Bài Tập: Việt Nam Thời Kỳ Bao Cấp Môn Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam

Bài Tập: Việt Nam Thời Kỳ Bao Cấp Môn Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần. Mời bạn đọc đón xem!

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÀI TẬP LỚN
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: VIỆT NAM THỜI KỲ BAO CẤP
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Trần Ngọc Hằng
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
Mã lớp học phần: 231PLT10A34
STT Họ và tên MSV
1 Nguyễn Cao Kim Phụng- nhóm trưởng 25A4011062
2 Đỗ Thị Ngọc Ánh 25A4011387
3 Nguyễn Ngọc Ánh 25A4011390
4 Nguyễn Thị Ngọc Ánh 25A4011733
5 Đinh Thị Thanh Dung 25A4011767
6 Vũ Bình Dương 25A4012107
7 Nguyễn Thị Khánh Huyền 25A4010121
8 Trần Thu Huyền 25A4010126
9 Hoàng Minh Lộc 25A4010472
10 Hoàng Ánh Ngọc 25A4011026
11 Nguyễn Thị Bảo Ngọc 25A4011030
12 Vũ Thị Thu Nguyệt 25A4011040
Hà Nội, tháng10 năm 2023
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................4
NỘI DUNG..................................................................................................................5
I.Tìm hiểu về Việt Nam thời bao cấp............................................................................5
1. Khái niệm thời bao cấp...............................................................................................5
2. Các hình thức bao cấp của nhà nước.........................................................................5
2.1. Hình thức bao cấp qua giá và số lượng hàng hóa.............................................6
2.2. Hình thức bao cấp qua tem phiếu.....................................................................7
2.3. Hình thức bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách............................8
3. Tình hình kinh tế - xã hội- giáo dục thời kỳ bao cấp...................................................9
3.1. Đời sống kinh tế thời kỳ bao cấp.......................................................................9
3.2. Đời sống văn hóa - xã hội thời kỳ bao cấp......................................................12
3.3. Giáo dục và y tế thời kỳ bao cấp.....................................................................13
II. Những căn cứ đổi mới của Đảng trong thời kỳ bao cấp.......................................15
1. “Bù giá vào lương” Long An....................................................................................15
1.1. Nội dung.........................................................................................................16
1.2. Tác động của “Bù giá vào lương”..................................................................18
2. Chỉ thị 100 - CT/TW.................................................................................................20
2.1. Nội dung.........................................................................................................20
2.2. Tác động của chỉ thị 100- CT/TW...................................................................22
3. Nghị quyết Trung Ương 8 khóa 5.............................................................................23
3.1. Nội dung.........................................................................................................23
2
3.2. Tác động của nghị quyết TW 8 khóa 5............................................................24
KẾT LUẬN................................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................28
3
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam thời bao cấp là một giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng trong suốt quá trình
phát triển của đất nước. Trong thời kỳ này, Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều thách
thức khó khăn, bao gồm chiến tranh, đói nghèo, sự lập quốc tế sự suy thoái
kinh tế. Đất nước đã phải chịu những tổn thất, mất mát nặng nề trên mọi mặt từ con
người i sản sau khi lần lượt trải qua các cuộc chiến tranh tàn khốc đẫm máu.
Đồng thời, chính sách kinh tế cô lập quản trung ương gây ra sự suy thoái kinh tế
và đói nghèo trầm trọng.
Tuy nhiên, thời kỳ bao cấp cũng một giai đoạn mà Việt Nam đã trải qua những
nỗ lực đấu tranh không ngừng để vượt qua những khó khăn này. Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đưa ra những chính sách biện pháp nhằm đảm bảo sự tự chủ phát
triển của đất nước, từ việc xây dựng nền kinh tế cộng hòa đến việc đấu tranh giành độc
lập thống nhất quốc gia. Qua những nỗ lực không ngừng của Đảng nhân dân,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Trên hành trình phát triển, Việt Nam đã học hỏi từ những sai lầm trong quá khứ và
tiến tới những biện pháp đổi mới và hội nhập quốc tế. Điều này đã mở ra cánh cửa cho
sự phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân tăng cường vai trò của Việt
Nam trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, đã những bước tiến đáng kể trong thời kỳ này, nhưng Việt Nam
vẫn đối mặt với nhiều thách thức khó khăn trong quá trình phát triển. Qua việc
nghiên cứuphân tích thời kỳ bao cấp, chúng ta thể hiểu hơn về quá trình phát
triển và những bước tiến quan trọng đã được thực hiện dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng Cộng Sản Việt Nam giai đoạn này.
4
NỘI DUNG
I.Tìm hiểu về Việt Nam thời bao cấp
1. Khái niệm thời bao cấp
[1]
Thời bao cấp một thời kỳ lịch sử trong giai đoạn những năm 1976 1986 diễn ra
Việt Nam. Từ “Thời bao cấp” khái niệm dùng của người Việt đặt cho một thời kỳ
lịch sử từng diễn ra sau chiến tranh thống nhất đất nước. Sau cuộc chiến tranh dai dẳng
và khốc liệt của nhân dân ta với thực dân Pháp, đế quốc Mỹnhiều quân đội của các
nước đồng minh khác. Khi thống nhất đất nước, toàn thể nhân dân ta bước vào giai
đoạn hòa bình, xây dựng đất nước. Thời kỳ đó gọi là thời kỳ bao cấp, nước ta xây dựng
theo mô hình chủ nghĩa xã hội giống như Liên Xô (cũ).
2. Các hình thức bao cấp của nhà nước
Nước ta xây dựng theo hình chủ nghĩa hội giống như Liên (cũ). Với nền
kinh tế - xã hội - văn hóa do nhà nước nắm và quyết định, thời bao cấp gồm nhiều hình
thức bao cấp khác nhau.
5
2.1. Hình thức bao cấp qua giá và số lượng hàng hóa
[2]
- Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa, nhưng thường thấp hơn
nhiều lần so với giá trị thực với chúng trên thị trường. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ
hình thức.
dụ: Trong khi công nhân lao động nặng được cấp 20kg gạo/tháng thì cán bộ công
chức chỉ được 13kg gạo/tháng. Do lượng gạo ít ỏi như vậy cơm nấu thường
được độn thêm ngô, khoai, sắn… điều này không còn xa lạ đối với những người
từng trải qua thời kỳ đó.
- Hàng hóa thì ngoài chất lượng kém, lượngng rất hạn chế thì chỉ đủ dùng một thời
gian ngắn nên đến cuối tháng đã cạn kiệt bắt buộc người dân phải mua chợ đen.
Cho nên, tem phiếu thì nhiều người vẫn phải tay trắng ra về hết hàng khi đến
lượt.
- Ngoài hàng tiêu dùng thì Nhà nước còn nắm cả việc phân phối nhà cửa. Nhân dân hồi
đấy được chia tiêu chuẩn mỗi người 4 mét vuông đất. Những khu nhà tập thể giống
như mô hình của Liênđược xây lên và cấp cho cán bộ trung cấp công nhân viên
chức nhà nước. Nhà cửa hư hỏng thì có Sở nhà đất lo sửa cho. Tuy nhiên do việc quản
yếu kém nhiều khu đất công cộng bị lấn chiếm. Còn chất lượng sống của khu
này ngày càng tồi tệ, thiếu thốn mọi bề nên phải chăn nuôi thêm trong căn hộ lại càng
khiến cho việc mất vệ sinh càng trở nên nghiêm trọng.
6
2.2. Hình thức bao cấp qua tem phiếu
[2],[3]
- Trong thời kỳ bao cấp những năm 1965-1975, Nhà nước mở rộng chế độ tem phiếu,
cung cấp hàng hóa theo giá bao cấp cho lực lượng vũ trang, cán bộ và nhân dân. Có thể
nói, trong thời kỳ này, tem phiếu mang giá trị và chức năng giống như tiền tệ.
- Hệ thống tem phiếu có rất nhiều chủng loại. Mỗi loại lạinguyên tắc chế độ cấp
phát khác nhau, cho các đối tượng khác nhau. loại tem phiếu căn cứ theo mức
lương, chức vụ, cấp bậc lao động, loại căn cứ theo độ tuổi nhân khẩu, loại chỉ
giới hạn cho cán bộ công nhân viên chức và nhân dân thành thị, có loại lại mở rộng cho
toàn thể nhân dân... đối tượng hưởng theo mỗi loại tem phiếu đó lại thường xuyên
thay đổi theo xu hướng ngày càng tăng lên.
- Theo quy định, tem phiếu chỉ được cấp mỗi năm một lần nhưng trong năm lại phát
sinh nhiều trường hợp đặc biệt như sinh, tử, cưới xin,...nên phải cấp phát và điều chỉnh
liên tục. Chính sự phức tạp đó, n việc cấp phát quản tem phiếu đòi hỏi sự
phối hợp của nhiều ngành hình thành nên hệ thống những người làm công việc cấp
phát và quản lý tem phiếu từ Trung ương đến địa phương.
Cụ thể, ta dụ cho hệ thống tem phiếu theo vị trí công việc, đặc thù ngành
nghề,...như thịt lợn, người dân thường chỉ được mua 1,5 kg/tháng nhưng cán bộ cao
cấp quyền mua 6 kg/tháng. Pin, Vải vóc, phụ tùng xe đạp, đường cát, sữa đặc, chất
đốt, nước mắm, mỡ, muối,...tất cả đều tem phiếu. Cán bộ cao cấp hưởng tiêu chuẩn
đặc biệt A1; phiếu A dành cho bộ trưởng; thứ trưởng phiếu B; trưởng các cục, vụ, viện
được hưởng phiếu C và có các cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tông Đản, Nhà thờ, Vân
Hồ (Hà Nội)...
- Ngoài các loại tem phiếu, còn nhiều thứ giấy tờ thể mua hàng: giấy giới thiệu,
giấy chứng nhận kết hôn, giấy báo tử, bệnh tật… cũng giá trị để xét cho hưởng chế
độ cung cấp định lượng.
7
2.3. Hình thức bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách
[4]
Không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều
đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu
quả, nảy sinh cơ chế "xin - cho".
8
3. Tình hình kinh tế - xã hội- giáo dục thời kỳ bao cấp
3.1. Đời sống kinh tế thời kỳ bao cấp
[5],[6]
vừa thoát khỏi chiến tranh với những hậu quả nặng nề của một nước thuần nông,
nước ta gặp nhiều khó khăn sau thời kỳ hậu chiến tranh, xây dựng đất nước. Nước ta
học theo hình hội chủ nghĩa của Liên với nền kinh tế tập trung, kế hoạch
hóa. Do đó, kinh tế - hội của nước ta không dễ thể nhanh chóng thoát khỏi
nghèo khó, khó khăn. Do đó, thời kỳ bao cấp (1976-1986) giai đoạn toàn dân
đang cố gắng vượt qua những điều kiện khó khăn, thiếu thốn của thực tại và tìm hướng
đi để phát triển đất nước tốt hơn.
- Thời kỳ bao cấp kéo dài trong 10 năm từ 1976–1986 trước khi thực hiện Đổi mới.
Nước ta đã thực hiện 2 kế hoạch 5 năm trong giai đoạn này bao gồm: Kế hoạch 5 năm
lần thứ 2 (1976 1980) kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1981 1986). Theo quan điểm
của nền kinh tếhội chủ nghĩa, kinh tế kế hoạch hóa là điểm nổi bật quan trọng nhất
với kế hoạch phân bổ mọi nguồn lực, không thừa nhận chế thị trường sản xuất
hàng hóa, xem kinh tế thị trường là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản.
- Hầu hết người lao động làm việc trong các quan, doanh nghiệp của nhà nước
sống theo chế độ tem phiếu của thời kỳ này. Đời sống người dân gặp nhiều khó khăn,
thiếu thốn về ăn mặc, về cuộc sống vật chất tinh thần. Vào thời kỳ bao cấp, chế
quản lý kinh tế của nước ta chính chế kế hoạch hóa tập trung, thể hiện qua những
khía cạnh sau:
+ Doanh nghiệp được các quan hành chính liên quan tham gia nhiều vào việc kinh
doanh, sản xuất nhưng không phải chịu trách nhiệm về lãi lỗ pháp đối với các
quyết định của mình. Ngân sách nhà nước sẽ là cơ quan thu lãi và lỗ cho các hoạt động
của doanh nghiệp.
+ Bộ máy quản qua nhiều cấp từ trung ương tới địa phương. Do nhiều cấp trung
gian nên hoạt động không năng động, kịp thời, thậm chí dẫn tới nhiều tiêu cực ảnh
hưởng tới quyền lợi của người lao động, người dân.
9
+ Thời bao cấp, quan hệ tiền tệ - hàng hóa không được coi trọng hầu như chỉ hình
thức. Trong đó, quan hệ hiện vật chiếm vị thế chủ đạo. Nền kinh tế sđược nhà nước
quản lý theo chế độ “cấp phát – giao nộp”.
+ Ở thời kỳ này nhà nước đóng vai trò quyết định toàn bộ nền kinh tế, kinh tế tư nhân
bị xoá bỏ. Hàng hóa được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà nước nắm toàn
quyền điều hành, ngăn cấm việc mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển tự do hàng
hóa từ địa phương này sang địa phương khác.
Nhà nước có độc quyền phân phối hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ
khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu
người, tiêu biểu nhất sổ gạo n định số lượng mặt hàng được phép mua.Vì vậy,
thời điểm này, hàng hoá, dịch vụ luôn luôn trong trạng thái khan hiếm, gây nên những
câu chuyện dở khóc dở cười. dụ như nhiều thành phố lớn bị thiếu gạo, thiếu chất
đốt, thiếu điện, thiếu nước... Mặt khác, do chế quản nhiều nguồn hàng đã eo
hẹp nhưng lại bị thất thoát bằng nhiều cách
Hình: Sổ gạo do ty thương nghiệp mỗi tỉnh cấp, đóng dấu đỏ "mất không cấp lại"
10
Hình: Cảnh mua bán tại một quầy hàng mậu dịch nhà nước
Hình: Xếp hàng gửi xe trước khi vào mua hàng
11
+ Nền kinh tế nhiều thành phần không được thừa nhận mà chỉ có kinh tế quốc doanh và
tập thể chủ đạo, để tiến hành xóa bỏ kinh tế nhân, thể sở hữu nhân khỏi
xã hội. Kinh tế tư nhân đã "tàng hình" để sống sót và hoạt động.
Do đó, kinh tế Việt Nam thời kỳ này lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ với nhiều
tiêu cực đòi hỏi phải được cải tiến, đổi mới để theo kịp xu hướng phát triển của thời
đại.
3.2. Đời sống văn hóa - xã hội thời kỳ bao cấp
a) Đời sống văn hóa Việt Nam thời bao cấp
[7]
- Thời bao cấp, người dân ít được tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Các mảng về
phim, văn học hay nhạc… đều được nhà nước kiểm duyệt trước khi phát hành tới
người dân. Nội dung thường gần gũi với quần chúng, tư tưởng và quan điểm của Đảng.
Thời kỳ này không phim truyền hình chỉ có phim truyện nhựa, phim tài liệu.
Phim được chiếu tại các rạp chiếu bóng lưu động, rạp chiếu bóng hay phát trên truyền
hình trung ương. Phim chiếu bấy giờ chủ yếu của Việt Nam, như Đường ra mặt trận,
Con chim vành khuyên… kịch thì có Chị Muội, Bắc Sơn, Cửu Trùng đài. Các vở tuồng
như Tống Trân Cúc Hoa, chèo như Quan Âm Thị Kính… được phục dựng rất
đông khán giả.
Hình: Diễn viên trang điểm trước khi giờ biểu diễn
12
- Báo chí hoạt động theo tôn chỉ mục đích của Đảng, phục vụ nhân dân gồm đa dạng
các đối tượng. Báo cđược nhà nước bao cấp, không có quảng cáo. Các văn nghệ
được nhà nước trả lương giống công chức, hoạt động trong các cơ quan nhà nước.
b) Đời sống xã hội Việt Nam thời kỳ bao cấp
[2]
- hội ít sự phân hóa giàu nghèo như hiện nay nhưng mức sống của người dân
thấp, cuộc sống thiếu thốn khiến nạn ăn cắp vặt nảy sinh.
- Sinh viên ra trường không bị thất nghiệp nhưng đều phải chịu sự phân công của nhà
nước, không có quyền tự do lựa chọn công việc.
- Xã hội có tính cộng đồng cao, người dân sống có tình làng nghĩa xóm thân thiết.
3.3. Giáo dục và y tế thời kỳ bao cấp
a) Giáo dục:
[2],[8]
- Phát triển giáo dục phổ thông đại trà đến tận các cụm dân thôn, làng; mỗi xã,
phường đều có trường phổ thông cấp I hoặc cấp I-II, kể cả giáo dục mầm non.
13
- Tập trung cho công tác bổ túc văn hóa và xóa mù chữ trong độ tuổi; mỗi huyện, thị xã
có trường bổ túc văn hóa cho cán bộ cơ sở; ở tỉnh có trường bổ túc công nông dạy văn
hóa cho đối tượng cán bộ cấp huyện, các ngành của tỉnh.
- Đi kèm với sự phát triển mạnh về số lượng, song chất lượng hệ thống giáo dục lại đi
xuống tình trạng thiếu trường lớp, thiếu giáo viên được đào tạo tốt, lương giáo viên
bị hạ thấp, việc thi cử bị buông lỏng, bệnh thành tích phát triển,...
Năm 1976, khuôn mẫu giáo dục miền Bắc tiếp cận với hệ thống giáo dục đã được
thiết lập miền Nam; Miền Bắc tiếp tục hệ 10 năm và miền Nam giữ hệ 12 năm. Đến
năm 1981, miền Bắc áp dụng hệ học 11 năm (thêm lớp 5).
14
b) Y tế
:
[2]
- Người dân đi khám, chữa bệnh hay mua thuốc đều không mất tiền. Họ mang hóa đơn
về quan hay bệnh viện để được thanh toán, song điều kiện chữa bệnh lại cùng
thiếu thốn.
- Trang thiết bị y tế, thuốc men không đủ đáp ứng nhu cầu, một phần nhập khẩu, một
phần chủ yếu nhận viện trợ từ các nước khác.
- Bệnh viện gặp vàn khó khăn, hầu hết đều bệnh viện quy nhỏ, chủ yếu
kiểu nhà từ một đến ba tầng. Bộ y tế cũng phân chỉ tiêu đến từng bệnh viện để thực
hiện công tác khám, chữa bệnh.
II. Những căn cứ đổi mới của Đảng trong thời kỳ bao cấp
1. “Bù giá vào lương” Long
An
[9]
* Khái niệm:
Hiểu một cách đơn giản nhất, giá vào lương việc Chính phủ tăng lương tối thiểu
để giúp dân đối phó với tình trạng giá cả leo thang. Chính Nhà nước tính tổng tiền
15
lương và những mặt hàng cung cấp theo tem phiếu, tất cả quy ra giá thị trường để tính
ra mức lương mới.
1.1. Nội dung
Bù Giá vào lương:Tư tưởng chính trị” bí thư Chín Cần. Những năm 1979, 1980, tỉnh
Long An triển khai chủ trương cải tiến phân phối lưu thông - giá vào lương gây
chấn động dư luận.
- Bối cảnh:
Sau những hân hoan của ngày đại thắng, Long An cũng như cả nước phải đối mặt với
những khó khăn chồng chất về kinh tế hội khi những khuyết tật của hình kế
hoạch hóa chỉ huy tập trung, hành chính cung cấp và bao cấp ngày càng bộc lộ gay gắt.
nét nhất chế giá cả. Sự áp đặt chủ quan, tùy tiện trong định giá đã tạo ra sự
chênh lệch lớn giữa giá thị trường tự do với giá chỉ đạo của nhà nước. Khoản chênh
lệch ấy chính miếng mồi béo bở cho các hoạt động bòn rút hàng từ tay nhà nước
sang túi các nhân. Đời sống của cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng trang
ngày càng khó khăn. Lương quá thấp nên công nhân viên chức tìm mọi cách để lo toan
cuộc sống gia đình. Hàng ngàn công nhân, viên chức, giáo viên xin nghỉ hoặc tự bỏ
việc để đi buôn, làm ruộng hoặc làm thuê kiếm sống.
=> Là người đứng đầu tỉnh, Bí thư Chín Cần rất đau lòng. Ông trăn trởtìm cách để
thay đổi chế giá cả, tiền lương, khâu nóng bỏng nhất lúc bấy giờ Người được ông
chọn để tham gia xây dựng đề án này là Phó giám đốc Sở Thương nghiệp Hồ Đắc Hi.
- Nội dung và diễn biến:
+ Cơ sở để làm đề ántừ thực tiễn, giá cả, tiền lương phải dựa trên quy luật giá trị
cung cầu, cũng như các quy luật kinh tế hàng hóa khác, chứ không thể duy ý chí -
thư Chín Cần chỉ đạo Tổng tiền lương 16 mặt hàng phân phối theo định lượng, tất
cả quy ra giá thị trường thì lương Bí thư Tỉnh ủy xấp xỉ 600 đồng. Tuy nhiên, do chất
lượng hàng hóa thấp, tiêu chuẩn bị cắt xén, hàng được cấp không phù hợp nhu cầu... thì
hiệu quả sử dụng của mức lương này chỉ đạt 50-70%. Tốt nhất là đem hết số hàng phân
16
phối của thư ra chợ bán theo giá thị trường rồi về trả cho ông 600 đ/tháng. thư
cần gì ra đó mua. Nếu theo phương án này thì tỉnh nắm được hàng hóa, giá cả; còn
người hưởng lương thoải mái lựa chọn hàng mua. thế, dân buôn, đầu cơ, nhân viên
thương nghiệp... không còn cơ hội tiêu cực; Nhà nước còn tiết kiệm được khoản bù lỗ
cho thương nghiệp, tem phiếu, thời gian...
+ Sau đó ông trao đổi thêm với các cán bộ chủ chốt tỉnh cho làm thử nghiệm. Giá
bán cao gấp 10 lần giá phân phối tương đương giá chợ. Lương của viên chức tháng
đó đã được cộng thêm định mức của mặt hàng bông theo giá thị trường. Ai muốn
mua bông thì ra chợ, thoải mái lựa chọn, không phải lo mua dự trữ.Vì thế, giá
bông đã giảm rất nhiều. Lần đầu tiên một mặt hàng không phân phối nhưng cũng
không thiếu ngoài chợ hay cửa hàng quốc doanh. Bước thử nghiệm đã thành công.
+ Tiếp theo đó, trong 3 tháng cuối năm 1979, tất cả các mặt hàng phân phối (trừ gạo)
đều được Long An bán ra thị trường. Toàn bộ số hiện vật của cán bộ viên chức được
quy ra tiền theo giá thị trường cộng vào lương hằng tháng. Giải pháp "bù giá vào
lương" đãy một hiệu ứng tích cực. Thị trường sôi động, chỉ số giá tiêu dùng giảm
mạnh, quỹ lương của tỉnh tăng lên gấp 7 lần...
Trong cuộc họp Ban Thường vụ Tỉnh ủy vào ngày 26-6-1980, ông khuyến khích một
số ý kiến đề xuất phương thức mới theo hướng: Mua bán hàng theo giá thỏa thuận.
Sau cuộc họp này, ông Chín chỉ đạo tiến hành làm thử việc mua hàng theo giá thỏa
thuận đối với hàng nông sản, thực phẩm bánng theo giá thỏa thuận đối với hàng
tiêu dùng. Những bước thử nghiệm ban đầu đã cho kết quả rất tích cực, thư Chín
Cần cùng ông Giao, Giám đốc Thương nghiệp tỉnh hoàn chỉnh Đề án cải tiến phân
phối lưu thông và thông qua Tỉnh ủy vào tháng 8-1980.
=> Chỉ sau 2 tháng, hơn 300 công nhân, viên chức, giáo viên đã nghỉ, xin trở lại làm
việc. Nông dân phấn khởi lao vào sản xuất...Kết quả thực tế phương thức ấy, việc
lưu thông hàng hóa đã trở lại bình thường, kinh tế hội được phục hồi nhanh chóng,
sản xuất tăng trưởng, đời sống nhân dân được cải thiện. Những cải tiến trong phân
phối, lưu thông ở Long An thực sự đã gây lên cơn "địa chấn" trong cả nước. Ban Bí thư
17
Trung ương Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành, hàng chục đoàn của các tỉnh, thành phố
đã về Long An nghiên cứu, tìm hiểu. Một số phái đoàn quốc tế như đoàn giáoLiên
Xô,đoàn của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Đảng Cộng sản Nhật Bản... cũng về
Long An để tìm hiểu. Không lâu sau, các cải tiến này đã được áp dụng trong cả nước
với những quyết định lịch sử tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI...
1.2. Tác động của “Bù giá vào lương”
- Làm cho người dân nhất cán bộ công nhân viên chủ động hơn trong cuộc sống
của mình.
Việc giá vào lương thực chất việc chuyển từ cung cấp bằng hiện vật sang cung
cấp bằng tiền. Trước đó cán bộ công nhân viên thường không mua được đầy đủ tiêu
chuẩn hàng cung cấp của mình. Khi áp dụng chính sách mới, họ không cần thiết phải
xếp hàng chờ đợi để mua, không còn phải bực mình vì thái độ cửa quyền của nhân viên
bán hàng. Khi hàng hóa đã được bán tự do thì chợ đen cũng bớt sầm uất dần dần
mai một. Khi đã mở cửa bán hàng tự do thì chẳng còn ai cần đi mua hàng ở "cổng hậu"
nữa .
- Công nhân viên chức và lực lượng vũ trang được đảm bảo gần như đủ mức cung cấp.
* Các hiệu quả khác:
- Về thu mua, bán ra, giao nộp cho trung ương tăng.
- Về lưu thông - phân phối:
+ Hàng hóa được lưu chuyển nhanh hơn, với con đường ngắn hơn từ sản xuất tới tiêu
dùng.
+ Với giá thỏa thuận, nông dân không còn bị ép cấp, ép giá tình trạng tiêu cực lợi dụng
mua hàng theo giá cung cấp để mua đi bán lại kiếm lời đã được khắc phục.
+ Tâm lo sợ hàng hóa khan hiếm, giá cả đột biến đã dần dần được giải tỏa. Mọi
người chỉ mua hàng khi thực sự cần thiết, nhờ đó cũng góp phần giảm bớt căng thẳng
cung - cầu.
18
+ Người dân cũng tự do hơn trong việc chi tiêu.
- Về tác dụng đối với sản xuất: Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp và công nghiệp tính
theo giá cố định hằng năm cũng đều tăng.
- Về tín dụng: Tính đến năm 1985, trên lĩnh vực đầu tín dụng, ngân hàng đã dành
một số vốn thích đáng để đầu xây dựngsở vật chất, kỹ thuật cho các ngành kinh
tế
- Về cân đối tiền mặt: Tiền mặt cũng bớt căng thẳng hơn, không để nợ thu mua kéo dài
như bệnh kinh niên của những năm trước. Kể cả trong các đợt cao điểm thu mua, số nợ
dân cũng rất ít so với các tỉnh khác ở Nam bộ.
- Về cân đối ngân sách: Từ chỗ bị động thụ động trong cán cân ngân sách, sau bước
đột phá này, tỉnh đã cân bằng được ngân sách, chủ động đáp ứng những nhu cầu cơ bản
của kinh tế địa phương.
Sự lan tỏa của hình Long An: Với những kết quả hiển nhiên kể trên, sau mấy
năm, "cán cân" khen chê, ủng hộ - phản đối đã thay đổi theo hướng thuận lợi. Đảng bộ
Long An đã tạo nên sự đột phá quan trọng trong lĩnh vực phân phối lưu thông, dũng
cảm chấp nhận sự phê phán, định kiến và thách thức để mở đầu tiến trình cải cách giá ở
các tỉnh thành khác và trong cả nước. Đó là một thành tích nổi bật của tập thể Đảng bộ,
chính quyền, các đoàn thể nhân dân tỉnh Long An vào “đêm trước đổi mới”, trong
đó có vai trò, công lao lớn của ông Nguyễn Văn Chính - người tích cực đổi mới vì dân.
19
2. Chỉ thị 100 - CT/TW
[10],[11],[12]
2.1. Nội dung
- Việc ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/1/1981, về cải tiến công tác khoán,
mở rộng "khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người lao động" trong hợp
tác xã nông nghiệpbước đột phá của Đảng về đổi mới chế quản lý, kế hoạch hóa
và hạch toán kinh tế trong nông nghiệp, chuẩn bị cho các bước tiếp theo để hình thành
hệ thống quản lý nông nghiệp mới, làm biến đổi sâu sắc sản xuất nông nghiệp.
- 5 nguyên tắc khoán 100:
1- Hợp tác nông nghiệp phải quản chặt chẽ sử dụng có hiệu quả liệu sản
xuất, trước hết ruộng đất, sức kéo, phân bón, các công cụ các sở vật chất- kỹ
thuật của tập thể.
2- Hợp tác phải tổ chức tốt việc quản điều hành lao động, phát huy tính hơn
hẳn của sự hiệp tác có phân công, đồng thời kích thích được tính tích cực lao động của
tập thể xã viên của từng người lao động trên sở làm cho mọi người quan tâm
gắn bó với kết quả cuối cùng của sản xuất.
3- Hợp tác phải quy hoạch kế hoạch phù hợp với quy vùng sản xuất kế
hoạch sản xuất của huyện, có quy trình sản xuất và có định mức kinh tế - kỹ thuật ngày
càng tiến bộ; các đơn vị nhận khoán phải làm đúng những quy định ấy của hợp tác xã.
20
4- Hợp tác phải nắm được sản phẩm để bảo đảm việc phân phối sản phẩm kết hợp
được đúng đắn hài hòa ba lợi ích (lợi ích của Nhà nước, của tập thể, của người lao
động) và thực hiện tốt việc phân phối theo lao động cho xã viên.
5- Phát huy quyền tự chủ của hợp tác quyền làm chủ tập thể của viên, khắc
phục tệ mạnh lệnh, ép, trái với nguyên tắc “tự nguyện, cùng lợi, quản dân
chủ”.
- Về nông nghiệp:
+ Nội dung: Theo Chỉ thị, mỗi viên nhận mức khoán theo diện tích tự mình làm
các khâu, cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tácđảm nhiệm.
Thu hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng tự do mua bán. Chủ trương đó được
nông dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong trào quần chúng sâu rộng.
+ Kết quả: Sản lượng lương thực bình quân từ 13,4 triệu tấn/năm thời kỳ 1976-1980
tăng lên 17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981-1985; những hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong
sản xuất nông nghiệp giảm đi đáng kể; kích thích người nông dân hăng hái sản xuất,
chủ động trong công việc, tích cực chăm sóc, thâm canh nên năng suất sản lượng
đều tăng; tận dụng được thời gian, nguồn lao động đất đai; việc đóng thuế, bán sản
phẩm cho Nhà nước ở nhiều cơ sở làm nhanh gọn hơn trước.
- Về công nghiệp:
+ Nội dung: Chính phủ ban hành Quyết định s 25-CP (1-1981) về quyền chủ động
sản xuất kinh doanh quyền tự chủ về tài chính của các nghiệp quốc doanh
21
Quyết định số 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm
vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước.
+ Kết quả: Kết quả nhìn chung đã không đạt chỉ tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu thông,
phân phối rối ren,giá cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4-5 lần xuất khẩu. Đời sống của
nhân dân,cán bộ, công nhân viên, lực lượng vũ trang rất khó khăn.
2.2. Tác động của chỉ thị 100- CT/TW
- Tích cực:
+ Xét về mặt chế quản kinh tế, 5 nguyên tắc khoán 100 đã phá vỡ chế tập
trung quan liêu trong sản xuất nông nghiệp, nhất sử dụng hiệu quả liệu sản
xuất, ruộng đất; quản lý, điều hành tốt lao động làm cho mọi người gắn bó với kết quả
cuối cùng; thực hiện phân phối sản phẩm, phân phối theo lao động, bảo đảm hài hòa lợi
ích nhà nước - tập thể - người lao động; hợp tác thực hiện nguyên tắc "tự nguyện,
cùng có lợi, quản lý dân chủ".
+ Chỉ thị 100 ban hành, nông nghiệp như được "cởi trói", bước đầu khơi dậy tinh thần
làm chủ, phấn khởi của người lao động, tạo động lực thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
- Hạn chế:
22
+ Nền kinh tế của cả nước vẫn chìm sâu vào khủng hoảng còn nhiều yếu tố mất ổn
định.
+ Những hạn chế trên trước hết là do khả năng lãnh đạo và năng lực quản lý của ta còn
nhiều mặt hạn chế. Nhưng nguyên nhân sâu xa còn do những chủ trương đổi mới lúc
bấy giờ vẫn trong giai đoạn thử nghiệm, mang tính chất từng mặt, từng phần, chưa triệt
để, toàn diện. Việc thực hiện của địa phương cũng chỉ nhằm tổng kết thực tiễn để
tiếp tục hoàn chỉnh thêm đường lối.
=> Có thể nói Chỉ thị 100 đã tạo nên thành công cho quá trình đổi mới chế quản
kinh tế trong nông nghiệp, là tiền để tạo niềm tin, động lực cho tiến trình đổi mới thành
công cơ chế quản lý kinh tế đất nước sau này.
3. Nghị quyết Trung Ương 8 khóa 5
[13]
3.1. Nội dung
*Hội nghị trung ương 8 (tháng 6/1985), Ban chấp hành trung ương đã quyết nghị tiến
hành một cuộc cải cách lớn về "giá – lương – tiền" với nội dung chính như sau:
- Tính đủ chi phí hợp lý vào sản xuất
- Thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống giá cả
- Đảm bảo tiền lương thực tế, thực sự đảm bảo cho người ăn lương sống chủ yếu bằng
tiền lương, tái sản xuất được sức lao động.
- Xác lập quyền tự chủ về tài chính của các ngành và các cơ sở kinh tế.
*Tháng 8/1985, phương án cải cách được đưa ra như sau:
- Về giá, phải tính toán đầy đủ giá các mặt hàng Nhà nước cung cấp giá các mặt
hàng Nhà nước mua của nông dân, thợ thủ công theo giá sát với chi phí sản xuất. Để
tiện cho tính toán, các mức giá trên được quy ra thóc. Còn giá thóc được xác định bình
quân là 25 đồng/kg, dựa trên tính toán thực tế của các chuyên gia. Các địa phương khác
nhau thì mức giá thóc quy đổi này thể cao hoặc thấp hơn. Nhà nước ban hành mức
23
giá mới của một số vật tư, như xăng, dầu, xi măng, sắt, theo đó giá sắt 6 tăng 11,5 lần
so với mức giá cũ, giá xi măng tăng 12,5 lần.
- Về lương, giá lên bao nhiêu thì tăng lương bấy nhiêu, Ban chỉ đạo đề nghị tăng lương
thêm 20% (bù giá vào lương).
- Về tiền, để đáp ứng giá mới và lương mới, phải in thêm tiền, để tổng lượng tiền trong
lưu thông 120 tỷ đồng. Nhưng thời điểm đó, Việt Nam không tự in được tiền
phải nhờ nước ngoài in. In nhiều tiền sẽ tốn thời gian. lẽ đó, để in ít tiềnvẫn
sức mua lớn, Ban chỉ đạo đưa ra chủ trương đổi tiền. Một đồng mới sẽ đổi lấy 10 đồng
hiện hành. Như vậy 12 tỷ đồng in mới đem đổi sẽ tương đương 120 tỷ đồng hiện
hành.
*Mục tiêu của chính sách là từng bước xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong
giá lương, xây dựng hoàn chỉnh chế quản mới, đưa giá cả các mặt hàng
theo sát với chi phí sản xuất, sát với giá thực tế trên thị trường.
3.2. Tác động của nghị quyết TW 8 khóa 5
- Bước đầu cải cách cho thấy tín hiệu tích cực: tiền lương của người lao động tăng,bù
lại trượt giá lạm phát đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của người lao động, lương
động lực cho người lao động.
- Lâu dần cải cách bộc lộ nhiều bất cập:
+ Cứ bù giá vào lương thì giá cả xã hội lại tăng lên một chút, sóng tăng giá tăng nhanh
hơn sóng tăng lương. Càng bù giá vào lương thì giá càng cao và lương lại càng thấp đi
24
tương đối so với mức tăng giá. Lương công nhân tăng lên nhưng không theo kịp đà
tăng giá.
+Ngày 14/09/1985 ngày đổi tiền, ngay sau khi đổi tiền giá vật tăngn, các
nghiệp quốc doanh không sản xuất được vì giá đầu vào cao
+ Để trả lương, nhà nước lại phải in thêm tiền với khối lượng 1,38 lần so với trước nên
hậu quả là vật giá lại tăng mạnh. Sang năm 1986, mức lạm phát đã lên đến 774,7%
+ Để cung ứng nhu yếu phẩm với giá thấp hơn, nhà nước phải mở rộng chương trình
tem phiếu, áp dụng quy chế này cũng buộc nhà nước thu mua hàng hóa từ nhà sản xuất
giá thật thấp, gây bất mãn khiến người sản xuất muốn bán giá cao hơn phải bán bán
ra chợ đen, làm thất thoát thêm số lượng hàng ít ỏi
Những vòng xoáy điều chỉnh giá lương tiền càng làm cho lạm phát leo thang
nhanh chóng trong năm 1986. Tiền phát hành nhiều vẫn không đủ. Lương công
nhân tăng lên nhưng không theo kịp đà tăng giá. Vật tư, hàng hóa khan hiếm. Giá bán
lương thực tăng 10 lần vẫn không đủ đắp chi phí. Sản xuất nông nghiệp sa sút,
đầu tư trong công nghiệp giảm.
*Ý nghĩa:
- Chủ trương bù giá vào lương là bước đầu hình thành giá theo một phần của cơ chế thị
trường, giảm thiểu tình trạng gia bao cấp, định giá chủ quan duy ý chí, thể hiện nhận
thức tiên tiến về cơ chế thị trường lúc bấy giờ
- Tuy kế hoạch cải cách giá – lương tiền không diễn ra như kế hoạch do sự chắp
giữa cải cách với hình cũ, gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong thời gian cuối
năm 1985 năm 1986, song chính điều này đã làm cho các cấp các ngành nhận ra
rằng đã cải cách phải cải cách triệt để. Mô hình cũ phải bị chấm dứt hoàn toàn. Trên
sở đó cùng với những biến chuyển chính trị toàn cầu như việc kinh tế khối
Warszawa lâm vào trì trệ, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ sáu của Đảng Cộng sản
Việt Nam tháng 12 năm 1986 đã đưa ra những chủ trương cải cách, đổi mới lịch sử.
25
Hội nghị trung ương 8 khóa V (6-1985) được coi bước đột phá thứ hai trong quá
trình tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng tại đây Trung ương chủ trương xóa các quan
liêu bao cấp trong giá lương yêu cầu hết sức cấp bách, khâu đột phá tính
quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
26
KẾT LUẬN
Tổng kết lại, thời kỳ bao cấp đã để lại những dấu ấn lớn trong lịch sử Việt Nam
với nhiều dấu ấn và hoài niệm của không ít người từng sinh sống trong thời kỳ này. Từ
những khó khăn thử thách, dưới sự lãnh đạo các chính sách sáng suốt của Đảng,
Việt Nam đã trưởng thành phát triển vượt bậc toàn diện mọi mặt. Chính những
đổi mới sáng tạo đã đang chìa khóa để Việt Nam vượt qua mọi khó khăn
xây dựng một đất nước mạnh mẽ, giàu có và công bằng.
Tuy nhiên, còn rất nhiều thách thức và khó khăn đang đặt ra trước Việt Nam trong
quá trình phát triển. Để vượt qua những khó khăn này, Đảng Cộng sản Việt Nam cần
tiếp tục thực hiện các biện pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả quản tăng cường
cạnh tranh, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững thịnh vượng của đất nước. Đồng
thời cũng cần tiếp tục mở rộng quan hệ đối tác và hợp tác quốc tế, từ đó tăng cường vai
trò và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Với những nỗ lực quyết tâm này, tin chắc rằng Việt Nam thể tiếp tục
trưởng thành phát triển, xây dựng một hội công bằng, giàu phát triển bền
vững, đồng thời góp phần vào sự ổn định và hòa bình trong khu vực và trên thế giới.
27
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]: Lê Hồng Hạnh, “Thời bao cấp- Giai đoạn lịch sử đáng nhớ của người Việt Nam”
https://vieclam123.vn/thoi-bao-cap-b309.html
[2]: Wikepedia, “ Thời bao cấp” https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB
%9Di_bao_c%E1%BA%A5p
[3]:Đào Mạnh Đức (27/07/2023), “Hệ thống quản lý và cấp phát tem phiếu thời bao
cấp”:
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/he-thong-quan-ly-va-cap-phat-tem-phieu-thoi-
bao-cap-108118.htm
[4]:Lời giải hay , : “Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ mới”
https://loigiaihay.com/co-che-quan-ly-kinh-te-thoi-ky-truoc-doi-moi-
c125a20132.html#ixzz8EysN2AP5
[5]:TS. Nguyễn Thị Hương - Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê , Theo Tạp chí Kinh
tế và Dự báo số 25/2020, “Những dấu ấn quan trọng về kinh tế- Xã hội trong hành
trình 75 năm thành lập và phát triển đất nước qua số liệu thống kê”:
https://www.gso.gov.vn/su-kien/2020/09/23410/
[6]:Đức Minh, Ký ức kinh tế Việt Nam thời bao cấp qua tranh biếm hoạ (11/9/2016),
“Ký ức kinh tế Việt Nam thời bao cấp qua tranh biến họa”:
https://cafef.vn/ky-uc-kinh-te-viet-nam-thoi-bao-cap-qua-tranh-biem-hoa-
20160910111911857.chn
[7]:Theo Thể thao và Văn hóa (27/06/2014), “ Đời sống văn hóa những năm bao cấp
như thế nào”:
https://danviet.vn/doi-song-van-hoa-nhung-nam-bao-cap-nhu-the-nao-7777452632.htm
[8]: Bùi Quang Vinh. (01/05/2016), : “Ngành Giáo dục thời bao cấp”
https://baogialai.com.vn/nganh-giao-duc-thoi-bao-cap-post96406.html
28
[9]: Đại học Tôn Đức Thắng (2021), “Tổng Hợp Nội Dung LSD - Bù Giá Vào Lương
Tại Long An”:
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-ton-duc-thang/lich-su-dang/tong-hop-
noi-dung-lsd-bu-gia-vao-luong-tai-long-an/39831010
[10]: Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (dùng cho
sinh viên các các trường đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2020
[11]: Trung Hòa (24/09/2020), “Chỉ thị 100 và vai trò lịch sử của Ban Kinh tế Trung
ương.:
https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/chi-thi-100-va-vai-tro-lich-su-cua-ban-kinh-te-
trung-uong-564248.html
[12]: Đảng Cộng sản Việt Nam (2023), “Toàn văn Chỉ thị 100-CT/TW 1981 Cải tiến
công tác khoán mở rộng sản phẩm đến nhóm lao động hợp tác xã nông nghiệp.”:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Lao-dong-Tien-luong/Chi-thi-100-CT-TW-1981-
Cai-tien-cong-tac-khoan-mo-rong-san-pham-den-nhom-lao-dong-hop-tac-xa-nong-
nghiep-247358.aspx
[13]:Wikipedia, : “ Giá- lương- tiền (Việt Nam)” https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi
%C3%A1_%E2%80%93_l%C6%B0%C6%A1ng_%E2%80%93_ti%E1%BB
%81n_(Vi%E1%BB%87t_Nam)#cite_note-%C4%90P-4
29
| 1/29

Preview text:

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ BÀI TẬP LỚN
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: VIỆT NAM THỜI KỲ BAO CẤP
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Trần Ngọc Hằng
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
Mã lớp học phần: 231PLT10A34 STT Họ và tên MSV 1
Nguyễn Cao Kim Phụng- nhóm trưởng 25A4011062 2 Đỗ Thị Ngọc Ánh 25A4011387 3 Nguyễn Ngọc Ánh 25A4011390 4 Nguyễn Thị Ngọc Ánh 25A4011733 5 Đinh Thị Thanh Dung 25A4011767 6 Vũ Bình Dương 25A4012107 7 Nguyễn Thị Khánh Huyền 25A4010121 8 Trần Thu Huyền 25A4010126 9 Hoàng Minh Lộc 25A4010472 10 Hoàng Ánh Ngọc 25A4011026 11 Nguyễn Thị Bảo Ngọc 25A4011030 12 Vũ Thị Thu Nguyệt 25A4011040
Hà Nội, tháng10 năm 2023 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................4
NỘI DUNG..................................................................................................................5
I.Tìm hiểu về Việt Nam thời bao cấp............................................................................5
1. Khái niệm thời bao cấp...............................................................................................5
2. Các hình thức bao cấp của nhà nước.........................................................................5
2.1. Hình thức bao cấp qua giá và số lượng hàng hóa.............................................6
2.2. Hình thức bao cấp qua tem phiếu.....................................................................7
2.3. Hình thức bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách............................8
3. Tình hình kinh tế - xã hội- giáo dục thời kỳ bao cấp...................................................9
3.1. Đời sống kinh tế thời kỳ bao cấp.......................................................................9
3.2. Đời sống văn hóa - xã hội thời kỳ bao cấp......................................................12
3.3. Giáo dục và y tế thời kỳ bao cấp.....................................................................13
II. Những căn cứ đổi mới của Đảng trong thời kỳ bao cấp.......................................15
1. “Bù giá vào lương” Long An....................................................................................15
1.1. Nội dung.........................................................................................................16
1.2. Tác động của “Bù giá vào lương”..................................................................18
2. Chỉ thị 100 - CT/TW.................................................................................................20
2.1. Nội dung.........................................................................................................20
2.2. Tác động của chỉ thị 100- CT/TW...................................................................22
3. Nghị quyết Trung Ương 8 khóa 5.............................................................................23
3.1. Nội dung.........................................................................................................23 2
3.2. Tác động của nghị quyết TW 8 khóa 5............................................................24
KẾT LUẬN................................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................28 3 LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam thời bao cấp là một giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng trong suốt quá trình
phát triển của đất nước. Trong thời kỳ này, Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều thách
thức và khó khăn, bao gồm chiến tranh, đói nghèo, sự cô lập quốc tế và sự suy thoái
kinh tế. Đất nước đã phải chịu những tổn thất, mất mát nặng nề trên mọi mặt từ con
người và tài sản sau khi lần lượt trải qua các cuộc chiến tranh tàn khốc và đẫm máu.
Đồng thời, chính sách kinh tế cô lập và quản lý trung ương gây ra sự suy thoái kinh tế
và đói nghèo trầm trọng.
Tuy nhiên, thời kỳ bao cấp cũng là một giai đoạn mà Việt Nam đã trải qua những
nỗ lực và đấu tranh không ngừng để vượt qua những khó khăn này. Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đưa ra những chính sách và biện pháp nhằm đảm bảo sự tự chủ và phát
triển của đất nước, từ việc xây dựng nền kinh tế cộng hòa đến việc đấu tranh giành độc
lập và thống nhất quốc gia. Qua những nỗ lực không ngừng của Đảng và nhân dân,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Trên hành trình phát triển, Việt Nam đã học hỏi từ những sai lầm trong quá khứ và
tiến tới những biện pháp đổi mới và hội nhập quốc tế. Điều này đã mở ra cánh cửa cho
sự phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân và tăng cường vai trò của Việt
Nam trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, dù đã có những bước tiến đáng kể trong thời kỳ này, nhưng Việt Nam
vẫn đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn trong quá trình phát triển. Qua việc
nghiên cứu và phân tích thời kỳ bao cấp, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về quá trình phát
triển và những bước tiến quan trọng đã được thực hiện dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng Cộng Sản Việt Nam giai đoạn này. 4 NỘI DUNG
I.Tìm hiểu về Việt Nam thời bao cấp
1. Khái niệm thời bao cấp[1]
Thời bao cấp là một thời kỳ lịch sử trong giai đoạn những năm 1976 – 1986 diễn ra ở
Việt Nam. Từ “Thời bao cấp” là khái niệm dùng của người Việt đặt cho một thời kỳ
lịch sử từng diễn ra sau chiến tranh thống nhất đất nước. Sau cuộc chiến tranh dai dẳng
và khốc liệt của nhân dân ta với thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và nhiều quân đội của các
nước đồng minh khác. Khi thống nhất đất nước, toàn thể nhân dân ta bước vào giai
đoạn hòa bình, xây dựng đất nước. Thời kỳ đó gọi là thời kỳ bao cấp, nước ta xây dựng
theo mô hình chủ nghĩa xã hội giống như Liên Xô (cũ).
2. Các hình thức bao cấp của nhà nước
Nước ta xây dựng theo mô hình chủ nghĩa xã hội giống như Liên Xô (cũ). Với nền
kinh tế - xã hội - văn hóa do nhà nước nắm và quyết định, thời bao cấp gồm nhiều hình thức bao cấp khác nhau. 5
2.1. Hình thức bao cấp qua giá và số lượng hàng hóa[2]
- Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa, nhưng thường thấp hơn
nhiều lần so với giá trị thực với chúng trên thị trường. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Ví dụ: Trong khi công nhân lao động nặng được cấp 20kg gạo/tháng thì cán bộ công
chức chỉ được có 13kg gạo/tháng. Do lượng gạo ít ỏi như vậy mà cơm nấu thường
được độn thêm ngô, khoai, sắn… và điều này không còn xa lạ đối với những người
từng trải qua thời kỳ đó.
- Hàng hóa thì ngoài chất lượng kém, lượng hàng rất hạn chế thì chỉ đủ dùng một thời
gian ngắn nên đến cuối tháng đã cạn kiệt và bắt buộc người dân phải mua ở chợ đen.
Cho nên, dù có tem phiếu thì nhiều người vẫn phải tay trắng ra về vì hết hàng khi đến lượt.
- Ngoài hàng tiêu dùng thì Nhà nước còn nắm cả việc phân phối nhà cửa. Nhân dân hồi
đấy được chia tiêu chuẩn mỗi người 4 mét vuông đất. Những khu nhà tập thể giống
như mô hình của Liên Xô được xây lên và cấp cho cán bộ trung cấp và công nhân viên
chức nhà nước. Nhà cửa hư hỏng thì có Sở nhà đất lo sửa cho. Tuy nhiên do việc quản
lý yếu kém mà nhiều khu đất công cộng bị lấn chiếm. Còn chất lượng sống của khu
này ngày càng tồi tệ, thiếu thốn mọi bề nên phải chăn nuôi thêm trong căn hộ lại càng
khiến cho việc mất vệ sinh càng trở nên nghiêm trọng. 6
2.2. Hình thức bao cấp qua tem phiếu[2],[3]
- Trong thời kỳ bao cấp những năm 1965-1975, Nhà nước mở rộng chế độ tem phiếu,
cung cấp hàng hóa theo giá bao cấp cho lực lượng vũ trang, cán bộ và nhân dân. Có thể
nói, trong thời kỳ này, tem phiếu mang giá trị và chức năng giống như tiền tệ.
- Hệ thống tem phiếu có rất nhiều chủng loại. Mỗi loại lại có nguyên tắc và chế độ cấp
phát khác nhau, cho các đối tượng khác nhau. Có loại tem phiếu căn cứ theo mức
lương, chức vụ, cấp bậc lao động, có loại căn cứ theo độ tuổi nhân khẩu, có loại chỉ
giới hạn cho cán bộ công nhân viên chức và nhân dân thành thị, có loại lại mở rộng cho
toàn thể nhân dân... Mà đối tượng hưởng theo mỗi loại tem phiếu đó lại thường xuyên
thay đổi theo xu hướng ngày càng tăng lên.
- Theo quy định, tem phiếu chỉ được cấp mỗi năm một lần nhưng trong năm lại phát
sinh nhiều trường hợp đặc biệt như sinh, tử, cưới xin,...nên phải cấp phát và điều chỉnh
liên tục. Chính vì sự phức tạp đó, nên việc cấp phát và quản lý tem phiếu đòi hỏi sự
phối hợp của nhiều ngành hình thành nên hệ thống những người làm công việc cấp
phát và quản lý tem phiếu từ Trung ương đến địa phương.
Cụ thể, ta có ví dụ cho hệ thống tem phiếu theo vị trí công việc, đặc thù ngành
nghề,...như thịt lợn, người dân thường chỉ được mua 1,5 kg/tháng nhưng cán bộ cao
cấp có quyền mua 6 kg/tháng. Pin, Vải vóc, phụ tùng xe đạp, đường cát, sữa đặc, chất
đốt, nước mắm, mỡ, muối,...tất cả đều có tem phiếu. Cán bộ cao cấp hưởng tiêu chuẩn
đặc biệt A1; phiếu A dành cho bộ trưởng; thứ trưởng phiếu B; trưởng các cục, vụ, viện
được hưởng phiếu C và có các cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tông Đản, Nhà thờ, Vân Hồ (Hà Nội)...
- Ngoài các loại tem phiếu, còn có nhiều thứ giấy tờ có thể mua hàng: giấy giới thiệu,
giấy chứng nhận kết hôn, giấy báo tử, bệnh tật… cũng có giá trị để xét cho hưởng chế
độ cung cấp định lượng. 7
2.3. Hình thức bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách[4]
Không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều
đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu
quả, nảy sinh cơ chế "xin - cho". 8
3. Tình hình kinh tế - xã hội- giáo dục thời kỳ bao cấp
3.1. Đời sống kinh tế thời kỳ bao cấp[5],[6]
Vì vừa thoát khỏi chiến tranh với những hậu quả nặng nề của một nước thuần nông,
nước ta gặp nhiều khó khăn sau thời kỳ hậu chiến tranh, xây dựng đất nước. Nước ta
học theo mô hình xã hội chủ nghĩa của Liên Xô với nền kinh tế tập trung, kế hoạch
hóa. Do đó, kinh tế - xã hội của nước ta không dễ gì có thể nhanh chóng thoát khỏi
nghèo khó, khó khăn. Do đó, thời kỳ bao cấp (1976-1986) là giai đoạn mà toàn dân
đang cố gắng vượt qua những điều kiện khó khăn, thiếu thốn của thực tại và tìm hướng
đi để phát triển đất nước tốt hơn.
- Thời kỳ bao cấp kéo dài trong 10 năm từ 1976–1986 trước khi thực hiện Đổi mới.
Nước ta đã thực hiện 2 kế hoạch 5 năm trong giai đoạn này bao gồm: Kế hoạch 5 năm
lần thứ 2 (1976 – 1980) và kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1981 – 1986). Theo quan điểm
của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế kế hoạch hóa là điểm nổi bật quan trọng nhất
với kế hoạch phân bổ mọi nguồn lực, không thừa nhận cơ chế thị trường và sản xuất
hàng hóa, xem kinh tế thị trường là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản.
- Hầu hết người lao động làm việc trong các cơ quan, doanh nghiệp của nhà nước và
sống theo chế độ tem phiếu của thời kỳ này. Đời sống người dân gặp nhiều khó khăn,
thiếu thốn về ăn mặc, về cuộc sống vật chất và tinh thần. Vào thời kỳ bao cấp, cơ chế
quản lý kinh tế của nước ta chính là cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thể hiện qua những khía cạnh sau:
+ Doanh nghiệp được các cơ quan hành chính liên quan tham gia nhiều vào việc kinh
doanh, sản xuất nhưng không phải chịu trách nhiệm về lãi lỗ và pháp lý đối với các
quyết định của mình. Ngân sách nhà nước sẽ là cơ quan thu lãi và lỗ cho các hoạt động của doanh nghiệp.
+ Bộ máy quản lý qua nhiều cấp từ trung ương tới địa phương. Do có nhiều cấp trung
gian nên hoạt động không năng động, kịp thời, thậm chí dẫn tới nhiều tiêu cực ảnh
hưởng tới quyền lợi của người lao động, người dân. 9
+ Thời bao cấp, quan hệ tiền tệ - hàng hóa không được coi trọng hầu như chỉ là hình
thức. Trong đó, quan hệ hiện vật chiếm vị thế chủ đạo. Nền kinh tế sẽ được nhà nước
quản lý theo chế độ “cấp phát – giao nộp”.
+ Ở thời kỳ này nhà nước đóng vai trò quyết định toàn bộ nền kinh tế, kinh tế tư nhân
bị xoá bỏ. Hàng hóa được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà nước nắm toàn
quyền điều hành, ngăn cấm việc mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển tự do hàng
hóa từ địa phương này sang địa phương khác.
Nhà nước có độc quyền phân phối hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ
khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu
người, tiêu biểu nhất là sổ gạo ấn định số lượng và mặt hàng được phép mua.Vì vậy,
thời điểm này, hàng hoá, dịch vụ luôn luôn trong trạng thái khan hiếm, gây nên những
câu chuyện dở khóc dở cười. Ví dụ như nhiều thành phố lớn bị thiếu gạo, thiếu chất
đốt, thiếu điện, thiếu nước... Mặt khác, do cơ chế quản lý mà nhiều nguồn hàng đã eo
hẹp nhưng lại bị thất thoát bằng nhiều cách
Hình: Sổ gạo do ty thương nghiệp mỗi tỉnh cấp, đóng dấu đỏ "mất không cấp lại" 10
Hình: Cảnh mua bán tại một quầy hàng mậu dịch nhà nước
Hình: Xếp hàng gửi xe trước khi vào mua hàng 11
+ Nền kinh tế nhiều thành phần không được thừa nhận mà chỉ có kinh tế quốc doanh và
tập thể là chủ đạo, để tiến hành xóa bỏ kinh tế tư nhân, cá thể và sở hữu tư nhân khỏi
xã hội. Kinh tế tư nhân đã "tàng hình" để sống sót và hoạt động.
Do đó, kinh tế Việt Nam thời kỳ này lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ với nhiều
tiêu cực đòi hỏi phải được cải tiến, đổi mới để theo kịp xu hướng phát triển của thời đại.
3.2. Đời sống văn hóa - xã hội thời kỳ bao cấp
a) Đời sống văn hóa Việt Nam thời bao cấp[7]
- Thời bao cấp, người dân ít được tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Các mảng về
phim, văn học hay nhạc… đều được nhà nước kiểm duyệt trước khi phát hành tới
người dân. Nội dung thường gần gũi với quần chúng, tư tưởng và quan điểm của Đảng.
Thời kỳ này không có phim truyền hình mà chỉ có phim truyện nhựa, phim tài liệu.
Phim được chiếu tại các rạp chiếu bóng lưu động, rạp chiếu bóng hay phát trên truyền
hình trung ương. Phim chiếu bấy giờ chủ yếu của Việt Nam, như Đường ra mặt trận,
Con chim vành khuyên… kịch thì có Chị Muội, Bắc Sơn, Cửu Trùng đài. Các vở tuồng
cũ như Tống Trân Cúc Hoa, chèo cũ như Quan Âm Thị Kính… được phục dựng rất đông khán giả.
Hình: Diễn viên trang điểm trước khi giờ biểu diễn 12
- Báo chí hoạt động theo tôn chỉ mục đích của Đảng, phục vụ nhân dân gồm đa dạng
các đối tượng. Báo chí được nhà nước bao cấp, không có quảng cáo. Các văn nghệ sĩ
được nhà nước trả lương giống công chức, hoạt động trong các cơ quan nhà nước.
b) Đời sống xã hội Việt Nam thời kỳ bao cấp[2]
- Xã hội ít có sự phân hóa giàu nghèo như hiện nay nhưng mức sống của người dân
thấp, cuộc sống thiếu thốn khiến nạn ăn cắp vặt nảy sinh.
- Sinh viên ra trường không bị thất nghiệp nhưng đều phải chịu sự phân công của nhà
nước, không có quyền tự do lựa chọn công việc.
- Xã hội có tính cộng đồng cao, người dân sống có tình làng nghĩa xóm thân thiết.
3.3. Giáo dục và y tế thời kỳ bao cấp a) Giáo dục:[2],[8]
- Phát triển giáo dục phổ thông đại trà đến tận các cụm dân cư thôn, làng; mỗi xã,
phường đều có trường phổ thông cấp I hoặc cấp I-II, kể cả giáo dục mầm non. 13
- Tập trung cho công tác bổ túc văn hóa và xóa mù chữ trong độ tuổi; mỗi huyện, thị xã
có trường bổ túc văn hóa cho cán bộ cơ sở; ở tỉnh có trường bổ túc công nông dạy văn
hóa cho đối tượng cán bộ cấp huyện, các ngành của tỉnh.
- Đi kèm với sự phát triển mạnh về số lượng, song chất lượng hệ thống giáo dục lại đi
xuống vì tình trạng thiếu trường lớp, thiếu giáo viên được đào tạo tốt, lương giáo viên
bị hạ thấp, việc thi cử bị buông lỏng, bệnh thành tích phát triển,...
Năm 1976, khuôn mẫu giáo dục ở miền Bắc tiếp cận với hệ thống giáo dục đã được
thiết lập ở miền Nam; Miền Bắc tiếp tục hệ 10 năm và miền Nam giữ hệ 12 năm. Đến
năm 1981, miền Bắc áp dụng hệ học 11 năm (thêm lớp 5). 14 b) Y tế:[2]
- Người dân đi khám, chữa bệnh hay mua thuốc đều không mất tiền. Họ mang hóa đơn
về cơ quan hay bệnh viện để được thanh toán, song điều kiện chữa bệnh lại vô cùng thiếu thốn.
- Trang thiết bị y tế, thuốc men không đủ đáp ứng nhu cầu, một phần nhập khẩu, một
phần chủ yếu nhận viện trợ từ các nước khác.
- Bệnh viện gặp vô vàn khó khăn, hầu hết đều là bệnh viện có quy mô nhỏ, chủ yếu
kiểu nhà từ một đến ba tầng. Bộ y tế cũng phân chỉ tiêu đến từng bệnh viện để thực
hiện công tác khám, chữa bệnh.
II. Những căn cứ đổi mới của Đảng trong thời kỳ bao cấp
1. “Bù giá vào lương” Long An [9] * Khái niệm:
Hiểu một cách đơn giản nhất, bù giá vào lương là việc Chính phủ tăng lương tối thiểu
để giúp dân đối phó với tình trạng giá cả leo thang. Chính là Nhà nước tính tổng tiền 15
lương và những mặt hàng cung cấp theo tem phiếu, tất cả quy ra giá thị trường để tính ra mức lương mới. 1.1. Nội dung
Bù Giá vào lương: “Tư tưởng chính trị” bí thư Chín Cần. Những năm 1979, 1980, tỉnh
Long An triển khai chủ trương cải tiến phân phối lưu thông - bù giá vào lương gây chấn động dư luận. - Bối cảnh:
Sau những hân hoan của ngày đại thắng, Long An cũng như cả nước phải đối mặt với
những khó khăn chồng chất về kinh tế xã hội khi những khuyết tật của mô hình kế
hoạch hóa chỉ huy tập trung, hành chính cung cấp và bao cấp ngày càng bộc lộ gay gắt.
Rõ nét nhất là cơ chế giá cả. Sự áp đặt chủ quan, tùy tiện trong định giá đã tạo ra sự
chênh lệch lớn giữa giá thị trường tự do với giá chỉ đạo của nhà nước. Khoản chênh
lệch ấy chính là miếng mồi béo bở cho các hoạt động bòn rút hàng từ tay nhà nước
sang túi các cá nhân. Đời sống của cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang
ngày càng khó khăn. Lương quá thấp nên công nhân viên chức tìm mọi cách để lo toan
cuộc sống gia đình. Hàng ngàn công nhân, viên chức, giáo viên xin nghỉ hoặc tự bỏ
việc để đi buôn, làm ruộng hoặc làm thuê kiếm sống.
=> Là người đứng đầu tỉnh, Bí thư Chín Cần rất đau lòng. Ông trăn trở và tìm cách để
thay đổi cơ chế giá cả, tiền lương, khâu nóng bỏng nhất lúc bấy giờ Người được ông
chọn để tham gia xây dựng đề án này là Phó giám đốc Sở Thương nghiệp Hồ Đắc Hi.
- Nội dung và diễn biến:
+ Cơ sở để làm đề án là từ thực tiễn, giá cả, tiền lương phải dựa trên quy luật giá trị và
cung cầu, cũng như các quy luật kinh tế hàng hóa khác, chứ không thể duy ý chí - Bí
thư Chín Cần chỉ đạo Tổng tiền lương và 16 mặt hàng phân phối theo định lượng, tất
cả quy ra giá thị trường thì lương Bí thư Tỉnh ủy xấp xỉ 600 đồng. Tuy nhiên, do chất
lượng hàng hóa thấp, tiêu chuẩn bị cắt xén, hàng được cấp không phù hợp nhu cầu... thì
hiệu quả sử dụng của mức lương này chỉ đạt 50-70%. Tốt nhất là đem hết số hàng phân 16
phối của Bí thư ra chợ bán theo giá thị trường rồi về trả cho ông 600 đ/tháng. Bí thư
cần gì ra đó mà mua. Nếu theo phương án này thì tỉnh nắm được hàng hóa, giá cả; còn
người hưởng lương thoải mái lựa chọn hàng mua. Vì thế, dân buôn, đầu cơ, nhân viên
thương nghiệp... không còn cơ hội tiêu cực; Nhà nước còn tiết kiệm được khoản bù lỗ
cho thương nghiệp, tem phiếu, thời gian...
+ Sau đó ông trao đổi thêm với các cán bộ chủ chốt tỉnh và cho làm thử nghiệm. Giá
bán cao gấp 10 lần giá phân phối và tương đương giá chợ. Lương của viên chức tháng
đó đã được cộng thêm định mức của mặt hàng xà bông theo giá thị trường. Ai muốn
mua xà bông thì ra chợ, thoải mái lựa chọn, không phải lo mua dự trữ.Vì thế, giá xà
bông đã giảm rất nhiều. Lần đầu tiên một mặt hàng không phân phối nhưng cũng
không thiếu ngoài chợ hay cửa hàng quốc doanh. Bước thử nghiệm đã thành công.
+ Tiếp theo đó, trong 3 tháng cuối năm 1979, tất cả các mặt hàng phân phối (trừ gạo)
đều được Long An bán ra thị trường. Toàn bộ số hiện vật của cán bộ viên chức được
quy ra tiền theo giá thị trường và cộng vào lương hằng tháng. Giải pháp "bù giá vào
lương" đã gây một hiệu ứng tích cực. Thị trường sôi động, chỉ số giá tiêu dùng giảm
mạnh, quỹ lương của tỉnh tăng lên gấp 7 lần...
Trong cuộc họp Ban Thường vụ Tỉnh ủy vào ngày 26-6-1980, ông khuyến khích một
số ý kiến đề xuất phương thức mới theo hướng: Mua và bán hàng theo giá thỏa thuận.
Sau cuộc họp này, ông Chín chỉ đạo tiến hành làm thử việc mua hàng theo giá thỏa
thuận đối với hàng nông sản, thực phẩm và bán hàng theo giá thỏa thuận đối với hàng
tiêu dùng. Những bước thử nghiệm ban đầu đã cho kết quả rất tích cực, Bí thư Chín
Cần cùng ông Tư Giao, Giám đốc Thương nghiệp tỉnh hoàn chỉnh Đề án cải tiến phân
phối lưu thông và thông qua Tỉnh ủy vào tháng 8-1980.
=> Chỉ sau 2 tháng, hơn 300 công nhân, viên chức, giáo viên đã nghỉ, xin trở lại làm
việc. Nông dân phấn khởi lao vào sản xuất...Kết quả thực tế là phương thức ấy, việc
lưu thông hàng hóa đã trở lại bình thường, kinh tế xã hội được phục hồi nhanh chóng,
sản xuất tăng trưởng, đời sống nhân dân được cải thiện. Những cải tiến trong phân
phối, lưu thông ở Long An thực sự đã gây lên cơn "địa chấn" trong cả nước. Ban Bí thư 17
Trung ương Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành, hàng chục đoàn của các tỉnh, thành phố
đã về Long An nghiên cứu, tìm hiểu. Một số phái đoàn quốc tế như đoàn giáo sư Liên
Xô,đoàn của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Đảng Cộng sản Nhật Bản... cũng về
Long An để tìm hiểu. Không lâu sau, các cải tiến này đã được áp dụng trong cả nước
với những quyết định lịch sử tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI...
1.2. Tác động của “Bù giá vào lương”
- Làm cho người dân và nhất là cán bộ công nhân viên chủ động hơn trong cuộc sống của mình.
Việc bù giá vào lương thực chất là việc chuyển từ cung cấp bằng hiện vật sang cung
cấp bằng tiền. Trước đó cán bộ công nhân viên thường không mua được đầy đủ tiêu
chuẩn hàng cung cấp của mình. Khi áp dụng chính sách mới, họ không cần thiết phải
xếp hàng chờ đợi để mua, không còn phải bực mình vì thái độ cửa quyền của nhân viên
bán hàng. Khi hàng hóa đã được bán tự do thì chợ đen cũng bớt sầm uất và dần dần
mai một. Khi đã mở cửa bán hàng tự do thì chẳng còn ai cần đi mua hàng ở "cổng hậu" nữa .
- Công nhân viên chức và lực lượng vũ trang được đảm bảo gần như đủ mức cung cấp.
* Các hiệu quả khác:
- Về thu mua, bán ra, giao nộp cho trung ương tăng.
- Về lưu thông - phân phối:
+ Hàng hóa được lưu chuyển nhanh hơn, với con đường ngắn hơn từ sản xuất tới tiêu dùng.
+ Với giá thỏa thuận, nông dân không còn bị ép cấp, ép giá tình trạng tiêu cực lợi dụng
mua hàng theo giá cung cấp để mua đi bán lại kiếm lời đã được khắc phục.
+ Tâm lý lo sợ hàng hóa khan hiếm, giá cả đột biến đã dần dần được giải tỏa. Mọi
người chỉ mua hàng khi thực sự cần thiết, nhờ đó cũng góp phần giảm bớt căng thẳng cung - cầu. 18
+ Người dân cũng tự do hơn trong việc chi tiêu.
- Về tác dụng đối với sản xuất: Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp và công nghiệp tính
theo giá cố định hằng năm cũng đều tăng.
- Về tín dụng: Tính đến năm 1985, trên lĩnh vực đầu tư tín dụng, ngân hàng đã dành
một số vốn thích đáng để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các ngành kinh tế
- Về cân đối tiền mặt: Tiền mặt cũng bớt căng thẳng hơn, không để nợ thu mua kéo dài
như bệnh kinh niên của những năm trước. Kể cả trong các đợt cao điểm thu mua, số nợ
dân cũng rất ít so với các tỉnh khác ở Nam bộ.
- Về cân đối ngân sách: Từ chỗ bị động và thụ động trong cán cân ngân sách, sau bước
đột phá này, tỉnh đã cân bằng được ngân sách, chủ động đáp ứng những nhu cầu cơ bản
của kinh tế địa phương.
→ Sự lan tỏa của mô hình Long An: Với những kết quả hiển nhiên kể trên, sau mấy
năm, "cán cân" khen chê, ủng hộ - phản đối đã thay đổi theo hướng thuận lợi. Đảng bộ
Long An đã tạo nên sự đột phá quan trọng trong lĩnh vực phân phối lưu thông, dũng
cảm chấp nhận sự phê phán, định kiến và thách thức để mở đầu tiến trình cải cách giá ở
các tỉnh thành khác và trong cả nước. Đó là một thành tích nổi bật của tập thể Đảng bộ,
chính quyền, các đoàn thể và nhân dân tỉnh Long An vào “đêm trước đổi mới”, trong
đó có vai trò, công lao lớn của ông Nguyễn Văn Chính - người tích cực đổi mới vì dân. 19
2. Chỉ thị 100 - CT/TW [10],[11],[12] 2.1. Nội dung
- Việc ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/1/1981, về cải tiến công tác khoán,
mở rộng "khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người lao động" trong hợp
tác xã nông nghiệp là bước đột phá của Đảng về đổi mới cơ chế quản lý, kế hoạch hóa
và hạch toán kinh tế trong nông nghiệp, chuẩn bị cho các bước tiếp theo để hình thành
hệ thống quản lý nông nghiệp mới, làm biến đổi sâu sắc sản xuất nông nghiệp. - 5 nguyên tắc khoán 100:
1- Hợp tác xã nông nghiệp phải quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản
xuất, trước hết là ruộng đất, sức kéo, phân bón, các công cụ và các cơ sở vật chất- kỹ thuật của tập thể.
2- Hợp tác xã phải tổ chức tốt việc quản lý và điều hành lao động, phát huy tính hơn
hẳn của sự hiệp tác có phân công, đồng thời kích thích được tính tích cực lao động của
tập thể xã viên và của từng người lao động trên cơ sở làm cho mọi người quan tâm và
gắn bó với kết quả cuối cùng của sản xuất.
3- Hợp tác xã phải có quy hoạch và kế hoạch phù hợp với quy vùng sản xuất và kế
hoạch sản xuất của huyện, có quy trình sản xuất và có định mức kinh tế - kỹ thuật ngày
càng tiến bộ; các đơn vị nhận khoán phải làm đúng những quy định ấy của hợp tác xã. 20
4- Hợp tác xã phải nắm được sản phẩm để bảo đảm việc phân phối sản phẩm kết hợp
được đúng đắn và hài hòa ba lợi ích (lợi ích của Nhà nước, của tập thể, của người lao
động) và thực hiện tốt việc phân phối theo lao động cho xã viên.
5- Phát huy quyền tự chủ của hợp tác xã và quyền làm chủ tập thể của xã viên, khắc
phục tệ mạnh lệnh, gò ép, trái với nguyên tắc “tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ”. - Về nông nghiệp:
+ Nội dung: Theo Chỉ thị, mỗi xã viên nhận mức khoán theo diện tích và tự mình làm
các khâu, cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm.
Thu hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán. Chủ trương đó được
nông dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong trào quần chúng sâu rộng.
+ Kết quả: Sản lượng lương thực bình quân từ 13,4 triệu tấn/năm thời kỳ 1976-1980
tăng lên 17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981-1985; những hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong
sản xuất nông nghiệp giảm đi đáng kể; kích thích người nông dân hăng hái sản xuất,
chủ động trong công việc, tích cực chăm sóc, thâm canh nên năng suất và sản lượng
đều tăng; tận dụng được thời gian, nguồn lao động và đất đai; việc đóng thuế, bán sản
phẩm cho Nhà nước ở nhiều cơ sở làm nhanh gọn hơn trước. - Về công nghiệp:
+ Nội dung: Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP (1-1981) về quyền chủ động
sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và 21
Quyết định số 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và
vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước.
+ Kết quả: Kết quả nhìn chung đã không đạt chỉ tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu thông,
phân phối rối ren,giá cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4-5 lần xuất khẩu. Đời sống của
nhân dân,cán bộ, công nhân viên, lực lượng vũ trang rất khó khăn.
2.2. Tác động của chỉ thị 100- CT/TW - Tích cực:
+ Xét về mặt cơ chế quản lý kinh tế, 5 nguyên tắc khoán 100 đã phá vỡ cơ chế tập
trung quan liêu trong sản xuất nông nghiệp, nhất là sử dụng có hiệu quả tư liệu sản
xuất, ruộng đất; quản lý, điều hành tốt lao động làm cho mọi người gắn bó với kết quả
cuối cùng; thực hiện phân phối sản phẩm, phân phối theo lao động, bảo đảm hài hòa lợi
ích nhà nước - tập thể - người lao động; hợp tác xã thực hiện nguyên tắc "tự nguyện,
cùng có lợi, quản lý dân chủ".
+ Chỉ thị 100 ban hành, nông nghiệp như được "cởi trói", bước đầu khơi dậy tinh thần
làm chủ, phấn khởi của người lao động, tạo động lực thúc đẩy nông nghiệp phát triển. - Hạn chế: 22
+ Nền kinh tế của cả nước vẫn chìm sâu vào khủng hoảng và còn nhiều yếu tố mất ổn định.
+ Những hạn chế trên trước hết là do khả năng lãnh đạo và năng lực quản lý của ta còn
nhiều mặt hạn chế. Nhưng nguyên nhân sâu xa còn do những chủ trương đổi mới lúc
bấy giờ vẫn trong giai đoạn thử nghiệm, mang tính chất từng mặt, từng phần, chưa triệt
để, toàn diện. Việc thực hiện của địa phương cũng chỉ là nhằm tổng kết thực tiễn để
tiếp tục hoàn chỉnh thêm đường lối.
=> Có thể nói Chỉ thị 100 đã tạo nên thành công cho quá trình đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế trong nông nghiệp, là tiền để tạo niềm tin, động lực cho tiến trình đổi mới thành
công cơ chế quản lý kinh tế đất nước sau này.
3. Nghị quyết Trung Ương 8 khóa 5[13] 3.1. Nội dung
*Hội nghị trung ương 8 (tháng 6/1985), Ban chấp hành trung ương đã quyết nghị tiến
hành một cuộc cải cách lớn về "giá – lương – tiền" với nội dung chính như sau:
- Tính đủ chi phí hợp lý vào sản xuất
- Thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống giá cả
- Đảm bảo tiền lương thực tế, thực sự đảm bảo cho người ăn lương sống chủ yếu bằng
tiền lương, tái sản xuất được sức lao động.
- Xác lập quyền tự chủ về tài chính của các ngành và các cơ sở kinh tế.
*Tháng 8/1985, phương án cải cách được đưa ra như sau:
- Về giá, phải tính toán đầy đủ giá các mặt hàng Nhà nước cung cấp và giá các mặt
hàng Nhà nước mua của nông dân, thợ thủ công theo giá sát với chi phí sản xuất. Để
tiện cho tính toán, các mức giá trên được quy ra thóc. Còn giá thóc được xác định bình
quân là 25 đồng/kg, dựa trên tính toán thực tế của các chuyên gia. Các địa phương khác
nhau thì mức giá thóc quy đổi này có thể cao hoặc thấp hơn. Nhà nước ban hành mức 23
giá mới của một số vật tư, như xăng, dầu, xi măng, sắt, theo đó giá sắt 6 tăng 11,5 lần
so với mức giá cũ, giá xi măng tăng 12,5 lần.
- Về lương, giá lên bao nhiêu thì tăng lương bấy nhiêu, Ban chỉ đạo đề nghị tăng lương
thêm 20% (bù giá vào lương).
- Về tiền, để đáp ứng giá mới và lương mới, phải in thêm tiền, để tổng lượng tiền trong
lưu thông là 120 tỷ đồng. Nhưng thời điểm đó, Việt Nam không tự in được tiền mà
phải nhờ nước ngoài in. In nhiều tiền sẽ tốn thời gian. Vì lẽ đó, để in ít tiền mà vẫn có
sức mua lớn, Ban chỉ đạo đưa ra chủ trương đổi tiền. Một đồng mới sẽ đổi lấy 10 đồng
hiện hành. Như vậy 12 tỷ đồng in mới và đem đổi sẽ tương đương 120 tỷ đồng hiện hành.
*Mục tiêu của chính sách là từng bước xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong
giá và lương, xây dựng và hoàn chỉnh cơ chế quản lý mới, đưa giá cả các mặt hàng
theo sát với chi phí sản xuất, sát với giá thực tế trên thị trường.
3.2. Tác động của nghị quyết TW 8 khóa 5
- Bước đầu cải cách cho thấy tín hiệu tích cực: tiền lương của người lao động tăng,bù
lại trượt giá lạm phát đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của người lao động, lương là
động lực cho người lao động.
- Lâu dần cải cách bộc lộ nhiều bất cập:
+ Cứ bù giá vào lương thì giá cả xã hội lại tăng lên một chút, sóng tăng giá tăng nhanh
hơn sóng tăng lương. Càng bù giá vào lương thì giá càng cao và lương lại càng thấp đi 24
tương đối so với mức tăng giá. Lương công nhân tăng lên nhưng không theo kịp đà tăng giá.
+Ngày 14/09/1985 là ngày đổi tiền, ngay sau khi đổi tiền giá vật tư tăng lên, các xí
nghiệp quốc doanh không sản xuất được vì giá đầu vào cao
+ Để trả lương, nhà nước lại phải in thêm tiền với khối lượng 1,38 lần so với trước nên
hậu quả là vật giá lại tăng mạnh. Sang năm 1986, mức lạm phát đã lên đến 774,7%
+ Để cung ứng nhu yếu phẩm với giá thấp hơn, nhà nước phải mở rộng chương trình
tem phiếu, áp dụng quy chế này cũng buộc nhà nước thu mua hàng hóa từ nhà sản xuất
ở giá thật thấp, gây bất mãn khiến người sản xuất muốn bán giá cao hơn phải bán bán
ra chợ đen, làm thất thoát thêm số lượng hàng ít ỏi
→ Những vòng xoáy điều chỉnh giá – lương – tiền càng làm cho lạm phát leo thang
nhanh chóng trong năm 1986. Tiền phát hành nhiều mà vẫn không đủ. Lương công
nhân tăng lên nhưng không theo kịp đà tăng giá. Vật tư, hàng hóa khan hiếm. Giá bán
lương thực dù tăng 10 lần vẫn không đủ bù đắp chi phí. Sản xuất nông nghiệp sa sút,
đầu tư trong công nghiệp giảm. *Ý nghĩa:
- Chủ trương bù giá vào lương là bước đầu hình thành giá theo một phần của cơ chế thị
trường, giảm thiểu tình trạng gia bao cấp, định giá chủ quan duy ý chí, thể hiện nhận
thức tiên tiến về cơ chế thị trường lúc bấy giờ
- Tuy kế hoạch cải cách giá – lương – tiền không diễn ra như kế hoạch do sự chắp vá
giữa cải cách với mô hình cũ, gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong thời gian cuối
năm 1985 và năm 1986, song chính điều này đã làm cho các cấp các ngành nhận ra
rằng đã cải cách là phải cải cách triệt để. Mô hình cũ phải bị chấm dứt hoàn toàn. Trên
cơ sở đó cùng với những biến chuyển chính trị toàn cầu như việc kinh tế khối
Warszawa lâm vào trì trệ, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ sáu của Đảng Cộng sản
Việt Nam tháng 12 năm 1986 đã đưa ra những chủ trương cải cách, đổi mới lịch sử. 25
Hội nghị trung ương 8 khóa V (6-1985) được coi là bước đột phá thứ hai trong quá
trình tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng vì tại đây Trung ương chủ trương xóa các quan
liêu bao cấp trong giá và lương là yêu cầu hết sức cấp bách, là khâu đột phá có tính
quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. 26 KẾT LUẬN
Tổng kết lại, thời kỳ bao cấp đã để lại những dấu ấn lớn trong lịch sử Việt Nam
với nhiều dấu ấn và hoài niệm của không ít người từng sinh sống trong thời kỳ này. Từ
những khó khăn và thử thách, dưới sự lãnh đạo và các chính sách sáng suốt của Đảng,
Việt Nam đã trưởng thành và phát triển vượt bậc và toàn diện mọi mặt. Chính những
đổi mới và sáng tạo đã và đang là chìa khóa để Việt Nam vượt qua mọi khó khăn và
xây dựng một đất nước mạnh mẽ, giàu có và công bằng.
Tuy nhiên, còn rất nhiều thách thức và khó khăn đang đặt ra trước Việt Nam trong
quá trình phát triển. Để vượt qua những khó khăn này, Đảng Cộng sản Việt Nam cần
tiếp tục thực hiện các biện pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý và tăng cường
cạnh tranh, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và thịnh vượng của đất nước. Đồng
thời cũng cần tiếp tục mở rộng quan hệ đối tác và hợp tác quốc tế, từ đó tăng cường vai
trò và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Với những nỗ lực và quyết tâm này, tin chắc rằng Việt Nam có thể tiếp tục
trưởng thành và phát triển, xây dựng một xã hội công bằng, giàu có và phát triển bền
vững, đồng thời góp phần vào sự ổn định và hòa bình trong khu vực và trên thế giới. 27 TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]: Lê Hồng Hạnh, “Thời bao cấp- Giai đoạn lịch sử đáng nhớ của người Việt Nam”
https://vieclam123.vn/thoi-bao-cap-b309.html
[2]: Wikepedia, “ Thời bao cấp” https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB %9Di_bao_c%E1%BA%A5p
[3]:Đào Mạnh Đức (27/07/2023), “Hệ thống quản lý và cấp phát tem phiếu thời bao cấp”:
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/he-thong-quan-ly-va-cap-phat-tem-phieu-thoi- bao-cap-108118.htm
[4]:Lời giải hay , “Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ mới”:
https://loigiaihay.com/co-che-quan-ly-kinh-te-thoi-ky-truoc-doi-moi- c125a20132.html#ixzz8EysN2AP5
[5]:TS. Nguyễn Thị Hương - Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê , Theo Tạp chí Kinh
tế và Dự báo số 25/2020, “Những dấu ấn quan trọng về kinh tế- Xã hội trong hành
trình 75 năm thành lập và phát triển đất nước qua số liệu thống kê”:
https://www.gso.gov.vn/su-kien/2020/09/23410/
[6]:Đức Minh, Ký ức kinh tế Việt Nam thời bao cấp qua tranh biếm hoạ (11/9/2016),
“Ký ức kinh tế Việt Nam thời bao cấp qua tranh biến họa”:
https://cafef.vn/ky-uc-kinh-te-viet-nam-thoi-bao-cap-qua-tranh-biem-hoa- 20160910111911857.chn
[7]:Theo Thể thao và Văn hóa (27/06/2014), “ Đời sống văn hóa những năm bao cấp như thế nào”:
https://danviet.vn/doi-song-van-hoa-nhung-nam-bao-cap-nhu-the-nao-7777452632.htm
[8]: Bùi Quang Vinh. (01/05/2016), “Ngành Giáo dục thời bao cấp”:
https://baogialai.com.vn/nganh-giao-duc-thoi-bao-cap-post96406.html 28
[9]: Đại học Tôn Đức Thắng (2021), “Tổng Hợp Nội Dung LSD - Bù Giá Vào Lương Tại Long An”:
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-ton-duc-thang/lich-su-dang/tong-hop-
noi-dung-lsd-bu-gia-vao-luong-tai-long-an/39831010
[10]: Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (dùng cho
sinh viên các các trường đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2020
[11]: Trung Hòa (24/09/2020), “Chỉ thị 100 và vai trò lịch sử của Ban Kinh tế Trung ương.:
https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/chi-thi-100-va-vai-tro-lich-su-cua-ban-kinh-te- trung-uong-564248.html
[12]: Đảng Cộng sản Việt Nam (2023), “Toàn văn Chỉ thị 100-CT/TW 1981 Cải tiến
công tác khoán mở rộng sản phẩm đến nhóm lao động hợp tác xã nông nghiệp.”:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Lao-dong-Tien-luong/Chi-thi-100-CT-TW-1981-
Cai-tien-cong-tac-khoan-mo-rong-san-pham-den-nhom-lao-dong-hop-tac-xa-nong- nghiep-247358.aspx
[13]:Wikipedia, “ Giá- lương- tiền (Việt Nam)”: https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi
%C3%A1_%E2%80%93_l%C6%B0%C6%A1ng_%E2%80%93_ti%E1%BB
%81n_(Vi%E1%BB%87t_Nam)#cite_note-%C4%90P-4 29