Bài tập thực hành số 13 Biên tập - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen
Bài tập thực hành số 13 Biên tập - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả
Môn: Tâm lý học - Khái niệm và Ứng dụng (qs)
Trường: Đại học Hoa Sen
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐI QUA NỖI ĐAU ĐỂ TRƯỞNG THÀNH
Đến đầu năm 1955, công cuộc giảm tô giảm tức được phát động. Cuối năm
1955, như tôi đã viết, cuộc cải cách ruộng đất diễn ra.
Tôi sẽ viết kĩ hơn một chút về cuộc cải cách ruộng đất này để các con, cháu
sau này có thể hiểu rõ. Đây là những tư liệu chính thống, tôi trích từ nghị quyết
Hội nghị trung ương 14, khoá II. Một nghị quyết quan trọng và khách quan về cải cách ruộng đất.
“Cuộc vận động cải cách ruộng đất ở miền Bắc nước t a phải tiến hành
trên cơ sở dựa hẳn vào bần, cố nông và đoàn kết chặt chẽ với trung nông. Song
muốn đánh đổ giai cấp địa chủ, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất ,
thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, phải lập Mặt trận chống phong kiến thật
rộng rãi ở nông thôn và triệt để phân hoá giai cấp địa chủ, chĩa mũi nhọn đấu
tranh chủ yếu vào bộ phận địa chủ phản động và ngoan cố nhất; phương pháp
tiến hành phải là phát động quần chúng đấu tranh kết hợp với chính quyền ra
lệnh và cuộc vận động ấy phải do các cấp uỷ đảng, kể cả chi uỷ, trực tiếp lãnh đạo thực hiện.
Chúng ta đã giành được thắng lợi cǎn bản trong cải cách ruộng đất l à vì
chúng ta đã kiên quyết đánh đổ giai cấp địa chủ, thực hiện nguyện vọng từ bao
đời của nông dân nước ta l
à người cày có ruộng. Nhưng chúng ta đã phạm một
số sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, chính vì
không nhận thức đầy đủ quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến,
đã không thấy một cách toà
n diện và đúng mức những sự thay đổi về lực lượng
so sánh giữa các giai cấp trong nông thôn nước t
a từ sau Cách mạng Tháng Tám,
đã nhấn mạnh quá đáng thế lực của giai cấp địa chủ và đánh giá quá thấp lực
lượng cách mạng của ta ở nông thôn, không thấy r
õ bản chất cách mạng của cá c tổ chức cơ sở của t
a ở các địa phương; do đó, chúng ta đã không sử dụng được
đầy đủ những điều kiện thuận lợi sẵn có trong quá trình lãnh đạo cải cách ruộng đất…” 1
“Đánh giá thắng lợi và sai lầm của cải cách ruộng đất
Hội nghị Trung ương lần thứ nǎm (11-1953) và Hội nghị toàn quốc của
Đảng (11-1953) đã thông qua bản Cương lĩnh của Đảng về vấn đề r ộ u ng đất.
Về mục đích chung của cuộc vận động cải cách ruộng đất, bản Cương lĩnh nói rõ:
"Để cải thiện đời sống của nông dân, để đẩy mạnh kháng chiến, đánh đuổi
đế quốc Pháp, can thiệp Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền, hoàn toàn giải phóng dân tộc.
Để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp,
mở đường cho công thương nghiệp phát triển, lợi cho kháng chiến và kiến quốc.
Cần phải xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc Pháp ở Việt Nam,
xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện
chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng".
Về chính sách đối với giai cấp địa chủ, cǎn cứ vào tình hình cụ thể của
nước ta và để phân hóa giai cấp địa chủ đến cao độ, bản Cương lĩnh đã chia địa
chủ làm ba loại: địa chủ cường hào gian ác, địa chủ thường và địa chủ kháng
chiến; đồng thời đề r
a ba biện pháp: tịch thu, trưng thu, tr n ư g mua, nhằm phân
biệt đối đãi với các hạng địa chủ và chiếu cố thích đáng những địa chủ kháng
chiến. Để tạo điều kiện cho địa chủ có thể la
o động cải tạo thành con người mới,
bản Cương lĩnh còn quy định rằng: "Khi tịch thu, trưng thu, tr n ư g mua, để cho
địa chủ một phần ruộng đất tương đối với phần ruộng đất được chia của nông dân
(trừ những địa chủ bị tù từ 5 nǎm trở lên)".
Bản Cương lĩnh cũng quy định những chính sách thích hợp đối với các tầng lớp tron
g nhân dân. Đối với trung nông, "kiên quyết bảo hộ ruộng đất, trâ u bò,
nông cụ, nhà cửa và tà i sản khác của trung nông", tuyệt đối không được xâm
phạm đến. Đối với phú nông, "không đụng đến ruộng đất, trâ u bò, nông cụ, nhà
cửa và tài sản khác của phú nông". Đối với các nhà công thương nghiệp, "bảo hộ
công nghiệp và thương nghiệp. Không trưng mua công nghiệp, thương nghiệp
của địa chủ và những đất đai cùng tài sản trực tiếp dùng vào công nghiệp và
thương nghiệp". Đối với những người có ít ruộng đất phát canh, "không đụng
đến ruộng đất" của họ. 2
Về chính sách chia ruộng đất ,trâu bò, nông cụ, v.v. tịch thu, trưng thu và tr n
ư g mua của giai cấp địa chủ thì "chia hẳn cho nông dân không có ruộng đất
hoặc thiếu ruộng đất ;họ được quyền sở hữu vĩnh viễn những thứ được chia và không phải trả tiền".
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh ruộng đất của Đảng l à đúng. Cương lĩnh
đó đã thể hiện được quan điểm đúng đắn của Đảng ta về quan hệ giữa hai nhiệm
vụ phản đế và phản phong kiến, thể hiện được việc kết hợp đúng đắn những nguyên l
ý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng dân chủ t ư sản với
thực tiễn cách mạng của nước ta. Nó bảo đảm giữ vững những nguyên tắc như
đánh đổ giai cấp địa chủ, xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, thực
hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, bồi dưỡng lực lượng nông dân, đồng thời
chiếu cố thích đáng đến những đặc điểm của tình hình nước ta ,nhằm là m cho
cuộc vận động cải cách ruộng đất đạt được những kết quả có lợi cho kháng chiến,
lợi cho sản xuất ,lợi cho việc hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng của Đảng và của toà n dân.
Để bảo đảm thực hiện tốt bản Cương lĩnh ruộng đất, Đảng ta đã đề ra đường
lối giai cấp ở nông thôn như sau:
"Dựa hẳn vào bần, cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp phú
nông, đánh đổ giai cấp địa chủ, tiê
u diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và
có phân biệt ,phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến".
Mặt khác, lại đề ra phương châm và sách lược: "Trên cơ sở thỏa mã
n yêu cầu về ruộng đất của nông dân, cần chú trọng
phân biệt đối đãi với các hạng địa chủ, triệt để phân hóa giai cấp địa chủ, chiếu
cố địa chủ kháng chiến một cách thích đáng, làm sao cho càng í tkẻ địch càng tốt".
Và sau khi hòa bình được lập lại ,có quy định thêm: "... Sác
h lược hiện nay là đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết ,tranh thủ
mọi lực lượng có thể tranh thủ, để mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, củng cố
hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc. 3
Cho nên dưới tiền đề thoả mãn yêu cầu ruộng đất của nông dân, bảo đảm th ihành
hiệp định đình chiến, trong phát động quần chúng, cần hạ thấp một số yêu cầu có
thể hạ thấp, giảm bớt một số nhiệm vụ có thể giảm bớt ;hết sức sử dụng hình thức
đấu tranh của chính quyền từ trên xuống kết hợp với hình thức đấu tranh của quần
chúng để cải cách ruộng đất được nhanh và gọn"3).
Nội dung cơ bản của Cương lĩ h
n ruộng đất của Đảng l à đúng. Cương lĩnh
đó đã thể hiện được quan điểm đúng đắn của Đảng ta về quan hệ giữa hai nhiệm
vụ phản đế và phản phong kiến, thể hiện được việc kết hợp đúng đắn những nguyên l
ý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng dân chủ t ư sản với
thực tiễn cách mạng của nước ta. Nó bảo đảm giữ vững những nguyên tắc như
đánh đổ giai cấp địa chủ, xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, thực
hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, bồi dưỡng lực lượng nông dân, đồng thời
chiếu cố thích đáng đến những đặc điểm của tình hình nước ta ,nhằm là m cho
cuộc vận động cải cách ruộng đất đạt được những kết quả có lợi cho kháng chiến,
lợi cho sản xuất ,lợi cho việc hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng của Đảng và của toà n dân.
Để bảo đảm thực hiện tốt bản Cương lĩnh ruộng đất, Đảng ta đã đề ra đường
lối giai cấp ở nông thôn như sau:
"Dựa hẳn vào bần, cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp phú
nông, đánh đổ giai cấp địa chủ, tiê
u diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và
có phân biệt ,phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến".
Đó là một số đoạn trích trong nghị quyết. Tôi trích nguyên văn để đảm bảo
tính chính xác. Sở dĩ tôi viết kĩ về giai đoạn này vì nó có ảnh hưởng rất lớn đến
gia đình chúng tôi. Bà con làng xóm đều biết, trước Cách mạng tháng Tám, gia
đình tôi thuộc vào loại giàu có của làng. Có vài mẫu ruộng, có trâu bò cày, có
người ở, có nhà lợp tranh kèo xóc rường cụt, nhà cao cửa rộng, có cổng nhà, có
hồ chứa nước… Tài sản ruộng vườn có được là nhờ cha mẹ làm ăn tần tảo, không
bóc lột ai, dân làng đều yêu mến. Cha mẹ thương yêu người nghèo khó, tạo công
ăn việc làm cho họ, công cán thanh toán sòng phẳng. Trong cách mạng tháng 4
Tám, cha mẹ tôi đã ủng hộ không ít tiền, vàng cho chính phủ Cách mạng lâm
thời, cùng tham gia trong chính quyền Cách mạng, tuyên truyền ủng hộ “Tuần lễ
vàng”, “Tuần lễ đồng”, giúp chính phủ lâm thời quyên góp tiền vàng, ủng hộ
lương thực trong những ngày đầu khó khăn của chính quyền mới.
Hơn thế nữa, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, gia đình tôi cũng một
lòng một dạ theo kháng chiến. Cha tôi là thành viên trong ban quyên góp lương
thực, thực phẩm cho dân quân, bộ đội, rào làng chiến đấu. Khi trên có chủ trương
tản cư, đảm bảo cho thanh niên trai tráng yên tâm đánh giặc, chúng tôi lại bồng
bế dắt díu nhau ra đi. Không mang theo bất kì tài sản gì ngoài mấy món đồ lưu
niệm trong gia đình. Tản cư ở xa, quay về làng, hoàn toàn tay trắng. Được về quê
sống trong điều kiện quê hương được giải phóng, đất nước hoà bình, thật vô cùng
hạnh phúc. Trước sau một lòng muốn gắn bó với mảnh đất ruột thịt, dùng sức lực,
ý chí để mà gây dựng lại cuộc sống. Cho đến thời điểm đó, gia đình tôi không
khác gì bất kì gia đình nào ở Cự Nẫm, đã từng phải bỏ lại tất cả ruộng vườn, tài
sản để tản cư và rồi khi từ nơi tản cư quay về thì cũng chính là một gia đình bần nông.
Nhưng khi có việc đấu tố xảy ra, không một ai lên tiếng bênh vực chúng
tôi bằng cái thực tế ấy. Cuộc sống chưa ổn định được bao lâu, nỗi mừng vui vì
sau bao vất vả cuối cùng cũng đến lúc đủ ăn đủ mặc chưa kịp nguôi thì cuộc Cải
cách ruộng đất diễn ra. Chúng tôi thực sự bàng hoàng khi Đội Cải cách ruộng đất
quy cho là gia đình địa chủ gian ác, là tay sai cho thực dân phong kiến, là kẻ thù
không đội trời chung của nông dân nghèo. Chẳng lẽ chúng tôi cũng lam lũ, giật
gấu vá vai, chạy ăn từng bữa lại không phải là nông dân nghèo?
Hồi đó tôi tròn 15 tuổi và mới chỉ học lớp 3. Tôi được cha mẹ dạy dỗ
nghiêm khắc, cẩn thận. Trải qua tuổi thơ khó nhọc, vất vả thiếu thốn, chứng kiến
cha mẹ anh chị làm lụng vất vả ngày đêm mới có được miếng ăn, miếng mặc. Tôi
không thể hiểu tại sao gia đình mình lại trở thành địa chủ gian ác được. Tôi còn
bàng hoàng ngơ ngác đến vậy, thì thử hình dung, cha mẹ tôi đau lòng, khốn khổ, tuyệt vọng cỡ nào. 5
Gia đình bị quy là địa chủ, và đã là địa chủ thì đương nhiên phải chịu “đấu
tố và tịch thu tài sản”. Tài sản thì có gì đâu mà tịch thu. Thứ lớn nhất là ruộng
đất, thì ruộng đất thực ra chỉ trên danh nghĩa. Vì khi chạy tản cư, bao nhiêu ruộng đất ủ
c a bất kì gia đình nào cũng bỏ lại hết, có ai mang ruộng theo mà chạy giặc
được đâu. Khi quay về làng thì ruộng đồng bị bỏ hoang hoá hết, ai có sức thì khai
hoang phục hoá, lấy nơi mà gieo trồng. Thứ quý giá thứ nhì là con trâu cày, được
mua bằng toàn bộ số tiền cha mẹ tôi tích cóp trong suốt 4 năm làm lụng ở Đồng
Lào, giắt lưng mang về. Họ dắt đi luôn. Còn nhà cửa, chỉ là căn nhà tranh, cột
nhà bằng nạng gỗ chôn xuống đất, vách cũng bằng tranh kết lại. Mấy cái thúng
mủng dần sàng là do cha tôi tự đan lát để dùng, đều bị tịch thu hết. Tài sản của
một gia đình địa chủ, có như vậy đó.
Chưa hết, có người đồn mẹ tôi có vàng. Đội Cải cách ruộng đất đã chỉ đạo :
- Phải bắt nó nhả ra cho bằng hết!
Giữa buổi trưa tháng Năm nắng gay gắt chói chang, trên gò đồi Cồn Hà,
người của đội Cải cách ruộng đất hô vang:
- Đả đảo tên địa chủ Bùi Thị thứ! Hãy trả lại vàng cho chúng tao!
Tiếng hô dồn dập, áp đảo. Mẹ tôi vừa khóc vừa trả lời :
- Thưa các ông, nhà tôi có vàng nhưng đã ủng hộ cho chính phủ cách mạng
từ tháng 8 năm 1945 rồi.
- Đả đảo địa chủ ngoan cố! Ngoan cố!
Nắng quá, cộng với uất ức quá, mẹ tôi bị choáng, ngã vật ra bãi cỏ. Tôi và
anh Phê cuống quýt bồng xốc mẹ vào dưới gốc cây mung sát bờ ruộng đồng Vực Khái.
Sau đấy là cái chết vô cùng thê lương của cha tôi. Cái đám tang đau khổ
tột cùng mà cả gia đình chúng tôi phải thực hiện để tiễn cha về với tổ tiên.
Mỗi lần nhớ lại chuyện này, trái tim tôi lại đau xé như có ai dùng tay mà bóp vặn.
Suốt cuộc đời mình, nỗi đau lớn nhất mà tôi phải mang trong lòng, chính
là khi cha mất, chúng tôi không thể nào làm nổi một đám tang tử tế cho ông. 6
Tôi còn nhớ như in, khi chúng tôi đang khóc thét lên vì cha ra đi đột ngột
lúc mờ sáng, thì có một người hàng xóm đến nhà. Ông ta giận dữ quát lớn:
- Chết thì chôn. Làm gì mà ầm ĩ lên thế?!
Nói xong ông ta quay lưng đi ra luôn.
Còn nhỏ, nhưng tôi vẫn nhớ lúc đó mình đã tự hỏi: Sao người ta lại có thể
vô cảm, tàn nhẫn như vậy? Không còn một chút tình người, một chút tình làng nghĩa xóm bao năm sao?
Đến tầm 10 giờ sáng hôm đó, có một người hàng xóm khác là cốt cán của
đội Cải cách ruộng đất đến nhà, vặn hỏi:
- Thuốc bây cho ông ta uống đâu?
Ông ta chỉ vào mặt mẹ tôi quát tháo. Mẹ tôi run rẩy, vừa nấc vừa trả lời :
- Dạ thưa, thuốc này tui lấy tại ông Sinh trên Xâu Nhì, Khương Hà…
Ông ta à lên một tiếng, đắc chí:
- Phải rồi! Phải rồi! Thằng Sinh này là địa chủ gian ác, y như cha tụi bây.
Nó bốc thuốc giết cha bây để chạy tội. Để đó! Không được chôn cất gì hết. Khi
nào có lệnh cấp trên hãy hay.
Nói xong ông ta mang luôn cái nồi đất còn đựng đầy thuốc hùng hổ ra khỏi nhà.
Người cán bộ “cốt cán” đi rồi, mẹ con tôi đứng ngồi không yên. Vừa lo
lắng vừa buồn tủi. Không biết rồi “cấp trên” sẽ quyết định thế nào. Liệu họ có để
cho mẹ con chúng tôi chôn cất cha yên ổn không hay còn phải trải qua những cơ cực nào nữa?
Hôm ấy trời còn mưa to. Mưa mãi không dứt, lại rét căm căm. Trong căn
lều xập xệ, bốn mẹ con tôi ôm nhau khóc. Mà cũng không dám khóc to. Lòng dạ tái tê, đau xé.
Khoảng 2 giờ chiều, người cán bộ “cốt cán” kia quay lại, thông báo:
- Chúng tao đã khám kĩ rồi. Cho mạ con bây được chôn cất ông ta.
Như tôi đã viết ở phần trước, bà con nội ngoại xa ầ g n không một ai dám
bén mảng đến chia buồn vì sợ liên luỵ. Xóm làng lại càng không vì cha tôi là “kẻ 7
thù giai cấp”, đâu phải chuyện đơn giản. Một loại “kẻ thù” không thể “đội trời chung”.
Người cha thân yêu của chúng tôi ra đi đến nay đã gần 70 năm. Năm ông
mất tôi mới 15 tuổi, nay tôi đã hơn 80, nhưng dấu ấn và cái đêm mưa gió rét buốt
của thiên nhiên, và nỗi đau đến tột cùng và băng giá tận cõi lòng của mẹ và chị
em chúng tôi không bao giờ nguôi ngoai được. Mỗi lần nghĩ đến ông, nghĩ đến
giây phút cha ra đi trong gió mưa, rét buốt là nước mắt cứ chảy vào trong, ngậm
ngùi đau đớn thương cha vô hạn... Đặc biệt hàng năm đến ngày giỗ của ông, tôi
lại càng ngậm ngùi thương cha nhớ mẹ. Tôi lại càng đau đáu nhớ về kỷ niệm xưa,
nỗi đau xưa. Nỗi mất mát đau thương vô cùng tủi nhục, để cả nhà tưởng niệm và
tiếc thương người cha, người ông xấu số của mình...
Tôi còn nhớ năm 1968, ngày giỗ lần thứ 13 của ông. Lúc này tôi đang học
tại trường trung cấp Sư phạm Quảng Bình tại vùng núi Cao Mại. Mặc dù chiến
tranh ác liệt, nhưng tôi vẫn tranh thủ về nhà cùng mẹ và anh chị em, bà con tổ
chức ngày giỗ cho ông. Thấy trên bàn thờ có mấy đòn bánh tét, tôi hỏi mẹ:
- Nếp đâu mà mẹ nấu bánh chưng cúng cha vậy? Mẹ tôi cười nói:
- Chị bây đem mấy củ sắn về cho, mự đã mài ra đùm bánh chưng cúng cho
ông, kẻo tội. Khi chết chẳng có gì ăn, bát cơm với đam mà mưa chan, gió giật...
Vì bánh sắn được ít, chúng tôi nhịn ăn để dành làm quà cho cháu nội ở
Hoàn Lão nhân ngày giỗ ông nội.
Gần 70 năm đã trôi qua, nhưng trong ký ức, tôi vẫn còn nhớ mồn một, nỗi
đau tột cùng ấy. Có lẽ trong cuộc đời không còn nỗi đau nào hơn thế nữa. Những
điều đã qua, đã lùi về dĩ vãng, lùi về quá khứ, nhắc nữa chỉ đau thêm, nhắc ữ n a
chỉ buồn thêm, nhức nhốói thêm... Nhưng không biết sao khi thương cha nhớ mẹ,
kỷ niệm đau thương đó cứ trở về, thứ dậy trong ký ức. Kỷ niệm một thời đất nước
gian truân, thời ấu trĩ của những người làm cách mạng là nông dân mù chữ, dẫn
đến sai lầm, đến mức Bác Hồ phải khóc khi đánh giá về cuộc cách mạng CCRĐ 8
năm 1956, cả hội trường của hội nghị Quốc hội đã nín lặng đi mấy phút; Tổng bí
thư Trung ương Đảng Trường Chinh xin từ chức...
(Theo lịch sử Đảng bộ Huyện Bố Trạch tập II (1954-1975): Toàn huyện
Bố Trạch sau sửa sai đã trả lại đảng tịch cho 316 đảng viên, phục hồi chức vụ
cho 48 đồng chí chi uỷ, xem xét lại 33 đồng chí cán bộ đảng viên mới được đề
bạt và kết nạp trong CCRĐ, trả lại tự do cho 143 người bị kết án sai trong đó có
32 đảng viên bị quy là địa chủ và qQuốc dân Đảng. Khi sửa sai thì sự đã rồi,
nhiều cán bộ Đảng viên, người có công với kháng chiến đã bị bắn chết do bị quy sai là địa chủ).
Riêng cha tôi, ông không phải bị đội CCRĐ xử bắn, mà do oan ức khi bị
quy là gia đình địa chủ nên ông đột ngột ra đi. Nhưng ngay cả khi ông đã ra đi
cũng phải mang theo bao nhiêu ấm ức, buồn tủi về thế giới bên kia.
Trong quá trình cải cách ruộng đất diễn ra, gia đình tôi bị quy địa chủ,
không tài sản, lại còn trở thành “kẻ thù không đội trời chung” của giai cấp nông
dân. Bỗng chốc bị đẩy sang bên kia của trận tuyến, bị đối xử tệ hại như kẻ thù.
Bà con gần tránh xa, bà con xa thì tham gia đấu tố. Chúng tôi không trách họ. Họ
cũng là nạn nhân của một thời “Cách mạng triệt để", đem lại ruộng đất của cải
cho người nông dân do bọn địa chủ cướp bóc, bóc lột. Nghe vậy ai chẳng thích
đấu tranh. “Kẻ địch” như chúng tôi không có quyền chống trả, mà có muốn chống
trả cũng không được. Do vậy chỉ có đường "ngoan ngoãn nghe theo", mặc dù vẫn
biết mình bị oan sai. Trời thì cao, đất thì rộng, kêu cứu cũng chẳng biết kêu ai.
Toàn bộ tài sản bị tịch thu sạch, kể cả cái dần sàng, cày cuốc, lưỡi liềm, l ỡ ư i hái,
thậm chí kể cả cái đòn xóc... Tài sản quý nhất là cái ấm nấu nước pha trà bằng
đồng được theo gia đình đi sơ tán ở Đồng Lào Tuyên Hoá, là kỷ vật quý nhất
truyền nhau qua 4 đời còn sót lại, rồi cái bể cạn của cha mua từ Thanh Hoá về
cũng bị tịch thu chia quả thực...
Tôi không trách ai, không oán giận ai. Càng biết ơn Đảng, Bác Hồ đã sớm
có chủ trương sửa sai. Mấy tháng sau đó, gia đình tôi cũng được trả lại thành phần
trung nông. Nhờ vậy anh em chúng tôi được hoà nhập với cộng đồng. Chúng tôi 9
được học hành, được Đảng giáo dục nên cả 3 anh em chúng tôi được kết nạp vào
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chúng tôi biết ơn Đảng, biết ơn cha mẹ. Ở dưới suối vàng cha tôi chắc
cũng hiểu được điều đó, nên đã phù hộ độ trì cho con cháu có ý chí mạnh mẽ, rèn
luyện phấn đấu, không ngừng hoàn thiện bản thân. Các con cháu đều trưởng
thành, có công danh, sự nghiệp, có cuộc sống bình an.
Sau khi được “trả lại thành phần”, vì tài sản có gì đều đã bị tịch thu, mẹ
con chúng tôi thực sự trắng tay. Chúng tôi sống lay lắt, mót khoai, mót sắn, ăn
rau rừng, bắt con tôm con cá dưới ao dưới sông, đói khổ bần cùng... Cũng may
có một chút an ủi tinh thần là cuối cùng thì cái gông “kẻ thù không đội trời chung
của người nông dân" cũng đã được cởi bỏ. Mẹ con chúng tôi vin vào điểm tựa
tinh thần ấy mà gắng gượng bấu víu vào nhau, gắng gượng làm lụng bòn nhặt để
tái lập lại cuộc sống. Chỉ có trong lòng cứ day dứt mãái, là cho dù đã được minh
oan, thì cha chúng tôi cũng đã vĩnh viễn đi xa. Ông không kịp hưởng niềm hạnh
phúc của sự thanh thản.
Giai đoạn ngay sau sửa sai, ở nông thôn còn xảy ra rất nhiều chuyện đau
lòng chứ không phải chỉ minh oan là chấm dứt mâu thuẫn, đau đớn. Trong nhiều
thôn xóm lúc bấy giờ đã xảy ra các vụ đánh nhau, thậm chí nhiều nơi đổ máu.
Chủ yếu là giữa những người bị kết án oan, từng bị đấu tố, nhục mạ, đau đớn
không tả xiết với những người tham gia đấu tố. Nhiều người đòi phải “trả nợ
máu”, nhiều người đòi ồ
b i thường. Có gia đình còn thờ kỷ vật ủ c a cha trên bàn
thờ để nhắc nhở cháu con không bao giờ được quên nỗi đau tận cùng…
Thời gian này, vì gia đình đã được “trả thành phần” nên tôi vẫn được theo
học lớp 6 tại cấp 2 Ba Đồn, Quảnh Trạch. Nhiều lần ra chợ Ba Đồn mua bánh đúc (loại bánh rẻ t ề
i n nhất, chỉ dành cho con nhà nghèo), đã chứng kiến các vụ
đánh đập nhau, các vụ trả thù thật khủng khiếp. Mâu thuẫn gay gắt tới mức tưởng
như đời đời kiếp kiếp không thể nào gỡ bỏ. Mâu thuẫn giữa gia đình với gia đình,
giữa dòng họ với dòng họ. Vì quá đau khổ nên không mấy ai kịp nhận ra rằng,
ngay cả những người “nông dân nghèo” tham gia đấu tố cũng chỉ là làm theo chỉ 10
đạo mù quáng của mấy ông “đội”. Mà ngay cả những “ông đội” này cũng ngu dốt
không biết phân biệt đúng sai, cứ lấy chủ trương ra mà vận dụng bất cần dừng lại một giây để suy nghĩ.
Những cuộc ẩu đả kinh khiếp này còn kéo dài rất lâu. Mỗi lần ẩu đả như
vậy là công an, quân đội lại phải túa ra giải tán.
Riêng ở Cự Nẫm, nhiều người bị quy sai, giết sai, nhưng vẫn bình tĩnh nhìn
nhận được vấn đề. Những người hôm qua là kẻ thù không đội trời chung thì hôm
nay họ là những người hàng xóm láng giềng, cũng nghèo khó như nhau, lam lũ
như nhau, cùng sinh sống trong một cộng đồng người nghèo đang nỗ lực vượt
qua khó khăn chung của một đất nước vừa đi qua cuộc chiến tranh chống thực
dân Pháp, đi qua cực khổ bần hàn của gần 90 năm đô hộ của chúng. Đó chính là
những ngày tháng đầu được sống trong hoà bình tự do dân chủ, được xây dựng
cuộc sống mới tự mình làm chủ, tự mình vươn lên, góp phần phục hồi, xây dựng
đất nước đã chịu quá nhiều tổn thất do chiến tranh. Chúng tôi, cả những người ị b
đấu tố và những người tham gia đấu tố đều cố gắng dẹp cái mâu thuẫn oái oăm
bậc nhất trong cuộc đời lại, để chăm lo cho cuộc sống hiện tại. Mục đích lớn nhất
chẳng phải là cần phải làm tất cả mọi thứ để lũ trẻ được ăn no mặc ấm, được cắp
sách đến trường, được trở thành những công dân có ích sao.
Mẹ con chúng tôi đến mùa ra đồng mót lúa, mót khoai, mót sắn, hái rau
vườn, rau rừng, nhờ khe suối để có cái ăn qua ngày thực phẩm. Dần dần, được bà
con trong làng giúp đỡ cho cái liềm cái cuốc, người cho con rựa, con dao... để tự
tăng gia sản xuất. Nhờ vậy mà cuộc sống của mấy mẹ con cũng dần dần ổn định,
hoà nhập với mọi người trong thôn, trong xóm như xưa. Sự cách ngăn giữa thành
phần "địa chủ" và nông dân dần dần mất hẳn...
Sở dĩ tôi viết kĩ về những năm tháng này là để con cháu sau này có thể hiểu
được phần nào về cuộc đời ông bà, cha mẹ. Chúng tôi đã phải đi qua những khó
nhọc tột cùng trong cuộc đời, đã phải chịu những nỗi đau lớn tới mức tuyệt vọng,
tưởng như không thể tìm ra lối thoát. Chúng tôi đã dùng tất cả sức lực và ý chí,
mẹ cố gắng vì các con, các con cố gắng vì mẹ, anh chị em cố gắng vì nhau, nắm 11
tay nhau lần hồi đi qua từng ngày một để tồn tại và không ngừng hyi vọng vào
một ngày mai tươi sáng hơn.
Các con, các cháu vô cùng yêu quý của tôi, đó chính là điều mà tôi muốn
gửi gắm trong cuốn sách này. Chúng ta phải không ngừng vươn lên, vượt qua.
Chúng ta phải dũng cảm và không biết sợ hãi. Chúng ta phải có một niềm tin bất
diệt vào lẽ sống tử tế, vào cuộc đời quang minh chính đại. Cho đến những ngày
tháng này, tôi đã trải qua những ngày tháng khốn khó, đau khổ nhất, nhưng cũng
được trải qua những ngày tháng hạnh phúc nhất. Và lẽ thường, càng đi qua đau
khổ thì con người ta càng trân trọng hạnh phúc. Người ta sẽ chỉ biết hạnh phúc
thực sự là gì, giá trị thế nào khi đã từng đi qua khổ đau. Tôi không mong con cháu
phải trải qua những năm tháng như ông bà, cha mẹ đã trải qua, vì thế mà tôi viết
lại cuốn sách này để các con, cháu có thể hình dung được phần nào. Rằng chúng
ta có được cuộc sống như hôm nay, đủ đầy cơm ăn áo mặc, được học hành thoả
chí, được theo đuổi mọi ước mơ, hoàn toàn không phải là điều dễ dàng và tự nhiên mà có.
Để hiểu thêm cái thời đắng cay, tủi nhục của gia đình ta, tôi xin chép lại
bức thư của anh trai Nguyễn Hữu Phê gửi cho tôi khi tôi đang theo học trường
Trung cấp Sư phạm Quảng Bình, đóng tại vùng chiến khu Cao Mại (Tuyên Hoá),
thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hồi đó tôi nguyên là hHiệu trưởng trường
tiểu học Tây Trạch, Bố Trạch. Do có nhiều thành tích đóng góp xuất ắ s c cho
ngành Giáo dục Quảng Bình nên Ty Ggiáo dục Quảng Bình cho đi học để đào tạo giáo viên cấp 2.
Thời gian ấy, vào tháng 9 năm 1967, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh vào
phá hoại ra miền Bắc XHCN bằng không quân, hải quân rất ác liệt, hòng ngăn
chặn sự chi viện của miền Bắc đối với đồng bào miền Nam ruột thịt. Việc đi lại, ăn ở sinh hoạt ở tr ờ
ư ng Sư phạm hết sức khó khăn. Hơn thế nữa, vợ con tôi lúc
ấy đang ở quê ngoại Hoàn Lão. Ông bà ngoại già yếu gần 70 tuổi, cháu Hồng
chưa được một tuổi... Sợ tôi vì hoàn cảnh gia đình quá khó khăn mà bỏ học, anh 12
trai đã gửi thư động viên tôi vượt qua khó khăn để học tập cho tốt. Bức thư của
anh trai viết tại Cổ Giang (Hưng Trạch) đề ngày 26-3-1968: "Phi em!
Em mến! Tình cảm anh, em mình nói sao cho hết được. Càng lớn lên càng
nhớ lại những ngày thơ ấu, cùng chung sống với nhau trong hoàn cảnh đói rách,
cực khổ trăm bề, do chiến tranh loạn lạc, do tản cư nơi đất khách quê người...
Rồi những ngày hoà bình, trở về quê hương, tưởng rằng hết chiến tranh cuộc
sống sẽ có nhiều đổi thay. Không ngờ cái vui chưa đến thì cái hoạ đã ập xuống
gia đình ta, gia đình chúng ta bị nghi kỵ. Do thực hiện sai chủ trương của Đảng,
nên đội CCRĐ đã quy gia đình chúng ta nằm trong hàng ngũ của những người
phá hoại cách mạng. Do đó cha mẹ, anh em chúng ta đi đâu cũng như "thằn lằn
mồng 5" chui lủi như người có tội... Thế nhưng ơn trời, phật phù trì bảo hộ, nhờ
ơn đức Tổ tiên, ông cha để lại... nên 4 chị em chúng ta cùng cụ mự, đã chịu
thương chịu khó, nuôi nấng chúng ta trong muôn vàn khó khăn gian khổ. Gia
đình chúng ta đi làm thuê cuốc mướn, không biết bao nhiêu công việc, không
quản ngày đêm mưa gió, miễn sao có đồng tiền bát gạo, nuôi con khôn lớn học
hành bằng chị bằng em.
Trong chiến tranh ác liệt, trong thời kỳ CCRĐ tưởng chừng không thể nào
qua được cái đói rét, bệnh tật nói gì đến học hành. Nhiều đêm nằm suy nghĩ
không ai chợp mắt được; nghĩ đi nghĩ lại không biết trách ai? Lấy câu nói của
ông cha để tự động viên, an ủi: "Âu cũng là số phận". May mà có ánh sáng của
Đảng, của Bác Hồ, có chân lý. Gia đình ta được đổi thay nhờ sửa sai CCRĐ, nên
được trả thành phần cho gia đình ta là trung nông. Nhờ cần cù chịu khó, gia đình
ta có bát ăn bát để, được học hành, được hiểu biết, được ăn bát cơm của nhà nước...
Tuy cơm ăn chưa đủ no, áo mặc chưa đủ ấm, nhưng được như vậy là quý lắm rồi... 13
... Gia đình cha mẹ chúng ta sinh được 4 chị em, ả Rớt lấy chồng sớm, anh
Năm thoát li làm cán bộ; còn lại 2 anh em chúng ta còn nhỏ, được cụ mự chăm
bẵm nhiều hơn, nếm được sự cực khổ, tủi nhục nhiều hơn, nên càng thấm thía
nhiều chua cay của cuộc đời.. .
Anh còn nhớ khi cụ mất, hai anh em chúng ta thay trâu kéo cày, làm mấy
mảnh đất hoang sau CCRĐ. Trời nắng chang chang, hai anh em lê lết làm cỏ mè,
hơn một sào gần Khe ở Vực Khái (tại bến Đập Đá). Cùng nhặt phân bò, đổ nước
khuấy đổ vào từng hàng ngô, hàng thuốc lá bên mương nước Tây Nẫm dưới cái
nắng chói chang hai anh em không mũ không nón, với bộ quần áo rách như xơ
mướp... Nhờ vụ thu hoạch đó, anh em ta gánh lên bán tại cửa hàng nhà nước tại
Khương Hà (Hưng Trạch) có tiền về mua một con bò nhỏ về chăm sóc, tập cày.
Vụ mùa đó chúng ta thu hoạch và bán được mấy trăm ngọn thuốc lá nhờ bỏ công
chăm sóc ngày đêm. Chắc em còn nhớ, hình ảnh anh em ta mượn hai2 chiếc nón
cời của chú Côi (cha của chú Kính), chú Chính (cha chú Chung) hái lá táy bỏ
vào chóp nón đựng nước lấy từ mương chạy một mạch về tưới cho cây thuốc lá
để chống nắng... Ôi! Kể sao hết chuyện đời! Khi còn sống, ban đêm cụ thường
hay kể: Nhà ta có bao nhiêu ruộng đất, ao sâu, đồ đồng gánh mấy chục người
mới hết khi chạy giặc. Nhà 5 gian "kèo xóc rường cụt" gỗ lim. Trên bàn thờ có
bộ lư chân đèn, có cả đôi hạc ngậm bông sen, đứng trên con rùa vàng sáng choé.
Có chiếc tủ đựng áo quần mua từ Thanh Hoá trở về bằng đường biển đến Lý
Hoà; rồi từ Lý Hoà thuê 8 người khiêng đưa về nhà. Một giá sách treo sau bàn
thờ, phần nhiều sách chữ Hán, chữ Nôm của Khổng Tử, Mạnh Tử... Sau mỗi ầ l n
kể, cụ thường ngâm nga cho anh em chúng ta nghe về các bài thơ cổ như: Tống
Trân Cúc Hoa, Nhị Độ Mai, Lục Vân Tiên... Chuyện nào cũng mang ý nghĩa về
lòng nhân ái, anh hùng hào kiệt của những nhân vật anh hùng thời đại, để lại
trong tâm hồn anh em chúng ta như một sự ham muốn tìm tòi hiểu biết...
Những câu chuyện cụ kể, mới đó mà đã 13 năm rồi đó, mau thật! Anh cứ
tưởng mới như hôm nào vậy. Anh mong sao những câậu chuyện ấy sống mãi với
chúng ta, với con cháu chúng ta mãi mãi đến sau này... 14
Hiện nay chúng ta đã lớn khôn, không còn cảnh trớ trêu ấy nữa. Chúng ta
càng tự hào những gì mình đã làm được, để lấy đó làm bài học để vượt qua tất
cả. Anh tin sau này, và mãi mãi về sau không bao giờ diễn lại cảnh đau lòng thời
CCRĐ ấy nữa. Bây giờ có khó khăn gian khổ, nhưng đó là khó khăn chung của
đất nước có chiến tranh. Chứ không phải như một thời trước đây, cái thời có một
không hai trong lịch sử của đất nước, của dân tộc, của gia đình chúng ta...
Viết thư cho em, anh càng nhớ công ơn của cụ, mự đã sinh và nuôi chúng
ta khôn lớn trong hoàn cảnh éo le của gia đình mình. Cụ mất đi là một tổn thất
to lớn, không thể nào bù đắp được. Còn mự hiện đang sống với chúng ta; anh
muốn quãng đời còn lại của mự, anh em ta cố gắng làm sao cho mự vui, khoẻ để
sống cùng con cháu, khi đã trưởng thành, đã có của ăn của để, cho dù còn chịu
cảnh chiến tranh ác liệt.
Em! Anh đã nhận được thư của em, biết được em khoẻ, học tập tốt, lại đạt
học viên tiên tiến anh rất mừng. Đó là truyền thống gia đình chúng ta em ạ. Theo
anh, em phải cố gắng nhiều hơn nữa để đạt học viên giỏi vào cuối khoá.
Còn phần gia đình, em hãy yên tâm. Mự và các anh chị, các cháu, bà con
nội, ngoại đều khoẻ mạnh... Hôm trước anh có về Pphòng Giáo dục họp, có ghé
thăm cháu Hồng, ông bà ngoại, thím Thoán mọi người đều khoẻ cả.. . Anh của em Nguyễn Hữu Phê. 15