



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58511332
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 
KHOA XÂY DỰNG – KỸ THUẬT XÂY DỰNG   Đề tài: 20 
ĐẢNG XÂY DỰNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI 
THỜI KỲ 1975 – 1985 
HP: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam    Lớp TC: 23XD1  Nhóm SVTH: 20  1. Nguyễn Văn An  2. Phan Thanh Huy  3. Nguyễn Tiến Thảo  4. Trần Thanh Thiện  5. Nguyễn Thị Thơ  6. Huỳnh Đức Tuấn  7. Hồ Thị Thanh Vi (NT)  GVHD: Phan Trọng Toàn     
Đà Nẵng, tháng 12 năm 2024      MỤC LỤC  
1. Hoàn cảnh lịch sử 
1.1. Tình hình Mỹ cấm vận Việt Nam 
1.2. Báo chí phương Tây về việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia  (1978-  1989) 
1.3. Chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Quốc (1979) 
2. Chủ trương đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội IV (1976) 
và Đại hội V (1982) 
2.1. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng qua 2 Đại hội 
2.1.1. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội IV (tháng  12/1976 
2.1.2. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội V (tháng  3/1982) 
3. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân  3.1. Kết quả  3.2. Ý nghĩa 
3.3. Hạn chế và nguyên nhân  3.3.1. Hạn chế  3.3.2. Nguyên nhân 
4. Bài học kinh nghiệm                      2    NỘI DUNG 
1. Hoàn cảnh lịch sử: 
1.1. Tình hình Mỹ cấm vận Việt Nam: 
Sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam vào năm 1975, Mỹ đã áp dụng các 
biện pháp cấm vận đối với Việt Nam, chủ yếu nhằm gây áp lực để Việt Nam rút 
quân khỏi Campuchia và cải thiện quan hệ với các nước trong khu vực, đặc biệt 
là Trung Quốc. Các biện pháp cấm vận bao gồm: 
+ Cấm vận vũ khí và hỗ trợ quân sự: Mỹ đã ngừng cung cấp các loại vũ khí, 
trang thiết bị quân sự và hỗ trợ tài chính cho Việt Nam. 
+ Cấm vận kinh tế: Mỹ cũng áp đặt lệnh cấm đối với các giao dịch thương 
mại và tài chính với Việt Nam, bao gồm cả các biện pháp hạn chế đối với xuất 
khẩu dầu mỏ và các sản phẩm chiến lược. 
+ Cấm vận ngoại giao: Mỹ duy trì một chính sách cô lập Việt Nam trên 
trường quốc tế và hạn chế sự hiện diện ngoại giao của Việt Nam ở các tổ chức 
quốc tế như Liên Hợp Quốc. 
- Các biện pháp cấm vận này chủ yếu diễn ra trong suốt thập niên 1970 và 
1980. Mãi đến cuối những năm 1990, sau khi Việt Nam thực hiện các cải cách 
kinh tế và mở cửa, Mỹ mới bắt đầu nới lỏng các biện pháp cấm vận, đặc biệt là 
sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ vào năm 1995. 
1.2. Báo chí phương Tây về việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia  (1978-1989): 
Sau khi Khmer Đỏ lên nắm quyền ở Campuchia vào năm 1975, chế độ này 
đã thực hiện các chính sách diệt chủng tàn bạo, dẫn đến hàng triệu người chết. 
Việt Nam, với lý do bảo vệ an ninh biên giới và ngăn chặn sự xâm lược từ Khmer 
Đỏ, đã đưa quân vào Campuchia vào cuối năm 1978 và lật đổ chế độ Khmer Đỏ  vào tháng 1 năm 1979. 
Báo chí phương Tây khi đó đã có các quan điểm khác nhau về hành động  của Việt Nam: 
+ Phê phán Việt Nam: Một số tờ báo phương Tây như The New York Times 
và The Washington Post đã lên tiếng chỉ trích Việt Nam về việc can thiệp quân sự  3   
vào Campuchia, xem đó là hành động xâm lược và vi phạm chủ quyền của 
Campuchia. Mỹ và các nước phương Tây, trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, cho 
rằng hành động này của Việt Nam có thể làm gia tăng ảnh hưởng của Liên Xô ở 
Đông Nam Á, điều mà họ không mong muốn. 
+ Ủng hộ Việt Nam: Một số báo chí và tổ chức quốc tế, đặc biệt là các tổ 
chức nhân quyền, lại ủng hộ hành động của Việt Nam, coi đó là sự can thiệp hợp 
lý để ngăn chặn sự tàn bạo của Khmer Đỏ. Họ cho rằng việc lật đổ chế độ Khmer 
Đỏ là cần thiết để cứu lấy hàng triệu sinh mạng Campuchia. 
1.3. Chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Quốc (1979): 
 Vào ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc đã tiến hành một cuộc tấn 
công lớn vào biên giới phía Bắc của Việt Nam, trong bối cảnh mối quan hệ giữa 
hai nước trở nên căng thẳng sau khi Việt Nam lật đổ chế độ Khmer Đỏ và triển 
khai quân vào Campuchia. Cuộc chiến kéo dài trong khoảng một tháng và kết thúc 
khi Trung Quốc tuyên bố "hoàn thành nhiệm vụ" và rút quân. Tuy nhiên, cuộc 
chiến này đã để lại hậu quả nặng nề, với hàng nghìn người chết và bị thương. 
 - Báo chí nước ngoài khi đó đã đưa ra những bình luận đa chiều về cuộc  chiến này: 
+ Phê phán Trung Quốc: Nhiều tờ báo phương Tây như The New York 
Times và The Guardian đã chỉ trích Trung Quốc về hành động xâm lược, cho rằng 
đây là một cuộc chiến không có lý do chính đáng và chỉ nhằm vào mục tiêu ngăn 
chặn sự ảnh hưởng của Việt Nam ở Đông Nam Á, đồng thời phục hồi vị thế của  Trung Quốc trong khu vực. 
+ Phê phán Việt Nam: Một số tờ báo phương Tây khác lại chỉ trích Việt 
Nam vì đã "khiêu khích" Trung Quốc trong việc lật đổ Khmer Đỏ, đồng thời cáo 
buộc Việt Nam không tôn trọng chủ quyền của Campuchia và Trung Quốc. Dựa 
trên hoàn cảnh lịch sử về đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn 1975 - 1985, có 
thể phân tích những thuận lợi và khó khăn như sau:  * Thuận lợi:  - 
Uy tín quốc tế sau chiến thắng 1975: Chiến thắng trước Mỹ và sự 
thốngnhất đất nước đã giúp Việt Nam trở thành biểu tượng của phong trào đấu  4   
tranh giành độc lập dân tộc, nhận được sự ủng hộ từ nhiều quốc gia, đặc biệt là 
các nước thuộc khối Xã hội Chủ nghĩa và phong trào không liên kết.  - 
Sự hỗ trợ của các nước đồng minh: Liên Xô, các nước Đông Âu và 
mộtsố quốc gia khác trong khối Xã hội Chủ nghĩa tiếp tục hỗ trợ Việt Nam về kinh 
tế, quân sự và ngoại giao. Điều này giúp Việt Nam có thêm nguồn lực để khắc 
phục hậu quả chiến tranh và đối phó với các thách thức quốc tế.  - 
Vai trò nhân đạo trong vấn đề Campuchia: Việc Việt Nam can thiệp 
đểlật đổ Khmer Đỏ, dù gây tranh cãi, vẫn được một số quốc gia và tổ chức quốc 
tế đánh giá tích cực, coi đây là hành động nhân đạo nhằm cứu vãn người dân 
Campuchia khỏi nạn diệt chủng.  - 
Tinh thần tự lực tự cường: Sau chiến tranh, Việt Nam phát huy tinh 
thầnđộc lập, chủ động đối phó với các khó khăn, từ cấm vận kinh tế của Mỹ đến  chiến tranh biên giới.  * Khó khăn:  - 
Cấm vận toàn diện của Mỹ: Các biện pháp cấm vận kinh tế, ngoại 
giaovà quân sự từ Mỹ và các nước đồng minh đã gây tổn thất nghiêm trọng đến 
nền kinh tế vốn đã kiệt quệ sau chiến tranh, đồng thời làm hạn chế khả năng hội 
nhập và mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam.  - 
Chiến tranh biên giới với Trung Quốc: Cuộc chiến biên giới phía 
Bắcnăm 1979 và căng thẳng kéo dài với Trung Quốc đã khiến Việt Nam đối mặt 
với nguy cơ hai mặt trận (Campuchia ở phía Tây Nam và Trung Quốc ở phía Bắc), 
làm tiêu hao lớn nguồn lực quân sự và kinh tế.  - 
Quan điểm tiêu cực từ phương Tây về vấn đề Campuchia: Nhiều 
quốcgia phương Tây và các tổ chức quốc tế xem hành động đưa quân vào 
Campuchia của Việt Nam là vi phạm chủ quyền, gây thêm khó khăn về mặt ngoại 
giao, đặc biệt là trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh.  - 
Căng thẳng trong khu vực Đông Nam Á: Quan hệ giữa Việt Nam và 
cácnước ASEAN trong giai đoạn này không thuận lợi, chủ yếu do các nước 
ASEAN lo ngại về ảnh hưởng của Việt Nam và sự can dự của Liên Xô tại Đông  Nam Á.  5    - 
Khủng hoảng kinh tế nội bộ: Hậu quả chiến tranh để lại, cộng với 
cấmvận và chi phí quân sự lớn ở Campuchia, khiến kinh tế Việt Nam rơi vào 
khủng hoảng nghiêm trọng. 
2. Chủ trương đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội IV 
(1976) và Đại hội V (1982) 
2.1. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng qua 2 Đại hội: 
2.1.1. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội IV (tháng  12/1976): 
- Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) 
tại Đại hộiIV (tổ chức vào tháng 12 năm 1976) đã được đề ra trong Báo 
cáo chính thức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đây là đường lối 
chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng đất 
nước và phát triển kinh tế sau chiến tranh Việt Nam. 
- Theo đó, ĐCSVN cam kết thực hiện đường lối đối ngoại độc 
lập, tự chủ,hòa bình, hữu nghị, đối tác bình đẳng và phát triển. Để đạt 
được mục tiêu này, Đảng đề xuất các chính sách và biện pháp sau: 
1. Tăng cường sự đoàn kết với các nước có cùng chủ trương 
chính trị, xãhội, kinh tế với Việt Nam và các nước chủ chốt trên thế giới. 
2. Phát triển quan hệ đối tác với các nước phương Tây, trong đó 
có việcnối lại quan hệ với Hoa Kỳ, thực hiện các chính sách hòa bình và  phát triển kinh tế. 
3. Tăng cường quan hệ với các nước Xô Viết, Trung Quốc, Triều 
Tiên,Cuba và các nước Cộng sản khác. 
4. Đẩy mạnh hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và thế 
giới, đặcbiệt là các nước Đông Nam Á và các nước đang phát triển. 
5. Thúc đẩy quan hệ với các tổ chức quốc tế, đặc biệt là các tổ 
chức LiênHợp Quốc, Hội đồng An ninh, Tổ chức Hiệp ước Bình đẳng 
Tân cương và Tổ chức Bảo vệ Nhân quyền. 
- Đại hội lần thức IV của Đảng (tháng 12-1976) xác định nhiệm 
vụ đốingoại: "ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để  6   
nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát 
triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học, kỹ thuật, củng cố quốc phòng, 
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta". 
- Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố 
và tăngcường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các 
nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt 
Nam - Lào - Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát triển quan hệ hữu nghị 
và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ 
bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc 
lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Từ giữa năm 1978, Đảng đã 
điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối ngoại như: chú trọng củng 
cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô - coi quan hệ với Liên 
Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, nhấn mạnh 
yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào trong bối cảnh 
vấn đề Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây 
dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, tự do, trung lập và ổn định, đề ra 
yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. 
- Tóm lại, Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam tại 
Đại hộiIV nhấn mạnh vào việc tăng cường quan hệ đối tác, phát triển 
kinh tế và hòa bình, cùng với việc giữ vững độc lập, tự chủ và chủ trương  xã hội chủ nghĩa. 
2.1.2. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội V (tháng  3/1982): 
- Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) 
tại Đại hộiV được đề ra trong Báo cáo chính thức của Ban Chấp hành 
Trung ương Đảng, được tổ chức vào tháng 3 năm 1982. Đây là đường 
lối chính thức của Đảng trong giai đoạn tiếp theo của quá trình đổi mới  và phát triển kinh tế. 
- Theo đó, ĐCSVN cam kết thực hiện đường lối đối ngoại độc 
lập, tự chủ,hòa bình, hữu nghị, đối tác bình đẳng và phát triển, tăng  7   
cường quan hệ đối tác với các nước, các tổ chức quốc tế, phát triển kinh 
tế, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ nền độc lập, 
chủ quyền và hòa bình của Tổ quốc. 
- Nội dung cụ thể của đường lối đối ngoại tại Đại hội V gồm có: 
1. Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân: Bảo đảm đất 
nước anninh, độc lập, phát triển kinh tế, thúc đẩy cải cách kinh tế, tăng 
cường đầu tư và hợp tác quốc tế, nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng  đất nước phát triển. 
2. Tăng cường quan hệ với các nước, tổ chức quốc tế: Tăng 
cường quanhệ với các nước, tổ chức quốc tế, đặc biệt là các nước Xô 
Viết, Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, châu Á, châu Âu, Mỹ,  Canada, Úc và New Zealand. 
3. Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế: Tăng cường hợp 
tác vớicác tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hiệp Quốc, các tổ chức tài 
chính quốc tế và các tổ chức kinh tế quốc tế. 
4. Xây dựng quan hệ với các nước đang phát triển: Xây dựng 
quan hệ vớicác nước đang phát triển, đặc biệt là các nước trong Liên 
minh Nam bán cầu, phát triển hợp tác với các nước có tiềm năng phát  triển lớn. 
5. Tham gia vào các hoạt động toàn cầu: Tham gia vào các hoạt 
động toàncầu như giải quyết tranh chấp quốc tế, đóng góp vào hoạt động 
của Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế khác, tham gia vào các hiệp 
định quốc tế về kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật, văn hóa,  giáo dục, xã hội... 
6. Bảo vệ độc lập, chủ quyền và hòa bình của Tổ quốc: Đảm bảo 
an ninhquốc gia, bảo vệ độc lập, chủ quyền và hòa bình của Tổ quốc, 
giữ vững quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, đấu tranh để chấm 
dứt chiến tranh, xây dựng và giữ gìn hòa bình trong khu vực và trên thế  giới.  8   
- Đại hội lần thứ V của Đảng xác định: công tác đối ngoại phải 
trở thànhmột mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất 
bại chính sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng  nước ta. 
- Về quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết 
và hợptác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn 
luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định 
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia có ý nghĩa sống còn đối 
với vận mệnh của ba dân tộc, kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các 
nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết các trở ngại, 
nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình và ổn định; chủ 
trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ sở các 
nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình; chủ trương thiết lập và mở rộng quan 
hệ bình thường về mặt nhà nước, về kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật 
với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. 
- Cụ thể về mối quan hệ Việt Nam và các nước khác trong giai  đoạn 1975 - 1985 như sau: 
* Việt Nam - Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa: 
Trong 10 năm trước đổi mới, mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các 
nước xã hội chủ nghĩa được tăng cường, đặc biệt là với Liên Xô. Đảng đã nêu cao 
chủ trương đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô như “hòn đá tảng trong 
chính sách đối ngoại”, “là nguyên tắc, là chiến lược” trong đường lối đối ngoại 
của Đảng và Nhà nước Việt Nam. 
- Ngày 29/6/1978, Việt Nam gia nhập hội đồng tương trợ kinh tế khối  (SEV): 
+ Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và hoàn thành 
sứ mệnh thống nhất đất nước, Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng lại đất 
nước, song gặp phải muôn vàn khó khăn không những do hậu quả nặng nề về 
chính trị, kinh tế - xã hội do chiến tranh để lại, mà còn do tác động tiêu cực của 
quan hệ giữa các nước lớn. Trong bối cảnh đó, tháng 6-1978, Việt Nam quyết định  9   
tham gia Hội đồng Tương trợ kinh tế (khối SEV) do Liên Xô đứng đầu. Trong thời 
gian hoạt động, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) đã có những giúp đỡ to lớn đối 
với sự phát triển của các nước thành viên nhất là Cuba và Việt Nam. Trong đó Việt 
Nam là nước yếu được cưu mang giúp đỡ từ 9 nước anh em. Từ khi gia nhập cho 
đến năm 1987, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) đã hỗ trợ cho Cuba đến gần 4 tỷ 
US$, cho Việt Nam 2 tỷ (50% viện trợ quân sự) và cho Mông Cổ 1 tỷ. Viện trợ 
hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội 
chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng. 
+ Ngày 3/11/1978, Việt Nam ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với 
Liên Xô (Văn kiện hợp tác cấp độ cao nhất, toàn diện nhất trong lịch sử quan hệ 
song phương): Hiệp ước năm 1978 phản ánh tầm quan trọng của mối quan hệ cũng 
như sự gắn bó chặt chẽ, mật thiết giữa Việt Nam và Liên Xô, đặc biệt phản ánh 
lòng tin cao giữa hai Đảng, hai Nhà nước và tình hữu nghị bền chặt giữa nhân dân 
hai nước. Bản Hiệp ước năm 1978 gồm 9 Điều, với nội dung và tinh thần chủ đạo 
trong tất cả những Điều đó là Liên Xô sẽ tiếp tục hợp tác, giúp đỡ, hỗ trợ Việt 
Nam về mọi mặt theo nguyên tắc tương trợ anh em và tinh thần đoàn kết với Việt 
Nam là mệnh lệnh của cả trái tim và trí tuệ. Trong suốt thập niên 1980, Việt Nam 
đã nhận được gần 3 tỷ USD/năm viện trợ kinh tế và quân sự của Liên Xô và thực 
hiện hầu hết các giao dịch thương mại với Liên Xô và khối Comecon. 
+ Sau khi Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, nhất là từ khi Việt 
Nam trở thành thành viên chính thức của hội đồng tương trợ kinh tế, quan hệ giữa 
Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu có những bước phát triển mới 
mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam đã ký một loạt hiệp ước hữu hữu nghị, 
hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, theo đó việc hợp tác trên các lĩnh vực chính 
trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và được triển khai thực hiện với những kết  quả đáng khích lệ.  * Việt Nam - Lào: 
+ Việt Nam, Lào là hai nước láng giềng cùng trên bán đảo Đông Dương, 
cùng dòng sông Mê Công, cùng kẻ thù chung là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ 
xâm lược từ cuối thế kỷ XIX cho đến năm 1975. Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam  10   
và Lào bước sang một trang hoàn toàn mới: từ liên minh chiến đấu chung một 
chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập chủ quyền. 
+ Trong giai đoạn 1976 - 1985, mặc dù gặp nhiều khó khăn như: hậu quả 
nặng nề của chiến tranh để lại, kinh tế lạc hậu, thế lực thù trong, giặc ngoài luôn 
tìm cách chia rẽ, nhưng với nỗ lực và sự đoàn kết, hai nước Việt Nam – Lào vẫn 
đạt được nhiều thành công lớn trên mọi lĩnh vực. Sau ngày đất nước thống nhất, 
mặc dù phải giải quyết nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh, nhưng Việt Nam 
luôn nhận thức sâu sắc mối quan hệ tương hỗ của cách mạng hai nước trong giai 
đoạn mới: “Lào có ổn định thì Việt Nam mới ổn định và ngược lại”. Vì vậy, Việt 
Nam đã cố gắng đáp ứng các yêu cầu chi viện và hợp tác với Lào một cách toàn 
diện, theo tinh thần vô tư “không tính thiệt hơn”. 
- Sự giúp đỡ lẫn nhau về các mặt: 
+ Lãnh thổ: Sau 8 năm tiến hành, đến ngày 24-1-1986, việc phân vạch và 
cắm mốc trên thực địa toàn tuyến biên giới Việt - Lào dài 2.067 km đã hoàn thành. 
+ Quốc phòng - an ninh: Tháng 12-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng 
Nhân dân cách mạng Lào ra quyết nghị: tiếp tục đề nghị Việt Nam đưa lực lượng 
quân đội sang hỗ trợ quân đội Lào nhằm ổn định tình hình, ngăn ngừa các nguy 
cơ chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Hai bên đã 
ký Hiệp ước phòng thủ ngày 22-9-1977. Tháng 6-1978, Binh đoàn 678 (gồm ba 
sư đoàn bộ binh: 324, 968 và 337) được thành lập và nhận nhiệm vụ quốc tế tại  Lào. 
+ Kinh tế, khoa học: thay đổi từ viện trợ không hoàn lại và cho vay là chủ 
yếu sang giảm dần viện trợ và cho vay, bước đầu đẩy mạnh hợp tác sản xuất kinh 
doanh bình đẳng cùng có lợi. 
+ Thương mại: từ năm 1976 – 1981, trao đổi hàng hóa chính ngạch được 
bắt đầu theo phương thức bao cấp bằng ngân sách nhà nước mỗi bên. Hiệp định 
thương mại Việt Nam - Lào 5 năm (1981 – 1985) được ký kết, kèm theo nghị định 
thư thương mại hàng năm, đã tạo hành lang pháp lý cho việc trao đổi buôn bán  giữa hai nước…  11   
+ Văn hóa: Hàng năm, hai bên thường xuyên lập kế hoạch giao lưu văn hoá 
nghệ thuật dưới các hình thức: trao đổi đoàn biểu diễn, tổ chức sáng tác mỹ thuật, 
tìm hiểu về chủ đề đất nước và con người, hợp tác xuất bản, in và phát hành sách 
báo, văn hoá phẩm, phim ảnh. Phối hợp tuyên truyền về mối quan hệ đặc biệt Việt 
Nam và Lào, tổ chức kỷ niệm những ngày lễ lớn để tăng cường hiểu biết, gắn bó 
giữa nhân dân hai nước. 
- Trong 10 năm (1976-1985), thế và lực của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân 
Lào ngày càng được củng cố vững chắc. Sự trưởng thành về mọi mặt của Lào đã 
thể hiện sự tin cậy lẫn nhau giữa Lào và Việt Nam và hiệu quả của mối quan hệ 
đặc biệt giữa hai nước.  * Việt Nam - Trung Quốc:  - 
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng cùng chung biên 
giớiđất liền và biển. Nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc có quan hệ hữu 
nghị truyền thống lâu đời, đã từng đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong quá 
trình đấu tranh cách mạng.  - 
Việt Nam luôn ghi nhớ và biết ơn sâu sắc Đảng, Nhà nước và nhân 
dânTrung Quốc về sự ủng hộ mạnh mẽ về chính trị và tinh thần, sự giúp đỡ to lớn 
và quan trọng cả về vật chất trong hai cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân 
Việt Nam và luôn được coi trọng việc gìn giữ quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp  tác với Trung Quốc.  - 
Tuy nhiên sau khi giúp đất nước Việt Nam trong cuộc kháng 
chiếnchống Mỹ, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn biến theo chiều 
hướng tiêu cực. Mà đỉnh điểm về mối quan hệ không bình thường giữa hai nước 
thời kỳ này là cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, 
60 vạn quân Trung Quốc tiến công sâu vào lãnh thổ Việt Nam tại các tỉnh biên 
giới phía Bắc Việt Nam. Trung Quốc đã chuẩn bị trước cho cuộc chiến xâm chiếm 
Việt Nam, leo thang từng bước, từ gây áp lực trong vấn đề Campuchia, dựng lên 
"sự cố Hoa kiều" và chuẩn bị về binh lực đi đôi với việc tuyên truyền. Đáp trả, 
Việt Nam đã chiến đấu anh dũng để bảo vệ chủ quyền và chính nghĩa. Cuộc chiến  12   
kết thúc khi Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam. Tuy kéo dài không lâu, nhưng 
nó đã gây hậu quả nghiêm trọng về người cũng như là kinh tế đối với Việt Nam.  - 
Sau cuộc chiến, Việt Nam kiên trì đề nghị khôi phục quan hệ hữu 
nghịvà láng giềng với Trung Quốc. Ngày 18/4/19779, Việt nam và Trung Quốc 
bắt bắt đầu đàm phán tại Hà Nội. Tiếp theo là vòng hai tại Bắc Kinh từ ngày 
8/6/1979. Tại cuộc đàm phán này, Đoàn Việt Nam đưa ra đề nghị về những nguyên 
tắc và nội dung chủ yếu cho một giải pháp về những vấn đề trong quan hệ giữa 
Việt Nam và Trung Quốc. Đề nghị nêu những biện pháp cấp bách nhằm đảm bảo 
hòa bình, ổn định ở vùng biên giới hai nước trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn 
tại hòa bình , giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ trên cơ sở tôn trọng đường 
biên giới lịch sử do các hiệp ước Trung Pháp năm 1887 và 1895 hoạch định. Về 
phía Trung Quốc, họ đưa ra lập trường tám điểm, yêu cầu Việt 
Nam công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc, rút quân khỏi Trường 
Sa, thay đổi chính sách đối với Lào Campuchia, nêu quan điểm của Trung Quốc 
về giải quyết vấn đề Campuchia. Cuộc họp chi đạt được việc trao trả người bị bắt. 
Đầu năm 1980 đàm phán đình chỉ.  - 
Lập trường của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc đã được 
thểhiện trong Báo cáo chính trị trình bày tại đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng 
sản Việt Nam lần thứ V, 1982: “ kiên trì chính sách hữu nghị và láng giềng tốt với 
nhân dân Trung Quốc”, chúng ta chủ trương khôi phục quan hệ bình thường giữa 
hai nước trên cơ sở các nguyện tắc cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ 
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau và giải quyết những vấn đề tranh chấp bằng 
con đường thương lượng. Trong vòng bảy năm (1980 -1987) Việt Nam đã 17 lần 
gửi công hàm đề nghị nối lại đàm phán Việt Trung. 
* Việt Nam mở rộng hợp tác với các nước trên trên thế giới:  - 
Mở rộng quan hệ với các nước tư bản phát triển và các tổ chức quốc 
tế: Trong thời gian từ năm 1976 đến 1986, Việt Nam Nam đẩy mạnh quan hệ với 
các nước tư bản chủ nghĩa. Từ năm 1976 đến trước khi xảy ra vấn đề Campuchia, 
nhiều đoàn cấp cấp cao của Việt Nam đi thăm các nước Tây Âu, Bắc Âu, Nhật 
Bản nhằm mở ra quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học với các nước  13   
thuộc khu vực này. Đây là thời kỳ Việt Nam vay được vốn và tranh thủ được viện 
trợ không hoàn lại, viện trợ nhân đạo, thiết bị kỹ thuật của một số nước tư bản 
phương Tây. Từ sau ngày giải phóng, Việt nam đã tham gia 33 tổ chức quốc quốc 
tế. Năm 1977, Việt Nam chính thức gia nhập Liên hợp quốc. 
Sau khi nổ ra cuộc cuộc khủng hoảng Campuchia, từ giữa năm 19779 quan hệ 
Việt Nam và các nước tư bản phát triển này giảm sút hẳn, đối với một số nước, 
quan hệ trở nên băng giá. Ngân hàng hàng thế thế giới và Ngân hàng châu Á cũng 
ngừng cung cấp vốn cho Việt Nam.  - 
Các nước dân tộc chủ nghĩa và không liên kết: Trong giai đoạn này, 
ViệtNam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước thế giới thứ ba: Nepal , 
Thổ Nhĩ Kỳ,.. Trong những năm 1978 -1980, các đoàn chính thức do Phó Chủ tịch 
Nguyễn Hữu Thọ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp dẫn đầu đã thăm 19 nước Trung 
Đông - châu Phi. Với Ấn Độ và một số nước Ả Rập Xê Út tiến bộ có tiềm lực kinh 
tế, Việt Nam đã phát triển quan hệ hợp tác, tranh thủ vốn, vay dầu và lương thực, 
đồng thời học hỏi họ trong vấn đề khai thác dầu khí. Trong thời gian 
Mỹ và một số nước phương Tây thi hành chính sách bao vây, cấm vận đối với 
Việt Nam,nhiều nước dân tộc chủ nghĩa, nhiều nước thành viên Phong trào Không 
liên kết vẫn duy trì quan hệ tốt với Việt Nam, đặc biệt là Ấn Độ, Iraq, Lybi,.. Tại 
các các diễn đàn quốc tế quan trọng như hội nghị cấp cao không liên kết lần thứ 
năm năm 1976 tại Sri Lanka , hội nghị cấp cao lần thứ sáu năm 1979 tại La 
Habana, Việt nam đã tích cực và chủ động phối hợp với các nước thành viên tích 
cực của phong trào nhằm thực hiện mục tiêu của phong trào và có lập trường đúng 
đắn trong vấn đề Campuchia. 
* Mối quan hệ Việt Nam với Campuchia:  - 
Việt Nam – Campuchia là hai nước láng giềng núi liền núi, sông 
liềnsông. Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước có những giai đoạn 
hai nước chung thân phận lịch sử, đều là nước thuộc địa và chịu sự bóc lột kiệt 
quệ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Tình hữu nghị, hợp tác, láng giềng tương trợ 
là một trong những vấn đề lớn đối với sự ổn định, phát triển của cả hai nước. Sau 
năm 1975, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có sự hiểu biết không đầy  14   
đủ, đúng đắn của nhà nước Campuchia Dân chủ về vấn đề chủ quyền lãnh thổ và 
có cả sự ủng hộ, xúi giục của các thế lực nước ngoài nhằm gây bất ổn chính trị tại 
khu vực Đông Dương, nhà nước Campuchia Dân chủ đã thực thi việc leo thang 
chính sách đối ngoại gây căng thẳng đối với Việt Nam.  - 
Ngay sau khi giải phóng Phnom Penh (tháng 4 năm 1974), các nhà 
lãnhđạo cấp cao của Đảng và nhà nước Campuchia đã phủ nhận sự thật lịch sử, 
thậm chí đổi trắng thay đen, vu cáo Việt Nam xâm lược, muốn làm cho Campuchia 
trở thành “nô lệ của Việt Nam”. Đây là một âm mưu đối ngoại lớn đi song song 
với kế hoạch diệt chủng bên trong của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Campuchia, 
làm cho mối quan hệ giữa hai nước ngày càng căng thẳng và gây nên tình trạng 
bất ổn liên tục ở biên giới Tây Nam nước ta.  - 
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng 
lợitrên bán đảo Đông Dương, chính quyền Campuchia dân chủ do Pol Pot cầm 
đầu thực hiện chính sách diệt chủng đối với đồng bào của họ, đồng thời tiến hành 
những hành động phiêu lưu quân sự chống Việt Nam. Ngày 1/5/1975 , tập đoàn 
Pol Pot đã dùng lực lượng quân sự tấn công, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam từ Hà 
Tiên đến Tây Ninh, tiến hành giết hại Việt kiều trên đất Campuchia. Sau những sự 
kiện nghiêm trọng đó, hai bên nhiều lần trao đổi những đoàn đại biểu cấp cao của 
Đảng và Nhà nước để thảo luận các vấn đề liên quan đến biên giới. Tuy vậy, từ 
năm 1977, quan hệ giữa hai bên ngày càng xấu đi do những hành động xâm lấn 
tăng cường của phía Campuchia. Trước tình hình nghiêm trọng đó, ngày 7/6/1977, 
ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam gửi 
thư cho Ban chấp hành Trung ương và chính phủ Campuchia Dân chủ đề nghị có 
cuộc hội ngộ đàm phán càng sớm càng tốt giữa lãnh đạo cấp cao 2 đảng, 2 chính 
phủ. Ngày 18/6/1977, phía Campuchia Dân chủ trả lời: “Chờ một thời gian cho 
tình hình bình thường trở lại và những xung đột ở biên giới được chấm dứt sẽ gặp 
gỡ cấp cao.” Một mặt từ chối thương lượng, mặt khác Pol Pot tiếp tục cho quân 
tiến công biên giới Việt Nam. Trước những hành động xâm lấn, giết hại đồng bào 
Việt Nam ở biên giới Tây Nam, các lực lượng vũ trang Việt Nam sử dụng quyền  tự vệ đánh trả.  15    - 
Ngày 31 tháng 12 năm 1977, chính quyền Pol Pot chính thức ra tuyên 
bốvu cáo Việt Nam xâm lược campuchia, cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. 
Cùng ngày, chính phủ Việt Nam ra tuyên bố vạch rõ thái độ và hành động của phía 
Campuchia khiêu khích và tấn công xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, việc Việt Nam 
đánh trả là hành động tự vệ và tỏ thiện chiến muốn giải quyết vấn đề biên giới 
giữa hai nước trên tình thần hữu nghị anh em. Campuchia bác bỏ đề nghị thương 
lượng hòa bình. Tiếp theo đó, Việt Nam liên tiếp đưa ra các đề nghị đàm phán, 
đặc biệt quan trọng là Tuyên bố ngày 5 tháng 2 năm 1978 của chính phủ cộng hòa 
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quan hệ Việt Nam Campuchia, bày tỏ thiện chí thật 
sự, mong muốn chấm dứt xung đột, giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước bằng 
thương lượng và hòa bình. Đề nghị ba điểm của Việt Nam được dư luận thế giới 
hoan nghênh, tuy nhiên phía Pol Pot bác bỏ đề nghị trên. Mọi cố gắng đề nghị 
thương lượng của Việt nam đều bị bác bỏ, kể cả các đề nghị thông qua trung gian 
của Liên Hợp Quốc và phong trào Không liên kết. Trong khi đó, những cuộc tiến 
công của quân Pol Pot giết hại người Việt nam ở biên giới ngày càng nghiêm 
trọng, điển hình là vụ thảm sát ở xã Ba Chúc (An Giang).  - 
Trung tuần tháng 12 tháng 1978, chính quyền Pol Pot tập trung 19 
trongtổng số 25 sư đoàn chủ lực tấn công Việt Nam ở khu vực biên giới Tây Nam. 
Ngày 25/12/1978, đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước 
Campuchia được thành lập vào ngày 2/12/1978, do ông Henhsomrin làm chủ tịch, 
các lực lượng quân đội Việt Nam đã phối hợp với các lực lượng vũ trang của Mặt 
trận phản công. Ngày 2 tháng Giêng 1979, toàn bộ cùng phía đông sông mê Kông 
được giải phóng. Ngày 7 tháng giêng 1979, liên quân giải phóng thủ đô Phnom 
Penh. Ngày 10 tháng giêng 1979, nhà nước cộng hòa nhân dân Campuchia ra đời. 
Lực lượng của Pol Pot bị tiêu diệt một phần, phần lớn tan rã tại chỗ hoặc chạy 
sang các nước láng giềng phía tây. Các lực lượng còn lại của Pol Pot về su tập hợp 
lại, chuyển sang đánh du kích. Phản ứng quốc tế đối với việc Việt Nam đưa quân 
vào Campuchia không thuận lợi cho Việt Nam. Chỉ có Liên Xô, Lào và các nước 
xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu ra tuyên bố ủng hộ. Mỹ, Trung Quốc, các quốc gia 
ASEAN,... ra tuyên bố lên án Việt Nam xâm lược, nhiều thế lực thù địch lợi dụng  16   
con bài Campuchia, ra sức chống phá và cô lập Việt Nam trên trường quốc tế, thực 
hiện chính sách bao vây cấm vận nhằm làm suy yếu và tạo sức ép với Việt Nam.  - 
Theo yêu cầu của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia, Việt 
Namđể lại một lực lượng quân tình nguyện giúp nhân dân Campuchia ổn định tình 
hình và xây dựng lại đất nước. Từ năm 1982, hàng năm một bộ phận quân tình 
nguyện Việt Nam ở Campuchia được rút về nước. 
Sau khi thành lập nhà nước mới, hai nước đã ký hiệp ước hòa bình, hữu 
nghị và hợp tác vào tháng 2 năm 1979. Hiệp ước góp phần khôi phục mối quan hệ 
hữu nghị láng giềng thân thiện và hợp tác giữa hai nước. 
=> Thực tế cho thấy, ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai 
đoạn (1975-1986) là xây dựng quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước 
xã hội chủ nghĩa; cùng cố và tăng cường đoàn kết hợp tác với Lào và Campuchia; 
mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước không liên kết và các nước đang phát 
triển; đấu tranh với sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch. 
3. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân:  3.1. Kết quả 
Trong 10 năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước 
xã hội chủ nghĩa được tăng cường, đặc biệt là với Liên Xô.  - 
Ngày 29-6-1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế 
(khốiSEV). Viện trợ hằng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liên 
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng.  - 
Ngày 3-11-1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn 
diện với Liên Xô. Hiệp ước này khẳng định mối quan hệ đồng minh chiến lược 
giữa hai nước, bao gồm các cam kết hỗ trợ lẫn nhau về chính trị, kinh tế và quân 
sự, trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều biến động, đặc biệt là 
căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như vấn đề Campuchia.  - 
Từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết lập thêm quan hệ 
ngoạigiao với 23 nước, bao gồm nhiều nước ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ Latinh, 
châu Phi và Trung Đông. Điều này phản ánh nỗ lực mở rộng quan hệ quốc tế,  17   
tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong công cuộc tái thiết đất nước sau 
chiến tranh, đồng thời khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.  - 
Ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức 
QuỹTiền tệ quốc tế (IMF).  - 
Ngày 21-9-1976, Việt Nam là thành viên chính thức của Ngân  hàngThế giới (WB);  - 
Ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB); 
- Ngày 20-9-1977, trở thành thành viên tại Liên hợp quốc, tham gia tích cực các 
hoạt động trong Phong trào không liên kết.  - 
Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế 
vớiViệt Nam, đồng thời hợp tác với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á, 
cuối năm 1976, Philippin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN 
thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.  - 
Cải thiện quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á, thúc đẩy  đốithoại với ASEAN: 
+ Năm 1977, Việt Nam và Lào kí Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác. 
+ Năm 1979, Việt Nam giúp nhân dân Cam-pu-chia lật đổ chế độ diệt chủng  Khơ-me Đỏ.  - 
Bước đầu đàm phán bình thường hoá quan hệ với Mỹ: Từ cuối 
nhữngnăm 70 của thế kỉ XX, Việt Nam đã gửi thông điệp cho chính quyền Mỹ về 
việc duy trì quan hệ song phương trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, không thù địch. 
Nhiều cuộc hội đàm Việt – Mỹ đã diễn ra tại Pa-ri và Hà Nội.  3.2. Ý nghĩa: 
* Những kết quả đối ngoại trên đây có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách  mạng Việt Nam như: 
- Khẳng định độc lập, chủ quyền và vị thế quốc tế của Việt Nam: Sự tăng 
cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ hợp 
tác kinh tế với một số nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tăng được nguồn 
viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau chiến tranh.  18   
* Việc trở thành thành viên chính thức của Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng 
Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á và việc trở thành thành viên chính thức của 
Liên hợp quốc, tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết 
đã tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời 
phát huy được vai trò của nước ta trên trường quốc tế.  - 
Củng cố quan hệ chiến lược với các nước xã hội chủ nghĩa: Quan hệ 
vớiLiên Xô và các nước trong khối SEV mang lại sự hỗ trợ to lớn về chính trị, 
kinh tế và quân sự, giúp Việt Nam vượt qua những khó khăn trong giai đoạn đầu 
xây dựng và bảo vệ đất nước.  - 
Mở rộng quan hệ quốc tế, giảm thiểu cô lập: Thiết lập quan hệ 
ngoạigiao với 23 quốc gia trên các châu lục và bắt đầu hợp tác với một số nước tư 
bản từ năm 1977 phản ánh nỗ lực mở rộng không gian ngoại giao và kinh tế, từng 
bước phá vỡ tình trạng bị bao vây, cô lập.  - 
Thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế: Tham gia các tổ chức kinh tế 
tàichính quốc tế lớn như IMF, WB, ADB đã giúp Việt Nam tiếp cận nguồn tài trợ, 
vốn vay và hỗ trợ kỹ thuật, tạo điều kiện phát triển kinh tế và khôi phục sau chiến  tranh.  - 
Tăng cường quan hệ khu vực: Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với 
cácnước còn lại trong tổ chức ASEAN đã tạo thuận lợi để triển khai các hoạt động 
đối ngoại trong giai đoạn sau, góp phần cải thiện quan hệ trong khu vực, tạo cơ sở 
đối thoại và hợp tác bất chấp sự khác biệt về ý thức hệ, nhằm xây dựng Đông Nam 
Á trở thành khu vực hòa bình, hữu nghị và hợp tác. 
3.3. Hạn chế và nguyên nhân:  3.3.1. Hạn chế:  - 
Sự phụ thuộc quá mức vào Liên Xô: Việt Nam quá chú trọng, đề cao 
Liên Xô và nhất quán nhấn mạnh quan hệ thủy chung với Liên Xô là "hòn đá tảng" 
trong chính sách đối ngoại của mình, coi đây là yếu tố then chốt để đảm bảo an 
ninh và phát triển. Tuy nhiên, sự phụ thuộc quá mức này đã dẫn đến việc Việt Nam 
bị cô lập quốc tế, vì làm gia tăng căng thẳng với các nước lớn khác như Trung 
Quốc, Mỹ và các nước phương Tây, thiếu tính linh hoạt trong việc mở rộng quan  19   
hệ với các quốc gia khác, đặc biệt là các nước phương Tây và các nước lớn ngoài 
khối xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra còn gây mất cân bằng trong quan hệ quốc tế. Tình 
hình này tạo ra nhiều khó khăn trong việc xây dựng mối quan hệ đa dạng và duy 
trì một chiến lược đối ngoại linh hoạt.  - 
Việt Nam can thiệp quân sự vào Campuchia (1978) để lật đổ chế độ 
PolPot, dẫn đến sự phản đối mạnh mẽ từ các nước ASEAN và một số nước lớn 
khác. Từ cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, lấy cớ “Sự kiện Campuchia” các quốc 
gia trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là Thái Lan và Philippines, cùng với các 
nước phương Tây, áp dụng cấm vận và cô lập Việt Nam về mặt ngoại giao. Sự 
kiện này tạo ra một rào cản lớn trong việc mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam.  - 
Khó khăn về kinh tế và tài chính: Việc bị bao vây, cấm vận và 
thiếunguồn lực tài chính cũng là một yếu tố quan trọng khiến Việt Nam không thể 
mở rộng quan hệ đối ngoại một cách mạnh mẽ, đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế  gặp khó khăn.  - 
Sự đối đầu với Trung Quốc: Quan hệ Việt - Trung cũng trở nên 
căngthẳng, đặc biệt là sau cuộc chiến biên giới năm 1979. Điều này khiến Việt 
Nam gặp khó khăn trong việc xây dựng quan hệ với các nước lớn khác, đặc biệt  là trong khu vực châu Á. 
Vì vậy trong giai đoạn năm 1975 đến năm 1986 quan hệ đối ngoại của nước 
ta chưa thể mở rộng được mà chủ yếu giới hạn trong phạm vi các nước xã hội chủ 
nghĩa, các nước láng giếng và một số tổ chức quốc tế.  3.3.2. Nguyên nhân:  - 
Là do trong quan hệ đối ngoại giai đoạn này, chúng ta chưa nắm 
bắtđược xu thế chuyển từ đối đầu sang hoà hoãn và chạy đua kinh tế trên thế giới. 
Do đó, đã không tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế để 
phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh; không kịp 
thời đổi mới quan hệ đối ngoại cho phù hợp với tình hình.  - 
Tình trạng thiếu ổn định chính trị và xã hội trong nước: Sau chiến 
tranh, Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn về chính trị và xã hội, bao gồm 
việc tái thiết đất nước, hòa giải dân tộc, và đối phó với các vấn đề trong nội bộ  20