Bài thảo luận phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận quan trọng hợp thành trong mạng lưới hệ thống tư tưởng của Người về những yếu tố cơ bản của cách mạng Nước Ta. Nghiên cứu hàng loạt di sản của Người hoàn toàn có thể nhận thấy cụm từ “ đoàn kết ” được Người nhắc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !

Thông tin:
5 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài thảo luận phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận quan trọng hợp thành trong mạng lưới hệ thống tư tưởng của Người về những yếu tố cơ bản của cách mạng Nước Ta. Nghiên cứu hàng loạt di sản của Người hoàn toàn có thể nhận thấy cụm từ “ đoàn kết ” được Người nhắc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !

15 8 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 47206071
Họ và tên:
Lớp:
Mã sinh viên:
Khoa: công nghệ sinh học
Thảo luận
Chủ đề: phân ch tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết
toàn dân tộc và sự vậ dụng của đảng cộng sản việt nam
trong giai đoạn hiện nay
Bài làm
1. Khái niệm về đại đoàn kết toàn dân tộc
Đại đoàn kết dân tc là một giá trị niềm n to lớn, một truyền thống cuội
nguồn cc kỳ quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy
nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ ớc. Đoàn kết đã trở thành mt
động lực to lớn, một triết lý nhân sinh và hành vi để dân tộc ta vượt qua
bao biến c, thăng trm của thiên tai, địch họa, để sống sót và tăng
trưởng bền vững và kiên cố. Trên cơ sở thc ễn cách mạng Nước Ta và
thc ễn cách mạng quốc tế đã sớm hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc
2. Phân ch tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
toàn dân tộc
- Thnht: Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm về đại
đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận quan trọng
hợp thành trong mạng lưới hệ thống tư tưởng của Người vnhững yếu
tố cơ bn của cách mạng Nước Ta. Nghiên cứu hàng loạt di sản của
Người hoàn toàn có thể nhận thấy cụm từ “ đoàn kết ” được Người nhắc
lOMoARcPSD| 47206071
tới hơn hai ngàn lần và cụm từ “ đại đoàn kết ” được Người nhắc tới hơn
tám mươi lần, điều đó nói lên sự chăm sóc so với yếu tđoàn kết ở mọi
điều kiện kèm theo, mọi thực trạng của nhã nhặn, đồng thời tỏ rõ tầm kế
hoạch tư tưởng đoàn kết của Người. Đoàn kết hoàn toàn có thể hiu mt
cách đơn thuần là sự tập hợp, kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt
động giải trí vì một mục êu chung nào đó. Còn đại đoàn kết là đoàn kết
thoáng rộng tức muốn nhấn mạnh vn đề tới thành phần, quy mô, lực
ợng của khối đoàn kết .
Người nói nhiều tới đoàn kết, đại đoàn kết, tuy nhiên chỉ một lần duy
nhất Người định nghĩa về khai niệm đại đoàn kết : “ Đại đoàn kết tức là
trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân
công nhân, nông dân và những những tầng lớp nhân dân lao động khác.
Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền ucar nhà, cái gốc
của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết những những
tầng lớp nhân dân khác ”. Tư tưởng về đại đoàn kết liên tục được Người
cụ thể hóa đơn trong những cụm từ như : “ đại đoàn kết toàn dân ”, “
đoàn kết toàn dân ”. “ đoàn kết dân tộc ”, “ toàn dân tộc ta đoàn kết ”.
Tuy cách diễn đạt hoàn toàn có thể khác nhau, nhưng nội dung hàm của
những khái niệm trên đều thống nhất khi khẳng định chắc chắn lc
ợng của khối đại đoàn kết là của toàn thể nhân dân Nước Ta .
Do đó, đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đại đoàn kết
những dân tộc, tôn giáo, giai cấp, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của
quốc gia, đoàn kết mọi thành viên trong mái ấm gia đình dân tộc Nước Ta
dù sống trong nước hay định cưquốc tế thành một khối vững chãi trên
cơ sở thống nhất về ềm năng chung và những quyền lợi cơ bản .
- Thứ hai: Thực hành đoàn kết một cách đúng đắn
theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, nhưng cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì thế, đoàn kết phải là ềm năng và
trách nhiệm số 1 của cách mạng nước ta. Phải thực thi đoàn kết trong
Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết những giai cấp, những dân tộc, những
tôn giáo và đoàn kết quốc tế. Đoàn kết phải thực sự tạo thành sức mạnh
vật chất và niềm n . Khối đại đoàn kết toàn dân phải được kiến thiết xây
dựng trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy liên minh công – nông –
trí làm nền tảng, do Đảng Cộng sản chỉ huy. Nguyên tắcy xuất phát t
nhận thức khoa học : đại đoàn kết không phải là tập hợp những lực
ợng xã hội một cách ngẫu nhiên mà phải là một tp hp vững chắc của
những lực lượng có tổ chức triển khai, có xu thế, có chỉ huy
.
Đại đoàn kết phải dựa trên nguyên tắc n dân, dựa vào dân : “ Trong
khung trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong quốc tế không gì mạnh
lOMoARcPSD| 47206071
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân ”. Nguyên tắc quan trọng này bắt
nguồn từ sự thừa kế truyền thống cuội nguồn của ông cha : “ Nước ly
dân làm gốc ”, “ chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân ” ; là sự không
cho thâm thúy quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin “ cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng ” . Theo quan điểm của Người, đoàn kết là một
khoa học và nghệ thuật và thẩm m. Muốn có đại đoàn kết, cần phi
tuyên truyền, giáo dục, hoạt động quần chúng một cách khôn khéo để
mọi người tự giác đoàn kết, từ đó tự nguyện tham gia. Muốn giáo dục,
thuyết phục quần chúng thì phải có đường lối, chủ trương cung ứng
nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân – đây là điều quan
trọng số 1. Do đó, phải quan sát, điều tra và nghiên cứu và chớp lấy thực
ễn một cách đúng mực ; giải pháp, hình thức tuyên truyền phải thích
hợp với tâm ý, trình độ của từng đối tượng người dùng ; người thực
heiejn trách nhiệm tuyên truyền, hoạt động quần chúng phải là tấm
gương mẫu mực đoàn kết từ lời nói đến hành vi, mục êu thật sự vì
quyn lợi nhân dân .
Thực hành chiêu thức đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh là ứng xử
một cách đúng đắn với từng loại lực lượng sao cho hoàn toàn có thể lan
rộng ra đến mức cao nhất trận tuyến cách mạng và thu hẹp đến mức
thấp nhất trận tuyến đối phương : “ Đại đoàn kết tức là trưc hết phải
đoàn kết đại đa số nhân dân … Đó là nền gc của đại đàon kết … Bất kỳ ai
mà ngay thật đống ý tự do, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những
ngườid dó trước đây chống tất cả chúng ta giờ đây tất cả chúng ta cũng
ngay thật đoàn kết với họ … Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự T
quốc và ship hàng nhân dân thì ta đoàn kết với họ
3. Sự vận dụng của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay
3.1. Nhận thức chung về Đảng Cộng Sản Việt
Nam
Quá trình hình thành của đảng chính trị bắt đầu tcuối thế kỷ XVII, đầu
thế kỷ XVIII, đồng thời cũng là thời kỳ ra đời các hệ thống chính trị của
các nhà nước tư sản non trẻở Tây Âu và Mỹ(1). Các tổ chức ền thân của
các chính đảng là các nhóm chính trị, các câu lạc bộ. Tại nước Anh, các tổ
chức đảng được phôi thai từ thế kỷ XVII(2). Ở Pháp, sự phát triển của các
nhóm nhỏ mà được coi là các đảng mới được hình thành, phôi thai từ
cuộc cách mạng năm 1789(3)... Nhưng phải đến cuối thế kỷ XVIII, đảng
chính trị mới xuất hiện. Ở Mỹ, Đảng Dân chủ xuất hiện năm 1792 với tư
cách là một nhóm cử tri ủng hộ Thomas Jeerson tr thành Tổng thống
năm 1801 (Đảng Cộng hòa ra đời muộn hơn, vào năm 1854).
lOMoARcPSD| 47206071
Trong lịch sử phát triển của loài người, khi xã hội phân chia thành giai cấp
thì xuất hiện mâu thuẫn về lợi ích giai cấp. Lịch sử đấu tranh giai cấp đã
chứng minh rằng, đấu tranh giai cấp phát triển đến một trình độ nht
định thì các đảng chính trị mới có khả năng ra đời. Các đảng chính trị
được xuất hiện trong cách mạng tư sản, trong hội tư bản chủ nghĩa.
Trong điều kiện lch sử mới, quyền lực nhà nước không còn nằm trong
tay vua chúa và không được truyền cho con cháu theo nguyên tắc “cha
truyền con nối”. Việc thành lập các cơ quan quyền lực nhà nước được
ến hành bằng phương pháp bầu cử phổ thông, đầu phiếu. Xét về
phương diện tổ chức quyn lực nhà nước, đảng chính trị xuất hiện như là
kết quả việc hạn chế quyn lực của nền quân chủ chuyên chế, của sự ra
đời quyền bu cử (thế kỷXIX)(4). Trong bối cảnh đó, các lực lượng muốn
chiếm giữ quyn lực và nhân rộng tầm ảnh hưởng trong xã hội cần phi
bảo đảm cho mình sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng. Chính đảng chính
trị đã trở thành công cụ hợp pháp để phản ánh quyn lợi của những
nhóm cử tri khác nhau và để chọn lựa giới thượng lưu cho xã hội. Đây
chính là những lý do khách quan cho sự ra đời của đảng chính trị.
Sự ra đời và phát triển của các chính đảng có liên quan chặt chẽđến ba
khái niệm cơ bản: quyn tn tại của các nhóm khác nhau trong xã hội,
quyền các nhóm được kiểm soát chi phối lãnh đạo, hạn chế quyn ca
phái đa số cầm quyền(5). Biểu hiện tập trung, cụ ththiết thực của ba
khái niệm đó là quyền giành quyền lực bằng con đường tuyn cử và bằng
đấu tranh ở Quc hội. Một số quc hi ra đời sớm ngay khi còn chế độ
quân chủ chuyên chế như Quốc hội Anh (giữa thế kỷ XIV), Quốc hội Pháp
(giữa thế kỷ XV). Sự kiện đó đã phản ánh mối quan hệ thống trị, đấu
tranh và hợp tác giữa nhà vua, quý tộc, tư sản và nông dân trong một
thời gian tương đối dài trước khi có các cuộc cách mạng tư sản. Tại Hoa
K, Quốc hội và Chính phủ đều ra đời qua thắng lợi của cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc và thiết lập chính quyền tư sản. Trong bối cảnh đó, các
chính đảng dần dần ra đời và phát triển
3.2. Sự vận dụng của Đảng
-Đảng tồn tại với mục đích nắm giữ quyền lực nhà nước. Đây là mục đích
mang nh công khai, nhất quán đối với tất cả các đảng chính trị. Khác với
những tchức khác hoạt động trên chính trường, đảng công khai đấu
tranh vì những vị trí trong nghị vin và chính phủ. Vai trò, vị thế của các
đảng chính trị được thể hin ở sự tham gia ch cực vào đời sống chính trị
ở mọi giai đoạn của hoạt động chính trị: tham gia vào các cuộc bu c,
hình thành các cơ quan nhà nước, đưa các quyết định chính trị vào hoạt
động của nhà nước và việc thực hiện chúng.
-Phương thức giành quyền lực nhà nướccủa đảng chính trị là phương
thc cạnh tranh trong bầu cử, là con đường hòa bình. Đây là phương
thức được các chính trị gia phương Tây đề cao, bởi theo họ, đó là con
đường chính trị ưu việt, phù hợp với nh thần dân chủ cao nhất.
lOMoARcPSD| 47206071
- Để trở thành một đảng chính trị, tn tại và phát triển với vị thế là một
đảng chính trị thì các tchức đảng chính trịphải có các yếu tố cấu thành:
các đảng đều phải có hệ tư tưởng riêng, phải là một tchức có kỷ cương
phải được sthừa nhận, điều chỉnh của luật pháp. B. Konstan đại diện
cho trường phái bảo thủ ở Anh cho rằng, đảng phái là tp hợp những
người theo những học thuyết chính trị giống nhau(7).
Nhà triết học chính trị Xôviết Anatôli Butenkhôđãđưa ra định nghĩa:
“Chính đảng là tổ chức chính trịđoàn kết những đại diện ch cực nhất
của một giai cấp xã hội nhất định (hay một nhóm xã hội) và thể hin
(trong cương lĩnh và các văn kiện khác) những lợi ích cơ bản của giai cấp
đó. Chức năng quan trọng nhất của đảng là m ra những phương hướng
phương ện thực hiện những lợi ích đó, là người tổ chức những hoạt
động của giai cấp và của các đồng minh của nó”(8).
Trong lịch sử, không có một giai cấp cm quyền nào mà lại tự nguyện t
bỏ quyn lực chính trị của giai cấp mình. Đấu tranh chính trị đòi hỏi giai
cấp phải có mục êu chính trị rõ ràng, phải có tổ chc chặt chẽ để tập
hợp lực lượng của giai cấp, để huy động lực lượng đồng minh đánh bại
kẻ thù, giành thắng lợi. Các đảng chính trị ra đời là do đòi hỏi khách quan
của cuộc đấu tranh chính trị giữa các giai cấp. Đảng là một tchức chính
trthhiện lợi ích của giai cấp xã hội nhất định (các đảng công nhân, tư
sản, nông dân, dân chủ cách mạng...). Đảng chính trị, về nguyên tắc, là tổ
chức cao nhất, chặt chẽ nht của giai cấp, tập hp những người giác ngộ
nhất về lợi ích giai cấp, kiên quyết nhất trong đấu tranh để bảo vệ lợi ích
giai cấp khi chưa giành được quyn lực chính trị cũng như khi đã giành
đưc quyn lực chính trị.
| 1/5

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47206071 Họ và tên: Lớp: Mã sinh viên: Khoa: công nghệ sinh học Thảo luận
Chủ đề: phân tích tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết
toàn dân tộc và sự vậ dụng của đảng cộng sản việt nam trong giai đoạn hiện nay Bài làm
1. Khái niệm về đại đoàn kết toàn dân tộc
Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị niềm tin to lớn, một truyền thống cuội
nguồn cực kỳ quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy
nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một
động lực to lớn, một triết lý nhân sinh và hành vi để dân tộc ta vượt qua
bao biến cố, thăng trầm của thiên tai, địch họa, để sống sót và tăng
trưởng bền vững và kiên cố. Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Nước Ta và
thực tiễn cách mạng quốc tế đã sớm hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc
2. Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
- Thứ nhất: Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm về đại
đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận quan trọng
hợp thành trong mạng lưới hệ thống tư tưởng của Người về những yếu
tố cơ bản của cách mạng Nước Ta. Nghiên cứu hàng loạt di sản của
Người hoàn toàn có thể nhận thấy cụm từ “ đoàn kết ” được Người nhắc lOMoAR cPSD| 47206071
tới hơn hai ngàn lần và cụm từ “ đại đoàn kết ” được Người nhắc tới hơn
tám mươi lần, điều đó nói lên sự chăm sóc so với yếu tố đoàn kết ở mọi
điều kiện kèm theo, mọi thực trạng của nhã nhặn, đồng thời tỏ rõ tầm kế
hoạch tư tưởng đoàn kết của Người. Đoàn kết hoàn toàn có thể hiểu một
cách đơn thuần là sự tập hợp, kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt
động giải trí vì một mục tiêu chung nào đó. Còn đại đoàn kết là đoàn kết
thoáng rộng tức muốn nhấn mạnh vấn đề tới thành phần, quy mô, lực
lượng của khối đoàn kết .
Người nói nhiều tới đoàn kết, đại đoàn kết, tuy nhiên chỉ một lần duy
nhất Người định nghĩa về khai niệm đại đoàn kết : “ Đại đoàn kết tức là
trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là
công nhân, nông dân và những những tầng lớp nhân dân lao động khác.
Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền ucar nhà, cái gốc
của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết những những
tầng lớp nhân dân khác ”. Tư tưởng về đại đoàn kết liên tục được Người
cụ thể hóa đơn trong những cụm từ như : “ đại đoàn kết toàn dân ”, “
đoàn kết toàn dân ”. “ đoàn kết dân tộc ”, “ toàn dân tộc ta đoàn kết ”.
Tuy cách diễn đạt hoàn toàn có thể khác nhau, nhưng nội dung hàm của
những khái niệm trên đều thống nhất khi khẳng định chắc chắn lực
lượng của khối đại đoàn kết là của toàn thể nhân dân Nước Ta .
Do đó, đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đại đoàn kết
những dân tộc, tôn giáo, giai cấp, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của
quốc gia, đoàn kết mọi thành viên trong mái ấm gia đình dân tộc Nước Ta
dù sống trong nước hay định cư ở quốc tế thành một khối vững chãi trên
cơ sở thống nhất về tiềm năng chung và những quyền lợi cơ bản .
- Thứ hai: Thực hành đoàn kết một cách đúng đắn
theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, nhưng cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì thế, đoàn kết phải là tiềm năng và
trách nhiệm số 1 của cách mạng nước ta. Phải thực thi đoàn kết trong
Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết những giai cấp, những dân tộc, những
tôn giáo và đoàn kết quốc tế. Đoàn kết phải thực sự tạo thành sức mạnh
vật chất và niềm tin . Khối đại đoàn kết toàn dân phải được kiến thiết xây
dựng trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy liên minh công – nông –
trí làm nền tảng, do Đảng Cộng sản chỉ huy. Nguyên tắc này xuất phát từ
nhận thức khoa học : đại đoàn kết không phải là tập hợp những lực
lượng xã hội một cách ngẫu nhiên mà phải là một tập hợp vững chắc của
những lực lượng có tổ chức triển khai, có xu thế, có chỉ huy .
Đại đoàn kết phải dựa trên nguyên tắc tin dân, dựa vào dân : “ Trong
khung trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong quốc tế không gì mạnh lOMoAR cPSD| 47206071
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân ”. Nguyên tắc quan trọng này bắt
nguồn từ sự thừa kế truyền thống cuội nguồn của ông cha : “ Nước lấy
dân làm gốc ”, “ chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân ” ; là sự không
cho thâm thúy quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin “ cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng ” . Theo quan điểm của Người, đoàn kết là một
khoa học và nghệ thuật và thẩm mỹ. Muốn có đại đoàn kết, cần phải
tuyên truyền, giáo dục, hoạt động quần chúng một cách khôn khéo để
mọi người tự giác đoàn kết, từ đó tự nguyện tham gia. Muốn giáo dục,
thuyết phục quần chúng thì phải có đường lối, chủ trương cung ứng
nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân – đây là điều quan
trọng số 1. Do đó, phải quan sát, điều tra và nghiên cứu và chớp lấy thực
tiễn một cách đúng mực ; giải pháp, hình thức tuyên truyền phải thích
hợp với tâm ý, trình độ của từng đối tượng người dùng ; người thực
heiejn trách nhiệm tuyên truyền, hoạt động quần chúng phải là tấm
gương mẫu mực đoàn kết từ lời nói đến hành vi, mục tiêu thật sự vì quyền lợi nhân dân .
Thực hành chiêu thức đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh là ứng xử
một cách đúng đắn với từng loại lực lượng sao cho hoàn toàn có thể lan
rộng ra đến mức cao nhất trận tuyến cách mạng và thu hẹp đến mức
thấp nhất trận tuyến đối phương : “ Đại đoàn kết tức là trước hết phải
đoàn kết đại đa số nhân dân … Đó là nền gốc của đại đàon kết … Bất kỳ ai
mà ngay thật đống ý tự do, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những
ngườid dó trước đây chống tất cả chúng ta giờ đây tất cả chúng ta cũng
ngay thật đoàn kết với họ … Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ
quốc và ship hàng nhân dân thì ta đoàn kết với họ
3. Sự vận dụng của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
3.1. Nhận thức chung về Đảng Cộng Sản Việt Nam
Quá trình hình thành của đảng chính trị bắt đầu từ cuối thế kỷ XVII, đầu
thế kỷ XVIII, đồng thời cũng là thời kỳ ra đời các hệ thống chính trị của
các nhà nước tư sản non trẻở Tây Âu và Mỹ(1). Các tổ chức tiền thân của
các chính đảng là các nhóm chính trị, các câu lạc bộ. Tại nước Anh, các tổ
chức đảng được phôi thai từ thế kỷ XVII(2). Ở Pháp, sự phát triển của các
nhóm nhỏ mà được coi là các đảng mới được hình thành, phôi thai từ
cuộc cách mạng năm 1789(3)... Nhưng phải đến cuối thế kỷ XVIII, đảng
chính trị mới xuất hiện. Ở Mỹ, Đảng Dân chủ xuất hiện năm 1792 với tư
cách là một nhóm cử tri ủng hộ Thomas Jefferson trở thành Tổng thống
năm 1801 (Đảng Cộng hòa ra đời muộn hơn, vào năm 1854). lOMoAR cPSD| 47206071
Trong lịch sử phát triển của loài người, khi xã hội phân chia thành giai cấp
thì xuất hiện mâu thuẫn về lợi ích giai cấp. Lịch sử đấu tranh giai cấp đã
chứng minh rằng, đấu tranh giai cấp phát triển đến một trình độ nhất
định thì các đảng chính trị mới có khả năng ra đời. Các đảng chính trị
được xuất hiện trong cách mạng tư sản, trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Trong điều kiện lịch sử mới, quyền lực nhà nước không còn nằm trong
tay vua chúa và không được truyền cho con cháu theo nguyên tắc “cha
truyền con nối”. Việc thành lập các cơ quan quyền lực nhà nước được
tiến hành bằng phương pháp bầu cử phổ thông, đầu phiếu. Xét về
phương diện tổ chức quyền lực nhà nước, đảng chính trị xuất hiện như là
kết quả việc hạn chế quyền lực của nền quân chủ chuyên chế, của sự ra
đời quyền bầu cử (thế kỷXIX)(4). Trong bối cảnh đó, các lực lượng muốn
chiếm giữ quyền lực và nhân rộng tầm ảnh hưởng trong xã hội cần phải
bảo đảm cho mình sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng. Chính đảng chính
trị đã trở thành công cụ hợp pháp để phản ánh quyền lợi của những
nhóm cử tri khác nhau và để chọn lựa giới thượng lưu cho xã hội. Đây
chính là những lý do khách quan cho sự ra đời của đảng chính trị.
Sự ra đời và phát triển của các chính đảng có liên quan chặt chẽđến ba
khái niệm cơ bản: quyền tồn tại của các nhóm khác nhau trong xã hội,
quyền các nhóm được kiểm soát và chi phối lãnh đạo, hạn chế quyền của
phái đa số cầm quyền(5). Biểu hiện tập trung, cụ thể và thiết thực của ba
khái niệm đó là quyền giành quyền lực bằng con đường tuyển cử và bằng
đấu tranh ở Quốc hội. Một số quốc hội ra đời sớm ngay khi còn chế độ
quân chủ chuyên chế như Quốc hội Anh (giữa thế kỷ XIV), Quốc hội Pháp
(giữa thế kỷ XV). Sự kiện đó đã phản ánh mối quan hệ thống trị, đấu
tranh và hợp tác giữa nhà vua, quý tộc, tư sản và nông dân trong một
thời gian tương đối dài trước khi có các cuộc cách mạng tư sản. Tại Hoa
Kỳ, Quốc hội và Chính phủ đều ra đời qua thắng lợi của cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc và thiết lập chính quyền tư sản. Trong bối cảnh đó, các
chính đảng dần dần ra đời và phát triển
3.2. Sự vận dụng của Đảng
-Đảng tồn tại với mục đích nắm giữ quyền lực nhà nước. Đây là mục đích
mang tính công khai, nhất quán đối với tất cả các đảng chính trị. Khác với
những tổ chức khác hoạt động trên chính trường, đảng công khai đấu
tranh vì những vị trí trong nghị viện và chính phủ. Vai trò, vị thế của các
đảng chính trị được thể hiện ở sự tham gia tích cực vào đời sống chính trị
ở mọi giai đoạn của hoạt động chính trị: tham gia vào các cuộc bầu cử,
hình thành các cơ quan nhà nước, đưa các quyết định chính trị vào hoạt
động của nhà nước và việc thực hiện chúng.
-Phương thức giành quyền lực nhà nướccủa đảng chính trị là phương
thức cạnh tranh trong bầu cử, là con đường hòa bình. Đây là phương
thức được các chính trị gia phương Tây đề cao, bởi theo họ, đó là con
đường chính trị ưu việt, phù hợp với tinh thần dân chủ cao nhất. lOMoAR cPSD| 47206071
- Để trở thành một đảng chính trị, tồn tại và phát triển với vị thế là một
đảng chính trị thì các tổ chức đảng chính trịphải có các yếu tố cấu thành:
các đảng đều phải có hệ tư tưởng riêng, phải là một tổ chức có kỷ cương
và phải được sự thừa nhận, điều chỉnh của luật pháp. B. Konstan đại diện
cho trường phái bảo thủ ở Anh cho rằng, đảng phái là tập hợp những
người theo những học thuyết chính trị giống nhau(7).
Nhà triết học chính trị Xôviết Anatôli Butenkhôđãđưa ra định nghĩa:
“Chính đảng là tổ chức chính trịđoàn kết những đại diện tích cực nhất
của một giai cấp xã hội nhất định (hay một nhóm xã hội) và thể hiện
(trong cương lĩnh và các văn kiện khác) những lợi ích cơ bản của giai cấp
đó. Chức năng quan trọng nhất của đảng là tìm ra những phương hướng
và phương tiện thực hiện những lợi ích đó, là người tổ chức những hoạt
động của giai cấp và của các đồng minh của nó”(8).
Trong lịch sử, không có một giai cấp cầm quyền nào mà lại tự nguyện từ
bỏ quyền lực chính trị của giai cấp mình. Đấu tranh chính trị đòi hỏi giai
cấp phải có mục tiêu chính trị rõ ràng, phải có tổ chức chặt chẽ để tập
hợp lực lượng của giai cấp, để huy động lực lượng đồng minh đánh bại
kẻ thù, giành thắng lợi. Các đảng chính trị ra đời là do đòi hỏi khách quan
của cuộc đấu tranh chính trị giữa các giai cấp. Đảng là một tổ chức chính
trị thể hiện lợi ích của giai cấp xã hội nhất định (các đảng công nhân, tư
sản, nông dân, dân chủ cách mạng...). Đảng chính trị, về nguyên tắc, là tổ
chức cao nhất, chặt chẽ nhất của giai cấp, tập hợp những người giác ngộ
nhất về lợi ích giai cấp, kiên quyết nhất trong đấu tranh để bảo vệ lợi ích
giai cấp khi chưa giành được quyền lực chính trị cũng như khi đã giành
được quyền lực chính trị.