ. Chủ nghĩa Mác Lê Nin đã cung
cấp cho người cơ sở, thế giới quan, phương pháp luận. Từ đó, người đã tìm thấy “muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”. Người đã dần định hình ra con đường Việt Nam phù hợp với quy luật phát triển của
lịch sử - con đường đọc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng 10 Nga thành công vào ngày 7 tháng 11 năm 1917 đã cổ vũ
mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động các nước, các
dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trong đó có Việt Nam. Năm 1919,
Quốc tế Cộng sản ra đời – mổ tổ chức cách mạng của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới. Cách mạng tháng 10 Nga và các hoạt động cách mạng của Quốc tế
Cộng sản đã ảnh hưởng mạnh mẽ và thức tỉnh phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa, trong đó có Việt Nam và Đông Dương.
2. Chính sách cai trị của Thực dân Pháp ở Việt Nam và hậu quả của nó?
Từ năm 1897, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa lớn: Cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897–1914) do toàn quyền Đông Dương Paul Dou mer
thực hiện và khai thác thuộc địa lần thức 2 (1919-1929).
Về tổ chức bộ máy nhà nước, thực dân Pháp thành lập Lên bang Đông Dương, gồm
có Việt Nam, Campuchia, Lào, đứng đầu và viên toàn quyền người pháp. Việt Nam bị
chia làm ba xứ với ba chế độ cai trị khác nhau (Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì).
Đối với chính sách cai trị về kinh tế, thực dân Pháp đẩy mạnh việc cướp đoạt ruộng
đất, Bọn chủ đất mới vẫn áp dụng phương pháp bóc lột nông dân theo kiểu phát canh thu
tô như địa chủ Việt Nam. Đối với công nghiệp, thực dân Pháp tập trung vào hoạt động
khai thác than và kim loại. Thực dân Pháp xây dựng hệ thống giao thông vận tải nhằm
tăng cường việc bóc lột kinh tế và dễ dàng đàn áp cuộc đấu tranh nhân dân.
Hàng hoá của Pháp khi nhập khẩu vào Việt Nam đánh thuế rất nhẹ hoặc thuộc đối
tượng miễn thuế. Còn hàng hoá trong nước hoặc nhập khẩu từ các nước khác thì phải
chịu với mức thuế rất cao, có mặt hàng lên đến 120%. Ngoài ra, thực dân Pháp còn đánh
thuế muối, rượu, thuốc phiện,…
Đối với chính sách về văn hoá, giáo dục, thực dân Pháp đã thi hành một chính sách
đầu độc, ngu dân đồng thời truyền bá văn hoá và giáo dục của Pháp để phục vụ cho chính
sách thuộc địa của mình. Chúng nô dịch tinh thần quần chúng, biến quần chúng thành
những đáp đông tự ti, khiếp nhược trước sức mạnh của văn minh đại Pháp,… Trong nội
dung chươn trình giảng dạy của hệ thống giáo dục này, thực dân Pháp đã loại trừ những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, thay vào đó là chương trình truyền bá “văn
minh đại Pháp” nhằm đào tạo một thế hệ người Việt Nam “mất gốc”, không có tinh thần
yêu nước và ý thức về số phận của người dân mất nước.
3. Sự phân hoá giai cấp ở Việt Nam.
Địa chủ phong kiến
- Giai cấp địa chủ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm trong lịch sử từ địa vị là giai cấp
thống trị nay trở thành tay sai cho thực dân Pháp câu kết với thực dân Pháp bóc lột
nhân dân ta. Giai cấp địa chủ được chia thành: Đại địa chủ, trung địa chủ, tiểu địa chủ
- Những địa chủ phong kiến phản cách mạng được thực dân Pháp dung dưỡng và nuôi
béo vì vậy đây chính là đối tượng của cách mạng
- Những địa chủ phong kiến bị đế quốc chèn ép có tinh thần dân tộc và tinh thần cách
mạng. Tuy nhiên cũng không trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp nông dân
- Chiếm 90% trong xã hội phong kiến thực dân Việt Nam bao gồm: Phú nông, trung nông, bần nông, cố nông
- Giai cấp nông dân bị địa chủ phong kiến và đế quốc bóc lột nặng nề, đế quốc bóc lột
nhân dân bằng sưu cao thuế nặng, địa chủ bóc lột nhân dân bằng cướp đoạt ruộng đất,
địa tô, cướp đoạt ruộng đất dẫn đến giai cấp nông dân bị đẩy vào đường cùng.
- Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất và hăng hái nhất có vai trò quyết định
đến cuộc giải phóng dân tộc, bị đế quốc và địa chủ chèn ép mâu thuẫn đặc biệt với đế
quốc thực dân và phong kiến tay sai phản động vừa có mâu thuẫn về dân tộc vừa có
mâu thuẫn về giai cấp trong đó mâu thuẫn dân tộc là lớn nhất. Tuy nhiên giai cấp
nông dân cũng không thể trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng do trình độ văn hoá thấp.
Giai cấp công nhân
- Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ngay từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất.
- Giai cấp công nhân Việt Nam còn rất trẻ chiếm 1% dân số, trình độ văn hoá kỹ thuật rất thấp.
- Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: Ngoài những đặc điểm chung với giai
cấp công nhân thế giới giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng biệt
khác so với giai cấp công nhân thế giới.
Giai cấp tư sản
- Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp sau chiến tranh thế giới thứ
nhất và dần dần họ đã trở thành một giai cấp rõ rệt. Trước đó họ chỉ được gọi là một tầng lớp.
- Tư sản mại bản là những tư bản hoạt động trong lĩnh vực thầu khoán, công nghiệp và
xây dựng, có quyền lợi gắn liền với thực dân Pháp đây là đối tượng CM.
- Tư sản dân tộc là những nhà tư sản vừa và nhỏ có xu hướng kinh doanh độc lập bị tư
sản Pháp chèn ép nên họ có tinh thần dân tộc chống thực dân Pháp, chống phong kiến.
Giai cấp này có tư tưởng dao động do đó cũng không thể trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp tiểu tư sản
- Hình thành trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp sau chiến tranh thế giới
thứ nhất bao gồm: Trí thức, học sinh-sinh viên, công chức, tiểu thương, tiểu chủ, dân
nghèo thành thị. Họ sống chủ yếu ở thành thị và khu công nghiệp bị thực dân Pháp
chèn ép dễ bị rơi vào tình trạng thất nghiệp.
- Giai cấp tiểu tư sản cũng rất hăng hái tham gia cách mạng và là một trong những động
lực đáng kể của cách mạng, họ là đồng minh của giai cấp công nhân có thể đi với giai
cấp công nhân đến xã hội chủ nghĩa.Tuy nhiên tư tưởng của họ rất dao động do đó
cũng không thể trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng.
4. Công lao của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam?
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân
tộc. Qua trải nghiệm của nhiều nước và thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917 đã tác động mạnh mẽ với nhận thức của Nguyễn Tất Thành – đây là cuộc “cách
mạng đến nơi”. Nguyến Ái quốc đã chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra
đời của Đảng. Đối với tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia thành lập Hội liên hiệp
thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ) – đây là tờ báo đầu tiên có
mục đích thực hiện nhiệm vụ đoàn kết nhân dân các nước thuộc địa với nhau, đoàn kết
nhân dân các nước thuộc địa với nhân dân chính quốc đấu tranh kẻ thù chung.
Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa
nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản sản.
Nguyễn Ái Quốc tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của của chủ
nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp
bức đấu tranh giải phóng
Về chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Cách mạng trước hết phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị
áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Về tổ chức, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại
Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn vào tháng 6-1925. Hội đã xuất
bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo), tuyên truyền
tôn chỉ, mục đích của Hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lênin và phương hướng phát
triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam.
5. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng?
Trước nhu cầu cấp bách của phong tráo cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc - với
tư cách là pháp viên của Quốc tế Cộng sản, ngày 23-12-1929 triệu tập đại biểu của Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến họp tai Cửu Long (Hồng Koong)
tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam.
Thành phần dự Hội nghị: gồm 2 đại biểu của Đông Dương Công sản Đảng (Trịnh
Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng, dưới sự chủ trì
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – đại biểu của Quốc tế Cộng sản.
Chương trình nghị sự của Hội nghị:
1. Đại biểu của Quốc tế Cộng Sản nói lý do cuộc hội nghị;
2. Thảo luận ý kiến của đại biểu Quốc tế Cộng sản;
Nguyễn Ái Quốc nêu ra năm điểm lớn cần thảo luận và thống nhất:
1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương;
2. Định tên Đảng là Đảng cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời…”.
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:
Có hai văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của
Đảng đã phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và
sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiện này là Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định:
- Nhiệm vụ chủ yếu trước mặt của các mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
- Về phương diện xã hội, “a) Dân chúng được tự do tổ chức. b) Nam nữ bình
quyền,v.v…c) phổ thông giao dục theo công nông hoá”.
- Về phương diện kinh tế, thủ tiêu hêt các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn của
tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nong binh quản lý,…
- Lực lực cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân – đây là lực lượng cơ bản,
trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời đoàn kết tất cả cách mạng,…
- Vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu
phục cho được đại bộ phân giai cấp mình, phải làm sao cho giai cấp mình lãnh đạ được dân chúng”….
6. So sánh sự giống và khác nhau giữa Cương lĩnh Chính trị đầu tiên và Luận cương tháng 10/1930?
Giống nhau: – Đều xác định tính chất của cách mạng trong giai đoạn trước mắt là tư sản
dân quyền, sau đó bỏ qua giai đoạn TBCN, tiến thẳng lên XHCN và chủ nghĩa cộng sản
– Đều xác định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là chống đế quốc, chống
phong kiến, 2 nhiệm vụ này có mối quan hệ khăng khít với nhau
– Đều xác định lãnh đạo là giai cấp công nhân thông qua Chính đảng tiên phong, cách
mạng Việt Nam là 1 bộ phận, có quan hệ mật thiết, gắn bó với cách mạng thế giới. Khác nhau: Cương lĩnh chính trị Luận cương chính trị Nhiệm vụ
Đánh đổ đế quốc Pháp,
Đánh phong kiến và đánh
phong kiến và tư sản phản
đế quốc là hai nhiệm vụ có cách mạng. quan hệ khăng khít Mục tiêu
Làm cho Việt Nam độc lập, Làm cho Đông Dương độc
thành lập chính phủ công-
lập chính phủ công-nông,
nông. Tịch thu sản nghiệp
tiến hành cách mạng ruộng
cả đế quốc và tư sản phản đất triệt để. cách mạng chia cho dân nghèo. Lãnh đạo
Đảng cộng sản Việt Nam,
Giai cấp vô sản với đội tiên
đội tiên phong của giai cấp phong là Đảng Cộng sản.
với giữ vai trò lãnh đạo. Lực lượng
Công, nông, tiểu tư sản, trí Giai cấp công dân và nong
thức, còn phú nông, trung, dân.
tiểu địa chủ và tư sản thì
lợi dụng hoặc trung lập.
Chiến lược sách lược cách
Tiến hành “tư sản dân Cách mạng Đông Dương mạng
quyền cách mạng và thổ
lúc đầu là cách mạng tư sản
địa cách mạng để đi tới xã dân quyền, sau đó tiến hội cộng sản”.
thẳng lên xã hội chủ nghĩa,
bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa.4
7. Chủ trương đấu tranh 1930-1931 và khôi phục phong trào cách mạng?
Chủ trương đấu tranh 1930-1931
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã xác định: Đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Đảng chủ trương xây dựng khối đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân
dân yêu nước và các tổ chức cách mạng, chỉ đánh đổ những lực lượng và đảng phái
phản cách mạng: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,
Thanh niên, Tân Việt,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú
nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản Cách mạng thì phải
lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản Cách
mạng thì phải đánh đổ”.
- Cương lĩnh chính trị của Đảng chỉ rõ giai cấp lãnh đạo và lực lượng chính, động
lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là: “Trong cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền
lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”
10/1930 Luận cương chính trị ra đời thay thế cho Cương lĩnh chính trị xác định mâu
thuẫn giai cấp diễn ra ngày càng gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên.
- Cách mạng Đông Dương ban đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, “có
tính chất thổ địa và phản đế”.Sau đó tiếp tục “Phát triển, bỏ qua thời kì tư bổn mà
tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”
- Luận cương nhấn mạnh: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của Cách mạng Tư sản dân quyền”
- 1931, chịu sự khủng bố của thực dân Pháp, quần chúng nhân dân xuất hiện tư tưởng
hoang mang,dao động kể cả Đảng viên.Xứ uỷ Trung Kì đã không nhận ra được nên đề
ra một chủ trương sai lầm “thanh trừ trì, phú, địa, hào, đào tận gốc tận rễ”.
- 5/1931,Thường vụ Trung Ương Đảng ra chủ thị phê phán nghiêm khắc chủ trương
sai lầm về thanh Đảng của Xứ uỷ Trung Kì.
Khôi phục phong trào cách mạng
- Vừa mới ra đời, Đảng trở thành đội tiên phong lãnh đạo cách mạng, phát động được
một phong trào cách mạng rộng lớn, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Đế quốc Pháp
và tay sai thẳng tay đàn áp, khủng bố. Lực lượng của ta đã bị tổn thất lớn: nhiều cơ sở
Đảng tan vỡ, nhiều cán bộ cách mạng, đảng viên ưu tú bị địch bắt, giết, tù đày. Phong
trào đấu tranh lắng xuống.
- Thành quả lớn nhất của phong trào cách mạng 1930-1931 mà quân thù không thể
xoá bỏ được là: Khẳng định trong thực tế vai trò và khả năng lãnh đạo cách mạng của
giai cấp vô sản, của Đảng; Hình thành một cách tự nhiên khối liên minh công-nông
trong đấu tranh cách mạng; Đem lại cho nhân dân niềm tin vững chắc vào Đảng, vào
cách mạng. Bị địch khủng bố nhưng một số nơi tổ chức cơ sở Đảng vẫn được duy trì:
Hà Nội, Sơn Tây, Hải Phòng, Nghệ Tĩnh…. Các đảng viên chưa bị bắt nỗ lực lần tìm
lại cơ sở để lập lại tổ chức.
- Công việc khôi phục Đảng phải kể đến vai trò to lớn của Quốc tế Cộng sản: Lựa
chọn những thanh niên tốt nghiệp tại Đại học Phương Đông, cử về Hồng Kông (Trung
Quốc) thành lập Ban chỉ huy hải ngoại-hoạt động với tư cách là Ban Chấp hành Lâm
thời (thay cho Ban Chấp hành cũ đã tan vỡ): Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí
Kiên….Ban lãnh đạo hải ngoại do Lê Hồng Phong đứng đầu đã công bố Chương trình
hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 6-1932). Cuộc đấu tranh đòi ân xá
chính trị phạm đã dẫn tới năm 1934 toàn quyền Đông Dương đã ký lệnh ân xá tù
chính trị ở Đông Dương. Đây là lần đầu tiên Pháp ký lệnh ân xá tù chính trị.
8. Chủ trương đấu tranh 1936-1939, 1939 – 1945?
Chủ trương đấu tranh 1936 – 1939
Hoản cảnh, điều kiện lịch sử: để giaỉ quyết những hậu quả của cuộc khủng hoảng
kinh tế 1929 – 1933, giai cấp tư sản ở một số nước như Đức, Italia, Tân Ban Nha…
chủ trương dùng bạo lực đàn áp phong trào đấu tranh trong nước và chuẩn bị phát
động chiến tranh thế giới để chia lại thị trường. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và tạm
thời thắng thế ở một số nơi.
Các đảng cộng sản ra sức phấn đấu lập mặt trận nhân dân chống chủ nghĩa phát
xít. Ở Việt Nam, mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn có những cải cách dân chủ
nhằm thoát khỏi tình trạng ngột ngạt do khủng khoảng kinh tế và chính sách khủng bố
trắng do thực dân Pháp gây ra.
- Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương Tháng 7/1936, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) đã xác định:
+ Nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống
phát xít, chống chiến tranh
+ Mục tiêu: đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
+ Kẻ thù trước mắt là thực dân phản động Pháp và tay sai.
+ Phương pháp đấu tranh là kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp.
+ Thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương, đến tháng 3/1938 đổi
thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Chủ trương đấu tranh 1939 -1945
Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng
- Tháng 9 – 1939, Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. Chính phủ Daladier thi hành một
loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trái cách mạng ở thuộc địa.
- Tháng 6 – 1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ của Thủ tưởng Pêtanh ký văn bản
đầu hàng Đức. Tứng Đờ Gôn ra nước ngoài để xây dựng lực lượng kháng chiến chống
Đức. Sau khi chiếm một loạt nước châu Âu, tháng 6 – 1941 Đức tiến công Liên Xô.
- Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến, phát xít hoá bộ máy
thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào ách mạng; thực hiện chính sách “kinh tế chr
huy” nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ cuộc chiến đế quốc.
- Tháng 12 – 1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ. Quận phiệt Nhật lần lượt
đánh chiếm nhiều thuộc địa của Mỹ và Anh ở trên biển và trong đất liền. Chủ trương đấu tranh:
- Ngày 29/91939, Trung ương Đảng gửi toàn Đảng một thông báo quan trọng chỉ rõ:
“Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”.
- Hội nghị nhấn mạnh “chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay
đổi ít nhiều cho hợp với tình thế mới”. “Đứng trên lập trừng giải phóng dân tộc, lấy
quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền
địa cũng phải nhằm vào cái mục đíc ấy mà giải quyết”
- “Vấn đề chính là nhận định cuộc cách mạng trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, lập Mặt trân Việt Minh, khẩu hiệu chính là Đoàn kết toàn
dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập; hoãn cách mạng ruộng đất”.
9. Sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng thông qua HNTW 6,7,8?
- Hội nghị BCHTW 6 được tiến hành từ ngày 06 đến 08/11/1939 tại Bà Điểm, Gia
Định do đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư BCHTW Đảng chủ trì (Tham dự có các
đồng chí: Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ văn Tần) hội nghị đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược;
Hội nghị quyết định: Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông
Dương; Hội nghị quyết định thay đổi một số khẩu hiệu, chuyển hướng hình thức đấu tranh:
Tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ mà chủ trương tịch thu ruộng đất
của đế quốc và tay sai; Không nêu khẩu hiệu thành lập chính phủ Xô viết công nông binh
mà đề ra khẩu hiệu lập Chính phủ Liên bang cộng hoà dân chủ Đông Dương;
Hội nghị quyết định: Thành lập Mặt trận thống nhất phản đế Đông Dương, thay thế
cho Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương.
- Hội nghị BCHTW 7: Tháng 11/1940 tại Đình Bảng, Bắc Ninh, có Đ/c Hoàng Văn
Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phan Đăng Lưu, Trần Đăng Ninh tham dự
Hội nghi nhận định cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy, Đảng phải chuẩn bị
giành lấy sứ mệnh thiêng liêng cao cả là lãnh đạo cách mạng võ trang giành chính quyền;
Hội nghị xác định kẻ thù chính của cách mạng Đông Dương lúc này là phát xít Nhật -
Pháp; Hội nghị quyết định duy trì cuộc khởi nghĩa Bắc sơn, xúc tiến xây dựng căn cứ
cách mạng; Hội nghị cử ra BCHTW lâm thời do đồng chí Trường Chinh làm quyền Tổng
Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Hội nghị BCHTW 8: Tháng 5/1941, tại Pắc Pó, Cao Bằng do đồng chí Nguyễn Ái
Quốc trực tiếp chủ trì, tham dự có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ,
Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên và một số đồng chí đại biểu của xứ uỷ Bắc kỳ,
Trung kỳ, đại biểu của tổ chức Đảng ta ở nước ngoài;
Hội nghị phát triển, hoàn chỉnh đường lối cách mạng của nghị quyết BCHTW6, 7
và khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, cấp bách của cách mạng Việt Nam;
Hội nghị chủ trương không giữ khẩu hiệu thành lập Chính phủ Liên bang cộng hoà
dân chủ Đông Dương như trước đây mà giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ
từng nước. Hội nghị chỉ rõ: Chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền là nhiệm
vụ trọng tâm của Đảng và nhân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị quyết định thành
lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh)
10. Tính chất, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945? Tính chất
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phòng dân tộc mang
tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phân khăng khít của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”.
- Là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Mục đíc là làm cho dân tộc Việt Nam
thoát khỏi ách đế quốc, làm cho nước Việt Nam thành một nước độc lập tự do.
- Là một cuộc cách mạng giải phống dân tộc điển hình, thể hiện: tập trung hoàng thành
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc, lực lượng cách mạng bao
gồm toàn dân tộc, thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc”; thành
lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc; Ý nghĩa
- Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân phân nô lệ
vương lên địa vị người chủ mất nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình.
- Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập có chủ quyền,
vương lên cùng cách dân tộc trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu cao cả của
thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật trở thành một đảng cầm quyền. Kinh nghiệm
- Về chỉ đạo chiến lược, phải giương cao ngon cờ giải phóng dân tộc, giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng rượng đất.
- Về xây dưng lực lượng, trên cơ sở khối liên minh công nông, cần khơi dậy tính thần
dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong mặt trân
dân tộc thống nhất rộng rãi.
- Về phương pháp cách mạng, nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của quần
chúng, ra sức xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng thành phần,…
- Về xây dưng Đảng, phải xây dưng một Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và toàn bộ dân tộc Việt Nam, tuyệt đối trung thành với lợi
ích giai cấp và dân tộc,… -