Bài thảo luận: “Vai trò của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam (1954-1975)”
Bài thảo luận: “Vai trò của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam (1954-1975)” môn lịch sử đảng, trường đại học thương mại , giúp sinh viên ôn luyện và tham khảo
Preview text:
lOMoARcPSD| 38372003 lOMoAR cPSD| 3837200 Đại Học Thương Mại Lý Luận chính Trị ---------------------
Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam Chủ đề 01:
Vai trò của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của Việt Nam (1954-1975)
Giáo viên hướng dẫn : Hoàng Thị Thúy Lớp: 2204HCMI0131 Nhóm: 03 Hà Nội, 2022 lOMoARcPSD| 38372003
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ THẢO LUẬN Phầ Nội dung
Người thực hiện n I.
1. Tính cấp thiết của đề tài Phạm Thị Thu Hà Mở đầu
2. Lời cảm ơn và giới thiệu đề tài Nguyễn Thị Hải
II. 1.1.1. Hoàn cảnh ra đời Nội 1.1. Sơ lược về Phạm Thị Thu Hà dung đường mòn Hồ 1.1.2 Thành lập Chí Minh trên 1.1.3 Đơn vị biển Nguyễn Thị Hải 1. Đặc
1.1.4 Căn cứ, bến bãi điểm đường
1.2.1 Giai đoạn 1962 - 1965 Nguyễn Ngọc Hạnh mòn HCM 1.2. Sự phát triển
1.2.2 Giai đoạn 1965 - 1972 Trần Thị Thu Hạnh trên biển Đường Hồ Chí Minh trên biển
1.2.3 Giai đoạn 1973 - 1975 Nguyễn Thị Hiên Nguyễn Thị Thanh 1.2.4 Giai đoạn 1975 - nay Hiền
1.3 Các số liệu liên quan Lại Thị Thanh Hảo 2. Vai trò
2.1. Đường Hồ Chí Minh chi viện chiến lược, Ngô Hà Hiếu
của góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng Nguyễn Thị Thu Hoài
đường miền Nam, thống nhất đất nước mòn
HCM 2.2 Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành Lại Thị Thanh Hảo trên biển
nơi hội tụ sức mạnh của chiến tranh nhân dân Nguyễn Thị Thanh trong
Việt Nam trong cuộc đấu trí, đấu lực với các âm Hiền kháng
mưu thủ đoạn của kẻ thù chiến
2.3 Vai trò to lớn của Đường Hồ Chí Minh trên Nguyễn Thị Kim chống
biển trong việc chi viện sức người, sức của, Hồng Mỹ cứu
những loại “hàng hóa đặc biệt” cho chiến trường Nguyễn Thị Thu Huế nước của miền Nam Việt Nam 2 lOMoARcPSD| 38372003 (1054- 1975) 3 . Giá trị lịch sử
và giá trị 3.1 Giá trị lịch sử Nguyễn Thị Huệ thực tại của Đường mòn Hồ Chí 3.2 Giá trị thực tiễn Nguyễn Mạnh Hùng Minh trên biển III. Kết Nguyễn Ngọc Hạnh luận
Nhiệm vụ bổ sung:
1. Làm word: Lại Thị Thanh Hảo
2. Làm powerpoint: Phạm Thu Hạ
3. Thuyết trình: Đỗ Minh Hoàng
4. Tìm câu hỏi phản biện: Trần Thị Thu Hạnh, Nguyễn Mạnh Hùng, và Nguyễn Thị
Huệ,Nguyễn Thị Thu Huế
5. Trả lời câu hỏi phản biện: Ngô Hà Hiếu, Nguyễn Thị Hiên, Nguyễn Thị Thu Hoài
6. Thư kí nhóm: Nguyễn Ngọc Hạnh phụ trách ghi biên bản họp nhóm và để ý đóng gópcủa
từng thành viên để đánh giá điểm thảo luận. lOMoARcPSD| 38372003 MỤC LỤ
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ THẢO LUẬN ................................................... 2
I. Mở Đầu ...................................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 4
2. Lời cảm ơn ............................................................................................................. 5
II. Nội Dung .................................................................................................................. 6
1. Đặc điểm đường mòn HCM trên biển ................................................................ 6
1.1 Sơ lược về đường mòn Hồ Chí Minh trên biển ................................................. 6
1.2 Sự phát triển Đường Hồ Chí Minh trên biển .................................................. 12
1.3 Các số liệu khác liên quan .............................................................................. 20
2. Vai trò của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống
Mỹ cứu nước của Việt Nam (1954-1975) .............................................................. 22
2.1. Đường mòn Hồ Chí Minh chi viện chiến lược, góp phần quan trọng vào
sựnghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước .......................................... 22
2.2. Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành nơi hội tụ sức mạnh của chiến
tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu trí, đấu lực với các âm mưu thủ đoạn
của kẻ thù ............................................................................................................... 25
2.3. Vai trò to lớn của Đường Hồ Chí Minh trên biển trong việc chi viện sức
người, sức của, những loại “hàng hóa đặc biệt” cho chiến trường miền Nam ..... 29
3. Giá trị lịch sử và giá trị thực tiễn của Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển . 31
3.1. Giá trị lịch sử .................................................................................................. 31
3.2. Giá trị thực tiễn ............................................................................................... 33
III. Kết Luận .............................................................................................................. 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 37 I. Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
Theo dòng chảy của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, không thiếu các cuộc
kháng chiến hào hùng, các cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, bảo vệ quyền tự tôn của dân tộc.
Trong quá trình học tập môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, nhóm 03 đã có cơ hội được
tìm hiểu và nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta và nhóm đặc biệt 4 lOMoARcPSD| 38372003
ấn tượng với một quyết định chiến lược góp phần to lớn làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), đường Hồ Chí Minh
được biết đến như một “huyền thoại có thật”, một biểu tượng sáng ngời về tài thao lược và
nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân của dân tộc ta, góp phần vận chuyển sức mạnh
tiềm tăng và to lớn từ hậu phương ra tiền tuyến từ các nước Xã hội chủ nghĩa vào Việt
Nam. Trên tuyến vận tải chiến lược huyền thoại này, nhiều trận chiến ác liệt đã diễn ra,
nhưng các cán bộ, chiến sĩ đã kiên cường, dũng cảm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao. Thành công của những chuyên vận chuyển, tiếp tế từ hậu phương miền Bắc cho chiến
trường miền Nam bằng đường mòn Hồ Chí Minh trên biển đã góp phần đẩy mạnh chiến
tranh nhân dân, góp phần làm nên những chiến thắng vang dội của quân và dân ta, giải
phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh, Tổ quốc và nhân dân ta đời
đời ghi nhớ công lao của những người đã làm nên kỳ tích đường Hồ Chí Minh trên biển”.
Những đóng góp hiệu quả của tuyến chi viện chiến lược- đường Hồ Chí Minh trên biển
(1959- 1975) đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước vĩ đại của dân tộc, vượt lên những tính toán thông thường về chiến tranh của chính
quyền Mỹ- Ngụy, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá cho hôm nay và mai sau. Với
lòng biết ơn và sự tri ân sâu sắc đối với những hy sinh, đóng góp của các thế hệ cha anh,
nhóm 03 xin chọn “Vai trò của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam (1954-1975)” làm đề tài thảo luận.
Hy vọng qua bài thuyết trình của nhóm em không chỉ chúng em mà nhiều người khác
không những hiểu biết sâu sắc hơn về những hoạt động, kết quả đóng góp của tuyến chi
viện chiến lược - đường Hồ Chí Minh trên biển trong nhiệm vụ chi viện cho chiến trường
mà qua đó cũng thấy được sự sáng tạo, thành công của Đảng ta trong tổ chức lãnh đạo, chỉ
huy tuyến chi viện chiến lược này. 2. Lời cảm ơn
Đầu tiên chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học Thương Mại đã đưa
môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam vào chương trình giảng dạy trong nhà trường
cho sinh viên. Đặc biệt, chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn - cô lOMoARcPSD| 38372003
Hoàng Thị Thuý đã rất tâm huyết dạy dỗ và truyền đạt những kiến thức giá trị của bộ môn
cho chúng em trong suốt thời gian học tập vừa qua. Cũng trong thời gian tham gia lớp học
của cô, chúng em đã có thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích, được làm giàu thêm kiến
thức lịch sử dân tộc và tăng niềm tự hào dân tộc. Đây chắc chắn sẽ là hành trang quý báu
mà chúng em sẽ luôn mang theo bên mình để vững bước mai sau.
Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự là môn thú vị và có tính thực tế cao. Tuy
nhiên, do vốn kiến thức và khả năng tiếp cận thực tế còn hạn chế nên mặc dù đã cố gắng
hết sức nhưng bài thảo luận của chúng em vẫn mắc phải một số sai sót, kính mong cô xem
xét và góp ý bài thảo luận của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn! II. Nội Dung
1. Đặc điểm đường mòn HCM trên biển
1.1 Sơ lược về đường mòn Hồ Chí Minh trên biển 1.1.1 Hoàn cảnh ra đời
Sau chín năm trường kỳ kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
quân và dân ta đã giành những thắng lợi lớn lao trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, buộc thực dân Pháp phải ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương.
Song, hiệp định này còn có những hạn chế nhất định, vì vậy mục tiêu thống nhất, độc lập
chưa được thực hiện trên phạm vi cả nước. Đất nước “tạm” bị chia cắt làm hai miền Nam,
Bắc. Trong khi miền Bắc bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh thì đế quốc Mỹ đã hất cẳng Pháp, nhảy vào miền Nam, dựng nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm.
Đối với cách mạng miền Nam, Đảng ta chủ trương phát triển hình thức đấu tranh chính trị
đòi địch thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Giơ-ne-vơ, đấu tranh đòi độc lập bằng con đường
hòa bình. Nhưng Mỹ- Diệm đã có một loạt những hành động nhằm phá tan khát vọng thống
nhất nước nhà của nhân dân ta. Vào thời điểm đó, Nghị quyết Trung ương 15 ra đời đã đáp
ứng kịp thời nhu cầu bức thiết của nhân dân. Ý Đảng, lòng dân hợp nhau ở điểm mẫu chất
dùng sức mạnh của quần chúng nhân dân nổi dậy, với lực lượng chính trị là chủ yếu, có sự 6 lOMoAR cPSD| 38372003
hỗ trợ của lực lượng vũ trang, giành chính quyền về tay nhân dân. Tư duy chiến lược của
Đảng là lúc đó cũng đã dự kiến với thực lực của kẻ thù và tình thế chung, cần sẵn sàng đối
phó với một cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài.
Sau khi có nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, phong trào đấu tranh của
nhân dân ta ở miền Nam có bước phát triển mới. Đấu tranh vũ trang ngày càng lan rộng,
yêu cầu về cán bộ và vũ khí ngày càng lớn. Đường dây Thống Nhất- trên cơ sở đường giao
liên bí mật xuyên Trường Sơn trong kháng chiến chống thực dân Pháp không thể đáp ứng
được yêu cầu đó, nhất là đối với các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Để kịp thời đáp ứng
yêu cầu chi viện cho chiến trường miền Nam, giữa năm 1959, Bộ chính ra chỉ thị: “Tổ
chức một đoàn giao thông quân sự đặc biệt mở đường đưa cán bộ, tiếp tế vũ khí và những
hàng cần thiết khác vào miền Nam. Đây là một việc lớn, có tính chất chiến lược, quan hệ
trực tiếp đến sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà”. Sau một thời gian
nghiên cứu và chuẩn bị, ngày 19/5/1959, thường trực Tổng quân ủy Bộ Quốc phòng triệu
tập Ban cán sự, chính thức giao cho đoàn 559 tổ chức mở đường giao thông quân sự vào
Nam, dọc theo dãy Trường Sơn, vận chuyển hàng quân sự cho miền Nam, đưa, đón cán bộ
từ Bắc vào Nam và ngược lại mà trước mắt là cho liên khu V. Trong lúc đó, miền Bắc nước
ta dáng tập trung xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương và căn cứ địa cách
mạng của cả nước. Cả nước có mục tiêu chung là giải phóng trong hàng ngũ Việt Minh ở
Nam Bộ thực hiện lần đầu tiên. 1.1.2 Thành lập
Tuy được tăng cường lực lượng, phương tiện nhưng hiệu quả vận chuyển của tuyến đường
bộ vẫn rất thấp, không thể đáp ứng nhu cầu chi viện cho chiến trường miền Nam ngày càng
trở nên cấp thiết. Vì cách vận chuyển giai đoạn này chủ yếu là gùi, thồ trong điều kiện rất
gian khổ và phải hết sức bí mật. Bên cạnh đó Mỹ- Ngụy dường như đã phát hiện ra việc ta
đưa vũ khí vào Nam nên đã tăng cường càn quét chống phá. Tháng 7/ 1959, tiểu đoàn 603-
đơn vị vận tải đường biển được thành lập do đồng chí Trần Văn TràPhó Tổng tham mưu
trưởng trực tiếp phụ trách. Tiểu đoàn gồm 107 người, đóng quân ở thôn Thanh Khê- xã
Thạch Trạch- huyện Bố Trạch- tỉnh Quảng Bình- bên bờ sông Gianh (còn gọi là “Tập đoàn
đánh cá sông Gianh”). Được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương, công an nhân dân vũ lOMoAR cPSD| 38372003
trang, Tiểu đoàn 603 nhanh chóng ổn định nơi ăn, ở và bắt tay vào đóng thuyền và các
thuyền này đều được cải dạng theo các thuyền đánh cá ở miền Nam. Theo chủ trương của
cấp trên, chuyến đi biển đầu tiên của tiểu đoàn 603 sẽ chở 5 tấn vũ khí và thuốc men bí
mật vượt qua tuyến quân sự tiến vào vùng biển miền Nam, chi viện cho khu V mà địa điểm
tập kết là chân đèo Hải Vân. Ngày 27/1/1960 tiểu đoàn 603 quyết định cho 6 thuyền có 6
người đã từng tham gia vận chuyển từ khu V vào khu VI trong kháng chiến chống thực
dân Pháp nhổ neo nhưng trong chuyến đi này đoàn không đến được nơi tập kết đã định.
Chuyến vượt biển đầu tiên chi viện cho chiến trường miền Nam không thành công, Tổng
quân ủy và Bộ quốc phòng chỉ thị cho tiểu đoàn 603 tạm ngừng hoạt động, điều động cán
bộ, chiến sỹ sang Đoàn 301 để tập trung mở đường bộ chi viện cho chiến trường miền
Nam. Song không vì vậy mà việc nghiên cứu mở đường biển lại bị lãng quên. Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng hết sức quan tâm tới khả năng
này bởi đây là loại hình vận chuyển có hiệu quả cao, có thể đi xa, đi nhanh với khối lượng
lớn. Do đó, một mặt Tổng Quân ủy tiếp tục chỉ đạo cho Bộ Tổng Tham mưu tiếp tục nghiên
cứu tình hình trên biển, tìm hiểu vùng kiểm soát trên biển của địch cũng như khả năng xây
dựng và tổ chức lực lượng vận tải biển chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Khu 5. Mặt
khác Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo các tỉnh ven biển ở miền
Trung và Nam Bộ chủ động chuẩn bị bến, bãi và tổ chức đưa thuyền vượt biển ra miền
Bắc, vừa thăm dò, nắm tình hình địch, nghiên cứu tuyến vận chuyển trên biển, vừa nhận
vũ khí để kịp thời cung cấp cho cách mạng miền Nam.
Từ giữa năm 1961 đến giữa năm 1962, lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam ở các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh và Bà Rịa đã cử 5 thuyền gỗ từ miền
Nam ra miền Bắc nhận vũ khí. Vừa đi, vừa nắm bắt hoạt động của ngư dân làm ăn trên
biển cũng như tình hình tuần tra của địch trên biển; chuẩn bị bến bãi, kho tàng, hậu cứ để
đón tàu chi viện vũ khí từ Bắc vào.
Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương Việt Nam quyết định
mở tuyến đường biển Bắc Nam. Trung tướng Trần Văn Trà, Phó Tổng tham mưu trưởng
đã được Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ thành lập tuyến đường này. Ngày 23-101961,
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hoàng Văn Thái kỳ Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn 759, 8 lOMoAR cPSD| 38372003
sau này trở thành sư đoàn 125 thuộc Hải quân nhân dân Việt Nam. Đoàn 759 có trách
nhiệm chi viện vũ khí cho miền Nam bằng đường biển. Trung tá Đoàn Hồng Phước được
giao nhiệm vụ làm Đoàn trưởng. Đây là đơn vị đầu tiên đảm nhận nhiệm vụ vận tải vũ khí,
hàng hóa vào chiến trường miền Nam bằng các con tàu không số, mở ra sự phát triển mới
của Đường Hồ Chí Minh trên biển. Bộ chỉ huy các khu V, VI, VIII được lệnh thiết lập các
bến bãi bí mật để đón nhận vũ khí, đạn dược, phương tiện và các hàng hóa khác từ miền
Bắc chuyển vào bằng đường biển.
Sau khi nghiên cứu, phân tích, đánh giá kỹ tình hình các chuyến đi thăm dò hai chiều Nam
– Bắc, Bắc - Nam và chỉ đạo chặt chẽ công tác chuẩn bị tàu, thuyền, xây dựng phương án,
Quân ủy Trung ương, trực tiếp là đồng chí Bí thư đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lê Duẩn đã lựa chọn Bông Văn Dĩa phụ trách chiếc tàu đầu tiên chở vũ khí vào miền
Nam. Đêm 12-10-1962, chiếc tàu “Phương Đông I” gồm 10 thủy thủ dưới sự chỉ huy của
thuyền trưởng Lê Văn Một, chính trị viên Bông Văn Dĩa chở hơn 30 tấn vũ khí rời bến Đồ
Sơn (Hải Phòng) đi về phương Nam. Đến sáng ngày 19-10-1962, tàu vào tới Chùm Gọng
(Vàm Lũng, Tân An) an toàn. Tàu “Phương Đông 1” đã đi vào lịch sử, chính thức khai
thông tuyến vận tải quân sự đường biển - Tuyến vận tải chiến lược - Đường mòn Hồ Chí
Minh trên biển - bước phát triển mới của nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. 1.1.3 . Đơn vị
Đoàn 759: 23/10/1961, Quân ủy Trung ương Việt Nam quyết định thành lập Đoàn hải quân
759, sau này trở thành Lữ đoàn 125 của Hải quân nhân dân Việt Nam. Đây là đơn vị đầu
tiên giữ vai trò vận tải vũ khí, hàng hóa vào chiến trường miền Nam bằng các con tàu
không số, mở ra sự phát triển mới của Đường Hồ Chí Minh trên biển.
Đoàn 962: Tại Nam Bộ, Bộ Chỉ huy quân khu IX của Quân giải phóng miền Nam Việt
Nam được giao nhiệm vụ thành lập Trung đoàn 962 chuyên trách nhiệm vụ chuẩn bị bến
bãi tại bờ biển các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau. Bộ chỉ huy các Khu V, VI, VIII cũng
được lệnh thiết lập các bến bãi bí mật để đón nhận vũ khí, đạn dược, phương tiện và các
hàng hóa khác từ miền Bắc Việt Nam chuyển vào bằng đường biển. lOMoARcPSD| 38372003 Đoàn 950.
Phương tiện được sử dụng: • Tàu, thuyền gỗ. • Tàu sắt. • Tàu hai đáy. Các tuyến chính • Tuyến ven bờ.
• Tuyến tiếp giáp lãnh hải.
• Tuyến hàng hải quốc tế.
1.1.4. Căn cứ và bến bãi
K15 là bí danh được đặt tên cho bến tàu xuất phát có quy mô lớn đầu tiên của các con tàu
không số vận chuyển người và vũ khí từ Bắc vào Nam bằng đường biển trong chiến tranh
Việt Nam. Nó còn có tên khác là “Vạn Xét”. Bến này được mở lần đầu tiên tại các thôn
Vạn Hoa và Vạn Sơn (Đồ Sơn, Hải Phòng), do Trung đoàn công binh 83 xây dựng. Đây là
một vịnh nhỏ ăn sâu vào đất liền ở bờ Đông bán đảo Đồ Sơn, Hải Phòng. Cầu cảng được
xây hình chữ T. Toàn bộ cầu tàu được làm bằng bê tông cốt thép dạng khung chịu lực kiểu
dầm gác hai đầu. Ngày 15 tháng 5 năm 1964, cầu tàu K15 bắt đầu hoạt động. Tuy ra đời
sau tuyến vận tải quân sự bí mật trên biển đầu tiên từ Quảng Bình vào miền Nam và các
chuyến tàu từ miền Nam ra miền Bắc nhận vũ khí và trở lại miền Nam nhưng lịch sử Hải
quân nhân dân Việt Nam vẫn coi đây như “Cột km số 0” của các tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trên biển.
Cầu cảng K15 đánh dấu một bước chuyển biến lớn của Đường Hồ Chí Minh trên biển. Đó
là việc các tàu sắt được đưa vào sử dụng, dần thay thế cho các con tàu gỗ kém an toàn.
Trong quá trình hoạt động, cảng K15 đã tổ chức xếp hàng và xuất phát cho 88 chuyến vận
tải quân sự trên biển, gồm 4.919 tấn vũ khí đạn dược và hàng nghìn tấn hàng hóa khác. Do
được ngụy trang rất kín đáo nên trong suốt cuộc Chiến tranh Việt Nam không quân và hải
quân Hoa Kỳ vẫn không phát hiện được cầu cảng K15. Sau nửa thế kỷ, đặc biệt từ năm
1975 đến nay không còn được hoạt động, công trình đã hư hại nặng. Hiện nay, tại bãi biển 10 lOMoAR cPSD| 38372003
Vạn Sơn (Đồ Sơn, Hải Phòng) chỉ còn lại di tích các cọc bê tông của cầu tàu trên bến cảng quân sự bí mật K15.
Trong quá trình hoạt động của “Đường Hồ Chí Minh trên biển”; những địa điểm như Sa
Huỳnh, Quy Thiện, Ba Làng An, Hòn Hèo, Phước Thiện… là những bến bãi quan trọng
tiếp nhận vũ khí, đạn dược, hàng hóa do các chuyến tàu không số chuyên chở từ miền Bắc
gửi vào cho Quân giải phóng miền Nam, là bến đỗ dự bị của các chuyến tàu không số
trong trường hợp tàu bị hỏng, là nơi tránh trú khi gặp bão lớn hoặc bị hải quân Việt Nam Cộng hòa vây ráp…
Sa Huỳnh: là một làng chài cổ đồng thời là một bãi biển ở miền Trung Trung Bộ nổi tiếng
với nghề đánh cá từ lâu đời. Trong quá trình hoạt động của đường mòn Hồ Chí Minh trên
biển, Sa Huỳnh là một trong những bến bãi tiếp nhận vũ khí, đạn dược, hàng hóa do các
chuyến tàu không số chuyên chở từ miền Bắc gửi vào cho Quân giải phóng miền Nam tại chiến trường Khu V.
Quy Thiện: thuộc xã Phổ Hiệp, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Là một trong các bến đỗ
dự bị của các chuyến tàu không số trong trường hợp tàu bị hỏng, là nơi tránh trú khi gặp
bão lớn hoặc bị hải quân Việt Nam Cộng hoà vây ráp. Tháng 3/1968, tại đây đã diễn ra
cuộc hội ngộ không hẹn mà gặp giữa các cán bộ, nhân viên của Bệnh xá Đức Phổ nổi tiếng
do bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm lãnh đạo với các thủy thủ Tàu 43 khi bị không quân và hải quân
Việt Nam Cộng hòa bắn hỏng. Các thủy thủ phải đổ bộ lên bờ và được người dân trong
vùng bí mật đưa đến trạm xá này để cứu chữa.
Lộ Diêu: Bến này nằm trên địa bàn xã Hoàng Diêu, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định,
được chọn là bến trung chuyển vũ khí, đạn dược và hàng hoá do các con tàu không số chờ
từ miền Bắc vào chiến trường khu V. Bến Lộ Diêu bắt đầu hoạt động từ ngày 1/1/1964 khi
đón con tàu đầu tiên chở hàng chục tấn vũ khí xuất phát từ Hòn Dấu, Hải Phòng đi vào.
Lộc An: Đây là bến xuất phát của một trong năm con thuyền gỗ đầu tiên mở tuyến đường
Hồ Chí Minh trên biển từ Nam ra Bắc và ngược lại. Trong quá trình hoạt động, bến này đã
đón 3 tàu không số cập bến, vận chuyển 109 tấn vũ khí cho Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại Khu IX. lOMoARcPSD| 38372003
Cồn Tàu: là bến chính trong hệ thống bến bãi Trà Vinh, nằm ở gần cửa Cung Hầu, một
trong ba cửa chảy ra biển của sông Hậu, thuộc huyện Duyên Hải. Bến này bắt đầu hoạt
động từ tháng 6/1963 khi đón chuyến tàu sắt đầu tiên chở 44 tấn vũ khí từ Bắc vào Nam.
Khâu Lầu: biệt danh là “Ông Hai Ghiền”, là nơi xuất phát của con tàu đầu tiên của Việt
Minh ở vùng Tây Nam Bộ ra Bắc xin vũ khí để tổ chức kháng chiến chống Pháp năm 1946.
Rạch Giá: Cảng cá Rạch Giá là căn cứ nửa công khai, nửa bí mật của đoàn tàu hai đáy do
Trung đoàn vận tải 950 thuộc Khu IX, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phụ trách.
Bến này đi vào hoạt động từ nửa sau năm 1968. Gọi là nửa công khai vì bề ngoài đây là
một cảng cá, nửa bí mật vì đây là một bến tiếp nhận vũ khí vận chuyển bằng đường biển.
1.2 Sự phát triển Đường Hồ Chí Minh trên biển
1.2.1 Giai đoạn 1962 – 1965
Táo bạo - bí mật - bất ngờ vận chuyển chi viện chiến trường, góp phần đánh thắng chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Thực hiện chủ trương của của Bộ Chính trị
và Quân ủy Trung ương, sau khi rút kinh nghiệm các chuyến vận chuyển đường biển từ
Bắc vào Nam chưa thành công, Đoàn 759 quyết định để thuyền “Bạc Liêu” đi chuyến trinh
sát, mở đường từ Bắc vào Nam. Đêm ngày 10/4/1962, thuyền rời cửa Nhật Lệ (Quảng
Bình) đi về hướng Nam; đến 10 giờ đêm ngày 18/4/1962 cập vào Vàm Lũng (Ngọc Hiển,
Cà Mau). Nghiên cứu, khảo sát bến xong, thuyền Bạc Liêu tiếp tục quay trở ra miền Bắc;
chuyến đi trinh sát, mở đường từ Bắc vào Nam đã thành công.
Trong tuần tháng 8/1962, Quân ủy Trung ương thông qua Nghị quyết mở đường vận
chuyển chiến lược trên biển. Bắt đầu từ đây, Đoàn 759 bước vào một giai đoạn vận chuyển
mới. Tháng 8- 1962, Đoàn 759 nhận bàn giao 4 tàu gỗ từ Xưởng đóng tàu I (Hải Phòng)
và tiếp nhận bổ sung cán bộ. Để bảo đảm bí mật cho tuyến đường vận tải đặc biệt, những
chiếc tàu của Đoàn 759 phải cải hoán thành tàu đánh cá, không có số hiệu cố định, xen kẽ,
trà trộn vào những đoàn tàu đánh cá của ngư dân địa phương trên biển, tên gọi “Đoàn tàu
không số” được ra đời.
Đêm 11- 10- 1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên chở 30 tấn vũ khí đã rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng)
lên đường đi Cà Mau do đồng chí Lê Văn Một làm thuyền trưởng, đồng chí Bông Văn Dĩa 12 lOMoAR cPSD| 38372003
làm Chính trị viên cùng 11 thủy thủ. Ngày 16/10, tàu vào bến Vàm Lũng, 30 tấn vũ khí từ
hậu phương miền Bắc đã được chiến trường miền Nam tiếp nhận an toàn. Đường biển, nối
liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam đã trở thành hiện thực, tạo tiền
đề cho những chuyến vận chuyển thành công tiếp theo của cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759. Khi
tuyến đường vận tải biển được khai thông, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện biểu dương
khen ngợi, đồng thời nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759 hãy nhanh chóng rút kinh nghiệm,
tiếp tục vận chuyển nhanh hơn nữa, nhiều hơn nữa vũ khí cho đồng bào miền Nam giết
giặc. Quân ủy Trung ương chủ trương nhanh chóng đầu tư, trang bị cho Đoàn 759 loại tàu
vỏ sắt trọng tải từ 50 tấn đến 100 tấn. Cuối năm 1962, Bộ Tổng Tư lệnh đề nghị Xưởng
đóng tàu III (Hải Phòng) thuộc Bộ Giao thông vận tải đảm nhiệm việc đóng tàu vỏ sắt.
Ngày 17/3/1963, chiếc tàu vỏ sắt đầu tiên do đồng chí Đinh Đạt làm thuyền trưởng, đồng
chí Nguyễn Văn Tiến làm chính trị viên chở 44 tấn vũ khí lên đường đến bến Trà Vinh an
toàn. Nhờ tổ chức tốt, kỷ luật nghiêm, ý thức trách nhiệm cao, tinh thần vững vàng và trình
độ chuyên môn giỏi, những chuyến đi của Đoàn đều hoàn thành tốt nhiệm vụ và giữ được
bí mật. Chỉ trong 1 năm, Đoàn 759 đã thực hiện 29 chuyến hàng vào Nam Bộ, vận chuyển
1.430 tấn vũ khí cho chiến trường, đạt hệ số vận chuyển cao. Phát huy kết quả vận chuyển
bằng đường biển chi viện cho chiến trường Nam Bộ, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Khu 7 mở
bến đón tàu. Đoàn 759 được lệnh chuẩn bị một tàu chở vũ khí đột phá mở đường mới vào
bến Bà Rịa. Đêm 26-9-1963, chiếc tàu gỗ mang số hiệu 41 do đồng chí Lê Văn Một làm
Thuyền trưởng, đồng chí Đặng Văn Thanh là Chính trị viên tàu cùng 11 thuỷ thủ, chở 18
tấn vũ khí xuất phát tại cảng Bính Động (Hải Phòng) đã mở bến vào Bà Rịa thành công,
chi viện vũ khí kịp thời cho Khu 7.
Tháng 8/1963, Quân ủy Trung ương quyết định giao Đoàn 759 trực thuộc Cục Hải quân.
Ngày 29/01/1964, Bộ Quốc phòng quyết định đổi phiên hiệu Đoàn 759 thành Đoàn 125
trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Từ năm 1962 - 1964, Đoàn 125 đã huy động 17 tàu vỏ
sắt, 3 tàu vỏ gỗ, tổ chức 79 chuyến vận chuyển hơn 4.000 tấn vũ khí trang bị và cán bộ
trung, cao cấp của Đảng và Quân đội vào miền Nam. Tàu của Đoàn đã cập bến Bạc Liêu
(Cà Mau) 43 lần, Bến Tre 17 lần, Trà Vinh 14 lần, Bà Rịa 2 lần, Phú Yên 2 lần, Bình Định
1 lần. Số vũ khí đã đến chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Khu 7 đúng lúc, trực lOMoAR cPSD| 38372003
tiếp góp phần cùng các lực lượng vũ trang giành nhiều thắng lợi oanh liệt như chiến thắng
Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Vạn Tường, Ba Gia, Bình Giã... làm thất bại về căn
bản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - Ngụy trên chiến trường miền Nam.
Cuối năm 1964, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân
nghiên cứu mở rộng tuyến vận tải đường biển vào các bến thuộc địa bàn Khu 5. Ngày
21/9/1964, Tàu 401 được lệnh lên đường vào Khu 5 và cập bến Lộ Diêu sáng ngày
01/11/1964, toàn bộ vũ khí được cất giấu an toàn, do mắc cạn, Tàu 401 bị hỏng nặng và
được đốt cháy để xóa dấu vết. Trước tình hình trên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị:
Không sử dụng bến Lộ Diêu nữa mà tìm cách đưa hàng vào bến mới ở Phú Yên.
Chấp hành chỉ thị của Đại tướng, Bộ Tư lệnh Hải quân quyết định chọn bến Vũng Rô làm
điểm giao hàng cho chiến trường Phú Yên. Tàu 41 nhận lệnh chở vũ khí cập bến Vũng Rô
cả 3 chuyến đều thắng lợi, an toàn. Có vũ khí từ miền Bắc chuyển vào, tháng 121964, Bộ
Tư lệnh Khu V đã mở các đợt tác chiến tiêu diệt quân chủ lực ngụy, hỗ trợ cho quần chúng
nổi dậy phá kìm, diệt ác, giải phóng một số vùng ở đồng bằng Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, Khánh Hòa, góp phần làm chuyển biến cục diện chung trên toàn Miền.
Công việc vận chuyển đang tiến triển thuận lợi thì xảy ra sự kiện Tàu 143 bị lộ ở Vũng Rô
ngày 16-2-1965. Con đường vận chuyển chiến lược trên biển không còn giữ được bí mật
nữa. Biết rõ ý đồ của ta, địch tăng cường tuần tiễu, phong tỏa và kiểm soát chặt chẽ. Việc
vận chuyển vũ khí, hàng hóa quân sự chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường
biển gặp muôn vàn khó khăn, Quân ủy Trung ương quyết định tạm ngừng việc vận chuyển
bằng đường biển vào miền Nam để nghiên cứu tìm phương thức vận chuyển mới, phù hợp với tình hình.
Nhận xét về cuộc chiến tranh: Đây là một thắng lợi lớn, góp phần củng cố niềm tin và quyết
tâm của quân dân miền Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
1.2.2 Giai đoạn 1965 – 1972
Vượt qua thử thách ác liệt, khắc phục khó khăn, tiếp tục vận chuyển chi viện cho chiến
trường, góp phần đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến 14 lOMoAR cPSD| 38372003
tranh” của đế quốc Mỹ. Trong điều kiện yếu tố bí mật, bất ngờ của tuyến đường biển không
còn và bị địch kiềm toả gắt gao, công tác chuẩn bị cho chuyến mở đường được tiến hành
khẩn trương, chặt chẽ, chu đáo. Đoàn 125 giao cho Tàu 42 gồm 16 thuỷ thủ do đồng chí
Nguyễn Văn Cứng làm Thuyền trưởng và đồng chí Nguyễn Ngọc Ẩn làm Chính trị viên
tàu. Đêm 15/10/1965, Tàu 42 chở 60 tấn vũ khí nhổ neo, xuất bến; đêm 24/10, Tàu cập bến
Rạch Kiến Vàng (Cà Mau) an toàn. Tiếp theo các Tàu 69 và Tàu 68 lần lượt lên đường
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.
Trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, từ ngày 23 đến ngày
27/02/1968, Bộ Tư lệnh Hải quân sử dụng 4 tàu: 165, 56, 54 và 235 lên đường làm nhiệm
vụ chi viện cho chiến trường và làm phân tán sự đối phó của địch.
Kết thúc giai đoạn vận chuyển cực kỳ ác liệt, từ tháng 10/1965 đến tháng 3/1968, Đoàn
125 đã tổ chức 37 chuyến vận chuyển, trong đó có 17 chuyến thành công, chở 310 tấn vũ khí cho chiến trường.
Trước thất bại trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc và tổn thất nặng nề trên chiến
trường miền Nam, ngày 31/3/1968, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. Theo chỉ thị
của Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đoàn 125 tham gia “Chiến dịch Vận chuyển VT5” (vận
chuyển hàng hóa, vũ khí từ Hải Phòng vào Sông Gianh - Quảng Bình) và từ đây sẽ được
các lực lượng vận chuyển vào chiến trường miền Nam bằng đường bộ. Với phương châm
chỉ đạo: “Chuẩn bị chu đáo, tranh thủ thời cơ, làm nhanh, gọn, liên tục, an toàn, đi gần bờ,
dựa vào dân”, từ ngày 03/11/1968 đến ngày 29/01/1969, vượt qua hàng rào phong tỏa dày
đặc thủy lôi và bom từ trường của Mỹ, Đoàn 125 đã huy động 364 lượt tàu, vận chuyển
21.737 tấn hàng, đạt 217,37% kế hoạch.
Tháng 02/1969, Đoàn 125 tiếp tục “Chiến dịch Vận chuyển VT5”, với 187 chuyến tàu, vận
chuyển 10.889 tấn hàng hóa, vượt chỉ tiêu 1.000 tấn, góp phần chi viện cho chiến trường,
đặc biệt là chiến trường Thừa Thiên - Huế và Mặt trận Khu 5. Tết Nguyên đán năm 1969,
cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 vinh dự được Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng gửi tặng lẵng hoa
và đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm, chúc tết đơn vị. lOMoAR cPSD| 38372003
Tháng 7/1969, sau khi rút kinh nghiệm từ những chuyến đi thành công và không thành
công, Đoàn 125 sử dụng Tàu 42 cải trang thành tàu nghiên cứu biển, đi trinh sát để tìm
phương thức vận chuyển mới. Từ kết quả của chuyến đi trinh sát, Quân ủy Trung ương và
Bộ Quốc phòng nhận định tình hình và quyết định chuẩn bị đợt vận chuyển lớn vào chiến
trường Khu 5, 6, 8 và Khu 9. Năm 1970, Đoàn 125 đã tổ chức 15 chuyến đi, song chỉ có 5
chuyến vào được bến, 9 chuyến gặp địch tuần tra, kiểm soát gắt gao, để giữ bí mật của con
đường chiến lược, đành phải quay về, một chuyến buộc phải phá tàu.
Ngày 27/7/1971, Quân khu 9 thành lập đoàn vận tải S950, đến năm 1972 đổi tên là Đoàn
371. Từ năm 1971 đến năm 1972, Đoàn đã tổ chức 37 chuyến đi, vận chuyển được 620 tấn
vũ khí vào chiến trường Khu 9 an toàn.
Từ tháng 10/1971 đến tháng 4/1972, Đoàn 125 tổ chức liên tục 20 chuyến, nhưng chỉ có
một chuyến tàu tới đích. Kết quả tuy hạn chế, nhưng đã góp phần thúc đẩy sự hoàn thiện
của “phương thức vận tải công khai” trong giai đoạn sau.
Giai đoạn 1965 - 1972, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 phải đối mặt với những thử thách gay
go, ác liệt. Trong đội ngũ trung kiên của Đoàn, xuất hiện nhiều tấm gương hy sinh anh
dũng, nhiều con tàu ra đi không trở lại, nhiều đồng chí, đồng đội đã vĩnh viễn yên nghỉ nơi
biển cả mênh mông. Con đường vận chuyển trên biển trở thành một kỳ tích, huyền thoại,
góp phần cùng quân và dân miền Nam đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và
“Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.
1.2.3 Giai đoạn 1973 – 1975
Tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bị thất bại
nặng nề trong chiến dịch đánh phá bằng không quân ra miền Bắc, cùng với thắng lợi của
quân dân ta trên chiến trường miền Nam, ngày 27/1/1973, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp
định Pari, chấm dứt chiến tranh, rút hết quân đội về nước, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Nhưng với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, chúng tìm mọi cách tiếp sức cho ngụy
quyền Sài Gòn xây dựng lực lượng, mở rộng chiến tranh, lấn chiếm vùng giải phóng, đánh
phá các cơ sở cách mạng của ta, duy trì chính sách cai trị, độc tài phát xít. Nhiệm vụ của 16 lOMoAR cPSD| 38372003
toàn quân lúc này là ra sức củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng chiến đấu, đập tan âm
mưu gây lại chiến tranh của địch.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, Đoàn 125 tiếp tục củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng,
thành lập thêm tiểu đoàn, tiếp nhận tàu mới, tăng cường huấn luyện nâng cao trình độ mọi
mặt và rèn luyện ý chí chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ, sẵn sàng lên đường khi có lệnh.
Đầu năm 1973, Đoàn 125 nhận nhiệm vụ vận chuyển 3.000 tấn vũ khí vào Khu IV trên
tuyến đường từ Hải Phòng đến sông Gianh (Quảng Bình). Với tinh thần trách nhiệm cao,
vừa làm vừa rút kinh nghiệm, trong 63 ngày đêm liên tục, Đoàn đã vận chuyển trên 4.000
tấn hàng vào các binh trạm của Cục Vận tải quân sự thuộc Tổng cục Hậu cần ở Nam Khu IV.
Quý II năm 1973, Đoàn nhận nhiệm vụ vận chuyển 12.000 tấn hàng vào Quảng Bình cho
Binh trạm 30 và 19. Đoàn đã tổ chức 161 chuyến tàu, vận chuyển 11.365 tấn hàng vào Nam Khu IV an toàn.
Đầu tháng 11 năm 1973, Đoàn phối hợp với một số đơn vị, vận chuyển 26 xe cơ giới, 16
máy kéo cho Khu V và căn cứ K5 qua cảng Đông Hà, Quảng Trị.
Tiếp đó, năm 1974, Đoàn vận chuyển 15.000 tấn hàng từ Hải Phòng vào Nhật Lệ, Quảng
Bình và từ Hải Phòng vào Cửa Việt, Quảng Trị.
Trong 2 năm 1973-1974, Đoàn đã huy động 380 lượt tàu ra khơi, chở trên 43 nghìn tấn
hàng, đưa 2.042 lượt cán bộ, chiến sĩ từ hậu phương ra tiền tuyến và từ đất liền ra các đảo,
vượt chặng đường 158.292 hải lý an toàn.
Cuối năm 1974, tình hình chiến trường miền Nam chuyển biến mau lẹ có lợi cho ta, Bộ
Tổng Tham mưu chỉ thị cho Đoàn 125 vận chuyển vũ khí và bộ đội vào sâu hơn nữa, sát
hơn nữa nơi ta mở chiến dịch càng tốt.
Thực hiện chủ trương của Bộ Tổng tham mưu, Đoàn 125 huy động toàn bộ lực lượng thực
hiện đợt vận chuyển binh lực đột kích chủ yếu vào chiến trường (mật danh T5) và vận
chuyển phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với tinh thần “Thần tốc, táo bạo chở người
và vũ khí vào mặt trận”. Trong tháng 3 và tháng 4 năm 1975, Đoàn đã vận chuyển lOMoAR cPSD| 38372003
17.473 cán bộ, chiến sĩ các đơn vị chủ lực vào chiến trường, 40 xe tăng và 7.786 tấn vũ
khí, nhiên liệu…, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngày 4/4/1975, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Quân chủng Hải quân khẩn trương chuẩn
bị lực lượng để giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa do Quân đội Sài Gòn đóng
giữ. Quyết tâm của Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Hải quân là bám sát tình hình, tranh thủ thời cơ
có lợi giải phóng đảo; kiên quyết không để lực lượng khác lợi dụng tình hình đánh chiếm đảo trước ta.
Đoàn 125 nhanh chóng thành lập một biên đội gồm 3 tàu: Tàu 673, 674, 675 do đồng chí
Dương Tấn Kịch chỉ huy, hành quân từ Hải Phòng vào Đà Nẵng chở Đoàn 126 Đặc công
Hải quân và một bộ phận của Tiểu đoàn 471 Đặc công Quân khu V ra giải phóng đảo.
Từ ngày 14 đến 29/4/1975, các lực lượng của ta đã nhanh chóng giải phóng và tiếp quản
các đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa. Tiếp đó, Đoàn 125 tham
gia giải phóng một số đảo ở miền Trung và vùng biển Tây Nam.
Như vậy, trong 80 ngày đêm hoạt động khẩn trương, liên tục, tham gia chiến đấu, phục vụ
chiến đấu, Đoàn đã tổ chức 143 lần chiếc tàu ra khơi, hành trình 65.721 hải lý, vận chuyển
18.741 cán bộ, chiến sĩ, 8.721 tấn vũ khí, 50 xe tăng và các loại súng, pháo; đánh chìm 1
tàu PCF; đánh hỏng nặng 3 tàu khác, gọi hàng 1 tàu; bắt 42 tù binh. Đoàn đã trực tiếp góp
phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, ngày
3/6/1976, Đoàn 125 đã được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng LLVTND lần thứ hai.
Đường Hồ Chí Minh trên biển đã hoàn thành trọn vẹn và đặc biệt xuất sắc nhiệm vụ chi
viện chiến lược cho chiến trường miền Nam. Từ 1961 đến 1975, cán bộ, chiến sĩ trên tuyến
vận tải biển đã vượt qua muôn vàn gian khổ, khắc phục khó khăn, mưu trí, dũng cảm, táo
bạo; vượt qua sóng to, gió lớn; vượt qua sự phong tỏa ác liệt, vây ráp gắt gao của kẻ thù.
Hàng trăm lượt tàu đã ra khơi, hàng ngàn tấn vũ khí, hàng hoá, thuốc chữa bệnh và hàng
chục ngàn lượt người đã từ hậu phương lớn vào tiền tuyến lớn, trực tiếp góp phần cùng
toàn dân đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn. 18 lOMoAR cPSD| 38372003
1.2.4 Giai đoạn 1975 – nay
Tiếp tục tham gia vận chuyển và chiến đấu, góp phần xây dựng, bảo vệ vững chắc chủ
quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc và hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vẻ
vang. Đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chủ yếu lúc này của
Đoàn 125 là vận tải cho các tuyến đảo xa vừa mới giải phóng và phục vụ đi lại của cán bộ,
Nhân dân 2 miền Nam - Bắc, trong đó nhiệm vụ vận chuyển cho Trường Sa được đặt lên
hàng đầu. Từ tháng 5/1975 đến hết năm 1975, Đoàn 125 đã huy động 121 lần chiếc tàu,
hành trình 64.856 hải lý, chở 40.809 tấn hàng và 14.762 lượt người an toàn.
Ngày 26/10/1975, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 142-QĐ/QP “Về tổ chức lực lượng Lữ
đoàn 172”, trong đó Đoàn 125 đổi tên thành Hải đoàn 125 và sáp nhập vào Lữ đoàn 172.
Năm 1976, lần đầu tiên chiến dịch vận chuyển cho quần đảo Trường Sa được thực hiện. Hải
đoàn 125 đã huy động 11 lượt tàu, đi 22 chuyến, chở 2.300 tấn hàng ra đảo và làm nhiệm vụ
cắm mốc chủ quyền, chở các tù chính trị từ đảo Phú Quốc về đất liền an toàn.
Từ năm 1976 - 1981, Hải đoàn 125 đã huy động 127 lần chuyến tàu, chở 23.214 tấn hàng
và 6.696 lượt cán bộ, chiến sĩ từ đất liền ra đảo, góp phần tăng cường sức mạnh phòng thủ
đảo, ổn định một bước nơi ăn ở, sinh hoạt của bộ đội trên các đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, lực lượng vận tải quân sự Quân chủng
Hải quân đã tổ chức 139 lần chuyến tàu, chở 19.790 tấn hàng hóa quân sự và 25.151 lượt
cán bộ, chiến sĩ ra chiến trường và đổ bộ chiến đấu, làm nhiệm vụ quốc tế trong chiến dịch
Tà Lơn, cùng các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia thực hiện cuộc tiến công và
nổi dậy, đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, giúp nhân dân Campuchia hồi sinh, tái thiết đất nước.
Cuối năm 1987 đầu năm 1988, tình hình trên vùng biển quần đảo Trường Sa trở nên căng
thẳng và phức tạp; thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và nhiệm vụ của Bộ
Quốc phòng giao, với tinh thần “Tất cả vì Trường Sa thân yêu”, cán bộ, chiến sĩ trên các
tàu vận tải đã chạy đua với thời gian, vượt qua mọi hiểm nguy, sóng gió; khảo sát, thăm lOMoARcPSD| 38372003
dò, vận tải và chốt giữ đảo, cùng các lực lượng trong Quân chủng tăng cường sức mạnh
phòng thủ trên các đảo chìm và đảo nổi.
Năm 1988, các lực lượng vận tải quân sự trong Quân chủng vận chuyển chiến đấu với khối
lượng tăng gấp 7 lần so với năm 1987 và hoàn thành kế hoạch vận chuyển 46.300 tấn hàng
phục vụ cho chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, 129.453 tấn hàng phục vụ cho sinh hoạt
thường xuyên, đạt khối lượng vận chuyển 44.438.686 tấn (Lữ đoàn 125 đã huy động 318
lần chuyến tàu, vận chuyển 22.564 tấn).
Những năm gần đây, các lực lượng vận tải quân sự trong Quân chủng được bổ sung hàng
chục tàu vận tải đóng mới có trang bị đồng bộ, có trọng tải lớn để thay thế số tàu nhỏ, trọng
tải ít. Từ năm 2000 đến nay, lực lượng vận tải quân sự Hải quân đã vượt qua sóng gió và
mọi khó khăn thử thách, vận chuyển hàng triệu tấn hàng, trung bình hằng năm hoàn thành
từ 100% đến 105% kế hoạch.
Có thể thấy, cùng với thực hiện nhiệm vụ vận tải biển, các tàu vận tải Hải quân đã tham
gia nhiều chuyến trực bảo vệ chủ quyền trên biển, kịp thời phát hiện sớm những vấn đề
nảy sinh, chủ động đấu tranh, ngăn chặn tàu thuyền nước ngoài vi phạm chủ quyền vùng
biển của nước ta, thực hiện đúng đối sách, kiên quyết trong bảo vệ chủ quyền, giữ vững
môi trường hòa bình; thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống bão lụt, cứu hộ, cứu nạn trên
biển, góp phần giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng Nhân dân.
1.3 Các số liệu khác liên quan
Ngày 11-10-1962, một tàu vỏ gỗ mang mật danh “Phương Đông 1”, do đồng chí Lê Văn
Một và đồng chí Bông Văn Dĩa chỉ huy, chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng) rẽ
sóng ra khơi nhằm hướng Cà Mau tiến tới. Đến ngày 19-10-1962, tàu cập bến Vàm Lũng
an toàn. Nhân dân đón nhận chuyến tàu chi viện vũ khí đầu tiên cho cách mạng miền Nam
với lòng phấn khởi vô hạn. Họ nhanh chóng khuân vác vũ khí cất giấu vào những kho bí
mật an toàn. Tiếp theo tàu Phương Đông 1 là tàu Phương Đông 2, 3, 4 cũng lần lượt lên
đường vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ. 20 lOMoAR cPSD| 38372003
Trong vòng hai tháng, các tàu này đã chuyển vào Nam 111 tấn vũ khí, cập các bến đã chuẩn
bị của tỉnh Cà Mau. Vượt qua những thử thách ác liệt, gian nan, đấu trí và đấu lực căng
thẳng với địch và sóng gió biển khơi, các chiến sĩ Hải quân đã hoàn thành nhiệm vụ xuất
sắc thời kỳ đầu tiếp tế vũ khí cho cách mạng miền Nam, góp phần rất quan trọng tăng
cường nhanh chóng sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang giải phóng... Công việc
vận chuyển vũ khí vào chiến trường Nam Bộ tạm ổn, tuy số lượng chứa nhiều, nhưng đã
góp phần quan trọng giúp quân và dân các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long phát triển lực
lượng vũ trang, tạo được thế mới, lực mới, đánh thắng địch nhiều trận, củng cố và mở rộng vùng giải phóng.
Tính từ tháng 10-1962 đến tháng 2-1965, ta đã sử dụng 3 tàu vỏ gỗ, 17 tàu vỏ sắt tổ chức
đưa 88 chuyến tàu tới đích (không tính các chuyến trinh sát, mở đường) vận chuyển được
4.919,636 tấn vũ khí và một số mặt hàng thiết yếu vào chiến trường 2 (Cà Mau, Bạc Liêu
45 chuyến, Bến Tre 23 chuyến, Trà Vinh 12 chuyến, Bà Rịa 3 chuyến, Vũng Rô 4 chuyến,
Bình Định 1 chuyến), đạt 93% kế hoạch, vượt chỉ tiêu Trung ương giao (Bộ Chính trị,
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giao chỉ tiêu đưa được 50% số hàng tới đích đã là
thành công). Riêng hai năm 1962 và 1964, đạt tỷ lệ cao nhất: 100% (57/57) số chuyến thành công.
Thành công của những chuyến vũ khí đã trực tiếp góp phần đẩy mạnh chiến tranh nhân
dân, xây dựng và phát triển khối chủ lực ở chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ; góp
phần làm nên những chiến thắng oanh liệt của quân dân ta ở Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước,
Chà Là, Vạn Tường, Ba Gia, Bình Giã, Đồng Xoài... Đặc biệt, điều đó có ý nghĩa hơn khi
cũng trong thời gian này, tuyến chi viện chiến lược trên bộ (Đoàn 559) tuy đã được tổ chức
ngang cấp sư đoàn, được biên chế 2 trung đoàn gùi thồ, 1 đại đội ôtô vận tải, một số đơn
vị công binh, giao liên... đã có những nỗ lực rất lớn trong nhiệm vụ mở đường và đã vươn
vào tới chiến trường Bắc Tây Nguyên. Nhưng do đường mới mở, bị mưa lớn, lại bị địch
ngăn chặn quyết liệt, nên chỉ chuyển tới các chiến trường được 1.410 tấn vật chất các loại
(chủ yếu cho Trị Thiên và Nam Lào), đạt 25% kế hoạch trên giao 3.
Từ tháng 2-1965 đến tháng 1-1973 là giai đoạn khó khăn nhất nhưng hết sức hào hùng của
tuyến chi viện chiến lược trên biển. Sau sự kiện xảy ra với tàu C143 ở Vũng Rô (Phú Yên), lOMoARcPSD| 38372003
bí mật của tuyến chi viện chiến lược trên biển của ta không còn nữa. Công việc tiếp tế cho
miền Nam bằng đường biển vẫn phải tiếp tục, nhưng ta chuyển hướng vận chuyển từ
phương thức trực tiếp sang phương thức gián tiếp. Bằng phương pháp vận chuyển này,
trong một năm (từ 1-11-1968 đến 31-10-1969), lực lượng vận tải biển đã đưa vào cảng
sông Gianh 21.737 tấn vũ khí. Từ đây, số vũ khí này được chuyển vào Nam theo đường
bộ. Đồng thời với đưa hàng vào cảng sông Gianh, Quân chủng Hải quân chọn một số tàu
và thủy thủ có kinh nghiệm tiếp tục vận chuyển vào Nam theo đường Hồ Chí Minh trên
biển. Ngoài ra, trong giai đoạn này, cán bộ chiến sĩ Đoàn 125 còn tham gia chiến dịch vận
tải VT5 - Vận tải tranh thủ tụt thang (từ tháng 11-1968 đến năm 1969), cùng các lực lượng
trong và ngoài quân đội vận chuyển hàng chục vạn tấn vũ khí, lương thực, xăng dầu… từ
Hải Phòng vào các tỉnh Nam Khu 4, tạo chân hàng cho tuyến chi viện chiến lược trên bộ (Đoàn 559)
Từ 1973 đến 1975, tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển đã dốc toàn bộ lực lượng và
phương tiện, sử dụng hàng ngàn lượt chuyến tàu chuyển vũ khí và vật chất các loại vào các
chiến trường. Đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đã sử
dụng 140 lượt chuyến tàu, vận chuyển 6.282 tấn vũ khí và vật chất khác, cùng hàng ngàn
lượt cán bộ chiến sĩ vào tăng cường cho chiến trường Nam Bộ và Khu 5, cơ động bộ đội
đặc công chiến đấu giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, Cù Lao Thu, các đảo
phía Nam và Tây Nam của Tổ quốc.
2. Vai trò của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của Việt Nam (1954-1975)
2 . 1 . Đường mòn Hồ Chí Minh chi viện chiến lược, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển thể hiện tầm nhìn chiến lược, nhãn quan nhạy bén, tài
tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong quá trình hoạch định đường lối kháng
chiến, cùng với việc xác định chiến lược cách mạng cho hai miền Nam - Bắc, cho tiền
tuyến và hậu phương, Đảng đã xác định rõ nhiệm vụ chi viện chiến lược cho cuộc đấu
tranh của quân và dân ta ở miền Nam là nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa quyết định thành
bại của chiến tranh. Có thể nói, quá trình hoạch định đường lối kháng chiến là quá trình 22 lOMoAR cPSD| 38372003
Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể, tỉ
mỉ công tác chi viện chiến trường thông qua Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương.
Thực tế, ngay sau Hội nghị Trung ương 15 khóa II (năm 1959) quyết định đường lối cách
mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, Bộ Chính trị đã trực tiếp chỉ
đạo tổ chức mở tuyến đường Trường Sơn chi viện miền Nam (Đoàn 559). Không lâu sau
đó, tuyến đường chi viện trên biển cũng được chỉ đạo tổ chức, xây dựng.
Trước sự phát triển của phong trào đấu tranh cách mạng ở miền Nam và tương quan so
sánh lực lượng tại chiến trường giữa ta và địch chênh lệch rất lớn, đầu năm 1961, Thường
trực Quân ủy Trung ương đã xác định: “Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền
Nam đã bước vào một giai đoạn mới và ngày càng trở nên gay go, quyết liệt. Muốn đẩy
mạnh cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi quyết định cần phải kiên quyết chi
viện cho miền Nam những thứ mà chiến tranh cần thiết. Miền Bắc phải thực hiện nhiệm
vụ này với tất cả khả năng của mình trên nguyên tắc góp sức đẩy mạnh cách mạng miền
Nam nhưng vẫn giữ vững hòa bình ở miền Bắc. Việc chi viện cho miền Nam có tính chất
lâu dài và toàn diện”. Bám sát đòi hỏi của chiến trường miền Nam, Thường trực Quân ủy
Trung ương nhấn mạnh, lực lượng chi viện bao gồm con người và phương tiện vật chất.
Chủ trương này đã cho thấy góc nhìn toàn diện, biện chứng của Đảng ta. Trong đó, con
người là những cán bộ, chuyên viên, nhân viên để trực tiếp tham gia xây dựng lực lượng
tại chỗ của miền Nam. Phương tiện vật chất, chủ yếu là các loại trang bị, thiết bị, vũ khí,
khí tài quân sự, thuốc men... để phục vụ nhu cầu của các mặt trận, trước hết là Liên khu 5
và Nam Bộ. Đường chi viện là đường bộ, đường không và đường thuỷ. Đường thuỷ có
nhiều khả năng thực hiện. Vấn đề quan trọng là ta phải nắm được tình hình ở miền Nam...
Thường trực Quân uỷ Trung ương cũng xác định rõ biện pháp tiến hành trong vận tải đường
thuỷ là dùng phương tiện từ miền Bắc chở hàng vào miền Nam hoặc từ miền Nam ra chở
hàng đưa vào và có thể dùng biện pháp từ trong miền Nam ra kết hợp từ ngoài miền Bắc
đưa hàng vào gặp nhau chuyển hàng giữa đường. Như vậy, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ
vận tải đường biển chi viện cách mạng miền Nam là nhiệm vụ chiến lược, có tính lâu dài.
Tầm nhìn chiến lược của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở việc mở tuyến
đường vận tải trên biển đúng thời cơ; đáp ứng những đòi hỏi của chiến trường miền Nam; lOMoAR cPSD| 38372003
quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc; phương pháp vận chuyển “độc nhất vô nhị” trong
lịch sử chiến tranh thế giới. Đường Hồ Chí Minh trên biển ra đời vào thời điểm khó khăn,
gian khổ, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong khi địch được
trang bị các loại vũ khí, phương tiện hiện đại, tối tân, chúng ta chỉ có những loại tàu thuyền
nhỏ bé, thô sơ, sử dụng tàu giả dạng vận tải, tàu đánh cá; kết hợp hoạt động bí mật và công
khai. Tàu có thể xuất phát từ nhiều bến đi (kể cả ở nước ngoài) và cập nhiều bến đến; dẫn
tàu đi trên nhiều tuyến đường khác nhau, có giai đoạn đi vòng ra biển xa, vùng biển quốc
tế; địch phong tỏa đường trong ta đi đường ngoài, địch ngăn chặn đường dài ta đi phân
đoạn; địch bám đuôi, ta đi thẳng ra vùng biển quốc tế; khi địch phát hiện, áp sát tấn công
hoặc cướp tàu, ta đánh trả quyết liệt, có lúc phải phá hủy tàu và hàng để giữ bí mật nhiệm
vụ và con đường. Với việc sử dụng những chiến thuyền nhỏ, “tàu không số”, tuyến đường
này có ưu thế về thời gian, hiệu quả và khả năng vận chuyển sâu vào chiến trường miền
Nam. Đây là minh chứng sống động cho sự lãnh đạo tài tình, sự sáng tạo độc đáo, đặc sắc,
thể hiện tầm nhìn chiến lược, tài thao lược của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện ý chí và khát vọng độc lập, tự do, thống nhất đất
nước của toàn dân tộc, chúng ta đã biết dựa vào khả năng to lớn của Nhân dân để vượt qua
mọi khó khăn, từng bước đánh bại các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam trong những thời điểm khó khăn, ác liệt
nhất. Nó làm cho đối phương kinh ngạc, bất ngờ và không thể tưởng tượng được về sự có
mặt, quy mô, sự dũng cảm và tính sáng tạo vô song của con đường, những con tàu và
những con người tham gia tuyến đường.
Đường Hồ Chí Minh trên biển còn thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược và sự sáng tạo trong
giải quyết mối quan hệ giữa hậu phương với tiền tuyến - nhân tố thường xuyên quyết định
thắng lợi của chiến tranh. Cùng với Đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, Đường Hồ
Chí Minh trên biển tạo thành hai tuyến vận tải chiến lược, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, giải
quyết nhu cầu của hai hướng chiến lược trên chiến trường Nam Bộ là cánh Đông và cánh
Tây. Mỗi tuyến vận tải chiến lược có vị trí, vai trò khá độc lập, nhưng đặt trong tổng thể
đã tạo nên hệ thống giao thông huyết mạch chủ đạo và hoàn chỉnh để chi viện kịp thời,
hiệu quả sức người, sức của cho miền Nam đánh thắng quân thù. 24 lOMoARcPSD| 38372003
Sự nhìn nhận từ sớm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về yêu cầu, nhiệm vụ, vị trí và
vai trò của công tác chi viện chiến trường đã tạo bước phát triển vững chắc, mạnh mẽ cho
cách mạng miền Nam. Con đường chi viện trên biển đã ghi dấu ấn quan trọng, thúc đẩy sự
lớn mạnh của lực lượng vũ trang cách mạng trên chiến trường, góp phần vào thắng lợi của
những trận đánh gây tiếng vang lớn như: Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Bình Giã,
Ba Gia, Vạn Tường… Sự nối kết, chuyển tải sức mạnh của hậu phương đối với tiền tuyến
đã được thực hiện hiệu quả thông qua con đường chi viện trên biển, nhất là trong điều kiện
tuyến đường Trường Sơn chưa thể vươn tới những chiến trường, địa bàn xa hậu phương,
sâu trong vùng địch tạm chiếm. Kết quả của sự phát triển thực lực kháng chiến ở miền
Nam sau thắng lợi của Phong trào “Đồng khởi” (năm 1960) đã chứng tỏ rằng, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở nắm bắt, lường định đúng xu thế phát triển của cuộc
kháng chiến, chủ động, tích cực chuẩn bị thời cơ, lực lượng, tạo ra bước phát triển mạnh
mẽ, vững chắc của cách mạng; con đường chi viện trên biển đã có những đóng góp thiết
thực trong quá trình ấy.
Như vậy, quyết định đúng đắn, táo bạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc mở
con đường vận tải chiến lược chi viện miền Nam trên biển đã thể hiện rõ nhãn quan sắc
bén, tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh; đáp ứng khát vọng cháy bỏng và quyết
tâm to lớn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
Tuyến vận tải quân sự chiến lược này đã góp phần phát huy sức mạnh của miền Bắc XHCN
- nhân tố quyết định nhất, kết hợp sức mạnh tại chỗ của cách mạng miền Nam, tạo nên sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc ta, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi hoàn toàn.
2 . 2. Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành nơi hội tụ sức mạnh của chiến tranh nhân
dân Việt Nam trong cuộc đấu trí, đấu lực với các âm mưu thủ đoạn của kẻ thù
Lên đường trường kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hành trang - vũ khí của dân tộc
Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh là niềm tin vững chắc vào sự nghiệp cách mạng do
Đảng và Bác Hồ lựa chọn. Niềm tin ấy của các thế hệ người Việt Nam được hun đúc, bồi
đắp bằng sự quan tâm, chăm lo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh; được hấp thu, truyền
thụ qua môi trường giáo dục xã hội chủ nghĩa, qua những biểu tượng, hình tượng của con lOMoAR cPSD| 38372003
người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức sâu sắc về giá trị của độc lập, tự do, luôn
sẵn sàng hy sinh, phấn đấu cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất non sông gấm
vóc. Được dẫn dắt bởi đường lối kháng chiến đúng đắn, ý chí, nghị lực, quyết tâm trong
mỗi con người, mỗi tập thể, mỗi lực lượng thực sự là thứ vũ khí tinh thần có ý nghĩa quyết
định thành bại trên mỗi trận tuyến chống quân thù. Trên ý nghĩa đó, lực lượng vận tải quân
sự đường biển đã thể hiện một bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần chịu đựng gian khổ,
hy sinh, sự mưu trí, dũng cảm hiếm có để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Không
có bản lĩnh chính trị vững vàng thì không thể thực hiện được nhiệm vụ gian khó đặt ra,
nhất là trong buổi đầu hình thành lực lượng vận tải quân sự đường biển, vấn đề soi đường,
thông đường, tổ chức chuẩn bị phương tiện, bến bãi. Đó quả là quá trình tìm tòi, khảo
nghiệm công phu, đồng thời là sự thử thách ý chí, quyết tâm của cả một tập thể, từ người
chỉ huy cho đến thủy thủ, sự phối hợp ăn khớp giữa hậu phương và tiền tuyến. Đầu năm
1962, khi đoàn cán bộ miền Nam vượt biển ra Bắc được Bác Hồ đón tiếp tại Phủ Chủ tịch,
Bác hỏi: “Các chú ra đây có yêu cầu gì với Trung ương nào?”. Tất cả đều đồng thanh:
“Thưa Bác, chúng cháu ra đây có một nguyện vọng là xin được thật nhiều vũ khí để về
đánh giặc”. Câu trả lời đơn giản đó đã thể hiện quyết tâm đánh giặc, mong mỏi đất nước
thống nhất của 14 triệu đồng bào miền Nam. Nếu không khát vọng thống nhất để Nam,
Bắc một nhà thì làm sao những cán bộ của con em đồng bào Nam Bộ lại vượt hàng nghìn
hải lý, qua bao giông tố của biển khơi, dưới mọi hiểm họa của kẻ thù để ra Bắc xin được
cung cấp vũ khí mang về đánh giặc. Thậm chí, có những đồng chí như: Tư Quang hay Võ
Tất Thành biết chuyến trở về trên tàu chưa có vũ khí, đã kiên quyết không chịu về tay
không, xin được ở lại để khi có vũ khí mới quay về Nam Bộ. Những hình ảnh đẹp đẽ của
đồng bào và cán bộ miền Nam kể trên, là tấm gương tiêu biểu, đại diện cho ý chí quyết
tâm giải phóng, khát vọng thống nhất đất nước của toàn dân tộc. Nói đến đường Hồ Chí
Minh trên biển thì phải nói đến cả tuyến, bởi từ trăm sông, trăm ngả, có ngõ, có đường, có
đầu, có cuối mới hình thành nên một con đường hoàn chỉnh. Không có tinh thần chịu đựng
gian khổ, hy sinh, sự mưu trí, dũng cảm hiếm có thì khó có thể thực hiện được cuộc vượt
biển vào Nam với bao hiểm nguy rình rập. Đặt trong bối cảnh, lực lượng thời bấy giờ của
Hải quân Nhân dân Việt Nam còn nhiều hạn chế, bất lợi trong tác chiến (nhất lại phải tác
chiến xa bờ), vấn đề chi viện cho chiến là cả một thách thức lớn - một bài toán hóc búa 26 lOMoAR cPSD| 38372003
không dễ tìm ra lời giải. Trên những con tàu nhỏ, trang thiết bị hạn chế, cán bộ, thủy thủ
phải đối mặt với sóng to, gió lớn, với sự ngăn chặn gắt gao của quân thù đòi hỏi phải có
tinh thần chịu đựng gian khổ, trong tình huống hiểm nghèo, phải chấp nhận hy sinh tính
mạng để giữ bí mật của tuyến đường. Do vị trí chiến lược hết sức quan trọng của Đường
Hồ Chí Minh trên biển, đế quốc Mỹ dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với các loại vũ
khí, thiết bị tối tân hiện đại nhất của nền khoa học - công nghệ quân sự Mỹ để đánh phá,
hòng hủy diệt, ngăn chặn, cắt đứt tuyến đường tiếp viện của ta trên biển. Những con đường,
các bến bãi đều nằm trong các vùng kìm kẹp, lùng sục, truy quét, đánh phá ác liệt suốt đêm
ngày của địch. Thời đại Hồ Chí Minh đã tạo ra con người Việt Nam và chính con người
Việt Nam đã viết nên những trang sử hào hùng. Thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước nói chung và thành công của công cuộc chi viện chiến trường bằng Đường
Hồ Chí Minh trên biển nói riêng thực sự là biểu trưng sinh động cho giá trị, phẩm chất và
hào khí bất khuất của con người Việt Nam. Đây chính là nhân tố trung tâm, quyết định tạo
nên sức mạnh phi thường để nhân dân Việt Nam đương đầu và đánh thắng quân xâm lược Mỹ.
Chiến công và thành tích vẻ vang của đường Hồ Chí Minh trên biển đã góp phần quan
trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, “đánh cho Mỹ
cút, đánh cho Ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Nói tới đường Hồ
Chí Minh trên biển còn phải nhắc tới các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của đoàn tàu không số
luôn luôn trung thành vô hạn với Đảng, với nhân dân, nêu cao ý chí quật cường, tinh thần
mưu trí, sáng tạo, sẵn sàng xả thân chiến đấu hi sinh để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ
được Trung ương, Bác Hồ và quân đội giao phó. Trên con đường vận chuyển ấy, cán bộ,
chiến sĩ Đoàn tàu không số với tinh thần “Vì miền Nam ruột thịt” đã xác định quyết tâm,
âm thầm hy sinh tình cảm gia đình và bản thân, biết rằng ra đi là cảm tử, vẫn chấp nhận
gian nguy, đương đầu với khó khăn thử thách. Mỗi chuyến đi là một cuộc đấu trí căng
thẳng, quyết liệt với kẻ thù, với thiên nhiên, sóng gió. Và vượt lên tất cả là chiến thắng
chính bản thân mình, đòi hỏi cao ý chí kiên định, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo và ý thức
chấp hành kỷ luật nghiêm minh. Những con người can trường trong đội ngũ cán bộ, thủy
thủ của “Đoàn tàu không số” trên tuyến vận tải quân sự Hồ Chí Minh trên biển, lúc đầu lOMoAR cPSD| 38372003
phần lớn quê ở các địa phương miền Nam tập kết ra Bắc, một số vốn quen với nghề đi biển,
chịu đựng được sóng gió, điều khiển tàu chủ yếu bằng kinh nghiệm. Tuy nhiên, do yêu cầu
nhiệm vụ, do quy mô vận chuyển phát triển, nên trong thành phần đội ngũ sĩ quan, thủy
thủ, nhân viên kỹ thuật của đoàn vận tải sau này hầu hết được đào tạo cơ bản, là những
đảng viên, đoàn viên, vừa có tri thức, sức khỏe, có khả năng chịu đựng gian khổ, bản lĩnh
cách mạng kiên cường, vừa có quyết tâm cao, kinh nghiệm dày dặn. Đây chính là những
cán bộ, chiến sĩ được đào tạo, rèn luyện, trưởng thành trong các cơ quan, đơn vị, nhà trường
trên miền Bắc, trở thành nguồn nhân lực quan trọng đảm đương nhiệm vụ nặng nề mà
Đảng và nhân dân giao phó. Trên những chuyến “tàu không số”, nhiều cán bộ chỉ huy,
thuyền trưởng, chính trị viên, thuyền phó đã thể hiện sự xử trí tài tình, mưu trí, điều khiển
con tàu tiếp tục giữ vững hành trình vào Nam và đối phó linh hoạt với các tình huống xảy ra.
Có thể nói, Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành nơi hội tụ sức mạnh của các lực
lượng chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đấu lực, đấu mưu trí, dũng cảm và
đấu tranh chống lại những âm mưu thâm độc của kẻ thù. Đây không chỉ là một hình thức
chi viện mới rất quan trọng, trực tiếp nhắm vào chiến trường ven biển miền Nam, mà còn
là một sáng tạo chiến lược của Đảng đối với Chiến tranh nhân dân. Đường Hồ Chí Minh
trên biển quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc, với ý chí quyết tâm không gì lay chuyển nổi,
đó là dám đánh, biết đánh và biết thắng Mỹ. Có được điều đó là nhờ Đảng ta đã vận dụng
sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật giành thắng lợi từng bước trong suốt
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng như trong quá trình thực hiện nhiệm vụ vận
tải chi viện chiến lược trên biển. Các lực lượng trong quá trình làm nhiệm vụ, đặc biệt là
Quân chủng Hải quân đã nắm chắc tình hình, chủ động xây dựng lực lượng, chuẩn bị
phương tiện, huấn luyện chu đáo, hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi để
công tác vận tải đạt kết quả cao nhất. Các cấp lãnh đạo, chỉ huy quân chủng đã tham mưu
đúng, trúng, chỉ huy thống nhất, quyết đoán, linh hoạt, liên tục và bí mật; triệt để tận dụng
thời cơ, đa dạng hóa phương pháp vận tải để chuyển hóa thế trận, làm chủ các tình huống. 28 lOMoARcPSD| 38372003
2 . 3 . Vai trò to lớn của Đường Hồ Chí Minh trên biển trong việc chi viện sức người, sức
của, những loại “hàng hóa đặc biệt” cho chiến trường miền Nam
Đường biển Hồ Chí Minh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho chiến trường, góp
công sức lớn vào thắng lợi của sự nghiệp thống nhất đất nước. Điều đó có thể thấy qua những con số cụ thể:
Thời kỳ 10 năm 1961-1971: Tổng số tàu vào bến là 155 chuyến chở 6638 tấn vũ khí và
trang bị đưa hàng ngàn cán bộ vào Nam, không kể 19 chuyến tàu vào tới bến phải quay ra
và 6 chuyến đi trinh sát.
Thời kỳ 4 năm 1971-1975: làm nhiệm vụ vận chuyển: Đi 411 chuyến, chở 30137 tấn vũ
khí, trang thiết bị hàng hoá và chở 2042 lượt người đi Bắc, hàng trăm xe cơ giới các loại.
Từ 14/04 - 29/04/1975 chở đặc công Quân khu V vào đánh chiếm đảo Trường Sa và Cù Lao Thu.
Đường Hồ Chí Minh trên biển bảo đảm tuyến chi viện chiến lược trên biển nhanh hơn, kịp
thời hơn, vũ khí trang bị đồng bộ và đạt hiệu quả cao và có thể vận chuyển được những
loại hàng “đặc biệt”, góp công góp sức cùng quân dân cả nước làm nên thắng lợi của chiến
dịch mùa xuân năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Nếu như vận chuyển
đường bộ phải trải qua nhiều cung, chặng và nhiều lực lượng phương tiện. 100 tấn vũ khí
chở bằng đường biển, trên một con tàu, chỉ cần 10 - 15 hay tối đa đến 20 cán bộ, chiến sĩ;
còn nếu vận chuyển bằng đường bộ thì phải cần đến 1 tiểu đoàn vận tải cơ giới và 1 sư
đoàn nếu là khuân vác... mất hàng tháng mới tới đích. Thì vận chuyển bằng đường biển
tuy gian nan, nguy hiểm khi gặp nhiều sóng gió, tuy nhiên nếu vượt qua sự ngăn chặn của
địch thì chỉ mất 5-6 ngày là hàng đã tới các bến, nhanh chóng kịp thời chi viện tới chiến
trường Tây Nam Bộ. Cùng với tuyến vận chuyển trên bộ xuyên Trường Sơn, con đường
vận tải chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên biển đã thực hiện tốt vai trò tiếp viện nhanh
chóng, kịp thời cho chiến trường miền Nam. Theo số liệu của Quân chủng Hải quân, tính
chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ
Chí Minh trên biển đã trực tiếp và gián tiếp vận chuyển hơn 96.000 tấn vũ khí đạn dược, lOMoAR cPSD| 38372003
trang thiết bị quân sự, vật chất khác và hơn 170.000 lượt cán bộ chiến sĩ chi viện chiến trường miền Nam.
Đặc biệt, trong thời khắc quan trọng của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Đường Hồ Chí Minh trên biển đã thần tốc vận chuyển
gần 9.000 tấn vũ khí hạng nặng gồm 50 xe tăng và đại pháo; đưa gần 19.000 cán bộ, chiến
sĩ vượt 66.000 hải lý để kịp tham gia chiến đấu, hiệp đồng tác chiến với cánh quân đường
bộ, trực tiếp góp phần vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước: đồng chí Lê
Đức Anh (đi Tàu 55 vào Nam Bộ năm 1964 và đi Tàu 159.TT của Đoàn 371 ra miền Bắc
tháng 11-1973), Võ Văn Kiệt (đi Tàu 159.TT vào Nam Bộ tháng 10-1973), Nguyễn Hòa
(đi tàu 56 năm 1964), Hoàng Thế Thiện (đi tàu 69 năm 1964), Nguyễn Thiện Thành (đi
Tàu 69 năm 1964), Nguyễn Văn Sĩ (đi Tàu 54 năm 1964), Nguyễn Thế Bôn (đi Tàu 55
năm 1964), Bùi Cát Vũ (đi Tàu 165 năm 1964), Nguyễn Trọng Xuyên (đi Tàu 67 năm
1964), Lương Văn Nho (đi Tàu 69 năm 1964), Bùi Phùng (đi Tàu 65 năm 1965), Ung Răng
(đi Tàu 55 năm 1965), Nguyễn Thụy Nga (đi Tàu 69 năm 1965)7…Cụ thể hơn nữa là chính
con tàu không số 69 đã chở bà Nguyễn Thuỵ Nga – vợ Tổng bí thư Lê Duẩn vào Nam hoạt
động. Trên con tàu này còn có nhiều Đại tá thuộc nhiều lĩnh vực: Đại tá Nguyễn Thiện
Thành – vua của Philatop thời kháng chiến chống Pháp tại căn cứ miền Nam. Một chuyên
gia được mệnh danh là vua chất nổ cũng đi trên con tàu này. Một số cán bộ lãnh đạo cấp
cao của Trung ương Cục đã từng được bố trí lên các con tàu này, tiêu biểu là Bí thư Khu
uỷ và uỷ viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam Võ Văn Kiệt và Đại tướng Lê Đức
Anh – Tư lệnh Quân khu miền Tây.
Con đường trên biển Hồ Chí Minh còn đam đường một nhiệm vụ quan trọng đó là vận
chuyển những mặt hàng đặc biệt, có tầm quan trọng sống con đối với công cuộc kháng
chiến ở miền Nam: đó là những thứ máy móc đặc chủng không thể vận chuyển bằng đường
bộ như: Những dụng cụ đặc biệt về y tế, những chiếc máy đặc chủng của nước bạn giúp
đỡ để chế tạo những giấy tờ giả đủ các loại cho cán bộ đi lại công khai trên tồn Miền Nam.
Ngoài ra, những mặt hàng này còn là những hoá chất đặc biệt để chế tạo vũ khí hoặc thuốc
nổ để chế tạo các ngòi nổ, ngòi cháy, sản xuất các loại đạn tại các binh xưởng miền Nam. 30 lOMoARcPSD| 38372003
Trong nhiều trường hợp khẩn cấp, những “con tàu không số” cũng mang theo các loại tiền,
nhiều khi tới hàng triệu đô la.
Chính phương thức vận chuyển này đã đáp ứng được Chỉ thị “Thần tốc”, “Đại thần tốc”
của Bộ Tư lệnh Chiến dịch lúc đó. Vượt qua nhiều thử thách ác liệt, gian nan, đấu trí và
lực căng thẳng với địch và sóng gió biển khơi, các chiến sĩ Hải quân đã hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ thời kỳ đầu tiếp tế vũ khí cho cách mạng miền Nam, góp phần rất quan trọng
vào việc nâng cao sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang giải phóng.
Có thể thấy, hiệu quả vận chuyển của tuyến chi viện chiến lược biển đã tạo nên thế trận
chiến tranh nhân dân rộng khắp trên tất cả các vùng chiến lược, các địa bàn chiến lược ở
miền Nam. Đặc biệt, sự xuất hiện kịp thời những vũ khí tương đối hiện đại, có tính năng
chiến đấu cao được vận chuyển thông qua “Đường Hồ Chí Minh trên biển” đã góp phần
làm thay đổi cách đánh của quân và dân ta, thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch.
Vận chuyển thành công hàng chục nghìn tấn hàng hóa, trang thiết bị, vũ khí, khí tài, đạn
dược... chỉ với những phương tiện thô sơ, thuyền nhỏ, “tàu không số”, “Đường Hồ Chí
Minh trên biển” đã đi vào lịch sử dân tộc như một kỳ tích, một mốc son chói lọi, biểu tượng
sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trí tuệ, sự hy sinh, lòng dũng cảm, khát vọng
độc lập dân tộc. Đồng thời, “Đường Hồ Chí Minh trên biển” cũng là tuyến vận tải quan
trọng có ý nghĩa chiến lược trong quá tình tăng cường nhân lực, vật lực phục vụ cho chiến
trường miền Nam, trực tiếp góp phần hàng loạt thắng lợi của quân dân miền Nam, đỉnh
cao là đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
3. Giá trị lịch sử và giá trị thực tiễn của Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển
3 . 1 . Giá trị lịch sử
Có thể khẳng định rằng, Đường mòn Hồ Chí Minh Trên Biển đóng một vai trò rất quan
trọng trong lịch sử đấu tranh của cách mạng Việt Nam. Vai trò to lớn này được thể hiện
khái quát nhất qua 3 giai đoạn lịch sử cụ thể sau:
Giai đoạn 1 từ năm 1962 đến năm 1965: Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển làm nhiệm vụ
chi viện cho chiến trường và góp phần đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt" của
Mỹ tại Việt Nam. Trong đó, trên tuyến đường này đã đạt được: tổ chức 166 chuyến tàu vào lOMoAR cPSD| 38372003
19 bến của 9 tỉnh (trong đó có 9 tỉnh đi trinh sát); vận chuyển 5712 tấn vũ khí, hàng hóa;
đưa đón 2024 lượt người.
Giai đoạn 2 từ năm 1965 đến năm 1972: Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển đã vượt qua
nhiều thử thách ác liệt nhưng vẫn khắc phục được khó khăn và tiếp tục vận chuyển chi viện
cho chiến trường giai đoạn này, góp phần đánh thắng chiến lược” chiến tranh cục bộ” và
Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ. Trong thời gian này, tuyến đường này đã; tổ
chức 411 chuyến tàu, vận chuyển 50 ngàn tấn vũ khí, hàng hóa và đưa đón 2042 lượt người.
Đặc biệt, đoàn 371 đã dùng thuyền gỗ vận chuyển hợp pháp ven biển từ Nam ra Bắc và từ
Bắc vào Nam 37 chuyển, vận chuyển 620 tấn vũ khí, hàng hóa vào quân khu IX. Từ tháng
11 năm 1968 đến tháng 6 năm 1969, đoàn tổ chức 598 chuyến tàu vận chuyển gián tiếp
34774 tấn vũ khí, hàng hóa cho chiến trường.
Giai đoạn 3 từ năm 1973 đến năm 1975, Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển lại tham gia
chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trong giai
đoạn này, tuyến đường đã đạt được rất nhiều chiến công lừng lẫy như: vận chuyển tham
gia tổng tiến công và nổi dậy vào mùa xuân năm 1975; 143 chiếc tàu ra rơi, chuyển chở
8721 tấn vũ khí, 50 xe tăng và pháo; vận chuyển 18741 cán bộ, chiến sĩ đi thi đấu, hành
trình 65721 hải lý; đánh chìm một tàu PCF, đánh hỏng nặng 3 tàu khác, họ hàng một tàu,
bắt sống 42 tù binh; tham gia giải phóng quần đảo Trường Sa, gồm mấy sông Tử Tây, Nam
Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, Trường Sa, giải phóng Cù Lao Thu và một số vùng biển Tây Nam;
chở hơn 1000 chiến sĩ cách mạng ở nhà tù Côn Đảo về đất liền; tham gia tiếp quản một số quân cảng.
Từ những hoạt động trên chúng ta thấy được rằng Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển đã
trở thành một bức tượng đài hiên ngang trong lịch sử chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta
bởi những giá trị lịch sử to lớn mà nó đã mang lại. Đồng thời, ta có thể khẳng định giá trị
của Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển là một giá trị vĩnh cửu.
Trong giai đoạn cách mạng mới, sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân diễn ra
trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến đổi to lớn, sâu sắc, vừa thuận
lợi, vừa có những thách thức mới. Xu thế toàn cầu hóa đang tác động sâu sắc, toàn diện 32 lOMoARcPSD| 38372003
trên bình diện quốc tế, đồng thời đặt ra yêu cầu khách quan trước mỗi quốc gia. Khu vực
châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển
năng động, nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo
ngày càng phức tạp. Nhiệm vụ của Hải quân nhân dân Việt Nam là tiếp tục làm nòng cốt
cùng với toàn quân, toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, giữ
vững môi trường hòa bình ổn định để phát triển kinh tế, xã hội và quan hệ hữu nghị với
các nước láng giềng và trên thế giới, xứng đáng là lực lượng nòng cốt làm nên con đường
Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển trước đây cũng như hiện nay.
3 . 2 . Giá trị thực tiễn
Ngoài những giá trị lịch sử mà đường mòn Hồ Chí Minh đã mang lại thì phải nói rằng nó
cũng đem lại cho chúng ta nhiều bài học thực tiễn mà chúng ta có thể áp dụng vào Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, những bài học kinh nghiệm của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển đến nay vẫn
mang nhiều giá trị và những phẩm chất tốt đẹp. Đoàn 125 Hải quân với tên gọi “Đoàn tàu
không số” là lực lượng trực tiếp vận chuyển trên đường mòn đã 2 lần được Đảng, Nhà
nước tuyên dương danh hiệu “Đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân”. Nó đã xây
đắp nên truyền thống vẻ vang “Mưu trí dũng cảm, khắc phục khó khăn, vận tải đường biển,
chi viện chiến trường, quyết chiến, quyết thắng”. Những giá trị đó giờ đây còn cần phát
huy hơn nữa đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Hải quân đảm đương sứ mệnh là lực
lượng nòng cốt và trực tiếp quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển, đảo, thềm lục
địa Tổ quốc. Trong thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày nay, bảo vệ chủ quyền biển
đảo thiêng liêng của Tổ quốc, các lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam đã phấn đấu thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ. Đặc biệt, lực lượng vận tải quân sự đường biển đã phát huy
truyền thống của “Đoàn tàu không số” vượt qua khó khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo,
đáp ứng yêu cầu vận chuyển trong giai đoạn mới, luôn hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển,
góp phần xây dựng, bảo vệ biển, đảo vững mạnh.
Thứ hai, Lịch sử về đường mòn Hồ Chí Minh trên biển phản ánh được tầm quan trọng của
chiến lược biển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong điều kiện hiện nay,
khi nhiều quốc gia đều hướng tới khai thác tài nguyên và nghiên cứu thăm dò biển thì trách lOMoARcPSD| 38372003
nhiệm của lực lượng vũ trang, mà trực tiếp là lực lượng Hải quân càng thêm phức tạp và
căng thẳng hơn. Với đại hội lần thứ XIII của Đảng cùng với “Chiến lược phát triển bền
vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030” nhất là với chủ trương bảo đảm quốc phòng,
an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế thì những chiến công và bài học kinh nghiệm về hoạt
động của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển sẽ càng có giá trị hơn. Đối với Hải quan, bên
cạnh vai trò là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền biển đảo, thềm lục địa Tổ quốc. Hải
quân nhân dân Việt Nam đã phát huy được những lợi thế biển, kết hợp an ninh quốc phòng
với phát triển kinh tế. Trong những năm qua, Hải quân là đơn vị đi đầu phát triển một số
lĩnh vực của kinh tế biển, tận dụng triệt để mọi nguồn lực (nhất là con người, cơ sở vật
chất, phương tiện hiện có), trong điều kiện cho phép, đẩy mạnh hoạt động lao động sản
xuất, kinh doanh trong lĩnh vực, ngành nghề có thế mạnh, như: dịch vụ cảng biển, vận tải
biển, xây dựng các công trình biển. Quân chủng Hải quân còn thực hiện tốt các nhiệm vụ
tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn tàu thuyền, giúp đỡ nhân dân bị nạn, khi gặp khó khăn, thiên tai trên biển.
Thứ ba, nhiều bến tàu trên đường mòn Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử và trở thành những
khu di tích lịch sử thu hút nhiều du khách và một số nơi đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch công nhận là Di tích lịch sử quốc gia. Những bến tàu như K15 Đồ Sơn (Hải Phòng),
Lộc An (Bà Rịa - Vũng Tàu), Vũng Rô (Phú Yên), Vàm Lũng (Cà Mau) là những bến tàu
như thế. Chúng như một trang sử sống để các thế hệ sau tìm hiểu và học về những chiến
công và bài học kinh nghiệm của Hồ Chí Minh với con đường mang mòn huyền thoại. III. Kết Luận
Đường Hồ Chí Minh trên biển là một thiên anh hùng ca bất tử, một bộ phận quan trọng của
hệ thống vận tải quân sự chiến lược trong cuộc kháng chiến chống xâm lược, giải phóng
đất nước, xây dựng nên truyền thống vẻ vang.
Một là, trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa và nhân
dân; nêu cao ý chí quật cường, dũng cảm; khát vọng độc lập, tự do và niềm tin vào thắng
lợi cuối cùng; sẵn sàng xả thân chiến đấu hy sinh để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ
được giao. Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng mở đường vận chuyển chi viện cho 34 lOMoAR cPSD| 38372003
chiến trường miền Nam, lực lượng vận tải quân sự đường biển đã nêu cao ý chí quật cường,
dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, thử thách ác liệt và chiến thắng vẻ vang. Tiêu biểu như
Tàu 41, 42, 154... các đồng chí Bông Văn Dĩa, Phan Văn Nhờ (tức Tư Mau), Nguyễn Phan
Vinh, Nguyễn Văn Hiệu... là điển hình của những tập thể, cá nhân anh hùng; và biết bao
người con ưu tú của Tổ quốc đã anh dũng hy sinh ở lại với con đường biển mang tên Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Họ đã làm rạng rỡ truyền thống vẻ vang của Hải quân nhân dân Việt
Nam anh hùng, góp phần to lớn vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp, chỉ huy tập trung thống nhất, hiệp đồng chặt chẽ với
các lực lượng, chính quyền và Nhân dân các địa phương, sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế để
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Công tác vận chuyển chi viện cho chiến
trường miền Nam là công việc vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng với tinh thần quả cảm và
trình độ nghiệp vụ tinh thông, trình độ tổ chức, chỉ huy thống nhất, kiên quyết, bí mật, hiệp
đồng chặt chẽ, kết hợp chiến thuật với kỹ thuật, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt; cán
bộ, chiến sĩ tuyến vận tải biển của Hải quân nhân dân Việt Nam đã được sự đùm bọc, chở
che của các lực lượng, chính quyền và Nhân dân các địa phương hai miền Nam Bắc; được
sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế trong chuyên chở, tiếp nhận hàng hóa, vũ khí, cung cấp
lương thực, thực phẩm, sửa chữa tàu, thuyền, cấp cứu cán bộ, chiến sĩ bị thương, ốm đau...
Tất cả những yếu tố đó đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, làm nên huyền thoại của một con
Đường Hồ Chí Minh trên biển.
Ba là, nêu cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; đoàn kết, thống nhất, kỷ luật nghiêm
minh; nắm vững khoa học kỹ thuật; khắc phục khó khăn, phá thế bao vây của địch; linh
hoạt, mưu trí, sáng tạo, liên tục tiến công, quyết chiến, quyết thắng; tìm ra nhiều phương
thức vận chuyển có hiệu quả. Ra đời và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, ngày đầu lực lượng vận tải quân sự trên biển chỉ có 4 tàu gỗ thô sơ gắn máy và
38 cán bộ, chiến sĩ làm nòng cốt, cán bộ, với trang bị hàng hải thô sơ, nhưng bằng trình độ
và kinh nghiệm dày dạn, đã nắm vững kỹ thuật điều khiển tàu và khả năng phán đoán thời
tiết, nắm vững địa hình, hàng hải thiên văn, giữ nghiêm kỷ luật chiến trường; mưu trí, khéo lOMoARcPSD| 38372003
léo kết hợp với cải dạng, ngụy trang, nghi binh, tạo nên yếu tố bí mật, bất ngờ; kết hợp
giữa hoạt động bí mật và công khai, giữa du kích và hiện đại, giữa sức mạnh dân tộc và
sức mạnh quốc tế, sáng tạo ra chiến thuật độc đáo trong vận tải. Sau một thời gian hoạt
động đã trở thành lữ đoàn vận tải, đảm đương hướng chiến lược trên biển, với những trang
bị từng bước hiện đại, đưa vũ khí đạn dược và đưa, đón cán bộ, chiến sĩ vào các chiến
trường đúng lúc, đúng thời cơ; góp phần duy trì, phát triển chiến tranh cách mạng, làm nên
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Với những thành tích xuất sắc đã đạt được, tháng 9/1963, Đoàn 759 đã được tặng thưởng
Huân chương Chiến công hạng Hai; Tàu 41 được tặng Huân chương Quân công hạng
Nhất; các tàu 43, 54, 55 và 56 được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất; các tàu 42,
67 và 68 được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhì. Đoàn 125 được tặng thưởng Huân
chương Quân công hạng Nhất ngày 30/4/1966, Danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân lần thứ nhất ngày 01/01/1967 và lần thứ hai ngày 03/6/1976. Tổng kết đợt
hoạt động “Chiến dịch CQ-88” (năm 1988), Lữ đoàn 125 có 2 tập thể: Tàu HQ505, tàu
HQ931 và 1 cá nhân được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Lữ đoàn 125 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất (năm 2011), Huân
chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì (năm 2016). 36 lOMoARcPSD| 38372003
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam”
2. https://www.qdnd.vn/ky-niem-60-nam-ngay-mo-duong-ho-chi-minh-tren-bien-23-10-
1961-23-10-2021/duong-ho-chi-minh-tren-bien-tam-voc-va-y-nghia-lich-su-674431
3.https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dungdang/-
/2018/824219/duong-ho-chi-minh-tren-bien---ky-tich-lich-su-va-bieu-tuong-sangngoi-cua-
y-chi-va-khat-vong-giai-phong-mien-nam%2C-thong-nhat-dat-nuoc.aspx
4. https://123docz.net//document/4454239-vai-tro-cua-duong-mon-ho-chi-minh- trenbien.htm
5. https://dbnd.quangngai.gov.vn/i2421-duong-ho-chi-minh-tren-bien-giatri-lich-su-va- inghia-thoi-dai.aspx
6. https://bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/4330-huyen-thoai-duong-ho-chi-minh- trenbien.html?start=8
7. http://dhannd.edu.vn/duong-ho-chi-minh-tren-bien-net-sang-tao-doc-dao-cua-
chientranh-nhan-dan-thoi-dai-ho-chi-minh-a-1602
8. https://cand.com.vn/su-kien-binh-luan-thoi-su/ky-tich-duong-mon-ho-chi-minh- trenbien-i632366/
9. https://lamdong.gov.vn/sites/ldld/chuyende/tuyengiao/SitePages/Vai-tro-cua-
tuyenduong-Duong-Ho-Chi-Minh-tren-bien-trong-cuoc-khang-chien-chong-My-cuu- nuoc.aspx
10. https://vi.wikipedia.org/wiki/đườngHCMtrenbien